SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XI Thường Niên
Năm B Chúa Nhật - Năm Lẻ
Trong Tuần
Đaminh Maria cao tân tĩnh
Chúa Nhật
Bài Ðọc I: Ed 17,
22-24
"Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây
thấp".
Trích sách ngôn sứ Êdêkien.
Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau:
Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót
vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao
vòi vọi. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái thành một
cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới
bóng lá cành. Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức
Chúa.
Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây
thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi.
Chính Ta là Ðức Chúa, Ta đã phán là Ta
thực hiện.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 91,
2-3.13-14.15-16
Ðáp: Lạy Chúa,
hạnh phúc thay được tạ ơn Ngài (c. 2a).
Xướng: 1) Thú vị thay được tạ ơn Chúa,
được mừng hát danh Ngài, lạy Ðâng Tối Cao, được tuyên xưng tình thương của
Ngài từ buổi sớm và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya. - Ðáp.
2) Người công chính vươn lên tựa cây
dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn
giữa khuôn viên đền thánh Chúa Ta. - Ðáp.
3) Già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả,
tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn, để loan truyền rằng: Chúa thực là ngay
thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Người chẳng có chút bất công. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2Cr
5,6-10
"Dù còn ở trong thân xác, hoặc đã
lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Chúa".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
Thưa anh em, chúng tôi luôn mạnh dạn,
và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì
chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa... Vậy,
chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác
để được ở bên Chúa. Nhưng, dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác,
chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người. Vì tất cả chúng ta đều
phải được đưa ra ánh sáng, trước tòa Ðức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những
gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Hạt giống là lời
Thiên Chúa, người gieo giống là Ðức Ki-tô. Ai tuân giữa lời Người, sẽ muôn
đời tồn tại. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc
4,26-34
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha
rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Mác-cô.
Khi ấy, Ðức Giêsu nói với dân chúng dụ
ngôn này: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt
giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm
và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh hoa kết
quả: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng là thành bông
lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm ra gặt, vì đã đến mùa."
Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước
Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên
Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại nhỏ nhất trong các
hạt giống trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ
rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng."
Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà
giảng lời cho họ, tùy theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ nói với
họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi có thầy trò với nhau, thì Người giải
nghĩa hết.
Ðó là lời Chúa.
Đức
Tin Sự
Sống
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Thường Niên XI B tiếp tục
chiều hướng "sự sống" từ Mùa Phục Sinh, nơi bài Phúc Âm theo Thánh Marco
(4:26-34), bài đọc 1 theo Sách Tiên Tri Êzêkiên (17:22-24),
bài đọc 2 theo Thư 2 Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn
Côrintô (5:6-10) và cả bài Đáp Ca trích
Thánh Vịnh (91:
2-3,13-14,15-16).
Thật vậy, chiều hướng sự sống ở trong bài Phúc Âm được chất
chứa nơi hai dụ ngôn Chúa Giêsu dạy về Nước Trời, một liên quan đến "đất" và
một liên quan đến "hạt cải".
Sở dĩ "đất" liên quan đến "sự sống" là vì nó là yếu tố ngoại
tại, yếu tố về môi sinh bất khả thiếu cho mầm mống sự sống ở nơi "hạt giống"
được Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn thứ nhất. Bởi thế, chính Người là Đấng
gieo "hạt giống" mạc khải thần linh "dù thức hay ngủ", nghĩa là không cần
biết, cũng nắm chắc được việc đâm chồi nẩy sinh và phát triển của "hạt
giống".
"Nước Thiên Chúa giống
như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày,
hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa".
Vì "đất" bẩm sinh đã được ban cho khả năng thích ứng vào việc
phụ giúp "hạt giống" cũng là việc phụ giúp cho chính việc nẩy mầm và phát
triển của "sự sống": "Đất
tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt.
Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
"Đất" đây ám chỉ nhân tính của con người là nơi để đón
nhận mạc khải thần linh. Thế nhưng, dù là một trong hai yếu tố bất khả thiếu
và bất khả phân ly với "hạt giống", "đất" vẫn không phải là yếu tố chính,
yếu tố quan trọng nhất. Bởi nó được dựng nên như là một phương tiện cho "sự
sống", như thân xác đối với linh hồn vậy, và "đất" ám chỉ thế gian nói chung
và cá nhân con người nói riêng, nhờ liên hệ với hạt giống, được phát triển
và vươn cao theo tầm vóc của hạt giống, một tầm vóc nó không thể nào có nếu
không có hạt giống ở nơi nó.
Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói ngay đến dụ ngôn thứ hai, dụ
ngôn về "hạt cải", yếu tố chính yếu và then chốt của sự sống, một yếu tố ám
chỉ chẳng những mạc khải thần linh mà
còn ám chỉ đức tin nữa. Mà đức tin là những gì siêu
nhiên, vượt trên tự nhiên, giác quan, tình cảm và lý trí của con người vốn
là những gì không thể với tới, nên
không lạ gì "hạt cải" được Chúa Giêsu ví như "hạt nhỏ nhất trong các hạt
giống": "Nước
đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các
hạt trên mặt đất".
Tuy nhiên,
trong đời sống siêu nhiên, càng nhỏ lại càng lớn, càng nhỏ mới càng lớn. Nếu
"Nước Thiên Chúa" ám chỉ mạc khải thần linh, thì "hạt
cải" đây ám chỉ chinh Chúa Giêsu Kitô, một thứ hạt "nhỏ
bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất", ở chỗ
Nhập Thể và Vượt Qua: "Tuy thân
phận là Thiên Chúa nhưng Người vẫn không tự coi mình cứ phải ngang hành với
Thiên Chúa mới được, trái lại, Người đã hóa ra như không, mặc lấy thân phận
tôi đòi... đã vâng lời cho đến chết cho dù có phải chết trên thập tự giá"
(Philiphê 2:6-8).
Chính vì "hạt cải" Giêsu Kitô quá ư là nhỏ bé như vậy, đến độ
loài người không nhìn thấy, không nhận biết Người là ai, nên đã ra tay sát
hại Người, chà đạp Người dưới chân của họ, mà "hạt cải" thần linh này, như
hạt lúa miến mục nát đi trong lòng đất (xem Gioan 12:24), để rồi nhờ đó, như
dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, đã "mọc lên thành cây rau lớn
nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được", đúng
như cảm nhận đầy xác tín được Thánh Phaolô tuyên xưng rằng: "Bởi
thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu vượt trên
mọi danh hiệu. Để khi nghe tên Giêsu thì mọi sự trên trời dưới đất và trong
lòng đất phải bái gối mà tung hô vinh quang Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô
là Chúa" (Philiphê 2:9-11).
Ý nghĩa của dụ ngôn liên quan đến sự kiện hạt cải nhỏ nhất "mọc
lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể
tới núp bóng được" còn có thể
hiểu về Giáo Hội Chúa Kitô là Nhiệm Thể của Người, nhờ Người mà "mọc
lên thành cây rau lớn nhất" cả
về phẩm lẫn lượng so với
các tôn giáo chính yếu trong lịch sử thế
giới, một Kitô giáo được chính Chúa Kitô thiết lập
(xem Mathêu 16:16), mà càng bị bách hại liên tục trong lịch sử loài người ở
khắp nơi trên thế giới lại càng phát triển, đến độ "đâm
những cành to" có
thể ám chỉ các Giáo
Hội địa phương hay các vị thánh trong lịch sử Giáo
Hội, những Giáo Hội hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ luôn là bí
tích cứu độ trần gian, thành một nơi an toàn cho phần
rỗi "chim trời có thể tới núp bóng
được".
Dụ ngôn Chúa Giêsu
sánh ví Nước Thiên Chúa như hạt cải trong bài Phúc Âm hôm nay ám chỉ Giáo Hội
của Người phát triển trong giòng lịch sử của loài người cũng đã được
Tiên Tri Êzêkiên loan báo ở bài đọc thứ nhất hôm nay
liên quan đến cây hương bá như sau: "Ta
sẽ trồng nó trên đỉnh núi Israel, nó sẽ đâm chồi, kết quả, và trở thành cây
hương nam vĩ đại; các thứ chim trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ
dưới tàn nó".
Thế nhưng, "cây hương nam vĩ đại" được
Thiên Chúa hứa "trồng trên đỉnh núi Israel" đây
từ là gì, nếu không phải là chính Đức Giêsu Kitô Thiên
Sai! Thật vậy, "cây hương nam vĩ đại" này
xuất phát "từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót", như
câu đầu bài Đọc I hôm nay cho biết. Nếu "cây hương bá cao chót vót" đây
ám chỉ đức tin của tổ phụ Abraham thì ngọn đây của đức tin nơi vi tổ phụ này chính
là Đức Giêsu Kitô miêu duệ của ông, một ngôi vị thần linh miêu duệ sẽ được
sai đến với dân Do Thái nói riêng cũng như với nhân loại nói chung như chính
Ngài đã hứa với vị tổ phụ này, một lời hứa được ám chỉ là "đỉnh núi
Israel", nhờ Người mà cả dân Do Thái lẫn dân ngoại sẽ được
cứu độ khỏi tội lỗi và sự chết, được ám chỉ nơi hình ảnh "các thứ chim
trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ dưới tàn nó", nghĩa
là Người "đã trở thành nguồn mạch cứu độ cho những ai tín
phục vào Người" (Do Thái 5:9).
Đúng thế, ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô theo nguyên tắc là ban cho chung
nhân loại khi Người hoàn tất cuộc Vượt Qua nơi chính bản thân mình. Thế
nhưng, chỉ những ai tín phục Người mới được hưởng ơn cứu độ của Người mà
thôi (xem cả Gioan 1:12). Bởi vậy mà trong Bài Đọc 2 hôm nay, trong Thư 2
gửi giáo đoàn Corintô, vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã xác tín rằng: "chúng
tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến
bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa", một
đức tin còn được chàng thanh niên Saulê đã từng nhiệt thành với Do Thái giáo
trước kia dẫn giải thêm về việc áp dụng thực hành đó là: "dù
còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng
là làm đẹp lòng Người". Vâng, sống đức tin chính là sống
ước muốn đẹp lòng Thiên Chúa vậy.
Tóm lại, sự sống, như nội dung bài Phúc Âm hôm nay bao gồm 2
dụ ngôn liên hệ với nhau cho thấy, chẳng những liên quan đến "hạt cải" chất
chứa chính sự sống, đến đức tin cứu độ, mà còn liên quan đến "đất" là môi
trường con người cho
sự sống nẩy sinh và phát triển, nên bài Đáp Ca (nhất
là câu 2 và 3) được Giáo Hội chọn đọc còn liên quan đến
cả vế của nhân
loại, thành phần cần phải biết chấp
nhận và đáp ứng mạc khải thần linh được tỏ ra cho họ như hạt giống gieo vào
trần gian của họ nói chung và gieo vào lòng họ nói riêng, nhờ đó,
chính họ được nên công chính và thánh đức:
2) Người hiền đức như cây chà là nở hoa tươi tốt, vươn
mình lên như cây hương bá đất Liban. Họ được vun trồng trong nhà Chúa, trong
hành lang nhà Thiên Chúa chúng tôi họ nở bông.
3) Ngay trong tuổi già họ còn sinh trái, họ đầy nhựa sống
và họ sống xanh tươi, để họ loan truyền Chúa nhường bao công chính, Chúa là
Đá Tảng của tôi, nơi Chúa chẳng có gian tà!
Chính vì Kitô hữu đã được lãnh nhận sự sống thần linh khi
lãnh nhận Phép Rửa, một sự sống đã như "hạt" giống thần linh gieo vào mảnh
"đất" nhân tính của họ mà họ đã được Thánh Phaolô trong
bài đọc thứ hai hôm nay khuyến dụ và kêu gọi sống đức
tin như sau:
"Anh em thân mến, chúng ta hằng bạo dạn, vì biết rằng bao
lâu sống trong thân xác này, là chúng ta lưu lạc xa Chúa, vì chưng nhờ đức
tin, chứ không phải vì đã thấy, mà chúng ta tiến bước".
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 21, 1-16
"Noboth đã bị ném đá chết".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Khi ấy, ông Naboth, người Giêrahel, có
một vườn nho, sát cạnh đền của Acáp vua xứ Samaria. Acáp nói với Naboth
rằng: "Hãy nhượng vườn nho cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó gần đền ta: bù
lại, ta sẽ đổi cho ngươi vườn nho khác tương đương". Nhưng Naboth thưa lại
rằng: "Xin Chúa đừng để tôi nhượng cho đức vua phần gia nghiệp của tổ tiên
tôi". Acáp tức giận bỏ về nhà, và căm hờn vì lời ông Naboth, người Giêrahel
đã nói: "Tôi sẽ không nhượng cho đức vua phần gia nghiệp của tổ tiên tôi".
Vua nằm lăn xuống giường, quay mặt vào vách và không ăn uống gì.
Giêzabel, vợ vua, đến cùng vua và nói
rằng: "Tại sao đức vua buồn phiền, và không ăn uống gì?" Vua đáp: "Tôi đã
nói với Naboth người Giêrahel rằng: "Hãy bán vườn nho lại cho ta, hoặc nếu
ngươi muốn, ta sẽ đổi cho vườn nho khác tốt hơn". Nó lại nói: "Tôi không thể
nhượng vườn nho tôi cho đức vua". Giêzabel vợ vua liền nói với vua rằng:
"Quyền thế nhà vua cao cả biết bao, và nhà vua cai trị nước Israel khéo như
thế nào! Thôi, dậy ăn uống đi, và cứ yên tâm. Thiếp sẽ tặng cho nhà vua vườn
nho của Naboth người Giêrahel".
Bà ta nhân danh Acáp mà viết thơ, lấy
ấn vua đóng vào, và gởi cho các bậc kỳ lão và chức sắc ở cùng thành với
Naboth. Nội dung bức thư như thế này: "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh, và
đặt Naboth ngồi giữa hàng nhân sĩ trong dân. Hãy xúi hai đứa gian ác thuộc
phường Bêlial đến trước mặt nó và cáo gian nó thế này: "Nó đã nguyền rủa
Thiên Chúa và đức vua". Các ngươi hãy điệu nó đi mà ném đá cho nó chết". Vậy
dân chúng ở cùng thành với Naboth, các kỳ lão và chức sắc cùng ở một thành
với ông, làm như Giêzabel đã truyền, đúng như đã viết trong thư bà gởi cho
họ. Họ công bố một thời kỳ chay tịnh, đặt ông Naboth ngồi giữa hàng nhân sĩ
trong dân. Họ dẫn đến hai thằng con cái ma quỷ, đặt chúng ngồi đối diện với
ông. Và hai đứa này, đúng là hạng quỷ sứ, đã cáo trước mặt dân chúng rằng:
"Naboth đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua". Nghe thế, họ liền điệu ông ra
khỏi thành, và ném đá hạ sát ông. Rồi họ sai người đi nói với Giêzabel rằng:
"Naboth đã bị ném đá chết rồi".
Khi nghe tin Naboth đã bị ném đá chết,
Giêzabel liền nói với Acáp rằng: "Nhà vua hãy chỗi dậy và chiếm lấy vườn nho
của Naboth người Giêrahel, kẻ đã không muốn theo ý nhà vua nhượng lại vườn
nho mà lấy tiền: Naboth không còn sống nữa, nhưng đã chết rồi". Khi hay tin
Naboth đã chết, Acáp chỗi dậy và xuống chiếm lấy vườn nho của Naboth người
Giêrahel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 5, 2-3.
5-6. 7
Ðáp: Lạy
Chúa, xin lưu tâm đến tiếng con than thở (c. 2b).
Xướng: 1) Xin lắng tai nghe lời con,
thân lạy Chúa, xin lưu tâm đến tiếng con than thở. Xin để ý nghe tiếng con
cầu khẩn, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con! - Ðáp.
2) Ngài không phải là Chúa tể ưa điều
gian ác; kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài; đứa bất nhân không thể đứng
trước thiên nhan; Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.
3) Ngài tiêu diệt những đứa nói man;
người độc ác và gian xảo thì Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
38-42
"Thầy bảo các con: đừng chống cự
lại với kẻ hung ác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy
bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên
phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt
áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một
dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay
mượn, thì con đừng khước từ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Đức ái trọn hảo mới có thể thắng vượt kẻ hung ác và ngăn chặn sự ác
Suy Niệm
Chủ đề sự sống thần linh của Mùa Phục Sinh tiếp
tục vói bài Phúc Âm
của Thánh ký Mathêu về một sự sống Phúc Đức
Trọn Lành cho Thứ Hai Tuần XI Thường Niên
hôm nay.
Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô về
Phúc Đức Trọn Lành được Phúc Âm Thánh ký
Mathêu thuật lại đây, tiếp theo Tuần X Thường Niên, không còn liên quan đến
các điều răn nữa, như điều răn thứ 5 "chớ giết người" (Thứ Năm tuần trước), điều
răn thứ 9 "chớ muốn vợ chồng người" (Thứ Sáu tuần trước), và điều răn thứ 8 "chớ
làm chứng dối" (Thứ Bảy tuần trước).
Hôm
nay (và cả ngày mai nữa), Bài Giảng Trên Núi bắt đầu sang đến
chính đức bác ái trọn lành, cốt lõi của
Bài Giảng về Phúc Đức
Trọn Lành. Tuy nhiên, không phải vì không
còn liên quan đến những điều răn trong Thập Giới nữa, như tuần trước cho thấy,
mà Chúa Kitô không còn so sánh giữa những gì là cũ,
liên quan đến ý
hệ hay văn hóa hoặc tâm thức tự nhiên của
Dân Do Thái trong Cựu Ước,
những gì bất toàn (tuy đúng lý, hoàn
toàn hợp lý theo phép công bằng), hay đúng hơn những gì chưa thực sự trọn lành
so với những gì mới được Người chỉ dạy cho thành phần môn đệ ở Bài Giảng Trên Núi
về Phúc Đức Trọn Lành, để nhờ đó sau này các vị mới có thể trở thành "muối đất...
(và) ánh sáng thế
gian" (Mathêu 5:13-14) theo đúng bản chất
và ơn gọi là môn đệ Chúa Kitô của
các vị.
Một
trong hai điều liên quan đến đức bác ái trọn lành được Chúa Kitô nhắc đến ở bài
Phúc Âm (Mathêu 5:38-42) riêng cho ngày hôm
nay đó là:
"Các
con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng
chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy
đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy
trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó
hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
Trong những lời khuyên dạy trọn
lành này của Chúa Kitô, có một số chi tiết cần phải lưu ý như sau:
Trước hết, về mặt tiêu cực, Chúa
Kitô bảo chúng ta "đừng
chống cự lại với kẻ hung ác", nghĩa
là cho dù chúng ta có là nạn nhân của họ, chúng ta vẫn phải tôn trọng con người
phạm nhân, không được hận thù ghen ghét chính con người của họ,
tìm
cách trả thù họ theo luật công bình, hơn là chống lại việc làm gian ác của họ mà
không phải vì hận thù họ v.v.
Sau nữa, về mặt tích cực, Chúa
Kitô dạy chúng ta lấy lành thắng dữ, phản ứng
của
chúng ta cần phải làm
sao để sự
dữ bị tiêu tan như bóng tối gian ác tan
biến trước ánh sáng chân
thật. Ở chỗ, như Người dạy: "ai
vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa",
(chứ đừng vả lại), hay
"ai
muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa" (chứ
đừng kiện lại), hoặc "ai
muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
Ý nghĩa của vấn đề "vay mượn" trong lời Chúa Giêsu dạy đây đó là những gì tha
nhân phạm đến chúng ta, như chúng ta đã phạm đến Chúa nên chúng ta xin Ngài "tha
nợ" cho chúng ta. Một khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xúc phạm, thì chúng ta
không có quyền lên án và trừng phạt họ, cho bằng có quyền tha cho họ, hơn là
chấp nhất. Nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bị tha nhân phạm đến - "đừng
từ khước"
cho tha nhân "vay mượn" là như thế.
Đúng thế, nếu so sánh nguyên tắc
công bằng ăn thua đủ - nợ máu phải trả bằng máu: 'Mắt
đền mắt, răng đền răng', như
tình hình giữa nước Do Thái và dân tộc Palestine ở Trung Đông từ khi
họ lập quốc 1948 cho
tới nay, bên khủng bố (Palestine) bên tấn công (Do Thái), liên tục hầu như bất
tận và bất khả giải quyết, như cuộc chiến với Hamas ở Dải Gaza từ 7/10/2023.
Thế nhưng, để có thể giải quyết một
cách tốt đẹp, họ không còn cách nào khác ngoài những gì được
Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở
chỗ thắng vượt nguyên tắc công bình bằng tinh thần bác ái vị tha, lấy lành thắng
dữ, một tinh thần chắc chắn họ sẽ không thể nào làm được nếu không có Vị Thánh Linh
của Đấng
Phục Sinh đã thông ban cho các tông đồ để các vị có thể tha tội cho tha nhân
(xem Gioan 20:22-23).
Bởi
vậy, huấn dụ bác ái trọn lành của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên Núi không phải chỉ
là đích điểm hay tầm vóc viên trọn cho
cuộc sống và ơn
gọi làm
người nói chung và làm môn đệ của Người nói riêng, mà còn là chính đường
lối để
còn người có thể sống
an vui hạnh phúc cho chính
bản thân mình cũng như cho xã hội loài người, một đường lối phản ảnh nơi giáo
huấn tổng hợp như một học thuyết nhân bản đích thực về xã hội của Giáo Hội Chúa
Kitô từ cuối thể kỷ 19 cho tới nay.
Cảm Nghiệm
Theo tâm lý tự nhiên nơi con người đã vướng mắc nguyên tội, con người hướng nội
hơn là hướng ngoại, hướng về bản thân mình hơn là về tha nhân, yêu mình hơn là
yêu tha nhân, vị kỷ hơn là vị tha. Bởi thế, con người không thể nào tự nhiên mà
có thể thực hiện được những gì Chúa Giêsu khuyên dạy sống trọn lành như trong
bài Phúc Âm hôm nay:
"Ai
vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện
con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai
bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho.
Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
Một trường hợp điển hình cho thấy con người chỉ tham lam vơ vét hơn là ban
phát cho đi, thậm chí còn sử dụng quyền lực của mình để cướp đoạt những gì
họ muốn nơi người khác và của người khác một cách bất công, được Sách Các
Vua Quyển Thứ Nhất thuật lại liên quan đến
"Vua Acáp vua xứ Samaria", nhất là liên quan đến "Giêzabel, vợ của
vua", một người đàn bà tinh quái và ác độc, đã sử dụng thủ đoạn pháp lý
là quyền bính của vua nhưng gian trá xảo quyệt để chiếm hữu những gì bà ta
biết rằng quân vương của bà đang muốn.
Ở chỗ: "Bà ta nhân danh Acáp mà viết thơ, lấy
ấn vua đóng vào, và gởi cho các bậc kỳ lão và chức sắc ở cùng thành với
Naboth. Nội
dung bức thư như thế này: 'Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh, và đặt Naboth
ngồi giữa hàng nhân sĩ trong dân. Hãy xúi hai đứa gian ác thuộc phường
Bêlial đến trước mặt nó và cáo gian nó thế này: Nó đã nguyền rủa Thiên Chúa
và đức vua'. Các ngươi hãy điệu nó đi mà ném đá cho nó chết'".
Cuối cùng bà đã thỏa mãn ước muốn của vương quân
của bà, như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: "Khi nghe tin Naboth đã bị ném
đá chết, Giêzabel liền nói với Acáp rằng: 'Nhà vua hãy chỗi dậy và chiếm lấy
vườn nho của Naboth người Giêrahel, kẻ đã không muốn theo ý nhà vua nhượng
lại vườn nho mà lấy tiền: Naboth không còn sống nữa, nhưng đã chết rồi'. Khi
hay tin Naboth đã chết, Acáp chỗi dậy và xuống chiếm lấy vườn nho của Naboth
người Giêrahel".
Ở đây, Bài Đọc 1 không cho biết phản ứng của nạn nhân bị cướp giật là Noboth
ra sao, có trọn lành như lời khuyên dạy của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm
nay hay chăng, có tha cho bà vợ gian ác của vua và cho vua hay chăng, ở chỗ:
"Ai muốn vay mượn thì đừng khước từ", mà chỉ thuật lại sự vụ xẩy ra
như thế, một sự vụ bất công có thể xẩy ra cho bất cứ ai trên đời này, ở bất
cứ thời đại nào, không thể nào tránh được, vì lòng tham vô đáy nơi con
người, mà chỉ có thể thắng vượt bằng lòng bác ái vị tha, tha cho phạm nhân,
cho dù có chống lại sự dữ họ làm hay có đòi hỏi công lý nơi họ.
Kinh nghiệm cho thấy, trên thế gian này, tình trạng "cá lớn nuốt cá bé",
"mạnh được yếu thua" hằng liên lỉ xẩy ra cho đến tận thế, từ khi Cain sát
hại đứa em hiền lành dễ thương Abel của mình (xem Khởi Nguyên 4:1-16). Cho
dù ngày nay con người, có thể nói, đã đạt đến tuyệt đỉnh văn hóa về nhân
bản trong việc tôn trọng nhân quyền, như Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân
Quyền của Liên Hiệp Quốc được công bố ngày 10/12/1948 cho thấy, nhưng vẫn
không tránh khỏi tình trạng sống theo luật rừng (jungle law) này, thậm chí
còn khủng khiếp hơn nữa, một thứ luật rừng văn minh chưa từng thấy, nhân
danh nhân quyền để phạm đến nhân quyền, chẳng hạn như quyền được phá thai,
quyền sinh dục của người mẹ ưu tiên hơn quyền sống vô giá của thai nhi, một
chứng cớ hùng hồn cho thấy "cá lớn (là thai mẫu vẫn) nuốt cá bé (là thai
nhi)", "(thai mẫu bao giờ cũng) mạnh được (thai nhi bao giờ cũng) yếu thua".
Chính vì những bất công khủng khiếp kinh hoàng như thế mà nhiều người đã
không thể nào không đặt vấn đề không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay chăng,
nếu có thì Thiên Chúa chắc là không có mắt!? Tại sao Ngài lại để xẩy ra sự
dữ trên trần gian này như thế? Tại sao kẻ lành và thành phần yếu hèn trên
thế gian này, như trường hợp của Naboth trong Bài Đọc 1 hôm nay, cứ phải trở
thành cái giá bất chấp thủ đoạn đầy ghê tởm của kẻ mạnh? Câu trả lời sẽ được
giải đáp phần nào trong Bài Đọc 1 ngày mai...
Tuy nhiên, đối với thành phần tin tưởng thì những bất công và sự dữ trên thế
gian này có thể lại trở thành cơ hội để họ sống đức tin hơn nữa, để họ tin
tưởng vào Thiên Chúa vô cùng công minh hơn nữa, nhờ đó, nhờ tin vào Thiên
Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán xét tất cả mọi sự và mọi người, họ có
thể sống trọn lành như lời Chúa Giêsu dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay. Bài Đáp
Ca hôm nay đã cho thấy ý thức đức tin cần có nơi những ai sống công chính mà
là thành phần thường trở thành nạn nhân của thời cuộc, thành phần lại hay
được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình ra:
1) Xin lắng tai nghe lời con, thân lạy Chúa, xin lưu tâm đến tiếng con
than thở. Xin để ý nghe tiếng con cầu khẩn, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của
con!
2) Ngài không phải là Chúa tể ưa điều gian ác; kẻ độc dữ không được cư
trú nhà Ngài; đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan; Chúa ghét những
kẻ làm điều gian ác.
3) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian xảo thì Chúa
ghê tởm không nhìn.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
V 21, 17-29
"Ngươi đã làm cho Israel phạm tội".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
(Sau khi Naboth chết), có lời Chúa
phán cùng ông Êlia, người miền Thesbê rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy, xuống gặp
Acáp, vua Israel, ở thành Samaria: này Acáp đang xuống vườn nho của Naboth
để chiếm lấy. Ngươi sẽ nói với ông ấy rằng: "Ðây lời Chúa phán: Ngươi đã
giết, lại còn chiếm đoạt". Sau đó ngươi nói tiếp: "Ðây là lời Chúa phán:
Những con chó đã liếm máu Naboth tại đâu, thì cũng sẽ liếm máu ngươi tại
đó". Acáp liền nói với Êlia: "Ông coi tôi là thù địch của ông sao?" Êlia
đáp: "Ðúng thế, vì vua đã liều mình làm điều gian ác trước mặt Chúa. Này Ta
sẽ giáng hoạ trên ngươi, sẽ làm cho ngươi tuyệt tự; Ta sẽ giết tất cả con
trai của nhà Acáp, bất kể sang hèn trong dân Israel. Ta sẽ cho dòng dõi
ngươi ra giống như dòng dõi Giêroboam, con của Nabat, và như dòng dõi của
Baasa con của Ahia, vì ngươi đã hành động để chọc giận Ta, và làm cho Israel
phạm tội". Còn về Giêzabel, Chúa phán rằng: "Chó sẽ ăn thịt Giêzabel ở cánh
đồng Giêzrơel. Acáp chết trong thành, sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài
đồng, thì sẽ bị chim trời rỉa ăn". Chẳng có ai giống như Acáp, đã liều mình
làm điều gian ác trước mặt Chúa, bởi vì Giêzabel, vợ vua đã xúi giục. Vua đã
trở nên quái gở, đến nỗi chạy theo các tà thần mà người Amorrhe đã làm ra,
họ là những người Chúa đã tiêu diệt trước mặt con cái Israel.
Khi Acáp nghe những lời này, mặc áo
nhặm, ăn chay, vấn bao bố mà ngủ và ăn ở khiêm nhường. Có lời Chúa phán với
Êlia người Thesbê rằng: "Ngươi có thấy Acáp hạ mình trước mặt Ta không? Vì
Acáp đã hạ mình trước mặt Ta, Ta sẽ không giáng hoạ xuống trong đời ông ta,
nhưng trong đời con ông ta, Ta sẽ giáng hoạ trên nhà ông ấy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4.
5-6a. 11 và 16
Ðáp: Xin
xót thương, lạy Chúa, vì chúng con đã phạm tội.
Hoặc đọc: Lạy Chúa, nguyện thương con
theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con
theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con
tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết,
và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. -
Ðáp.
3) Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội
lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi
lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c
và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của
Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
43-48
"Các ngươi hãy yêu thương thù
địch".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ
rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch
thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ
ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để
như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt
trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và
kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các
con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ
chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người
ngoại giáo không làm như thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con
trên trời là Ðấng hoàn hảo".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Suy Niệm
Đức ái trọn hảo như Cha trên trời
Bài
Phúc Âm hôm nay (Mathêu 5:43-48) đúng là tột đỉnh của Bài Giảng Trên Núi của
Chúa Kitô, ở ngay câu kết: "Vậy
các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo".
Qua câu
chính yếu nhất của Bài Giảng Trên Núi này và là câu làm nên tất cả Bài Giảng
Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô ấy, chúng ta có thể kết luận một cách suy diễn
như thế này: Vì các
con là môn đệ của Thày nên
các con phải nên trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành, theo
như những gì Thày truyền dạy các con trong việc sống tinh thần của lề
luật là
chính đức ái trọn hảo vậy.
Ở chỗ, nếu theo tâm lý và lý lẽ tự
nhiên "Ngươi
hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù", thì
sống bác ái trọn lành theo Chúa Kitô để có thể nên trọn lành như Cha trên trời,
thành phần môn đệ của Chúa Kitô cần phải: "yêu
thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai
bắt bớ và nguyền rủa các con", chứ
không thể sống ở
tầm mức tự nhiên như
hai thành phần vốn bị dân Do Thái khinh bỉ, đó là thành
phần "thu thuế" vốn bị họ coi
là hạng người tội lỗi, hay như thành phần "ngoại giáo" vốn bị họ coi
là thành phần ô uế nhơ nhớp, đáng
xa tránh.
Trong lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ
của Người sống bác ái trọn hảo: "các con hãy yêu
thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai
bắt bớ và nguyền rủa các con",
chúng
ta thấy, trước hết, về đối tượng, tinh thần bác ái trọn lành ở chỗ "yêu thương
(cả) thù địch" nữa chứ không phải chỉ những ai yêu thương chúng ta hay những ai
chúng ta thích hoặc thành phần thân nhân ruột thịt của chúng ta mà thôi.
Sau nữa, về hành động, tinh
thần bác ái trọn lành là ở
chỗ "làm
ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa
các con".
Tức
là "làm ơn" và "cầu nguyện" cho những đối tượng
"thù địch" của mình, vì
họ là những người "thù ghét"
mình, "bắt bớ" mình và "nguyền rủa" mình, chứ
không phải là thành phần thương yêu mình hay được mình thương yêu.
Ở đây, Chúa dạy hãy yêu thương cả thù địch, nghĩa là không phải ở chỗ chỉ
tha thứ cho họ, mà còn phải dấn thân hy sinh phục vụ họ nữa, đến độ có thể
chết cho kẻ mình yêu nữa, như chính Thiên Chúa đã làm gương cho Kitô hữu
chúng ta nơi Con của Ngài khi không dung tha cho Con Ngài một đã phó nộp Con
của Ngài vì tất cả chúng ta là thành phần thù địch của Ngài, phạm đến Ngài
và đáng bị trừng phạt đời đời kiếp kiếp.
Cảm Nghiệm
Vì là loài người còn mang mầm mống nguyên tội luôn hướng hạ và thiên về tội
lỗi nên tất cả những gì Chúa Giêsu dạy ở Bài Giảng Trên Núi về các Phúc Đức
Trọn Lành đều trở thành như truyện thần tiên mộng mị, hoàn toàn chẳng những
không thực tế mà còn chói tai không ai nghe được, không ai có thể làm được:
"yêu
thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai
bắt bớ và nguyền rủa các con".
Thế nhưng, chính vì bản chất siêu nhiên, vượt tự nhiên, hơn là phản tự nhiên
của lời Chúa dạy ở Bài Giảng Trên Núi này lại hùng hồn chứng tỏ và chứng
thực rằng giáo huấn này từ trời và bởi trời chứ không phải bởi loài người
hay từ hạ giới này, những giáo huấn trọn lành chẳng những không một giáo tổ
nào đã nghĩ tới và giảng dạy mà còn cần phải có ơn Chúa nữa mới có thể thực
hiện, thực hành. Và chỉ có thế, chỉ khi nào thực hành giáo huấn trọn lành
liên quan đến đức ái trọn hảo (perfectae caritatis) như thế con người mới
nên giống Thiên Chúa, mới xứng đáng tư cách là con cái của Thiên Chúa, Đấng
công minh chính trực nhưng cũng đầy cảm thương và luôn tha thứ cho những ai
biết thống hối ăn năn, như trường hợp của Vua Ahab trong Bài Đọc 1 hôm nay.
Thật vậy, đáng lẽ việc vua để cho vợ của vua thay vua và lấy quyền vua để
cướp đoạt khu vườn mà vua muốn từ tay chủ nhân Naboth, bằng cách sát hại chủ
nhân của nó, đã bị Thiên Chúa lên án, như lời tiên tri Elia được Thiên Chúa
sai đến nghiêm thẳng cảnh cáo vua khi vua
"đang xuống vườn nho của Naboth để chiếm lấy":
"Ðúng thế, vì vua đã liều mình làm điều gian
ác trước mặt Chúa. Này Ta sẽ giáng hoạ trên ngươi, sẽ làm cho ngươi tuyệt
tự; Ta sẽ giết tất cả con trai của nhà Acáp, bất kể sang hèn trong dân
Israel. Ta sẽ cho dòng dõi ngươi ra giống như dòng dõi Giêroboam, con của
Nabat, và như dòng dõi của Baasa con của Ahia, vì ngươi đã hành động để chọc
giận Ta, và làm cho Israel phạm tội".
Chưa hết, theo công bình, đong đấu nào bị đong lại đấu ấy thế nào thì người
vợ Giêzabel gian ác của vua cũng thế, cũng bị trừng trị xứng với tội của
mình, như Thiên Chúa đã báo trước qua miệng Tiên Tri Elia ở Bài Đọc 1 hôm
nay, theo luật báo oán, mắt đền mắt răng đền răng:
"Những con chó đã liếm máu Naboth tại đâu, thì cũng sẽ liếm máu ngươi tại
đó... Chó sẽ ăn thịt Giêzabel ở cánh đồng Giêzrơel. Acáp chết trong thành,
sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, thì sẽ bị chim trời rỉa ăn".
Tuy nhiên, chính cái tầm mức công bình này đã cho thấy Vị Thiên Chúa vô cùng
công minh chính trực, Vị Thiên Chúa có mắt của một vị Quan Án Chí Công và
Chí Tôn cũng đồng thời có một tấm lòng, biết rung cảm, biết tha thứ, bằng
chính quyền bính sát phạt của mình, đến độ không còn ranh giới công bằng
nữa, và vì thế, cho đến khi Ngài có mắt đối với nạn nhân thì Ngài lại làm
cho nạn nhân cảm thấy ghen tức bởi Ngài quá rộng lượng khoan dung với phạm
nhân, như Ngài đối xử với vua Ahab ác độc trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Khi Acáp nghe những lời này, mặc áo nhặm, ăn chay, vấn bao bố mà ngủ và
ăn ở khiêm nhường. Có lời Chúa phán với Êlia người Thesbê rằng: 'Ngươi có
thấy Acáp hạ mình trước mặt Ta không? Vì Acáp đã hạ mình trước mặt Ta, Ta sẽ
không giáng hoạ xuống trong đời ông ta, nhưng trong đời con ông ta, Ta sẽ
giáng hoạ trên nhà ông ấy'".
Ở đây người đọc cảm thấy Thiên Chúa bất công, vì phạm nhân đời trước được
tha con cháu đời sau mắc họa. Dầu sao cũng cho thấy tội lỗi, cho dù là của
cá nhân, bao giờ cũng gieo tai họa về sau, như nguyên tội do nguyên tổ gây
ra nhưng tai họa gánh chịu bao gồm cả con cháu của các vị. Có thể so sánh
cái họa gây ra bởi tội lái xe ẩu của bố hay mẹ làm cho con cái trong xe chết
oan khi xẩy ra tai nạn vậy. Tuy nhiên, cho dù mắc họa của đời trước nhưng
đời sau cũng có thể tránh khỏi nếu không để cho tội lỗi của cha ông tái diễn
nơi mình, nhờ đó, con cháu còn có thể cứu được cái họa của đời trước. Mẹ
Maria, nhờ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, đã chẳng những thoát được cái
họa nguyên tội, mà còn được đồng công cứu chuộc giòng dõi của mình nữa. Ngược lại
với cái họa của tội lỗi là cái phúc của ân đức, như tín điều các thánh cùng
thông công cho thấy, ở chỗ, một người có thể cứu được nhiều người, như
trường hợp các thánh nhân có thần thế chuyển cầu trước mặt Thiên Chúa cho
phần rỗi của nhân loại.
Dầu sao, đọc đến chỗ Thiên Chúa mau mắn tha cho vị vua gian ác tham lam giết
người cướp của như Ahab cũng làm cho chúng ta thông cảm với hành động trốn chạy của Tiên Tri Giona để khỏi
phải thi hành lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng đã sai ông đi loan báo án
phạt cho dân thành Ninive, vì ông không muốn thấy thứ dân ngoại xấu xa tội
lỗi đáng phạt ở đó được Thiên Chúa thương tha là những gì như thể trái phép
công bằng. Bởi thế, Thiên Chúa đã tạo cơ hội cho ông cảm thấy chính thân
phận đáng thương của ông để ông có thể thông cảm với lòng thương xót của Chúa,
một lòng xót thương không thể nào không rung động và tha thứ cho tội nhân
một khi họ thật lòng thống hối ăn năn như vua Ahab trong Bài Đọc 1 hôm nay,
với tất cả tấm lòng vọng lên những lời thống thiết của vua Đavít trong Bài
Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo
lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội
ác.
2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn;
con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa.
3) Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của
con. Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi
con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 2
V 2, 1. 6-14
"Có một xe bằng lửa, và Êlia lên
trời".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Khi Thiên Chúa muốn đem Êlia lên trời
trong cơn gió lốc, Êlia và Êlisê đang rời bỏ đất Galgala. Khi cả hai đến
thành Giêricô, Êlia nói với Êlisê rằng: "Con cứ ngồi đây, Chúa sai thầy đến
sông Giođan". Êlisê đáp: "Nhân danh Chúa hằng sống và lấy mạng sống của
Thầy, con xin thề rằng: Con sẽ không rời thầy". Thế rồi cả hai cùng đi xuống
Bêthel. Có năm mươi người đồ đệ của tiên tri cũng đi theo hai vị, và đứng xa
xa, còn hai vị thì đứng trên bờ sông Giođan. Êlia lấy áo choàng cuốn lại,
đập xuống nước. Nước liền rẽ làm hai, và hai vị cứ lối ráo mà qua sông.
Khi đã qua rồi, Êlia nói với Êlisê
rằng: "Con muốn gì thì cứ xin, để thầy làm cho, trước khi thầy được cất đi
khỏi con". Êlisê đáp: "Con muốn được gấp đôi thần trí của thầy". Êlia nói:
"Con xin điều khó quá, nhưng nếu con thấy được thầy trong lúc thầy được cất
đi khỏi con, thì con sẽ được như ý; nhưng nếu con không xem thấy, thì không
được". Hai ông tiếp tục đi và nói chuyện, thì này đây có một xe bằng lửa và
ngựa cũng bằng lửa phân rẽ hai người; và trong cơn gió lốc, Êlia lên trời.
Êlisê thấy vậy kêu lên: "Cha ơi, cha ơi, cha là xe và là người đánh xe
Israel". Và Êlisê không thấy thầy mình nữa, người liền lấy áo mình và xé ra
làm đôi, và lượm chiếc áo choàng Êlia đã thả xuống, rồi lui về, và đứng lại
ở bờ sông Giođan, lấy áo choàng Êlia đã thả xuống, đập xuống nước mà nước
lại không rẽ ra. Người kêu lên: "Thiên Chúa của Êlia bây giờ ở đâu?" Người
lại đập xuống nước, và nước rẽ làm đôi, và Êlisê đi qua.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 30, 20.
21. 24
Ðáp: Lòng
chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa
(c. 25).
Xướng: 1) Lạy Chúa, vĩ đại thay lòng
nhân hậu Chúa, lòng nhân hậu Ngài dành để cho những kẻ kính sợ Ngài, lòng
nhân hậu Ngài ban cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay trước mặt con cái
người ta. - Ðáp.
2) Chúa che chở họ dưới bóng long nhan
Ngài, cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ trong lều trại của
Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận. - Ðáp.
3) Chư vị thánh nhân của Chúa, hãy mến
yêu Ngài, Ngài gìn giữ những kẻ trung thành. Nhưng Ngài trả miếng thực là
đầy đủ cho những ai xử sự kiêu căng. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94,
8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay
các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6, 1-6.
16-18
"Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí
ẩn, sẽ trả công cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta
để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là
Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như
bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả
thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm
sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ
kín, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng
chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các
ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được
thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà
cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí
ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như
bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt
người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi
ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn
chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt
mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Sống nội tâm là sống trước nhan Chúa
Suy Niệm
Bài Phúc Âm hôm nay, vẫn
là bài Phúc Âm thuộc loạt bài về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi được Chúa
Giêsu huấn dụ
riêng cho các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền
tảng cho Giáo Hội tương lai của Người, nhưng không còn theo công thức so sánh
giữa lề luật cũ hay tâm thức tự nhiên với giáo huấn trọn lành của Người liên
quan đến đức ái trọn hảo.
Bài Phúc Âm hôm nay
bắt đầu sang đoạn 6 (Mathêu
6:1-6,16-18) và
liên quan đến các việc thiện, như "bố thí", "cầu nguyện" và
"chay tịnh", một bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Tư Lễ Tro mở màn cho Mùa Chay hằng năm.
Căn cứ vào thứ tự 3 việc lành này thì ưu tiên nhất là bố thí liên quan đến đức
bác ái, sau đó mới đến việc cầu nguyện liên quan đến Thiên Chúa, và sau cùng mới
đến việc chay tịnh liên quan đến bản thân.
Có thể nói bố thí là
hoa trái của cầu nguyện, thậm chí có thể bỏ cầu nguyện để làm việc bác ái
khi khẩn cấp, và muốn cầu nguyện sốt sắng và tác hiệu cần phải chay tịnh
(làm chủ mình, khổ chế), nhưng khổ chế chay tịnh mà thiếu đức bác ái cũng
không tốt. Kể cả các việc lành này nữa, các tông đồ cũng cần phải thực hiện một cách trọn
lành, khác với thái độ giả hình của thành phần đạo đức phô trương làm vì danh
tiếng hơn là vinh hiển của Thiên Chúa.
Qua việc thực hành các
việc thiện bề ngoài này, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ phải sống nội tâm, sống
như là
một thứ "muối đất",
theo nguyên tắc
chung như Người truyền dạy, đó là: "Các
con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông
thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời".
Căn cứ vào
nguyên tắc "đừng
phô trương công đức" này, Người dạy các môn đệ trước hết về cách thức thực hành việc
bố thí như thế
này: "Vậy
khi các con bố thí, thì đừng thổi
loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người
ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có
bố thí, thì làm saođừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con
bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Nguyên tắc "đừng phô trương
công đức" như Chúa dạy được áp dụng, sau nữa, vào
việc cầu nguyện ở
cách thức cũng như việc bố thí ở chỗ tránh
hành
vi tiêu
cực mà
thể hiện các cử
chỉ tích cực như sau: "Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ
giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ
trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi
cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng
cửa lại mà cầu xin với Cha con,
Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Sau hết,
về cách
thức chay tịnh, theo nguyên tắc "đừng phô trương công đức", Chúa
dạy các tông đồ thực hiện vừa tránh tiêu cực vừa làm tích cực như sau: "Khi
các con ăn chay, thì đừng làm như
bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt
người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn
chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và
rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con
Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Muốn
tránh khỏi khuynh hướng tự nhiên thích "phô trương công đức" về các việc lành
mình làm, con người phải hoàn toàn tin vào Chúa, phải có một đức tin mãnh liệt,
luôn sống trước nhan Chúa, "Đấng
thấu suốt mọi bí ẩn" và
là "Đấng
ngự nơi bí ẩn", như
gương sáng của bà góa bỏ tiền vào đền thờ vậy (xem Luca 21:2-3). Nghĩa là hãy
làm việc lành với tất cả tấm lòng chân thành của mình, ở chỗ hoàn
toàn vì Chúa và
cho Chúa mà thôi.
Cảm Nghiệm
Theo khuynh hướng tự nhiên, con người muốn phô trương bản thân mình về những
gì tốt đẹp và hay ho của mình, còn những gì xấu xa tồi bại thì che giấu đi
bao nhiêu có thể, thậm chí chối bỏ nó khi bị vạch trần ra ánh sáng. Khuynh
hướng này cũng không tha cho việc sống đạo có tính cách siêu nhiên và đức
tin. Đến độ con người lợi dụng cả những việc bố thí cho tha nhân, cầu nguyện
với Thiên Chúa và chay tịnh khổ chế với bản thân để sống như một kẻ vô thần
không có Thiên Chúa nào khác ngoài chính bản thân họ, một đối tượng chính
yếu, đúng hơn là một thần tượng duy nhất và trên hết cần phải được mọi người
chú ý, tôn vinh và chúc tụng.
Đối với thành phần chỉ biết sống hoàn toàn vì Chúa và cho Chúa, trung thành
với Chúa, bằng đức tin sâu xa, thi hành tất cả những gì Chúa muốn và Chúa
truyền, như đại tiên tri Elia, sẽ được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình ra nơi
họ và qua họ, cho những người khác nhận biết Ngài, đến độ Thiên Chúa đã tỏ
mình ra qua vị tiên tri này khi ông còn sống, như trong trường hợp ông đơn
thân độc mã thách đấu với hơn 400 tiên tri của thần Baal trước đó (xem 1 Chư
Vương 18), và cả vào lúc cuối đời của ông nữa, một cách hết sức lạ lùng hầu
như vô tiền khoáng hậu
(so với cả trường hợp của tổ phụ Enóc đột ngột
biến mất - Khởi Nguyên 5:24,
trừ
trường hợp Mông Triệu nhiệm mầu của Thánh Mẫu Maria),
như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:
"Này đây có một xe bằng lửa và ngựa cũng bằng
lửa phân rẽ hai người; và trong cơn gió lốc, Êlia lên trời".
Nơi người tiên tri môn đệ của Elia cũng thế, người môn đệ
"muốn được gấp đôi thần trí của thầy",
cũng chỉ khi nào sống đức tin thì mới thấy Thiên Chúa tỏ mình ra mà thôi.
Bởi thế, sau khi Tiên Tri Elia được Thiên Chúa mang đi cách lạ như thế, mới
xẩy ra chuyện, như Bài Đọc 1 thuật lại:
"Êlisê không thấy thầy mình nữa, người liền lấy áo mình và xé ra làm đôi, và
lượm chiếc áo choàng Êlia đã thả xuống, rồi lui về, và đứng lại ở bờ sông
Giođan, lấy áo choàng Êlia đã thả xuống, đập xuống nước mà nước lại không rẽ
ra. Người kêu lên: 'Thiên Chúa của Êlia bây giờ ở đâu?' Người lại đập xuống
nước, và nước rẽ làm đôi, và Êlisê đi qua".
Đúng thế, đúng như Bài Đáp Ca hôm nay nhận thức, Thiên Chúa đặc biệt tỏ
"lòng nhân hậu Ngài" ra "cho những kẻ kính sợ Ngài", nghĩa là
"cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay
trước mặt con cái người ta" (câu 1). Ở chỗ, "Chúa che chở
họ dưới bóng long nhan Ngài, cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ
trong lều trại của Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận" (câu
2).
Ngày
19/06: Thánh Rômualđô (951-1027)
Thánh Rômualđô là một nhà quý tộc người Ý, được sinh khoảng năm 951 tại
Ravenna, nước Ý. Khi lên 20 tuổi, Rômualđô bị sốc mạnh khi thấy thân phụ
ngài giết chết một người đàn ông trong một cuộc đọ kiếm tay đôi. Rồi thánh
Rômualđô vào tu trong đan viện Bênêđictô. Ngài quyết tâm sống cuộc đời ngay
chính. Thánh Rômualđô cũng muốn sám hối thay cho hành vi bệ rạc của người
cha. Đối với Rômualđô, môi trường và lối sống của đan viện thật mới lạ vì
ngài đã quen với nếp sống sang trọng, xa hoa và vô công rỗi nghề ở gia đình.
Nhưng dần dần, chàng quý tộc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi gương sáng của nhiều
đan sĩ. Rômualđô quyết tâm trở nên một đan sĩ. Ngài đã xin một ẩn sĩ tốt
lành tên là Marinô dạy cho cách thức nên thánh. Cả Marinô và Rômualđô đã cố
gắng dùng thời giờ mỗi ngày để ca ngợi, tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa. Thân
phụ của Rômualđô là ông Sêgiô đến quan sát lối sống của con trai mình. Ông
bị đánh động bởi sự đơn sơ và tinh thần bỏ mình của người con. Sêgiô nhận
thức rằng chắc chắn phải có một thứ hạnh phúc đặc biệt nào đó trong đan viện
– bởi vì con trai ông đã tự tình chấp nhận sống ở đó. Và đó là mọi điều
Sêgiô đang cần. Ông đã từ bỏ mọi thứ của cải mình có và cũng bắt chước người
con sống phần đời còn lại như một đan sĩ.
Sau cùng, thánh Rômualđô thiết lập hội dòng Camalđôlêsêô Bênêđictô. Thánh
nhân đi khắp nước Ý lập thêm các ẩn viện và các đan viện. Ở bất cứ nơi đâu,
thánh Rômualđô cũng đều làm gương sáng cho các đan sĩ về lòng sám hối. Suốt
một năm trời, mỗi ngày Rômualđô chỉ ăn chút ít đậu luộc. Rồi cả ba năm tiếp
theo, thánh nhân chỉ dùng một ít thức ăn hầu nuôi sống mình. Nhờ những hy
sinh này, thánh Rômualđô sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.
Thánh Rômualđô về trời ngày 19 tháng Sáu năm 1027, tại đan viện Valđi
Castrô. Ngài ở một mình trong đan phòng của ngài và qua đời cách lặng lẽ âm
thầm. Chắc hẳn thánh Rômualđô đã thầm thĩ lời nguyện rất được ưa chuộng này:
“Ôi, lạy Đức Chúa Giêsu dịu hiền! Chúa đáng yêu mến của lòng con! Chúa là
niềm khoái cảm vui thích của các linh hồn thanh khiết! Chúa là đối tượng của
mọi sự con ước ao!”
Chúng ta hãy nài xin thánh Rômualđô giúp chúng ta biết quý trọng sự cầu
nguyện và sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh
nhân ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện những việc thiêng liêng cách liên
lỉ. Thánh nhân biết khó khăn thách đố là làm sao mà!
tinmung.net
https://ungsinhdongten.net/ngay-1906-thanh-romualdo-951-1027/
THÁNH RÔMUALĐÔ, VIỆN PHỤ (956-1027)
Thánh Rômualdô sinh tại Ravenna năm 956, trong một gia đình danh giá nước Ý.
Bá tước Sergiô, cha ngài đã phụng dưỡng ngài trong một nếp sống xa hoa.
Rômualdô đã chỉ tìm vui chơi mà không nghĩ gì tới bổn phận phải nên thánh.
Dầu vậy, đôi lần đi săn thú, ngài thấy mình đơn độc giữa rừng vắng và phải
suy nghĩ... Ngài đặt mình vào một ngày nào đó phải chết và bỗng thấy lo âu.
Ngài cũng thấy rằng các ẩn sĩ chọn đời sống cô tịch, hãm
mình để hiến thân phụng sự Chúa thật là đúng đắn. Những giấc mơ như vậy
thanh luyện hồn ngài và cảm kích bởi ơn thánh, ngài tự hứa với mình là sẽ
cải thiện đời sống nhưng rồi trở lại với những thú vui ngày thường ngài lại
lùi bước trước nỗ lực và lao mình theo các thị hiếu.
Một
biến cố đau thương đã thành phương tiện Thiên Chúa dùng để gỡ Rômualđô khỏi
những ràng buộc với thế gian. Sergiô cha ngài gây lộn với một người bà con
về việc sở hữu một cánh đồng đã thách đấu kiếm, ông còn bắt con mình dự vào
cuộc đấu. Sergiô giết chết đối thủ, coi mình là đồng loã với tội phạm này và
thấy phải đền trả. Rômuadô đã vào tu viện để thống hối suốt 40 ngày. Bị đánh
động bởi thực tế trái ngược hẳn với lối sống phân tán của thế gian, ngài chỉ
còn nghĩ tới việc bắt chước những khắc khổ mà ngài được chứng kiến.
Bá
tước Sergiô cảm kích vì mẫu gương của con mình đã vào dòng. Khi bị cám dỗ
trở về đường xưa, ông lại dẫn con mình kịp thời can thiệp và tiếp tục trung
thành với đời sống đền bồi cầu nguyện.
Sau
7 năm sống trong dòng, Rômuado dấn mình vào sa mạc, sống gần vị ẩn sĩ già là
Marinô. Đây là bậc thầy nghiêm ngặt mà ngài đã chọn, Marinô thường lấy roi
đánh trên đầu môn đệ của mình để xua đuổi sự chia trí lo ra hay để phạt một
lầm lỗi khi đọc thánh vịnh, hay hơn nữa để giúp họ quen chịu khổ. Ông lại
hay đánh có một phía. Rômuado không hề phàn nàn kêu trách.
Một
ngày kia Ngài nói với thầy: Thưa thầy, từ nay xin thầy đánh về phía mặt vì
tai trái con hầu như điếc rồi. Rômuado thầm cảm phục và kính trọng môn đệ
mình.
Rômuado nuôi chí hứơng canh tân dòng Biển Đức đang thời sa sút, ngài thiết
lập một tu viện. Ngài làm cho các môn đệ nhiệt tình nên hoàn hảo trong việc
hãm mình, khi phải chống lại sự dữ và phạt tội lỗi, thánh nhân đã tỏ ra
cương nghị, chẳng hạn khi vua Othen III đến tu viện để đền bù tội lường gạt
và sát hại một thủ lãnh loạn luân, ông được truyền dạy phải đi chân không
tới Nhà thờ Thánh Micae và suốt Mùa Chay, phải ở trong đồng mà ăn chay, ngủ
trên rơm cỏ.
Rômuado chống gậy rảo khắp nước Ý sang cả Pháp và Đức. Ngài xây nhiều nhà
thờ, thiết lập nhiều tu viện, và các trung tâm ẩn tu trong sa mạc. Ngày kia,
ngài tìm được một nơi thanh vắng trong dãy Apennins. Ngài mơ thấy một cái
thang bắc lên trời, có các tu sĩ lên xuống. Vị lãnh chúa miền này cho ngài
cánh đồng Malđôli. Thánh nhân lập dòng Camaldules sống đời liên lỉ.
Vào
tuổi 120, Thánh Rômuado từ trần, ngày 19-06-1076.
Sau
439 năm, xác ngài còn nguyên vẹn và được đặt trong nhà thờ của dòng ở
Fabrianô.
https://giaophanvinhlong.net/thanh-romualdo.html
http://nhipcautamgiao.net/nhan-tam/hien-nhan/thanh-romualdo-vien-phu-19-6/
https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2013/06/20/ngay-198-thanh-romualdo-vien-phu.html
Ngày 19/6: Thánh Romualđô, (St.Romuald) viện phụ
Chúa nói:” Thầy bảo thật anh em: Anh em là những người đã bỏ mọi sự mà theo
Thầy, anh em sẽ được gấp bội và được hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp”(
Mt 19, 27-29 ). Thánh Romualđô đã từ bỏ mọi vinh hoa, phú quí, đã bỏ mọi sự
mà theo Chúa Giêsu, Ngài đáng được hưởng phần thưởng nước trời.
CÁI THƯỜNG TÌNH ĐÃ TRỞ NÊN CÁI ÍCH LỢI CHO
THÁNH NHÂN:
Thánh Romualđô được sinh ra trong một gia
đình quyền uy thế giá. Cha mẹ Ngài là dòng dõi quí tộc bên nước Ý. Từ
tuổi trưởng thành, Romualđô đã thích săn bắn thú rừng, đã thích gần gũi
thiên nhiên,núi đồi, cây cỏ. Chính những cuộc săn đuổi thú rừng hết núi
này qua đồi nọ, hết suối này qua bờ khe khác, đã giúp thánh nhân gần gũi
thiên nhiên và cho Ngài cảm nghiệm sự thinh lặng, im lìm, tịch liêu của
tâm hồn. Thiên Chúa có đường lối của Ngài: ý Ngài không ai dò thấu, dự
định của Ngài chẳng ai thấy trước, không ai hiểu được. Đường của Chúa
hoàn toàn kỳ diệu vì thế nhân buồn cảnh gia đình, thánh nhân đã trốn vào
tu viện Bênêđitô ở Classa. Với thời gian tu tập tốt đẹp, các Bề Trên
cho Ngài được mặc áo dòng. Thánh Romualđô mau chóng trở thành tu sĩ rất
nhân đức và tiến triển trên đường thánh thiện. Ngài nên gương mẫu cho
anh em trong tu viện noi theo, bắt chước. Thánh nhân càng lúc càng muốn
sống giống Chúa Giêsu khónghèo, nên sau ba năm sống trong tu viện
Bênêđitô, thánh nhân muốn tìm kiếm con đường nhiệm nhặt, khổ hạnh hơn
nữa bên cạnh bậc thầy khả kính là Marinô. Thánh nhân và thầy Marinô mỗi
tuần chỉ ăn có ba ngày:lương thực là một miếng bánh mì và một nắm đậu.
Mỗi ngày hai thầy trò sánh bước dưới các lùm cây, tán lá, hát thánh vịnh
và ca ngợi Chúa. Nhưng ý Chúa lại thúc đẩy Ngài trở về để cải tổ các tu
viện Bênêđitô đang sa sút trầm trọng sau ba năm Ngài sống xa các tu viện
với Thầy khả kính Marinô. Thánh nhân đã sửa đổi các tu viện và xây cất
thêm cả trăm tu viện khác nữa. Nhiều người bỏ tu ra đời, nay lại theo
Ngài sống đời khổ tu, chiêm niệm. Ma quỉ vì thấy Ngài sống thánh thiện,
nhiệm nhặt với lề luật, nên tìm cách phá ngài, nhưng thánh nhân đã luôn
chiến thắng chúng bằng lời cầu nguyện của mình. Một số anh em trong Dòng
cũng khó chịu với Ngài vì Ngài yêu thương và sống bác ái đối với các
người nghèo khó, neo đơn, cô quả...Theo lời yêu cầu của Hoàng Đế Othon
III và của các Thầy trong Dòng, Ngài đã nhận làm Bề Trên tu viện Classa.
Nhiều bậc vị vọng, nhiều ông hoàng đã xin đi tu vì cảm mến, khâm phục
cách sống và các nhân đức của thánh nhân.
Ý CHÚA NHIỆM MẦU:
Thánh
nhân ước ao được đi truyền giáo cho dân tộc Hung Gia Lợi, nhưng ý Chúa
nhiệm mầu lại hướng Ngài đi một lối khác. Ngài tìm đến một nơi thanh
vắng trong hoang địa để sống những ngày còn lại hết mình cho Thiên Chúa.
Tại nơi thanh vắng mới này, thánh nhân hoàn toàn sống chiêm niệm, cầu
nguyện, ăn chay và đánh tội. Biết được ý Chúa, thánh nhân đã xin một bá
tước mảnh đất ở Apennin để thiết lập một tu viện. Apennin, nơi tu viện
mới của thánh nhân bỗng trở nên trung tâm những tu viện của thánh
Romualđô. Các Đức Thánh Cha kính nể, dành cho Ngài, các tu viện của Ngài
nhiều đặc ân và bảo vệ, tán thành bộ luật Dòng của Ngài.
CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NHÂN và GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:
Với nhiều công đức, với sự thánh thiện, khôn ngoan của thánh nhân. Chúa
đã ban cho thánh Romualđô sống tới 120 tuổi. Tuổi đời cao là một hồng ân
của Chúa như thánh vịnh 15, 5-6 đã viết:” Lạy Chúa, Chúa là phần sản
nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính
Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con. Vâng, gia nghiệp ấy làm
con thỏa mãn”. Thánh Romualđô đã ra đi về với Chúa trong an bình vào mùa
hè năm 1027. Chúa đã đội mũ triều thiên cho Ngài và Giáo Hội đã mừng lễ
Ngài vào ngày 19 tháng 6 mỗi năm.
Lạy
Chúa, Chúa đã dùng thánh Romualđô để canh tân đời sống ẩn tu trong Hội
Thánh. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình mà theo chân Đức Kitô,
hầu đạt tới hạnh phúc nước trời ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Romualđô,
viện phụ ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
http://www.giaophanthaibinh.org/a5035/Ngay-19-6-Thanh-Romualdo-St-Romuald-vien-phu.aspx
https://123docz.net/document/4466878-thanh-romualdo-vien-phu.htm
LINH ĐẠO XITÔ - Hội Dòng XITÔ Thánh Gia
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Hc
48, 1-15 (Hl 1-14)
"Êlia được che khuất trong gió
cuốn, và Êlisê được trọn vẹn thần trí của người".
Trích sách Huấn Ca.
Bấy giờ tiên tri Êlia như lửa hồng
xuất hiện, lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho họ một
mùa đói khát, và số người ghét ông đã hao đi, vì chúng chẳng giữ được giới
răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa trời
xuống. Êlia được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự hào
được vinh quang như người? Bởi lời Chúa là Thiên Chúa, người cứu kẻ chết ra
khỏi âm phủ, khỏi quyền sự chết. Người triệt hạ các vua xuống cảnh điêu tàn,
bẻ gãy dễ dàng quyền thế của họ, xô kẻ sang trọng rớt khỏi giường nằm. Trên
núi Sinai, người đã nghe lời xét xử, và trên núi Horeb, người đã nghe án
quyết phục thù. Người xức dầu các vua để báo oán và đặt các tiên tri để nối
nghiệp mình. Người đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe ngựa kéo đi. Người
đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa,
để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp. Phúc cho
những ai đã thấy người, và được hân hạnh thiết nghĩa với người: Vì chúng tôi
chỉ được sống trong cuộc sống này, sau giờ chết, danh tiếng của chúng tôi sẽ
được như thế. Êlia được che khuất trong gió cuốn, và Êlisê được trọn vẹn
thần trí của người. Trong đời người, người không sợ vương tướng, và không
quyền lực nào thắng được người, cũng không ai vượt người trong lời nói, và
khi người chết rồi, xác người vẫn nói tiên tri. Khi còn sống, người đã làm
những phép lạ, và khi đã qua đời, người đã làm những việc kỳ diệu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1-2.
3-4. 5-6. 7
Ðáp: Người
hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy
hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả
chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.
2) Một làn lửa đi trước thiên nhan, để
đốt những quân đối nghịch chung quanh Chúa. Chớp của Người sáng rực cõi
trần, địa cầu xem thấy và run rẩy sợ hãi. - Ðáp.
3) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước
thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự
công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
4) Hãy hổ ngươi tất cả những ai phụng
thờ hình ảnh, những ai khoe khoang về thần tượng, bao nhiêu chúa tể hãy cúc
cung bái lạy Người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144,
13bc
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành
trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6, 7-15
"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như
thế này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là
phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ
điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện
như thế này:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng
con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ
chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con
sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì nếu các con có tha thứ cho người
ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ
cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng
chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này,
tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau).
Suy Niệm
Bài Phúc Âm (Mathêu
6:7-15) cho
Thứ Năm Tuần XI Thường Niên hôm nay liên
quan đặc biệt đến việc cầu nguyện nói chung và Kinh Lạy Cha nói riêng, hay
nói cách khác, liên quan đến cách thức cầu nguyện và mẫu thức cầu nguyện.
Trước hết, về cách
thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện một cách đơn sơ
nhưng đầy lòng tin tưởng vào Đấng thấu suốt mọi sự như thế này: "Khi
cầu nguyện, các con đừng nhiều
lời như dân ngoại: họ nghĩ là
phải nói nhiều mới được chấp nhận. Đừng làm như họ, vì Cha
các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin".
Sau nữa,
về mẫu thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã tóm gọn những gì cần thiết nhất
và đáng cầu nhất vào một lời nguyện vẫn được chúng ta gọi là Kinh
Lạy Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả
sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha
cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng
tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng
cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen".
Kinh Lạy Cha là mẫu thức cầu
nguyện này bao
gồm tất cả đời sống vì Chúa và cho Chúa của
chung loài người và của riêng Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm
người. Kinh Lạy Cha được cấu tạo nên bởi 2 phần rõ ràng: phần nguyện và phần
xin. Phần nguyện trực tiếp đến Chúa là đối tượng chính của kinh nguyện này,
và phần
xin trực tiếp đến chủ
thể đọc lên kinh nguyện này, nhưng vẫn nhắm đến đối tượng chính yếu là Chúa.
Thật vậy, phần nguyện bao gồm
3 ước nguyện thứ tự là: 1- ước nguyện
cho danh Cha cả sáng, 2- ước
nguyện cho nước
Cha được trị
đến, và 3- ước
nguyện cho ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tâm
hồn nào quả thực chỉ ước nguyện và thật lòng ước nguyện như thế thì đúng là
người con ngoan của Thiên Chúa là "Cha
trên trời".
Thế
nhưng
muốn có một tấm lòng chỉ ước nguyện 3 điều chính yếu trên liên quan đến Sự
Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha (Danh Cha - Sự Sống Hằng Hữu), và Con
(Nước Cha
- Sự
Sống Thần Linh)
và Thánh Thần (Ý
Cha - Sự Sống Thông Ban),
con người
cần phải cầu xin cho được
3 điều tương
xứng với 3 ước nguyện ở phần đầu, thứ tự như sau:
"Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày": đó
là xin Cha tỏ cho chúng con biết được
những
gì Cha
muốn, để
nhờ đó chúng con có thể chu
toàn tất cả những gì Cha muốn nơi chúng con cho "Danh Cha cả
sáng",
như
Chúa Giêsu đã sử dùng
lương thực của Người như thế: "Lương
thực của Thày là làm theo ý Đấng đã sai Thày và hoàn tất công việc của Ngài" (Gioan
4:34);
"Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con": đó
là xin Cha cho chúng con biết sống bác ái yêu thương cho "Nước Cha
trị đến", như chúng con đã được chính Cha
"đã
chứng tỏ lòng yêu
thương đối với chúng con khi chúng con đang còn là tội nhân" (Rôma
5:8), nơi
Con Một của Cha là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã "đến không phải để được hầu
hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều
người"
(Mathêu 20:28), trong đó
có chúng con.
"Xin Cha chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự
dữ": đó
là xin Cha cho chúng con luôn luôn biết
tuyệt đối trung
thành với Ý Muốn vô cùng khôn ngoan và nhân hậu của Cha ở
mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, bất chấp mọi chước cám dỗ và thắng
vượt tất cả mọi xu hướng bất trung và phản
bội, nhờ
"Đấng Phù Trợ" được sai đến để "chứng tỏ cho thế gian biết họ sai
lầm về tội lỗi, về sự công chính và về án
phạt" (xem Gioan 16:8).
Có thể nói cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này, tức ở
lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau). Thật
vậy, "danh Cha" không thể "cả sáng" (ước nguyện 1) và "Nước Cha" không thể
"trị đến" (ước nguyện 2), nơi chúng ta nếu chúng ta không "ước nguyện cho
ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (ước nguyện 3).
Và cũng chính vì "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời"
mới "xin Cha tha nợ chúng con" (lời cầu 2), tức tha cho những gì chúng ta đã
không làm theo ý của Cha, hay làm trái ý Cha, làm phật ý của Cha, và mới
"xin Cha đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự
dữ" (lời cầu 3), nghĩa là xin Cha đừng để cho chúng con bao giờ làm mất lòng
cha là sự dữ trên hết mà chúng con cần phải tránh.
Cảm Nghiệm
Phải nói rằng Kitô hữu nào sống trọn Kinh Lạy Cha là
đạt đến tột đỉnh thánh thiện, là nên giống như Cha trên trời, là được hiệp
thông thần linh với Thiên Chúa là Cha (liên quan đến ý nguyện 1 phần đầu) và
Con (liên quan đến ý nguyện 2 phần đầu) và Thánh Thần (liên quan đến ý
nguyện 3 phần đầu).
Và tình trạng hiệp thông thần linh siêu việt này,
được linh đạo Kitô giáo gọi là bậc tu đức thần hiệp, bậc tu đức cao nhất
trong ba bậc (so với bậc khởi sinh và bậc tiến sinh), là tình trạng xuất
phát từ lòng của con người, một tấm lòng luôn khao khát Chúa, luôn tìm kiếm
Chúa, luôn đáp ứng các tác động thần linh của Chúa, đến độ nên một với ý
Chúa, được Chúa chiếm đoạt, làm chủ và tỏ mình ra qua họ.
Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy lý do tại sao đại tiên
tri Elia cuối đời được Thiên Chúa mang đi cách lạ, bằng xe lửa và ngựa lửa,
như Bài Đọc hôm qua cho thấy, đó là vì bản thân
"Êlia như lửa hồng xuất hiện, lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy
phừng", đến độ "ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa trời xuống.
Êlia được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm".
Chưa hết, vị tiên tri này
dù "đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe ngựa kéo đi", nhưng ông
"đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ
Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp",
nơi vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả sau này (xem Luca 1:76-77; Mathêu
11:14, 17:11-13), và còn được tái xuất hiện trong biến cố Chúa Kitô biến
hình trên núi nữa (xem Mathêu 17:3).
Ảnh hưởng của Elia trong vai trò là tiên tri của
Chúa, cũng như ảnh hưởng của tất cả những tâm hồn nào sống trọn Kinh Lạy
Cha, đều có thể trở thành, như Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả (ở câu 2):
"Một làn lửa đi trước thiên nhan, để đốt những quân đối nghịch chung quanh
Chúa. Chớp của Người sáng rực cõi trần, địa cầu xem thấy và run rẩy sợ hãi".
Thành phần giống như Tiên Tri Elia và những ai sống
Kinh Lạy Cha sẽ trở thành một cuộc thần hiển (theophany) của Thiên Chúa,
theo chiều hướng và ý nghĩa câu Đáp Ca 1 hôm nay: "Chúa hiển trị, địa
cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao
toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu".
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 2
V 11, 1-4. 9-18. 20
"Người ta xức dầu cho Gioas và reo
lên: Vạn tuế đức vua".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, khi bà Athalia,
mẹ vua Ocôsia, thấy con mình chết, nên đứng lên giết tất cả dòng dõi nhà
vua. Nhưng Giô-saba, con gái của vua Giôram và là chị của Ocôsia, cứu được
Gioas, con của Ocôsia khỏi số các con của vua bị sát hại, và giấu nó trong
phòng ngủ làm một với bà vú, để bà Athalia không thấy nó và nó khỏi bị giết.
Nó ở trong đền thờ Chúa với bà Giôsaba cách bí mật được sáu năm, thời gian
bà Athalia cai trị đất nước.
Năm thứ bảy, ông Gioiađa sai người đi
tìm các sĩ quan và quân lính, ông đưa họ đi với ông vào đền thờ Chúa. Người
ký giao ước với họ, bảo họ thề trong đền thờ Chúa và cho họ thấy con của nhà
vua.
Các sĩ quan làm tất cả những điều tư
tế Gioiađa truyền dạy: Mỗi người đem các thuộc hạ theo mình, những người
lính vào canh ngày Sabbat cũng như kẻ ra canh, đều đến cùng tư tế Gioiađa.
Ông trao cho họ giáo mác và khí giới của Ðavít để trong đền thờ Chúa. Mỗi
người cầm khí giới đứng từ bên tả đến bên hữu đền thờ và bàn thờ, hộ vệ
chung quanh đức vua. Tư tế Gioiađa dẫn hoàng tử ra, đặt triều thiên lên đầu
người và trao cho người quyển giao ước. Người ta phong người làm vua và xức
dầu cho người. Họ vỗ tay reo lên: "Vạn tuế đức vua!"
Athalia nghe tiếng dân chúng chạy đến,
thì đi với dân vào đền thờ Chúa. Bà Athalia thấy vua đứng trên toà như thói
thường, có ca sĩ và đội kèn đứng kề bên, và toàn dân trong xứ hân hoan kèn
hát, bà liền xé áo mình, kêu lên rằng: "Mưu phản! Mưu phản!" Nhưng Gioiađa
truyền cho các sĩ quan đang cầm đầu toán binh lính rằng: "Các ngươi hãy đuổi
bà ấy ra khỏi đền thờ, và hễ ai theo bà, thì chém luôn". Vị tư tế nói: "Ðừng
giết bà trong đền thờ Chúa". Họ ra tay bắt và lôi bà đi theo đường ngựa vào
đến gần cung điện và giết bà tại đó.
Gioiađa ký kết giao ước giữa Thiên
Chúa với vua và dân, để họ trở nên dân Chúa; và ký giao ước giữa vua và dân.
Toàn dân trong xứ đều ùa vào chùa Baal, phá huỷ các đền thờ, đập tan các bức
tượng, và giết luôn thầy cả Mathan trước bàn thờ. Tư tế Gioiađa đặt các toán
canh giữ đền thờ Chúa. Toàn dân trong xứ hân hoan, và thành đô được bằng
yên: vì bà Athalia bị giết trong đền vua.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 131, 11,
12.13-14. 17-18
Ðáp: Chúa
đã kén chọn Sion làm nơi cư ngụ cho mình (c. 13).
Xướng: 1) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít
một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời. Rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai
báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi". - Ðáp.
2) Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước
của Ta, và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng
được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi. - Ðáp.
3) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã
thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Người phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi
của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích". - Ðáp.
4) Tại đó, Ta sẽ gầy dựng một uy quyền
cho Ðavít, sẽ chuẩn bị ngọn đèn sáng cho người được Ta xức dầu. Ta sẽ bắt
những kẻ thù ghét người tủi hổ, nhưng triều thiên của Ta chiếu sáng rực rỡ
trên mình người. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6,
19-23
"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con
cũng ở đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét
mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy
tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không
làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì
lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong
sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân
con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm,
sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Kho tàng
sự sống
Suy Niệm
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục với bài Giảng
Trên Núi của Thánh Ký Mathêu (6:19-23), một bài Phúc Âm
ngay sau Kinh Lạy Cha của bài Phúc Âm hôm qua, như
thể ý nghĩa của hai bài Phúc Âm có liên hệ mật thiết với nhau, ở chỗ, nếu sống
Kinh Lạy Cha thì phải sống như lời Chúa Giêsu dạy trong
bài Phúc Âm hôm nay về
một tấm lòng không còn dính bén với bất cứ sự gì trên trần gian này nữa, trái
lại, chỉ tìm kiếm những gì siêu nhiên cao cả chân thật nhất thuộc về trời, vĩnh
viễn, bất diệt:
"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ
làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho
mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm
cướp không đào ngạch lấy mất".
Tuy nhiên, để được
như vậy, theo lời Chúa Giêsu phán dạy, con người môn đệ của Người cần phải có
một tấm "lòng thanh sạch" (Mathêu 5:8) mới thấy được "tất cả sự thật" (Gioan
16:13) mà chọn lựa, theo đuổi và chiếm hưởng, và phải chăng Chúa Giêsu muốn ám
chỉ tấm "lòng thanh sạch" đây chính là "con mắt" như "đèn
soi" cho bản
thân cùng cuộc đời
của con người:
"Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân
con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy
nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng
nào?"
Cảm Nghiệm
Thực
tế sống đạo cũng cho thấy tỏ tường là tất cả mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm và
phản ứng hay đáp ứng của con người đều lệ thuộc vào hay phát xuất từ tấm lòng
của con người. Nếu ai có tấm lòng tốt thì họ nhìn mọi sự đều tốt và làm điều
tốt, ngược lại, ai có một tấm lòng không tốt thì họ xu hướng về những ý nghĩ
xấu, nói năng những điều không hay và tác hành những chuyện không lành v.v. "Lòng đầy
mới tràn ra ngoài miệng" (Mathêu 12:34) là thế, và đó cũng là lý do Chúa
Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "kho
tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".
Theo tu đức
Kitô giáo cũng thế, để một số tâm hồn nào đó được siêu thoát khỏi trần thế,
sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, Thiên Chúa thường hay thanh tẩy lòng
họ cho khỏi tất cả mọi vương vấn, quyến luyến, dính bén với bất cứ một tạo vật
nào, dù thánh hảo và tốt lành mấy chăng nữa, ngoài chính Thiên Chúa.
Trường hợp điển hình của bà hoàng thái hậu "Athalia, mẹ vua Ocosia"
trong Bài Đọc 1 hôm nay đã chứng thực những gì Chúa Giêsu nói trong Bài Phúc
Âm hôm nay:
"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ
làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho
mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm
cướp không đào ngạch lấy mất".
Bà đã chiếm ngôi vua của con sau khi con bà là Vua Ocosia chết, bằng cách
"giết tất cả dòng dõi nhà vua". Thế
nhưng, cũng căn cứ vào lời Chúa Giêsu dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay,
"Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân
con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy
nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng
nào?",
người đàn bà tham lam độc ác này đã chỉ tìm kiếm và tích lũy cho mình
kho tàng ở đời này, mà lại chiếm đoạt một cách bất chính nữa, bởi thế, kho
tàng bị bà chiếm đoạt là ngai vua của con bà ấy đã bị hư nát sau đó 6 năm,
cùng với chính mạng sống của bà, vào chính lúc mà bà không ngờ, như Bài Đọc
1 thuật lại:
"Nghe
tiếng dân chúng chạy đến, thì đi với dân vào đền thờ Chúa. Bà Athalia thấy
vua Gioas (một trong số các con của vua Ocôsia được cứu sống đã bí mật
ở trong đền thờ 6 năm) đứng trên toà như thói thường, có ca sĩ và đội
kèn đứng kề bên, và toàn dân trong xứ hân hoan kèn hát, bà liền xé áo mình,
kêu lên rằng: 'Mưu phản! Mưu phản!' Nhưng Gioiađa (tư tế) truyền
cho các sĩ quan đang cầm đầu toán binh lính rằng: 'Các ngươi hãy đuổi bà ấy
ra khỏi đền thờ, và hễ ai theo bà, thì chém luôn'. Vị tư tế nói: 'Ðừng giết
bà trong đền thờ Chúa'. Họ ra tay bắt và lôi bà đi theo đường ngựa vào đến
gần cung điện và giết bà tại đó".
Đúng thế, không có một cái gì, dù quí báu đến đâu chăng nữa, có thể tồn tại
ngoài Thiên Chúa và như Thiên Chúa, ngoại trừ chính Thiên Chúa và ý muốn vô
cùng khôn ngoan đầy toàn năng của Ngài, một ý muốn bất diệt không ai có thể
làm thay đổi hay trái ý Ngài, trái lại, cho dù họ có tự do, khôn ngoan và
quyền năng đến đâu, cũng chỉ là một con rối quay cuồng theo những gì họ
tưởng rằng chỉ có họ là chúa, ngoài họ ra không hề có Đấng Tối Cao, Đấng
hiện thực tất cả những dự án thần linh của Ngài vào thời điểm Ngài ấn định
và bằng cách thức huyền diệu riêng của Ngài, như Ngài đã thực hiện cho nhà
Đavít được Bài Đáp Ca hôm nay nhắc lại:
1) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng
rút lời. Rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc
dòng giống của ngươi".
2) Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta, và những luật lệ mà Ta
ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên
ngai báu của ngươi.
3) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho
mình. Người phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ
nơi đây, vì Ta ưa thích".
4) Tại đó, Ta sẽ gầy dựng một uy quyền cho Ðavít, sẽ chuẩn bị ngọn đèn
sáng cho người được Ta xức dầu. Ta sẽ bắt những kẻ thù ghét người tủi hổ,
nhưng triều thiên của Ta chiếu sáng rực rỡ trên mình người.
Ngày 21 tháng 6
Thánh Lu-y Gon-da-ga, tu sĩ
lễ nhớ bắt buộc
Sinh năm 1568,
gần Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia đình Cát-ti-di-ô-nê
quyền quý, hấp thụ lòng đạo đức của thân mẫu, Lu-y sớm có khuynh
hướng sống đời tu. Sau khi trao lại cho anh (em) phần đất người được
tổ tiên giao cho để cai quản, người gia nhập dòng Chúa Giê-su. Trong
khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ dịch, thánh nhân bị lây và qua đời lúc
mới hai mươi ba tuổi (năm 1591).
Bài đọc 2
Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng
Trích thư thánh Lu-y Gon-da-ga gửi cho thân mẫu.
Thưa mẹ khả kính, con cầu xin Chúa Thánh Thần luôn ban xuống cho
mẹ ân sủng và niềm an ủi của Người. Khi nhận được thư của mẹ thì
con vẫn còn ở trên chốn
tử vong này. Nhưng đã đến lúc phải hướng về trời, nơi chúng
ta sẽ ca ngợi Thiên Chúa hằng hữu trong
cõi đất dành cho kẻ sống. Con cứ tưởng mình đã hoàn tất được
cuộc hành trình này trước đây rồi. Nếu bác ái là vui
với người vui, khóc với người khóc như thánh
Phao-lô nói, thì thưa mẹ khả kính, hẳn là mẹ phải hết sức vui
mừng vì Chúa đã tỏ cho con thấy niềm hoan lạc đích thực và sự
bảo đảm không bao giờ sợ mất Người nữa ; sở dĩ con được ơn này
cũng là vì tình thương và ân sủng Chúa dành cho mẹ.
Thưa mẹ khả kính, con thú thật với mẹ là khi suy nghĩ về lòng
nhân hậu của Thiên Chúa, bao la như biển cả không đáy không bờ,
thì tâm trí con bàng hoàng, hầu như lạc lõng, không sao hiểu
nổi. Quả thật, dù con chẳng vất vả bao nhiêu trong một thời gian
vắn vỏi, thế mà Chúa cũng mời con đến nghỉ yên muôn đời. Từ trời
cao, Người gọi con đến hưởng hạnh phúc vô biên, hạnh phúc mà con
đã không mấy thiết tha tìm kiếm, và Người hứa ban thưởng cho con
vì những giọt nước mắt ít ỏi con đã đổ ra.
Thưa mẹ khả kính, xin mẹ hết sức cẩn thận, đừng khóc thương con
như khóc thương người chết, kẻo xúc phạm đến lòng nhân từ vô
biên của Chúa. Thật ra, con vẫn sống trước nhan Thiên Chúa và
những khi cần thiết, con có thể dùng lời cầu nguyện mà giúp đỡ
mẹ hữu hiệu hơn cả lúc con còn sống ở trần gian. Cuộc chia ly
này sẽ không lâu, vì trên trời chúng ta sẽ gặp lại nhau, và một
khi cùng kết hợp với Đấng cứu độ chúng ta, chúng ta sẽ được
hưởng niềm vui bất diệt mà hết lòng ngợi khen Chúa và ca tụng
tình thương Chúa đến muôn đời. Chúa lấy lại cái Người đã ký thác
nơi chúng ta không ngoài ý định là đặt nó vào nơi an toàn chắc
chắn hơn và dùng chính những thứ mà chúng ta ước mong có được để
làm cho chúng ta nên phong phú.
Thưa mẹ khả kính, sở dĩ con nói những điều đó là vì lòng những
ước mong mẹ và toàn thể gia đình coi cuộc ra đi của con như một
ân huệ đáng mừng. Xin mẹ lấy tình mẫu tử mà chúc lành cho cuộc
hành trình này của con cho đến khi đạt tới bến bờ con vẫn hằng
hy vọng. Con đã tự ý viết thư này vì không còn cách nào khác để
bày tỏ lòng kính yêu mà một người con phải có đối với mẹ mình.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Đấng ban phát mọi ơn thiêng, Chúa đã cho thánh Lu-y
Gon-da-ga vừa sống một cuộc đời trong trắng, lại vừa biết hy sinh hãm
mình. Vì công đức và lời chuyển cầu của thánh nhân, xin Chúa rủ lòng
thương nâng đỡ, để chúng con, dầu không được trong trắng như người, thì
cũng biết noi gương người mà hãm mình đền tội. Chúng con cầu xin
Thánh Luy Gonzaga
(1568-1591)
Thánh Lu-y là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia
đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.
Lu-y là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới
triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà
lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Lu-y đã được tự do tung
tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống
tâm linh Lu-y thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh
và đặc biệt kính mến Ðức Maria. Lúc 13 tuổi, cùng với người em, Lu-y theo
cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ phục dịch cho Don Diego, thái
tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao
nhiêu, Lu-y càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các
thánh.
Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các
cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Lu-y đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như
tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu của Lu-y phải
trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ
của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Lu-y đã chinh phục được tất cả
và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Lu-y, các cha giám đốc đã buộc Lu-y phải
chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác
và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Lu-y được gửi lên Milan đi
học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Lu-y tuyên khấn. Ðược vài năm sau, trận dịch hạch tấn công
Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên
cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém,
Lu-y cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn,
Lu-y đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.
Ðời sống thánh thiện của Lu-y được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này
là thánh) minh xác. Và ngài được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh
năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
Lời Bàn
Thánh Lu-y dường như không thích hợp là
quan thầy của các người trẻ trong một xã hội mà sự khổ hạnh chỉ tìm thấy
trong các đội thể thao hay võ thuật. Có thể nào một xã hội luôn dư thừa và
đầy tiện nghi lại tự ý khép mình vào kỷ luật? Ðiều đó chỉ có thể xảy ra nếu
nó tìm thấy một lý do, cũng như Thánh Lu-y trước đây. Ðộng lực để Thiên Chúa
thanh luyện chúng ta là phải cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa qua sự
cầu nguyện.
Lời Trích
“Anh em thân mến, khi cầu nguyện chúng ta
phải tỉnh thức và tha thiết với tất cả tâm hồn, sốt sắng cầu nguyện. Hãy gạt
bỏ tất cả những ý tưởng trần tục, cũng như đừng để linh hồn chúng ta lo lắng
về bất cứ điều gì ngoại trừ đối tượng của sự cầu nguyện là Thiên Chúa” (Về
Kinh Lạy Cha, Thánh Cyprian).
https://dongten.net/2019/06/20/hanh-cac-thanh-21-06-thanh-luy-gonzaga/
Lu-y Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ
Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước
đều được đặt cả vào Lu-y. Lên bốn tuổi, Lu-y đã bắt đầu cùng bố sống trong
quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao.
Ông
hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng
cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Lu-y và cậu em
Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze
để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Lu-y nhìn ra
mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những
âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc.
Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng
dẫn Lu-y theo con đường yêu thương của Ngài.
Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Lu-y mang nhiều vẻ
khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và
thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Lu-y khám phá ra rằng chỉ còn cách rút
lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở
Firenze, Lu-y được gởi tới Mantua sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu
tình cờ đọc được cuốn Tóm
lược Giáo lý của Cha Phêrô Canisiô,
trong đó có cả phần suy niệm. Lu-y liền dùng tập sách này làm đề tài cầu
nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao. Cậu ăn chay 3 ngày mỗi
tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hành ngày.
Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Lu-y gặp một cha giải tội
dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8
năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm,
Lu-y cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập
dòng Tên. Ý đã quyết, Lu-y nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.
Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển
trách Lu-y nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng
tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Lu-y một
mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi
kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để
Lu-y ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con,
ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Lu-y là “kho tàng quý báu nhất trên cõi
đời này”.
Tháng 11 năm 1585, Lu-y nhường lại ngôi thế tử
cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh
là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ,
những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một
người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc
công tử Rudolpho vui lắm”, Lu-y trả
lời:“Tôi
còn vui hơn”.
Khi vào nhà Tập, Lu-y tâm niệm rằng: “Tôi
là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong
thực tế, Lu-y nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì
cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha
giám tập, Lu-y không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng
không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Lu-y
từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu
hữu. Lu-y bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau
nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết
thời gian nhà Tập, Lu-y tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và
chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.
Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các
anh em khác, Lu-y đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Lu-y
đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và
cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần
sau khi trở về từ bệnh viện, Lu-y nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino
rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình
một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con
nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về
với Ngài.”
Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu
cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến
giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một
hôm, Lu-y đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh
ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.
Những ngày sau đó, Lu-y đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn
phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với
Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến,
ngày 21 tháng 6 năm 1591, Lu-y xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào
khoảng 11 giờ, Lu-y, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa
Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần
cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới 23 tuổi.
Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và được
Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726. Anh em Dòng
Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm. Ngài được nhiều người chọn
làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người chăm sóc các bệnh
nhân. Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho các học viên thần học.
Thánh Lu-y Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ, về sự
quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo khó, chịu
sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.
Cầu nguyện: Lạy
Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Lu-y Gonzaga, người anh em của
chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su hiền
lành và khiêm nhường. Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế tục,
nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự. Chúng con cầu xin
nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.**R
https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-luy-gonzaga-tu-si-2106.html
(có thể tài liệu trên đây được lấy từ tài liệu dưới đây, chỉ thêm vào 3
đoạn cuối cùng mà thôi, vì tài liệu dưới đây mang tên tác giả, còn tài liệu
trên không thấy tên ai viết!)
THÁNH LUY GONZAGA TUỔI TRẺ DÂNG HIẾN
Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ
Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước
đều được đặt cả vào Luy. Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống trong
quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao. Ông hầu tước
ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm
rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Luy và cậu em Rudolpho được
gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi
những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Luy nhìn ra mặt trái
của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và
sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng
ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn
Luy theo con đường yêu thương của Ngài.
Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu
vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh.
Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và
bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi tới Mantua
sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn tóm lược
giáo lý với phần suy niệm của Cha Phêrô Canisiô. Luy liền dùng tập sách này
làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao.
Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải tội
dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8
năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm,
Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập
dòng Tên. Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.
Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển
trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng
tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Luy một
mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi
kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để
Luy ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con,
ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng quý báu nhất trên cõi
đời này”.
Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng
về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha
tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên
đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói
với anh: "Chắc công tử Rudolpho vui lắm", Luy trả lời:"Tôi còn vui hơn".
Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà
Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp sống
nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà.
Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp tục việc
đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã
thực hành trước đây. Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ
tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Luy bắt đầu tập làm những việc nhỏ
nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước
đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Luy tuyên khấn lần đầu
ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương
trình thần học.
Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các
anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Luy
đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và
cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần
sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino
rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình
một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con
nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về
với Ngài.”
Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu
cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến
giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một
hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh
ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.
Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn
phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với
Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến,
ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào khoảng
11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu
chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối
cùng. Anh ra đi trong bình an khi mới 23 tuổi.
Thánh Luy Gonzaga
Tu sĩ Dòng Tên
Sinh : 09.03.1568 – tại Castiglione, Bắc Ý.
Qua đời : 21.06.1591
Lễ mừng ngày 21.6
ĐẶNG THẾ NHÂN
http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=21820
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 2
Sb 24, 17-25
"Các ngươi đã giết Dacaria giữa đền
thờ và bàn thờ".
Trích sách Sử Biên niên quyển thứ hai.
Sau khi Gioiađa qua đời, các thủ lãnh
Giuđa vào lạy vua. Vì họ dua nịnh, nên vua xiêu lòng nghe theo họ. Họ bỏ phế
đền thờ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, để tôn thờ những cây cọc thiêng và các
tượng thần. Vì tội ấy, cơn thịnh nộ Chúa giáng trên Giuđa và Giêrusalem.
Chúa sai các tiên tri đến cùng họ để họ quay về với Chúa. Các vị này tuyên
chứng, nhưng họ chẳng muốn nghe. Thần trí Thiên Chúa đổ xuống trên ông
Dacaria, con vị tư tế Gioiađa. Ông đứng trước mặt dân chúng và bảo họ rằng:
"Ðây lời Chúa là Thiên Chúa phán: Tại sao các ngươi lỗi phạm giới răn Chúa?
Ðó là điều bất lợi cho các ngươi. Các ngươi đã bỏ Chúa thì Chúa sẽ bỏ các
ngươi". Họ liền họp nhau chống lại người, và theo lệnh vua, họ ném đá người
ở hành lang đền thờ Chúa. Vua Gioas không nhớ lòng nhân từ mà Gioiađa, cha
người, đã đối xử với nhà vua, mà lại giết con của Gioiađa. Khi sắp chết,
người nói rằng: "Xin Chúa hãy nhìn xem và xét xử họ".
Hết năm ấy, quân đội Syria tiến lên
đánh vua Gioas: họ đến xứ Giuđa và thành Giêrusalem, giết hết các thủ lãnh
trong dân, và cướp lấy của cải đem về cho vua ở Ðamas. Dù số người Syria
chẳng bao nhiêu, nhưng Chúa đã trao vào tay họ dân đông vô số, vì chúng đã
bỏ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ mình. Quân Syria cũng làm sỉ nhục vua Gioas.
Khi họ bỏ vua mà đi, thì vua lâm trọng bệnh. Thần dân nổi dậy chống lại vua,
để báo thù giòng máu của con tư tế Gioiađa. Họ giết vua ngay trên giường, và
ông đã chết. Họ mai táng ông trong thành Ðavít, nhưng không chôn ông trong
mồ các vua.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 4-5.
29-30. 31-32. 33-34
Ðáp: Ðời
đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái (c. 29a).
Xướng: 1) Ta đã ký minh ước cùng người
Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời
Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế
hệ". - Ðáp.
2) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng
sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ
miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao
xanh. - Ðáp.
3) Nếu con cháu người bỏ không tuân
luật pháp, và không ăn ở theo huấn lệnh của Ta, nếu chúng vi phạm những
thánh chỉ, và không vâng giữ các chỉ thị của Ta. - Ðáp.
4) Ta sẽ dùng roi để phạt tội chúng,
và Ta sẽ đánh đòn để sửa lỗi, nhưng Ta sẽ không rút lại tình thương đối với
người, vì Ta cũng không phản bội lòng trung tín của Ta. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống
không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6,
24-34
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày
mai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và
yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không
thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy
náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy
gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không
gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi
chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy
náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con
lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào?
Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay
cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng
một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào
lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi
những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta
sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những
điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn
các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các
điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về
ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày
ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ký
Thác Sự Sống
Suy Niệm
Bài
Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm
cho Thứ
Bảy Tuần XI hôm nay là đoạn
cuối cùng của
chương 6 (24-34), đoạn Chúa Kitô huấn dụ các tông đồ về lòng tin tưởng phó thác
vào sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa bằng việc ưu tiên hóa những
gì chính yếu liên quan đến phần rỗi và sự thánh hóa của con người.
"Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay
cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác
không hơn áo mặc sao?"
Để rồi, sau khi chứng minh cho các môn đệ biết các
vị còn quí hơn loài động vật (như "chim trời") và
thực vật (như
"hoa huệ ngoài đồng") là
những loài vô tri thua kém con người, "không gieo vãi, gặt hái, thu hoạch" hay
"không lam lũ, không canh cửi", mà còn được Thiên Chúa chăm sóc cho, đến độ
Salomon sang trọng cũng "không phục sức được bằng
một trong những đoá hoa đó", Người đã
khuyên các môn đệ rằng:
"Vậy
nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc
cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy
náy lo lắng mà nói rằng: 'Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì
chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần
đến những điều đó".
Sau
cùng
Người đã kết luận: "Tiên
vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các
điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày
mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Cảm Nghiệm
Giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay về tinh thần tin tưởng
phó thác cho Đấng Quan Phòng Thần Linh, bằng một đời sống khao khát thần
linh và công chính trước nhan Ngài, bằng không, một khi lãng quên Thiên
Chúa, từ bỏ Thiên Chúa hay coi thường Thiên Chúa, Đấng là nguyên thủy và là
cùng đích của họ, con người sẽ chỉ gặp toàn là bất hạnh, bất mãn và bất an.
Điển hình là vua Gioas thuộc giòng dõi Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị đã
nghe theo "các thủ lãnh Giuđa" "xua nịnh" đến độ
"bỏ phế đền thờ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ,
để tôn thờ những cây cọc thiêng và các tượng thần". Thậm chí đã sát hại
cả tiên tri của Thiên Chúa là Giacaria đã nhắn nhở họ: "Tại sao các
ngươi lỗi phạm giới răn Chúa? Ðó là điều bất lợi cho các ngươi. Các ngươi đã
bỏ Chúa thì Chúa sẽ bỏ các ngươi", bất chấp vị tiên trị là con của tư
tế Gioiada, vị tư tế đã giúp phục hồi ngai vàng cho vị vua đã được cứu sống
khỏi bị sát hại bởi bà nội hoàng thái hậu của vua: "Họ liền họp nhau
chống lại người, và theo lệnh vua, họ ném đá người ở hành lang đền thờ
Chúa".
Tình trạng vua Giuđa là Gioas và dân Giuđa theo đó đã từ bỏ Vị Thiên Chúa
chân thật duy nhất của mình, lại còn chống lại Ngài bằng cách sát hại sứ giả
được Ngài sai đến nhắc nhở họ quay về với Ngài, cuối cùng đã phải lãnh nhận
hậu quả tất yếu của mình, chung dân chúng cũng như riêng vua Gioas, như được
Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại:
"Hết năm ấy, quân đội Syria tiến lên đánh vua Gioas: họ đến xứ Giuđa và
thành Giêrusalem, giết hết các thủ lãnh trong dân, và cướp lấy của cải đem
về cho vua ở Ðamas. Dù số người Syria chẳng bao nhiêu, nhưng Chúa đã trao
vào tay họ dân đông vô số, vì chúng đã bỏ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ mình.
Quân Syria cũng làm sỉ nhục vua Gioas. Khi họ bỏ vua mà đi, thì vua lâm
trọng bệnh. Thần dân nổi dậy chống lại vua, để báo thù giòng máu của con tư
tế Gioiađa. Họ giết vua ngay trên giường, và ông đã chết. Họ mai táng ông
trong thành Ðavít, nhưng không chôn ông trong mồ các vua".
Tuy nhiên, không phải vì thế mà Thiên Chúa quên lời hứa của Ngài với vương
tổ của vua Gioas là Đavít trong việc làm cho ngai báu của vua Đavít tồn tại
vĩnh viễn, bất chấp những yếu hèn và vấp phạm của các vị vua kế vị vua, bởi
Ngài lá Đấng bất biến, "không rút lại tình thương đối với người, vì Ta
cũng không phản bội lòng trung tín của Ta", đúng như nội dung của Bài
Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là
tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta
thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
2) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người
sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai
báu người như những ngày của cõi cao xanh.
3) Nếu con cháu người bỏ không tuân luật pháp, và không ăn ở theo huấn
lệnh của Ta, nếu chúng vi phạm những thánh chỉ, và không vâng giữ các chỉ
thị của Ta.
4) Ta sẽ dùng roi để phạt tội chúng, và Ta sẽ đánh đòn để sửa lỗi, nhưng
Ta sẽ không rút lại tình thương đối với người, vì Ta cũng không phản bội
lòng trung tín của Ta.
22/6
Thánh Phaolino Nolano Giám Mục,
Thánh Gioan Fisher Giám Mục và
Thánh Toma More Tử Đạo
Lịch Rôma hiện hành ghi danh sách ba vị thánh mừng kính ngày 22 tháng
Sáu. Chúng tôi xin trình bày ngắn gọn tích truyện các ngài ở đây, lần
lượt từng vị một.
Thánh Paulinô Nôla
Thánh Paulinô Nôla được sinh vào khoảng năm 353 tại Boócđô, nước Pháp.
Thân phụ ngài là một quan chức nhà nước và là một địa chủ giàu có.
Paulinô học hành đỗ đạt. Ngài trở thành luật sư và thi sĩ. Ngài đi du
lịch khắp các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý và ở bất kỳ nơi nào mà công việc
hoặc thú vui khoái lạc đòi hỏi. Năm 381, lúc hai mươi tám tuổi, Paulinô
Nôla trở thành quan chức miền Campania, nước Ý.
Năm ba mươi sáu tuổi, thánh Paulinô Nôla trở thành tín hữu Công giáo.
Thánh nhân và người vợ Têrêsia của ngài sinh được một cậu con trai. Sau
khi đứa con qua đời, đôi vợ chồng bố thí tài sản mình cho những người
nghèo đói. Họ chỉ giữ lại những gì cần thiết để nuôi sống bản thân.
Paulinô và Têrêsia, cả hai đều bằng lòng muốn sống một đời đơn sơ bình
dị. Hai người cùng cầu nguyện, hy sinh và làm những công việc hữu ích.
Các ngài cũng quyết định tuân giữ lời khấn trong sạch để minh chứng tình
yêu của các ngài dành cho Thiên Chúa. Cộng đoàn Kitô hữu hết sức nể
trọng Paulinô và người vợ của ngài. Họ rất hài lòng khi Paulinô trở
thành linh mục vào năm 394. Sau đó, thánh Paulinô và Têrêsia thiết lập
một cộng đoàn nhỏ dành cho các đan sĩ ở Nôla, nước Ý. Các ngài cũng mở
một nhà tế bần cho những người nghèo và các lữ khách.
Paulinô và Têrêsia quyết định ở lại Nôla. Paulinô muốn ở gần đền thánh
Phêlích Nôla, một trong các đấng thánh mà ngài yêu mến. Thánh Phêlích,
mất năm 260, đã làm linh mục và giám mục. Thánh nhân đã can đảm bảo vệ
bổn đạo của mình trong suốt cuộc khủng bố bách hại của hoàng đế Đêsiô.
Thánh giám mục Phêlích Nôla nổi tiếng về đời sống cầu nguyện, về tình
yêu đối với đàn chiên và về lối sống đơn sơ nghèo khó. Qua một thế kỷ
sau, Paulinô Nôla cầu nguyện với thánh nhân và viết sách về ngài.
Paulinô Nôla cảm thấy hết sức tin tưởng vào quyền năng của thánh
Phêlích. Vậy điều gì đã có thể làm cho cựu quan chức Rôma này trở nên
giống như thánh Phêlích? Ngoài thánh Paulinô ra, hẳn là chẳng ai trong
chúng ta có thể phỏng đoán được. Năm 409, Paulinô Nôla được chọn làm
giám mục thành Nôla. Dân chúng rất sung sướng vui mừng. Paulinô Nôla là
vị giám mục khôn ngoan, dịu dàng, hiền lành giống như thánh Phêlích
trước đây. Nhiều vị thánh sống vào thời ấy đã ca ngợi Paulinô Nôla như
thánh Ambrôsiô, thánh Augustinô, thánh Giêrônimô, thánh Martinô thành
Tua và nhiều vị khác. Dù một số tác phẩm hay của Paulinô Nôla đã bị thất
lạc nhưng hiện vẫn còn lại 32 bài thơ và 51 lá thơ.
Thánh Paulinô làm giám mục thành Nôla cho tới khi qua đời năm 431.
Thánh Paulinô Nôla đã trở nên một tín hữu Công giáo tuyệt vời như vậy
bởi vì ngài rất quý trọng ơn đức tin. Chúng ta hãy khẩn cầu cùng thánh
Paulinô Nôla và xin ngài giúp chúng ta tăng triển lòng biết ơn đối với
đức tin đã lãnh nhận.
Thánh Gioan Phítsơ
Thánh Gioan Phítsơ sinh tại Gioócsi, nước Anh vào năm 1469. Gioan học
tại trường đại học Cambrít và được làm linh mục. Cha Phítsơ cũng dạy học
tại Cambrít. Ngài là một nhà giáo ưu tú chuyên giúp các sinh viên tăng
triển và đào sâu thêm tri thức về đức tin của họ. Cha Phítsơ cũng là một
thần học gia. Cha đặc biệt giúp ích trong việc chỉ ra những nhầm lẫn tôn
giáo của thời đại mà những nhầm lẫn này đã làm cho một số người bối rối.
Năm 1504, cha Gioan Phítsơ trở thành giám mục thành Rôchétxtơ, nước Anh.
Đó là một giáo phận nghèo và giám mục Phítsơ đã lưu lại với đàn chiên
của ngài suốt ba mươi năm. Vì thế, giám mục Phítsơ kiêm một lúc hai
nhiệm vụ quan trọng. Ngài vừa là giám mục của giáo phận vừa là hiệu
trưởng của trường đại học Cambrít. Năm 1514, Phítsơ được chỉ định làm
hiệu trưởng trường đại học vì sự sống còn của nó. Giám mục Phítsơ cũng
là cha giải tội của thân mẫu vua Henri VIII. Tên của bà là Êlizabeth
Gioóc.
Giám mục Gioan Phítsơ có nhiều bạn bè, gồm cả học giả danh tiếng Êrasmô
và thánh cả Tôma Môrê. Ít người biết được thánh giám mục Gioan Phítsơ và
thánh Tôma Môrê cùng được mừng kính chung một ngày lễ trong niên lịch
kính nhớ các thánh.
Chắc chắn chưa có cuộc mừng khi đức giám mục Phítsơ bị giam tù năm 1533.
Ngài bị bắt giam tù vì đã nhất định minh chứng cuộc hôn nhân giữa nhà
vua và hoàng hậu Catarina là đúng đắn. Sau đó, vua Henri VIII ly dị
Catarina và kết hôn với Annê Bôlây trong một nghi thức dân sự. Ông yêu
cầu thần dân ký tên vào văn bản thề hứa trung thành với ông. Ông tự
phong cho mình là thủ lãnh Giáo hội Anh quốc. Giám mục Phítsơ không ký
tên. Và liền sau đó, ngài bị đem tới tháp đài Luânđôn, một chiếc tháp
thật ẩm ướt và cách đối xử ở đó rất ư khắc nghiệt. Thánh giám mục Gioan
Phítsơ tuy phải chịu đựng rất nhiều đau khổ nhưng ngài đã không phản bội
niềm tin của mình. Thậm chí dù chưa có tivi và máy thu thanh nhưng người
ta vẫn nhận biết được những việc mà giám mục Phítsơ, ngài Tôma Môrê và
những người khác, đã thực hiện. Họ xúc động và đau buồn. Ngày 12 tháng
Sáu năm 1535, đức thánh cha Phaolô III đã đặt giám mục Gioan Phítsơ làm
hồng y. Đức thánh cha hy vọng rằng việc này sẽ làm cho Henri VIII trả
lại tự do cho Phítsơ. Nhưng vua càng thêm tức giận và độc ác. Ông yêu
cầu hồng y Phítsơ phải chết. Gioan Phítsơ bị giết chết ngày 22 tháng Sáu
năm 1535.
Cùng với người bạn Tôma Môrê, hồng y Gioan Phítsơ được đức thánh cha Piô
XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1935.
Đôi lúc bạn dễ đồng tình với đám đông hơn là đứng ra bênh vực chân lý.
Khi thấy mình lâm vào tình trạng như vậy, bạn hãy cầu nguyện xin thánh
Gioan Phítsơ ban cho một chút lòng can đảm của ngài.
Thánh Tôma Môrê
Thánh Tôma Môrê là một luật sư và là một văn gia danh tiếng. Ngài sinh
tại Luânđôn vào năm 1477. Thân phụ của Tôma Môrê cũng từng là một luật
gia và là một quan tòa. Tôma hằng biết ơn cha mình vì đã hết sức yêu
thương và đã không làm ngài hư hỏng.
Người vợ thứ nhất của Tôma, bà Giên Côn, đã qua đời khi còn rất trẻ. Bà
để lại cho Tôma bốn người con nhỏ. Tôma Môrê kết hôn lần nữa với một quả
phụ, một quả phụ đơn sơ chất phác chẳng biết viết cũng chẳng biết đọc gì
cả. Người chồng đã gắng công dạy dỗ vợ mình. Tôma làm cho bầu khí gia
đình trở nên vui tươi dễ chịu bởi vì ngài có tính vui vẻ hòa nhã đối với
mọi người. Có một trẻ đọc trích đoạn Kinh Thánh suốt bữa ăn. Sau đó, cả
nhà vui đùa và nói chuyện khôi hài với nhau. Thánh Tôma Môrê cũng hay
mời những người láng giềng nghèo khó xấu số hơn tới nhà ngài dùng bữa
tối. Ngài luôn luôn giúp đỡ người nghèo theo khả năng có thể. Thánh nhân
thích tạo sự ngạc nhiên bất ngờ cho các vị khách của ngài. Thậm chí Tôma
Môrê cũng nuôi vài chú khỉ làm những con vật cưng trong nhà. Nhưng ít
người có thể hình dung ra thánh Tôma Môrê thật đã sống nội tâm sâu xa
đến độ nào. Ban đêm, ngài đã cầu nguyện hàng giờ và thực hành nhiều việc
khổ chế. Thánh nhân ý thức rõ rằng để trở nên một Kitô hữu đích thực thì
cần phải có ơn Thiên Chúa giúp đỡ.
Thánh Tôma Môrê nắm giữ những chức vụ chính trị quan trọng. Suốt ba năm,
thánh nhân làm đại chưởng ấn (ngày nay gọi là thủ tướng). Vua Henri VIII
thường khoác tay mình trên vai của Tôma Môrê cách yêu thương trìu mến.
Tuy nhiên, dù Tôma Môrê là một thần dân rất trung thành, thì đối với
Thiên Chúa, thánh nhân vẫn trung thành hơn. Thật sự là khi nhà vua cố
làm cho Tôma Môrê vi phạm lề luật của Thiên Chúa, Tôma Môrê đã không
chịu nhượng bộ. Henri VIII muốn được ly dị người vợ của ông để cưới một
người đàn bà khác. Tuy nhiên, đức thánh cha không thể ban phép vì đi
ngược lại luật Thiên Chúa dạy. Henri VIII thật bướng bỉnh và ngoan cố;
và sau cùng, ông đã rời bỏ Giáo hội. Ông muốn mọi người tôn nhận ông là
thủ lãnh của Giáo hội Anh quốc. Tôma không đồng ý chuyện đó. Ngài kiên
quyết luôn trung thành với đức tin Công giáo và với Thiên Chúa. Và Tôma
Môrê bị kết án tử vì lý do đó. Tuy vậy, Tôma Môrê đã tha thứ cho các kẻ
xét xử ngài. Thậm chí thánh nhân còn nói rằng ngài sẽ gặp lại họ trên
nước thiên đàng. Tôma Môrê thật sự có ý như vậy.
Trên đoạn đầu đài nơi ngài sắp sửa phải lìa đời, thánh Tôma Môrê đã hôn
lên mặt của người đao phủ. Sau đó, thánh nhân nói đùa rằng không nên
chém đứt bộ râu của ngài bởi vì nó chẳng làm điều gì nên tội. Thánh nhân
được phúc tử vì đạo vào hôm thứ Ba ngày mùng 6 tháng Bảy năm 1533, thọ
năm mươi bảy tuổi. Cùng với hồng y Gioan Phítsơ, Tôma Môrê được đức
thánh cha Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1935.
Vị thánh này được mọi người ngưỡng mộ vì ngài đã hết lòng tin tưởng vào
chân lý đức tin; và ngài đã sẵn lòng hy sinh mạng sống vì chân lý ấy.
Thánh Tôma Môrê đã liều mất hết mọi thứ: tài sản, địa vị, sự an toàn của
bản thân và của những người ngài thương yêu nhất. Thánh Tôma Môrê đã giữ
vững đức tin dù phải hy sinh cả mạng sống của mình. Thánh nhân thách đố
chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta sẽ làm gì nếu ở trong hoàn cảnh
giống như ngài
tinmung.net
https://ungsinhdongten.net/ngay-2206-thanh-paulino-nola-thanh-gioan-phitso-va-thanh-toma/
Thánh Gioan Fisher, Thánh Tôma More và Thánh Paulinô Nôlanô
Thánh GIOAN FISHER
Giám Mục (1469 – 1535)
Thánh
Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu
có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới
đại học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài
thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài
được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ
chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn
làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử
chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của
các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể
cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở
đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan
Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những
năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống
lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn
Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia
viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết cuốn Dialogue
concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu,
tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà
thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ
trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ
goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để nối dõi, ông tìm cách
phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của Đức Giáo hòang không
thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha Gioan Fisher. Sau khi nghiên
cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành.
Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối này là như một
hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina
là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về
con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan
Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi
phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị
xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục
Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội
vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm
1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần
trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã
không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn
Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông Thames … nhường chỗ
cho đầu bạn Ngài là Tomas More
Thánh TOMA
MORE
(1478 – 1535)
Quan thầy của
các chính trị gia
Thánh
Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình
mà chính Ngài đã nói: “Không danh giá nhưng lại lương thiện”. Lên 12
tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận
Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm
chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài
không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước
Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn
năm sống tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì.
Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh
đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu
cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được
4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More tái hôn với người khác mà
không có con. Người vợ mới hay nóng giận, nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất
cẩn thận. “Trong gia đình này không có ai làm biếng cả…”
Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt
vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ
tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ
thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia đình này. Lần
kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết thư cho vợ: “Có lẽ
chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát này hơn là về những cái
chúng ta tích lũy được”.
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- “Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một
trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta”.
Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng
tượng. Ngài cũng viết cuốn “Dialogue concerning Heresies” (Đối thoại về
các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự
chú ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng
lòng và trở nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm
phát ngôn viên của thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng
hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải
hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu
chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: – Thưa Đức ông, tất cả
có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm
nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More
Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù
ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án
Ngài nói : – Vương quốc Anh không thể bất phục tòa thánh như một người
con không thể bất phục cha mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: – Thánh Phaolô đồng loã với cái chết
của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ?
Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít
ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn
năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài,
Ngài còn khôi hài nói : – Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo : – Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá
hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói : – Nó không
phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7
năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
(355 – 431)
Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm
355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và
thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia.
Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh
án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với
Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như
của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt
đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của
gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất
đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần
nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái
chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên
Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo.
Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục
tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au,
Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây,
Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: – “Có
nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những
thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành
mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ”.
Thánh Paulinô thường nói : – Phật lòng người để được lòng Chúa quả là
một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con
người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người
tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ
khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh
Paulinô viết:
– “Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi
đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất
lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí : – “Sự nghèo khó của anh em bạn
là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng
thiếu.
Và Ngài giải thích thêm : – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên
kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước
chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa : – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy
sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành
một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến tới một đời
sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như
được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên
thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người
Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá
Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng
đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết
cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa
biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm
là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ
Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người
Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ
giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài
thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2013/06/22/thanh-gioan-fisher-thanh-toma-more-thanh-paulino-nolano.html
THÁNH PAULINO NOLANÔ, (355–431)
Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan.
Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng
rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước
pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa
của gia đình Ngài kết hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được
hưởng thêm nhiều đất đai như của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa
tội ở Bordeauz và bắt đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và
cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần
lượt bán đất đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo
quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết
của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải
phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ
giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna.
Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang
Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh
đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: – "Có
nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những thay
đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà thay
đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh Paulinô thường nói : – Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một
cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con người
dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ
Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự
kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh
Paulinô viết:
–"Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời
đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy
trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí : – "Sự nghèo khó của anh em bạn là
một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.
Và Ngài giải thích thêm : – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia
nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa : – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh
mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một
tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến tới một đời sống
tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo
vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth
gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh
Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người
bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: – Lạy
Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con
hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là
bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã
lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường
chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51
lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
https://www.hddaminhthanhlinh.net/a4591/22-06-thanh-paulino-nolano-355-431-
http://conggiao.info/thanh-paulino-nolano-355-431-d-16536