SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Bài Ðọc I: G Kn 1, 13-15; 2, 23-25
"Bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian".
Trích sách Khôn Ngoan.
Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian.
Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b
Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Chúa đã đưa linh hồn con thoát xa âm phủ; Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Ngài, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Cr 8, 7. 9. 13-15
"Sự dư thừa của anh em bù đắp lại sự thiếu thốn của những anh em nghèo khó".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, cũng như anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong việc phúc đức này.
Vì anh em biết lòng quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có. Nhưng không lẽ để cho kẻ khác được thư thái, mà anh em phải túng thiếu, nhưng phải làm sao cho đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự dư giả của anh em bù đắp lại chỗ thiếu thốn của họ, để sự dư giả của họ bù đắp lại sự thiếu thốn của anh em, hầu có sự đồng đều như lời đã chép rằng: "Kẻ được nhiều, thì cũng không dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 5, 21-43
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
{Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi 'Ai chạm đến Ta?'!" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".}
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé ăn.
Ðó là lời Chúa.
2) Các
tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Ngài, và hãy cảm tạ thánh
danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút,
nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 2, 6-10. 13-16
"Chúng sẽ dập đầu kẻ cùng khổ xuống bùn đất".
Trích sách Tiên tri Amos.
Ðây Chúa phán: "Vì ba tội ác của dân Israel, và vì bốn tội, Ta sẽ không rút lại quyết định của Ta nữa: vì chúng sẽ bán người công chính để lấy tiền, sẽ buôn kẻ nghèo khó để kiếm một đôi giầy! Chúng đã dập đầu kẻ khốn cùng nghèo khó xuống bùn đất, chặn lối người hèn hạ. Vì cả cha con chúng cùng tìm đến một cô gái để xúc phạm thánh danh Ta. Chúng nằm lên đống y phục thế nợ gần mỗi bàn thờ, chúng uống rượu của kẻ chúng đã bắt nộp phạt ngay trong ngôi chùa vị thần chúng thờ.
Ta đã tiêu diệt dân Amorrhê trước mặt chúng, dân ấy cao lớn như cây bá hương, và cường tráng như cây sồi. Ta đã tiêu diệt từ hoa trái trên cao đến tận gốc rễ dưới thấp. Chính Ta đã dẫn các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, dẫn dắt các ngươi suốt bốn mươi năm trong sa mạc, để các ngươi chiếm lấy đất Amorrhê.
Này, Ta sẽ đè nặng trên các ngươi, làm cho các ngươi rên siết như tiếng rít của một chiếc xe chở đầy cỏ bị kẹt. Người mau lẹ cũng sẽ không trốn thoát được, kẻ mạnh sức cũng không dùng được sức mình, kẻ can trường cũng không thoát chết; người mang cung nỏ cũng không đứng vững, kẻ lanh chân cũng chẳng chạy thoát, người kỵ mã cũng hết đường trốn tránh; kẻ can đảm nhất trong muôn người can đảm, trong ngày đó, cũng sẽ phải trốn thoát mình trần".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 16bc-17. 18-19. 20-21. 22-23
Ðáp: Hãy am hiểu điều đó, hỡi những người quên Thiên Chúa (c. 22a).
Xướng: 1) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.
2) Gặp tên trộm cắp, ngươi liền bén gót chạy theo, và ngươi đồng lõa với những kẻ ngoại tình. Ngươi buông miệng để tha hồ nói xấu, và lưỡi ngươi thêu dệt những chuyện gian ngoa. - Ðáp.
3) Ngươi ngồi đâu là buông lời nói xấu anh em, làm tủi nhục cho người con cùng mẹ với ngươi. Ngươi làm thế mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả . - Ðáp.
4) Hãy am hiểu điều đó, hỡi những người quên Thiên Chúa, kẻo khi Ta bắt mang đi, thì không ai giải thoát cho. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 18-22
"Con hãy theo Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Một môn đệ khác thưa Người rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã". Chúa Giêsu trả lời: "Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
"kẻ chết chôn kẻ chết"
Bài Phúc Âm cho ngày trong tuần hôm nay rất ngắn gọn, chỉ bao gồm 2 câu trả lời của Chúa Giêsu cho 2 trường hợp khác nhau. Trường hợp thứ 1 về "Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo'" , và trường hợp thứ 2 về "Một người khác là người môn đệ thưa với Người: 'Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.'"
Chúa Giêsu đã trả lời cho vị kinh sư rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu", và trả lời cho người môn đệ rằng: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ".
Trước hết, chúng ta thấy nơi 2 câu Chúa Giêsu trả lời như thế này: câu thứ nhất cho vị kinh sư hoàn toàn có tính chất khách quan, thách đố và mời gọi, để vị kinh sư này suy nghĩ xem có thể theo Người là một tôn sư homeless vô gia cư để rồi tự quyết định lấy.
Trái lại, câu trả lời thứ hai của Người (hình như) cho một trong thành phần môn đệ đã theo Người ngỏ lời xin phép Người cho về nhà lo phần an táng thân phụ của mình, có tính cách chủ quan, cương quyết và nghiêm ngặt, như thể đã theo Người thì không được coi ai hơn Người, dù là thân nhân ruột thịt của mình, và vì thế đừng lo chuyện thế gian, hãy để cho thế gian lo chuyện thế gian, "phần con, hãy theo Thày" (Gioan 21:22).
Cả 2 câu trả lời này đều phản ảnh Bài Giảng Trên Núi về các Phúc Đức Trọn Lành mà Người đã huấn dụ các môn đệ của Người. Câu trả lời thứ nhất liên quan đến mối phúc đức trọn lành "ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật, vì chưng Nước Chúa Trời là của họ" (Mathêu 5:3), và câu trả lời thứ hai liên quan đến lời huấn dụ của Người: "Trước hết hãy tìm Nước Chúa và sự cống chính của Ngài, còn tất cả mọi sự khác sẽ được ban cho sau" (Mathêu 6:33).
Tóm lại, qua hai câu trả lời này, Chúa Giêsu kêu gọi ai muốn theo Người thì phải sống trọn lành hơn, một sự sống như Người (câu trả lời 1) và với Người (câu trả lời 2), một sự sống nhờ đó mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48).
Câu Chúa Giêsu huấn dụ người môn đệ nào đó "xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã" rằng "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" không phải là một thứ huấn dụ dạy con cái bất hiếu với cha mẹ của mình, trái lại, Người muốn thăng hóa và thánh hóa tình nghĩa xác thịt, như Người đã đối xử với chính Mẹ của người sau khi Mẹ Người tìm thấy Người trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất Người (xem Luca 2:49), hay khi Mẹ Người và anh chị em họ của Người ở bên ngoài muốn gặp Người (xem Luca 8:20).
Bởi thế, phải hiểu cái "chết" trong câu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây không phải chỉ hoàn toàn về phần xác mà còn nhất là về phần hồn. Và vì thế lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây có thể hiểu là ai muốn theo Người và muốn làm môn đệ đích thực của người thì phải làm sao sống vượt lên trên thế gian, đừng chiều theo khuynh hướng chết chóc của thế gian, khuynh hướng "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), khuynh hướng thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong (xem Mathêu 7:13). Nhờ đó, họ chẳng những thoát khỏi cái chết của thế gian mà còn có thể cứu được thế gian nữa bằng thế giá thánh đức của họ trước nhan Chúa.
Cái chết được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay và kêu gọi người môn đệ nào đó của Người "hãy để kẻ chết chôn kẻ chết", là cái chết về luân lý, như được Chúa đề cập đến qua miệng Tiên Tri Amos trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Vì ba tội ác của dân Israel, và vì bốn tội, Ta sẽ không rút lại quyết định của Ta nữa: vì chúng sẽ bán người công chính để lấy tiền, sẽ buôn kẻ nghèo khó để kiếm một đôi giầy! Chúng đã dập đầu kẻ khốn cùng nghèo khó xuống bùn đất, chặn lối người hèn hạ. Vì cả cha con chúng cùng tìm đến một cô gái để xúc phạm thánh danh Ta. Chúng nằm lên đống y phục thế nợ gần mỗi bàn thờ, chúng uống rượu của kẻ chúng đã bắt nộp phạt ngay trong ngôi chùa vị thần chúng thờ".
Cái chết về luân lý này cũng được Thánh Vịnh gia nhắc tới trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Gặp tên trộm cắp, ngươi liền bén gót chạy theo, và ngươi đồng lõa với những kẻ ngoại tình. Ngươi buông miệng để tha hồ nói xấu, và lưỡi ngươi thêu dệt những chuyện gian ngoa" (câu 2)
Đó là lý do trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã khuyên một người môn đệ nào đó còn lo toan về cái chết của người thân trong gia đình này rằng: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ". Còn trong Bài Đáp Ca, qua miệng Thánh Vịnh gia, Thiên Chúa đã vừa cảnh báo vừa kêu gọi những con người sống trong chết chóc của trần gian như thế rằng: "Ngươi làm thế mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả" (cảnh giác); "Hãy am hiểu điều đó, hỡi những người quên Thiên Chúa, kẻo khi Ta bắt mang đi, thì không ai giải thoát cho. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ." (kêu gọi)
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 3, 1-8; 4, 11-12
"Chúa phán: Ai lại chẳng nói tiên tri".
Trích sách Tiên tri Amos.
Hỡi con cái Israel, hãy nghe lời Chúa phán về các ngươi, và cả dòng giống mà Ta đã đem ra khỏi đất Ai-cập: "Trong muôn dân trên mặt đất, Ta chỉ nhận biết một mình các ngươi. Vì thế, Ta sẽ đến sát hạch các ngươi về mọi gian ác của các ngươi. Hai người, nếu không đồng ý với nhau, có bao giờ lại đi chung với nhau không? Khi chưa bắt được mồi, có bao giờ sư tử gầm lên giữa rừng không? Khi sư tử con chưa bắt được gì, có bao giờ người ta nghe thấy tiếng nó không? Nếu không có gì cạm bẫy, chim có bao giờ sa lưới không? Nghe tiếng kèn thổi trong thành, có bao giờ người dân không lo sợ không? Có tai hoạ nào trong thành mà không do Chúa điều khiển không? Thực ra, Chúa là Thiên Chúa không làm điều gì mà lại không mạc khải ý định của Người cho các tiên tri tôi tớ của Người. Sư tử gầm thét, ai lại không run sợ? Chúa là Thiên Chúa phán, ai lại chẳng nói tiên tri?
"Ta đã triệt hạ các ngươi như Thiên Chúa đã triệt hạ Sôđôma và Gômôra, các ngươi đã trở thành như thanh củi cháy dở rút khỏi đống lửa, thế mà các ngươi không trở lại với Ta! - Chúa đã phán như thế. Vì vậy, hỡi Israel, Ta sẽ làm cho ngươi những điều này: nhưng sau khi Ta đã làm cho ngươi như vậy, hỡi Israel, ngươi hãy sửa soạn đón rước Thiên Chúa của ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 5, 5-6. 7. 8
Ðáp: Lạy Chúa, xin dẫn con trong đức công minh (c. 9a).
Xướng: 1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác; kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài; đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan; Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.
2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo thì Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.
3) Phần con, bởi gội nhuần sủng ái, con sẽ vào tới hoàng đài của Chúa; con sấp mình gần bên thánh điện với lòng tôn sợ Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 23-27
"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"
Ðó là lời Chúa.
Ngày 3 tháng 7
THÁNH TÔ-MA, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !
Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về các sách Tin Mừng.
Một người trong nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Chỉ có người môn đệ này vắng mặt. Khi trở về, ông nghe thuật lại sự việc đã xảy ra nhưng không chịu tin những điều đã nghe. Chúa đến lần nữa và đưa cạnh sườn cho người môn đệ không tin chạm tay vào. Người đưa tay ra và, khi cho ông thấy các thương tích của Người, Người chữa lành vết thương cứng tin của ông. Anh em thân mến, trong chuyện này, anh em chú ý đến điều gì ? Lúc đầu, người môn đệ được chọn này vắng mặt, sau đó ông về và nghe kể lại, nghe rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi đưa tay chạm, chạm rồi tin, chẳng lẽ anh em cho tất cả chuyện này là tình cờ hay sao ?
Không, không phải tình cờ đâu, nhưng Thiên Chúa an bài cho xảy ra như thế. Thật vậy, Đấng từ bi cao cả đã hành động cách lạ lùng là cho người môn đệ hoài nghi đó chữa lành vết thương cứng tin nơi chúng ta khi ông chạm tay vào thương tích trên thân thể của Thầy mình. Đàng khác, đối với đức tin của chúng ta, sự cứng tin của ông Tô-ma còn hữu ích hơn đức tin của những môn đệ khác là những người đã tin. Vì ông đã chạm tay vào Chúa và đã tin, nên tâm trí chúng ta không còn hoài nghi nữa và được một đức tin vững mạnh. Thật vậy, người môn đệ nghi ngờ và được chạm tay vào Chúa đã trở thành người làm chứng Chúa đã sống lại thật.
Ông đã được chạm tay vào Chúa và đã kêu lên : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Đức Giê-su bảo : Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Thánh tông đồ Phao-lô lại nói : Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Vì thế, chắc chắn đức tin là bằng chứng của những điều không thể thấy đó. Thật vậy, những gì đã thấy thì không cần phải tin, nhưng phải nhìn nhận. Thế tại sao khi ông Tô-ma thấy và được chạm tay vào Chúa, Chúa lại bảo ông rằng : Vì đã thấy Thầy, nên anh tin ? Nhưng điều ông thấy là một chuyện, điều ông tin lại là chuyện khác. Người phàm phải chết không thể nhìn thấy Thiên Chúa được. Thế mà ông thấy một con người và ông tuyên xưng Thiên Chúa : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con ! Nhờ đã thấy nên ông đã tin : khi nhìn xem một con người thật, ông đã gọi người ấy là Thiên Chúa, Đấng ông không thể thấy được.
Lời tiếp theo còn làm cho chúng ta vui hơn : Phúc thay những người không thấy mà tin. Chắc chắn lời này đặc biệt nhắm đến chúng ta, vì chúng ta không thấy Chúa bằng giác quan nhưng lại gắn bó với Người bằng tâm trí. Câu ấy nhắm đến chúng ta, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thể hiện đức tin bằng hành động. Vì chưng ai thực hành điều mình tin mới là người tin thật sự. Còn những ai chỉ tin ngoài môi ngoài miệng, thì thánh Phao-lô nói về họ rằng : Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Thánh Gia-cô-bê cũng nói : Đức tin không có hành động là đức tin chết.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ mừng lễ thánh Tô-ma tông đồ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.
2) Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! - Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 24-29
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Ðó là lời Chúa.
Ngài đã đến Mailapur,
một khu vực thuộc thánh phố Madras của Ấn-độ ngày nay, và đã
chết tại đó vào năm 72 sau Chúa Ki-tô với tư cách là một vị Tử
Đạo. Ngài là một trong nhóm 12 Tông Đồ, tức những môn đệ thân
tín nhất của Chúa Giê-su, đã đồng hành với Chúa Giê-su suốt ba
năm trường với tư cách là những người bạn và những môn sinh (xc.
Ga 15,15). Tên của Ngài được đặt theo tiếng Aram: ta'am
(Thomas), có nghĩa là „một cặp“ hay „người được sinh đôi“. Vì
thế, trong Kinh Thánh, Thomas cũng được gọi là Didymos, vì từ
Thomas được dịch sang tiếng Hy-lạp là δίδυμος (didymos). Theo
truyền thống Syria, Thánh Nhân cũng còn được gọi là Judas
Thomas, vì tại đó, Thomas được hiểu là tên đệm, hay tục danh.
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
Thứ Tư 27/9/2006 - Bài 19: Tông Đồ Tôma (ĐTC Biển Đức XVI)
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 5, 14-15. 21-24
"Ngươi hãy mang đi xa Ta giọng hát, lời ca của ngươi, và hãy biểu lộ sự chính trực như suối chảy mạnh".
Trích sách Tiên tri Amos.
Các ngươi hãy tìm sự lành, và đừng tìm sự dữ, để các ngươi được sống. Và như vậy, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh sẽ ở cùng các ngươi, như các ngươi đã nói. Các ngươi hãy ghét sự dữ, và yêu sự lành, hãy lập công nơi cửa thành, như vậy có lẽ Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, sẽ thương xót những kẻ còn sót lại bởi chi tộc Giuse.
Ta khinh ghét và chê bỏ những ngày lễ trọng của các ngươi. Ta không thèm ngửi mùi hương trong các kỳ hội của các ngươi. Nếu các ngươi dâng cho Ta của lễ toàn thiêu và phẩm vật, Ta sẽ không chấp nhận. Ta cũng không nhìn đến các lễ khấn tốt đẹp của các ngươi; ngươi hãy mang đi cho xa Ta giọng hát, lời ca của ngươi. Ta sẽ không nghe tiếng đàn ca của ngươi. Sự công minh sẽ biểu lộ như nước chảy, và sự chính trực như suối chảy mạnh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 7. 8-9. 10-11. 12-13. 16bc-17
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho biết ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) Hỡi dân tộc của Ta, hãy nghe Ta nói; hỡi Israel, Ta sẽ chứng tỏ lời phản đối ngươi: Ta là Thiên Chúa, Ðức Thiên Chúa của ngươi. - Ðáp.
2) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
3) Vì ta sở hữu mọi muông thú sơn lâm, và muôn ngàn súc vật ở những miền non núi. Ta biết hết thảy mọi giống chim trời, và động vật sống nơi đồng ruộng, Ta cũng rõ. - Ðáp.
4) Nếu Ta đói, Ta không phải nói với ngươi, vì Ta là chủ địa cầu và mọi cái chứa đầy trong đó. Phải chăng Ta thèm ăn thịt bò, hay là Ta thèm uống tiết dê ư? - Ðáp.
5) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia. - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8,28-34
"Ông đến lúc này để hành hạ các quỷ".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy.
Và chúng kêu lên rằng: "Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?"
Cách đó không xa có một đàn heo lớn đang ăn.
Các quỷ nài xin Người rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo".
Người bảo chúng rằng: "Cứ đi".
Chúng liền ra khỏi đi nhập vào đàn heo.
Tức thì cả đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước.
Các người chăn heo chạy trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám. Thế là cả thành kéo ra đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.
Ðó là Lời Chúa.
Mấy
chi tiết hay hay trong câu chuyện trừ quỉ lần này có một không hai của
Chúa Giêsu: trước hết là chi tiết không phải thân nhân của hai nạn nhân
xin Chúa Giêsu trừ quỉ cho họ; sau nữa là chi tiết "hai
người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người", trong
khi đó có lẽ 2 người này chưa bao giờ đã từng gặp Chúa Giêsu mà
lại nhận ra Người, chắc là nhờ đám quỉ tinh quái ám họ; sau hết là chi
tiết chính Chúa Giêsu không trực tiếp ra tay trừ bọn quỉ ấy, mà chính
bọn quỉ muốn xuất khỏi hai người bị chúng ám này, để tránh khỏi bị Người
khu trừ: "Bọn
quỷ nài xin Người rằng: 'Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi
nhập vào bầy heo kia'".
Qua câu
chuyện này chúng ta thấy ma quỉ nhận biết Chúa Kitô là ai và đến thế
gian để làm gì: "Hỡi Con Thiên
Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây
làm khổ chúng tôi sao?" Đúng như lời Thánh Gioan viết trong
Thư Thứ Nhất của ngài: "Chính là để phá hủy các công việc của ma quỉ
mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (3:8).
Công việc của
ma quỉ là gì, nếu không phải là những gì liên quan đến chết chóc, nên
hai người bị quỉ ám đã sống ở nơi "mồ mả" chết chóc, và chết chóc
lại liên quan đến xác thịt (cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - "khuynh
hướng của xác thịt thiên về sự chết" - Roma 7:6), nên bọn quỉ đã xin
nhập vào đàn heo là loài vật vốn được tiêu biểu cho xác thịt, khiến cho "tất
cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết".
Quả vậy, sau
nguyên tội, con người như bị quỉ ám, bởi bản tính của loài người đã bị
nọc độc tội lỗi và chết chóc của ma quỉ tiêm nhiễm vào, khiến họ bắt đầu
xu hướng về tội lỗi và rất dễ sa ngã phạm tội. Bởi nơi bản thân họ đã
chất chứa sẵn mầm mống tội lội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu,
những thứ mầm mống tội lỗi đóng vai trò làm nội công cho ma quỉ, như thể
con người bị ma quỉ cài đặt sẵn tần số tội lỗi nơi họ, đến độ nó chẳng
cần cám dỗ con người mà chỉ cần sử dụng bộ phận viễn khiến - remote
control từ hỏa ngục là con người cũng đủ quay cuồng mù quáng làm theo ý
muốn gian ác của chúng.
Cho dù con người có lãnh nhận Phép Rửa chăng nữa, họ chỉ được khỏi nguyên tội (nếu mới sơ sinh) và tư tội (nếu đã khôn lớn) cùng với các hình phạt kèm theo tội lỗi, nhưng bản tính của họ vẫn còn nguyên mầm mống nguyên tội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu và vẫn phải chịu hậu quả nguyên tội là đau khổ và chết chóc. Tuy nhiên, bởi Phép Rửa họ có được sự sống thần linh, một sự sống của Đấng Vượt Qua "nắm toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), nhờ đó họ có thể cùng với Chúa Kitô Phục Sinh chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi họ và của họ, thậm chí nơi cả các tội nhân nữa.
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 7, 10-17
"Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Ta".
Trích sách Tiên tri Amos.
Trong những ngày ấy, một vị tư tế ở Bêthel, là Amasia, sai người đến với Giêrôbôam, vua Israel, mà thưa rằng: "Amos đã nổi loạn chống đức vua, ngay trong nhà Israel, xứ sở không chịu nghe các lời của y". Vì đây, Amos nói rằng: "Giêrôbôam sẽ chết vì gươm, và dân Israel sẽ bị đày xa xứ sở".
Và Amasia đã nói với Amos: "Hỡi nhà tiên tri, hãy trốn sang đất Giuđa mà kiếm ăn và nói tiên tri. Ðừng ở Bêthel mà tiếp tục nói tiên tri nữa. Vì đây là nơi thánh của vua, là đền thờ của vương quốc". Nhưng Amos trả lời Amasia rằng: "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri: nhưng tôi là một mục tử, chuyên trồng cây sung. Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo đoàn vật, và Chúa bảo tôi: "Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta". Và này, hãy nghe lời Chúa phán: "Người bảo: Chớ nói tiên tri chống lại Israel, chớ chỉ trích dòng họ kẻ theo dị thần". Chính vì thế mà Chúa phán như sau: "Vợ ngươi sẽ gian dâm trong thành phố. Con trai con gái ngươi sẽ gục ngã dưới lưỡi gươm. Ruộng vườn ngươi sẽ bị phân tán. Chính ngươi, ngươi sẽ chết trên đất nhơ nhớp, và dân Israel sẽ bị đày ải xa quê hương mình".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy (c. 10b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Ðáp.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 1-8
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.
Ðó là lời Chúa.
"Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người
ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có
lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Này con, cứ yên tâm,
con đã được tha tội rồi!'"
Thật vậy, chính vì nguyên tội mà con người đã bị chết về phần hồn (xem
Khởi Nguyên 2:17), kèm theo cả cái chết về phần xác là hậu quả tất yếu
của tội lỗi nữa (xem Khởi Nguyên 3:19). Tất cả những khổ đau con người
phải chịu trên trần gian này đều là biểu hiệu của sự chết cả về tâm linh
lẫn thể xác. Chứng bại liệt nơi thân xác của con người, như nạn nhân
trong bài Phúc Âm hôm nay, chẳng những là hậu quả của nguyên tội mà còn
là biểu hiệu cho tình trạng bất lực của con người mang bản tính nhiễm
lây nguyên tội nữa.
Đó là lý do,
một khi con người được tha tội là con người được giải phóng về phần hồn,
và vì bệnh nạn tật nguyền về phần xác gây ra bởi tội lỗi mà họ cũng có
thể thoát được những chứng bệnh họ đang mắc phải, như trường hợp của
người bất toại ở bài Phúc Âm hôm nay. Cho dù được khỏi tội mà không khỏi
bệnh con người có tâm hồn trong sạch theo lòng tin tưởng vẫn có thể sống
với bệnh tật một cách an bình, thậm chí còn lợi dụng được cả bệnh tật để
làm vinh danh Chúa nữa (xem Gioan 9:3).
Có ích gì cho con người nếu thân xác được lành mạnh mà lại lạm dụng
nó để sống đời tội lỗi chứ. Nếu thà mất đi một phần thân thể mà được vào
Nước Trời còn hơn lành cả thân xác mà bị quẳng vào hỏa ngục (xem Mathêu
5:29), thì đúng như Chúa Giêsu nói với thành phần "kinh
sư nghĩ bụng rằng: 'Ông này nói phạm thượng'",
"trong hai điều: một là bảo: 'Con đã được tha tội rồi', hai là bảo:
'Đứng dậy mà đi', điều nào dễ hơn?"
Đối với Thiên
Chúa thì "con đã được tha tội rồi" thì "dễ hơn", còn đối
với loài người thiển cận và dính bén với trần thế thì "đứng dậy mà đi"
thì "dễ hơn", "dễ hơn" ở chỗ họ (nếu là nạn
nhân) được "dễ" chịu hơn, vì được khỏi bệnh, và ở chỗ họ (thành
phần khán giả hay chứng dự) "dễ" nhận hơn vì thấy được tỏ tường quyền
năng thần linh.
Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải chiều theo khuynh hướng của loài người,
hay nói đúng hơn, đã lợi dụng yếu điểm tò mò của loài người để tỏ mình
ra cho họ, nhờ đó họ có thể thấy được vị thế thần linh siêu việt của
Người, một vị thế vượt trên tất cả mọi vị tiên tri trong lịch sử của họ,
hơn cả Moisen là vị cứu tinh dân tộc của họ cũng đã thực hiện
không ít dấu lạ, một vị thế thần linh ở nơi quyền tha tội của Người, một
con người như họ và ở giữa họ:
"Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội -
bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Đứng dậy, vác giường đi về
nhà!' Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và
tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế".
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có quyền tha tội cho con người qua Con của
Ngài một cách "dễ" dàng như thế, Ngài vẫn không "dễ" dãi với Con của
Ngài, trái lại, Thiên Chúa "đã không dung tha cho Con của Ngài, một
phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), nghĩa là Ngài muốn,
hay đúng hơn, Ngài "bắt" Người Con duy nhất vô cùng dấu yêu của Ngài
phải khổ nạn và tử giá vô cùng hèn hạ và ô nhục như một hy tế đền bù tội
lỗi của nhân loại và cho nhân loại, một tội phạm đến Ngài là Đấng vô
cùng thì cũng phải có một Đấng vô cùng là Con Ngài đền thay mới cân
xứng.
Cho dù con người có chống lại Thiên Chúa và các giới răn hay huấn lệnh của Ngài, thì chỉ hại cho chính "kẻ nào dám giơ chân đạp mũi nhọn" (Tông Vụ 22:14) mà thôi, chứ Ngài và Lời Ngài tự bản chất bất diệt và chỉ nhờ đó con người mới đạt đến tầm vóc viên trọn của mình mà thôi, đúng như Bài Đáp Ca hôm nay tuyên nhận:
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong.
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 8, 4-6. 9-12
"Ta sẽ cho nạn đói trên đất này: nhưng không phải là đói cơm bánh, mà là đói lời Chúa".
Trích sách Tiên tri Amos.
Ðây Thiên Chúa phán: "Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước. Các ngươi bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng! Khi nào hết ngày Sabbath để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát".
Chúa là Thiên Chúa phán: "Ngày ấy Ta sẽ khiến mặt trời lặn ngay giữa chính ngọ, và sẽ khiến mặt đất ra tối tăm giữa ban ngày. Ta sẽ làm cho các ngày đại lễ của các ngươi trở nên ngày tang tóc, cho các bài ca trở thành lời khóc than. Ta sẽ lấy bao bố đặt trên lưng các ngươi và khiến mọi người trọc đầu. Ta sẽ làm cho ngày ấy trở thành như ngày tang mất con một, và sau cùng nó trở nên ngày cay đắng".
Thiên Chúa lại phán: "Rồi đây sẽ đến ngày Ta cho nạn đói đến trên đất này, nhưng không phải là đói cơm bánh hay khát nước đâu, nhưng là đói nghe lời Chúa. Người ta sẽ di chuyển từ biển này qua biển nọ, từ bắc đến đông: họ đi vòng quanh tìm kiếm lời Chúa, nhưng chẳng thấy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 2. 10. 20. 30. 40. 131
Ðáp: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (Mt 4, 4).
Xướng: 1) Phúc đức những ai giữ lời Ngài nghiêm huấn, những người đó tận tâm tìm kiếm Ngài. - Ðáp.
2) Với tất cả tâm can con tìm Chúa, xin chớ để con lạc xa chỉ thị Ngài. - Ðáp.
3) Sở dĩ linh hồn con mòn mỏi, là vì luôn luôn khao khát thánh dụ của Ngài. - Ðáp.
4) Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
5) Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài; theo lượng công minh Ngài, xin cho con được sống. - Ðáp.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, và con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 9-13
"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
Ðó là lời Chúa.
Thánh Antôn Zacaria Linh Mục (5/7)
Thánh Antôn Zaccaria, Linh mục,
(1502-1539)
Thánh Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại
Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ trẻ 18 tuổi không còn
biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn người con
nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên trì
hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối
với người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc
chiếm đóng của người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse
Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé
Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo mặc. Thấy vậy, người
mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được ăn mặc bình
thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy
lạp và Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại
theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó
của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều
khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ
nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các
chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào
chúng mình đến nghe thiên thần của Chúa.
Tay cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu
chuộc và việc thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng
lui tới hơn.
Năm 1528, lúc được 26 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở
Milan, thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi
các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu
"người cha dân tộc". Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn.
Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức
tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và
Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu
sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường
thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của
những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu
không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn
thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì
bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác".
Ngài dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như
vậy được nếu không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện
chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã
bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh
em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng. Họ còn tự
động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác đi
ăn xin cho người nghèo.
Thấy vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn
cổ động lòng sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người
ta chỉ rước lễ một hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người
coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng
và cảm nghiệm điều Ngài thường nói : - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa
đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
Năm 1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức
giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em
các thiên thần".
Năm 1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ
đầu để đi truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh
chấp. Công việc thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh
nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
Tuy nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn
sinh, Ngài lui về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn
nói :- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng
với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con đang tiến vào.
Ba giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1539, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria
Giacaria thở hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
*
Ngày 05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA Linh mục (1502 - 1539)
Khi Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một
phong trào canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của
phong trào có Thánh Antôn Zaccaria
Thuộc dòng dõi quý tộc, cha của Antôn Zaccaria mất sớm khi ngài mới hai
tuổi, và mẹ ngài, người goá phụ 18 tuổi, ở vậy nuôi con. Bà tận tụy dạy
dỗ đạo lý cho con ngay từ nhỏ. Khi 22 tuổi, Antôn lấy bằng tiến sĩ y
khoa và làm việc ở Cremona, giúp đỡ người nghèo và siêng năng hoạt động
tông đồ. Ngoài phần xác của con bệnh, ngài còn lo lắng đến phần hồn của
họ, ngài là một giáo lý viên và được thụ phong linh mục lúc 26 tuổi.
Ðược sai đến Milan trong một vài năm, Cha Antôn Zaccaria thành lập hai
tu hội, một cho nam giới và một cho nữ giới. Mục đích của tu hội là canh
tân xã hội đang sa sút vào thời ấy, bắt đầu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ.
Vì rất cảm kích Thánh Phaolô, Cha Antôn Zaccaria đặt tên cho tu hội là
Bácnabê -- tên bạn đồng hành của Thánh Phaolô -- và ngài hăng say rao
giảng ở trong nhà thờ cũng như ngoài đường phố, tổ chức các nhóm truyền
giáo và không xấu hổ khi công khai ăn năn sám hối. Ngài còn khuyến khích
những hình thức sinh hoạt mới mẻ, như giáo dân cộng tác trong công việc
tông đồ, siêng năng rước lễ, chầu Thánh Thể và rung chuông nhà thờ vào 3
giờ chiều thứ Sáu hàng tuần.
Sự thánh thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống,
và như tất cả các vị thánh khác, ngài cũng bị nhiều người chống đối. Hai
lần, tu hội của ngài phải chịu sự điều tra của các giới chức trong Giáo
Hội, và cả hai lần đều được miễn trừ.
Ðang khi trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về
thăm người mẹ. Ngài từ trần ở Cremona khi mới 36 tuổi.
Lời Bàn
Sự hăng say canh tân của Thánh Antôn Zaccaria có lẽ khiến nhiều người
ngày nay "thất vọng". Vào thời điểm mà nhiều người trong Giáo Hội lẫn
lộn giữa thế quyền và thần quyền, thì lời rao giảng, lối sống của Thánh
Antôn không khác gì một cản trở cần diệt trừ. Nhưng lối sống ấy đích
thực là linh đạo của Ðức Kitô, một Ðấng bị đau khổ, bị đóng đinh. Chúng
ta cũng không thể "cao trọng hơn Thầy", và con đường thập giá luôn luôn
là con đường dẫn đến vinh quang.
Trích từ NguoiTinHuu.com
http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=50627
1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Là Đấng sáng lập dòng Banabê (theo tên nơi trụ sở dòng mẹ là tu viện Thánh Banabê ở Milan), Thánh Antôn Giacaria được kính nhớ theo ngày qua đời năm 1539 ở Crémone lúc 37 tuổi. Được phong thánh năm 1897.
Sinh năm 1502, tại Crémone nước Ý. Antôn được mẹ giáo dục theo tinh thần đạo hạnh. Chồng chết lúc bà mới mười tám tuổi, bà từ chối tái hôn để được toàn tâm toàn ý lo cho đứa con duy nhất là Antôn. Tuy còn nhỏ tuổi, Antôn đã khấn giữ khiết trinh trọn đời; sau khi tuyên thệ và từ chối không nhận tài sản cha để lại, Antôn theo học triết lý ở Pavie và ngành y tại Padone. Năm 1524, Antôn trở lại Crémone, dấn thân phục vụ các bệnh nhân. Cảm thấy được Ơn Gọi làm linh mục, Antôn chuẩn bị bước lên đời tư tế, dưới sự hướng dẫn của hai tu sĩ dòng Đaminh. Hai mươi sáu tuổi, năm 1528, Antôn thụ phong linh mục. Năm 1530, ngài tới định cư ở Milan. Tại đây, cùng với hai thành viên Hội Đấng Khôn Ngoan Vĩnh Cửu, ngài thành lập Hội dòng các Giáo sĩ Thánh Phaolô. Hội dòng có mục đích cải tạo hàng giáo sĩ cũng như giáo dân và đã được Đức Giáo Hoàng Clementê VII chuẩn thuận năm 1533.
Thánh Antôn Giacaria có thể được xem là người đi trước Thánh Carôlô trong cuộc phục hưng công giáo: khi Thánh Carôlô tới Milan, năm 1569, đã thấy các tu sĩ Banabê hoạt động ở đó từ nhiều năm trước.
2. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện của ngày phác thảo diện mạo Thánh Antôn, người sống đồng thời với thời kỳ Luther nổi lên chống đối Roma (1520 – 1524). Lời nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được sự hiểu biết khôn vời của Đức Kitô như đã ban cho Thánh Phaolô xưa và đã giúp Thánh Antôn Giacaria loan báo Lời Cứu Rỗi cho Hội Thánh.
Thánh Antôn đã thụ huấn tại trường học của Thánh Phaolô để “sống tình yêu Đức Kitô vượt mọi sự hiểu biết” (Ep 3, 19). Bởi thế, Người đã muốn là thầy thuốc chữa bệnh tâm hồn hơn thầy thuốc chữa bệnh phần xác. Nhiệt tình bác ái của thánh nhân biểu lộ qua việc chuyên cần giảng dạy giáo lý và công tác giáo dục; Ngài loan báo Lời Cứu Rỗi ngoài đường phố, trên các quảng trường, lôi kéo nhiều người trở lại, chấn chỉnh các tu viện, như ở Vicence và đem nhiều thành phố làm hòa lại với nhau.
Bài giảng cho các tu sĩ Banabê (Phụng vụ bài đọc) là một trong những bản văn quý hiếm của ngài còn giữ được (mười hai bức thư, sáu bài diễn văn và bản Hiến Pháp). Thánh Antôn Maria mô tả những công hiệu của cái khoa học làm ta “trở nên điên dại vì Đức Kitô” theo như giáo huấn của Thánh Tông Đồ mà thánh nhân gọi là “Đấng hướng dẫn và bảo vệ chúng ta”. Nhà cải cách không muốn thành lập một dòng tu gồm các tu sĩ hoặc tu huynh, nhưng muốn gồm những tông đồ được gọi vào sứ vụ phục vụ Lời và các bí tích, bởi ý đồ của người là muốn chống lại lạc giáo của Luther. Thánh nhân đã can đảm chịu đựng những hiểu lầm và bách hại gây nên cho mình trước khi được phục hồi sau hai phiên tòa mở ra để chống đối Ngài (1534 – 1537), do những người từng đồng hành trong các buổi đầu của viện do người thành lập. Thành viên của viện thời đầu được gọi là tu huynh Phaolô, về sau gọi là các tu sĩ Banabê; hội dòng đã được thành lập, dưới sự bảo trợ của Thánh Phaolô Tông Đồ, xem Người như Đấng hướng dẫn. Thánh Antôn Maria viết: “Dưới sự lãnh đạo của một thủ lãnh như thế, chúng ta không có quyền nhát đảm hay chạy trốn, cũng không được là những đứa con thoái hóa của một người cha như thế”. Từ hội dòng này có hai vị thánh: Thánh Phanxicô Xavie Bianchi và Thánh Alexandre Sauli, một trong những giám mục nổi tiếng nhất của cuộc cải cách do Công Đồng Tridentê khởi xướng.
Enzo Lodi
https://www.tonggiaophanhanoi.org/ngay-5-7-thanh-anton-maria-zacaria-linh-muc-1502-1539/
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 9, 11-15
"Ta sẽ đem dân Ta bị lưu đày trở về, và sẽ trồng họ trên đất của họ".
Trích sách Tiên tri Amos.
Ðây Chúa phán: "Trong ngày ấy, Ta sẽ dựng lại nhà xếp của Ðavít đã xiêu đổ, Ta sẽ lấp những lỗ hổng nơi tường, trùng tu lại những gì đổ nát. Ta sẽ xây dựng lại như ngày xưa, để chúng chiếm hữu những gì còn sót của Êđom và tất cả các dân tộc, vì chúng đã xưng tụng danh Ta".
Chúa hoàn thành những việc Chúa đã phán như thế. Và Chúa còn phán: "Ðây đã đến những ngày mà người cày ruộng tiếp nối người thợ gặt, kẻ ép nho tiếp nối người gieo giống. Từ các núi non, rượu nho mới sẽ chảy tuôn tràn, và từ các đồi, rượu sẽ vọt ra lai láng. Ta sẽ đem Israel dân Ta bị lưu đày trở về. Họ sẽ xây lại các thành phố bị bỏ hoang và cư ngụ tại đó. Họ sẽ trồng nho và sẽ uống rượu nho. Họ sẽ lập vườn, và sẽ ăn quả sinh ra ở nơi ấy. Ta sẽ trồng họ trên đất của họ, và không khi nào họ bị nhổ ra khỏi đất Ta đã ban cho họ. Chúa là Thiên Chúa của ngươi phán như thế".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9. 11-12. 13-14
Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc của Người (c. 9).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau; đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lối bước của Người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 14-17
"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, [Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô,] các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
Ðó là lời Chúa.
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau; đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lối bước của Người.
Thánh Maria Goretti đồng trinh tử đạo
ngày 6/7
Thánh Maria Goretti, đồng trinh tử đạo