SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa
Chúa Nhật
Bài Ðọc I: Gr 31, 7-9
"Ta sẽ lấy lòng từ bi dẫn dắt kẻ đui mù và què quặt".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca hát rằng: "Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel".
Ðây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây.
Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng." Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 5, 1-6
"Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất cả các vị thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron.
Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 10, 46-52
"Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi".
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
Ðó là lời Chúa.
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B hôm nay vẫn tiếp tục chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh và từ Mùa Phục Sinh, một sự sống theo ý nghĩa ánh sáng: "ánh sáng sự sống - the light of life" (Gioan 8:12).
Thật vậy, nếu chết là hiện tượng hay sự kiện linh hồn lìa khỏi thể xác, tức là tình trạng con người hoàn toàn và vĩnh viễn không còn biết gì nữa, thì sống thực sự là tình trạng con người còn nhận biết hay có nhận thức, có ý thức. Đó là lý do "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha đã sai là Đức Giêsu Kitô" (Gioan 17:3).
Nếu "nhận biết" Thiên Chúa hay nhận biết tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa là tác động siêu nhiên, để được sự sống đời đời như thế thì "nhận biết" cũng chính là tác động "tin": "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16).
Mà muốn cho loài người thuộc hạ giới "nhận biết" và "tin" những gì thuộc thượng giới, những gì thuộc về "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), những gì được gọi là mạc khải thần linh vô cùng huyền nhiệm và siêu việt, vượt trên tâm trí chẳng những hạn hẹp và thấp hèn mà còn đầy mù quáng và thiên lệch của con người, nhờ đó họ được sự sống đời đời, được thông phần sự sống thần linh với mình, Thiên Chúa không thể nào không tỏ mình ra cho họ, như "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), nhất là "vào lúc thời gian viên trọn" (Galata 4:4), qua "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).
Việc Chúa Giêsu chữa lành cho "một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường" trong bài Phúc Âm hôm nay là biểu hiệu cho mạc khải thần linh, như "ánh sáng (là Chúa Kitô) chiếu trong tăm tối (là người mù)". Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu chữa lành cho người "con ông Timê tên là Bartimê" này không phải chỉ để cho anh ta lành mạnh về thể lý nơi thị lực của anh ta mà là để anh ta được sự sống đời đời, nhờ việc anh ta "nhận biết" Người, "tin" vào Người: "đức tin của anh đã chữa anh", và chính nhờ anh ta đã "thấy được" mọi sự, nhất là thấy được Chúa Giêsu là "ánh sáng thế gian" mà anh ta đã "đi theo Người", vì "ai theo Tôi sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12).
Thật ra, trước khi được Chúa Giêsu chữa lành cho cặp mắt chỉ thấy toàn tối tăm của mình, nạn nhân mù ngồi ăn xin bên vệ đường ở Giêricô này đã thấy được những gì mà đôi mắt bất hạnh của anh ta, dù có sáng tỏ như một người bình thường, cũng không thể nào thấy được, đó là anh ta thấy được một Đấng vô hình mà anh hằng tin tưởng đợi chờ. Bởi thế chẳng lạ gì, như Phúc Âm hôm nay chứng thực: "Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: 'Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi'".
Vì là Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), Chúa Giêsu làm sao không dừng lại khi nghe thấy nạn nhân bất hạnh này kêu van và kêu vang thảm thiết như thế, nhất là khi thấy "nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: 'Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi'". Thế nên, Phúc Âm đã thuật lại rằng: "Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến".
Có thể là Chúa Giêsu đã đi ngang qua chỗ người mù ngồi ăn xin này, vì Phúc Âm vừa thuật lại rằng "Chúa Giêsu dừng lại ...", và Người hình như cũng đã cố ý không lưu ý gì đến nạn nhân đáng thương đầy lòng tin này, để nhờ đó có thể chẳng những tỏ mình ra cho riêng anh ta bằng việc chữa lành cho anh ta, mà còn chữa lành cho chung đám đông dân chúng và riêng các môn đệ của Người đang đi theo Người, khi họ thấy được đức tin mãnh liệt của anh ta nơi Người, ở chỗ "càng kêu to hơn" và ở chỗ "liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu".
Cử chỉ bao gồm 3 tác động "liệng áo choàng (như từ bỏ quá khứ), đứng dậy (như hướng đến tương lai), đến cùng Chúa Giêsu (như cùng đích cuộc đời)" một cách cương quyết và dứt khoát này, chứng tỏ nạn nhân mù ấy đã tin chắc rằng mình sẽ được toại nguyện như lòng mong ước, như anh ta đã chân thành và tha thiết thưa cùng Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc hội ngộ tuyệt vời giữa ánh
sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và người mù ăn xin bên vệ đường. Ở chỗ,
người mù ăn xin này vốn mong được gặp Chúa Giêsu, và chính Chúa Giêsu cũng
muốn gặp chàng ta nữa: "Người gọi anh đó", thậm chí Người còn muốn
gặp chàng trước khi chàng muốn gặp Người và Người muốn gặp chàng hơn là
chàng muốn gặp Người, vì Người bao giờ cũng cứu độ,
cũng muốn chữa
lành, cho dù vào Ngày
Hưu Lễ. Bởi thế, hai ước muốn gặp nhau này đã thực sự xẩy ra hết sức
tuyệt vời như vậy!
Trước một con người vừa mù lòa về thể xác vừa tin tưởng về tâm linh như thế, tấm lòng vô cùng nhân hậu của Chúa Giêsu làm sao không bị đánh động, vì, như Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy, Người "là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê", một vị thượng tế "hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc". Ở chỗ, như Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như ám chỉ về Người: "Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa nhận thức của thành phần dân Do Thái lưu đầy trở về đối với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, Đấng không bao giờ bỏ họ, luôn ra tay cứu độ họ, một khi họ biết ăn năn thống hối chịu đựng khổ ải gây ra do tội lỗi của họ phản bội Ngài, Đấng chỉ đánh động họ bằng những gian nan khốn khó bất hạnh cho đến khi họ nhận thức mà được cứu độ, được sự sống thần linh là chính lòng họ tin tưởng vào Ngài:
1) Khi Chúa đem
những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy
giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng." Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Thứ Hai
Ngày 28 tháng 10
THÁNH SI-MON VÀ THÁNH GIU-ĐA, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Tông đồ Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rô-ma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ.
Còn thánh Giu-đa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối : “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian ?” Và ông đã nhận được lời Chúa hứa : “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”
Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em đã được xây dựng trên nền tảng các tông đồ và các tiên tri".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và là khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng của các Tông đồ và Tiên tri, và chính Ðức Kitô làm đá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyện tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng con tuyên xưng Chúa là Chúa tể; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang các tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 12-19
"Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Ðó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Ðó là lời Chúa.
ĐTC Biển Đức XVI chia sẻ về 2 Thánh Tông Đồ Simon và Giuđa Thaddeo Thứ Tư 11/10/2006 trong Bài 21 trong loạt 138 bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay chúng ta chú ý tới hai trong 12 Tông Đồ, đó là Tông Đồ Simon người Canaan và Giuđa được gọi là Thaddêô (đừng nhầm với Giuđa Iscariot). Chúng ta chú ý tới hai vị cùng một lúc, không phải vì trong danh sách 12 Tông Đồ hai vị bao giờ cũng được nhắc đến bên nhau (x Mt 10:4; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts 1:13), mà vì không có nhiều chi tiết về hai vị, ngoại trừ Sổ Bộ Tân Ước có một bức thư được cho là của Tông Đồ Giuđa Thaddêô.
Tông Đồ Simon được ghép với một hình dung từ khác nhau trong 4 bản liệt kê: trong khi Thánh Ký Mathêu và Marcô diễn tả ngài như là “người xứ Canaan” thì Thánh Ký Luca diễn tả ngài như là “người nhiệt thành”. Thật sự, hai phẩm chất này là những gì tương đương nhau, vì chúng có cùng một nghĩa: đúng vậy, theo tiếng Do Thái thì động từ “qanà” có nghĩa là “nhiệt thành, hăng say”, và có thể được sử dụng để nói về Thiên Chúa liên quan tới nỗi hờn ghen đối với thành phần dân được Ngài tuyển chọn (x Ex 20:5), hay về thành phần bừng lên lòng nhiệt thành hoàn toàn dấn thân phụng sự Thiên Chúa như Elia (x 1Kgs 19:10).
Bởi thế, có thể Tông Đồ Simon này, nếu không thực sự thuộc về phong trào duy quốc gia chủ nghĩa của Nhóm Zealots, thì ít là có đặc tính của một lòng nhiệt thành đối với căn tính của người Do Thái, vì thế đối với Thiên Chúa, với dân tộc của mình và với lề luật thần linh. Nếu đúng là thế thì Tông Đồ Simon này hoàn toàn khác hẳn với Tông Đồ Mathêu, vị ngược lại, vì là một người thu thuế, xuất thân từ một hoạt động hoàn toàn được coi là dơ bẩn. Đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Người cũng như thành phần phụ giúp của Người từ những tầng lớp xã hội và tôn giáo khác nhau, không hề phân cách.
Người chú trọng tới con người, chứ không lưu ý tới thứ loại hay qui ước xã hội! Và điều tuyệt vời ở đây là trong các nhóm môn đệ của mình, mặc dù khác nhau, từ thành phần nhiệt thành đến thành phần thu thuế, đều chung sống với nhau, thắng vượt những khó khăn có thể được đặt ra: thật thế, chính Chúa Giêsu là động lực cho việc liên kết này, nơi Người, tất cả đều thấy mình được kết nối. Và điều ấy rõ ràng cống hiến cho chúng ta một bài học, thành phần thường chú trọng tới những gì là khác biệt nhau và có thể là những gì chống đối nhau, quên đi rằng nơi Chúa Giêsu Kitô chúng ta có được một sức mạnh để hòa giải các thứ xung khắc của chúng ta. Và chúng ta hãy nhớ rằng nhóm 12 là một hình ảnh tiền thân của Giáo Hội và vì thế cho thấy trước Giáo Hội cần phải có chỗ cho tất cả mọi đặc sủng, mọi dân nước, mọi chủng tộc, tất cả mọi phẩm chất làm người, tất cả những gì có thể được hòa hợp và hiệp nhất nơi mối hiệp thông với Chúa Giêsu.
Về Tông Đồ Giuđa Thaddêô, vị được gọi như thế bởi truyền thống, liên kết hai tên gọi khác nhau: trong khi Thánh Ký Mathêu và Marcô chỉ gọi ngài là “Thaddêô” (Mt 10:3; Mk 3:18), thì Thánh Ký Luca lại gọi ngài là “Giuđa con Giacôbê” (Lk 6:16; Acts 1:13). Biệt danh Thaddêô có một nguồn gốc không rõ ràng và được giải thích như xuất phát từ tiếng Aramaic “taddà”, nghĩa là “ngực” bởi thế có nghĩa là “hào hiệp cao thượng”, hay như tiếng viết tắt của một tên gọi Hy Lạp như “Theodore, Teodoto”. Ngài là vị ít được nói đến.
Chỉ có Thánh Ký Gioan ghi nhận một điều yêu cầu ngài đã tỏ ra cùng Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: Thaddêô nói cùng Chúa Giêsu rằng “Lạy Thày, tại sao Thày chỉ tỏ mình cho chúng con mà thôi và không tỏ ra cho thế gian?” Đó là một vấn nạn có một tầm quan trọng lớn lao hiện tại, một vấn đề chúng ta cũng hỏi Chúa Giêsu rằng: Tại sao Đấng Phục Sinh không tỏ hết vinh quang của mình ra cho các thành phần đối phương để chứng tỏ cho họ thấy rằng Người là người vinh thắng? Tại sao Thiên Chúa lại chỉ tỏ mình ra cho thành phần môn đệ mà thôi? Câu trả lời của Chúa Giêsu là một câu giải đáp huyền nhiệm và có ý nghĩa sâu xa.
Chúa Giêsu nói rằng: “Nếu ai yêu mến Thày thì sẽ giữ lời Thày, và Cha Thày sẽ yêu thương họ, rồi Chúng Ta sẽ đến với họ, biến họ làm nơi cư trú của Chúng Ta” (Jn 14:22-23). Tức là Đấng Phục Sinh cũng cần phải được nhìn thấy, được nhận thấy, bằng con tim, nhờ đó Thiên Chúa có thể cư trú nơi họ. Chúa Giêsu không hiện ra như là một thứ đồ vật. Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời của chúng ta, vì vậy, việc Người tỏ mình ra là một thứ tỏ mình bao hàm và cần có một con tim cởi mở đón nhận. Chỉ có thế chúng ta mới thấy được Đấng Phục Sinh.
Xưa kia Tông Đồ Giuđa Thaddêô được cho là tác giả của một trong những bức thư Tân Ước được gọi là “công giáo” vì những bức thư này ngỏ cùng một số rất đông thành phần độc giả. Thật vậy, bức thư này được ngỏ cùng “thành phần được tuyển chọn đang sống trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha và được Chúa Giêsu Kitô gìn giữ bảo trì” (câu 1).
Mối quan tâm chính yếu của bản văn này đó là việc Kitô hữu phải coi chừng tất cả những ai lấy ân sủng của Chúa như tấm bình phong che đậy cái phóng túng bừa bãi của họ và lừa đảo anh em mình bằng những giáo thuyết bất khả chấp, gây chia rẽ trong Giáo Hội “bởi ảnh hưởng từ các thứ mơ tưởng của họ” (câu 8). Bởi vậy mà Tông Đồ Giuđa này so sánh họ với thành phần sa đọavà bằng những lời lẽ mạnh mẽ ngài nói rằng “họ theo đường lối của Cain” (câu 11).
Ngoài ra, ngài không ngần ngại gán ghép cho họ “như là những đám mây không mưa bị nổi trôi bởi gió cuốn hay những thứ cây cối cuối mùa chẳng sinh hoa kết trái, bị cằn chết, bị mất gốc; như những ngọn sóng hung dữ trên biển cả phun bọt bẩn thỉu; như những thứ tinh tú hoang đàng, đáng là đám sương mù tăm tối trong cõi vĩnh hằng” (các câu 12-13).
Ngày nay chúng ta không còn quen với việc sử dụng thứ ngôn từ gây tranh cãi này, thứ ngôn từ dầu sao cũng nói cho chúng ta một điều gì đó quan trọng: Đó là trong tất cả mọi chước cám dỗ hiện hữu, trước tất cả mọi trào lưu của cuộc sống tân tiến, chúng ta cần phải kiên trì gìn giữ lấy căn tính đức tin của mình. Dĩ nhiên đường lối ân huệ và đối thoại được Công Đồng Chung Vaticanô II đã thực hiện một cách khéo léo, chắc chắn sẽ được nhất mực tiếp tục thực hiện. Thế nhưng, đường lối đối thoại này, một đường lối rất ư là cần thiết, vẫn không được làm cho chúng ta quên đi nhiệm vụ cần phải cân nhắc và luôn làm chứng một cách mạnh mẽ những chiều hướng chi phối thuộc căn tính Kitô Giáo của chúng ta là những gì chúng ta không được loại bỏ.
Cần phải gìn giữ thật hiện đại cái căn tính ấy, cái căn tính chúng ta có không phải là trò đùa ở một bình diện thuần văn hóa hay ở một mức độ hời hợt, song nó cần phải là những mạnh mẽ, minh bạch và can đảm trước những xung khắc nơi thế giới chúng ta đang sống.
Đó là lý do bản văn của bức thư ấy mới tiếp tục viết như thế này: “Thế nhưng, anh chị em thân mến, hãy xây dựng bản thân mình trên đức tin rất thánh của anh chị em, hãy nguyện cầu trong Chúa Thánh Thần, hãy giữ mình trong tình yêu Thiên Chúa, hãy đợi chờ tình thương của Chúa Giêsu Kitô là Chúa của chúng ta nơi cuộc sống trường sinh; hãy tin tưởng, những ai trong anh chị em đang bị chao đảo…” (câu 2-22).
Chúng ta thấy rõ là vị tác giả của những giòng chữ này sống trọn vẹn niềm tin của ngài, một niềm tin hàm chứa các thực tại cao cả như tính cách liêm chính và niềm vui về luân lý, lòng tin tưởng và sau hết là việc chúc tụng, tất cả đều được tác động bởi duy sự thiện hảo của vị Thiên Chúa duy nhất của chúng ta và bởi tình thương của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Bởi thế, chớ gì cả Tông Đồ Simon người Canaan và Tông Đồ Giuđa Thaddêô giúp chúng ta biết tái nhận thức một cách mới mẻ và sống một cách thiết tha với vẻ đẹp của đức tin Kitô Giáo, biết thực hiện một chứng từ vừa mạnh mẽ vừa thanh thản.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ
biến ngày 11/10/2006
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời các thánh Tông Đồ rao giảng mà cho chúng con được nhận biết danh Chúa, xin nhậm lời hai thánh tông đồ Si-mon và Giu-đa cầu nguyện, mà cho Hội Thánh được phát triển không ngừng khắp nơi trên thế giới. Chúng con cầu xin
Thứ Hai
(Nếu không bị trùng và bị át bởi Lễ Kính 2 vị Thánh Tông Đồ hôm nay)
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 4, 32 - 5, 8
"Anh em hãy sống trong tình thương như Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô.
Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.
Còn như tội tà dâm và mọi thứ tội ô uế hay là gian tham, thì dù nhắc đến tên chúng cũng đừng nói tới nơi anh em, như thế mới xứng hợp với các thánh. Cả những chuyện hoa tình, tục tĩu và giễu cợt, tất cả những cái đó đều bất xứng. Tốt hơn là hãy nói những lời cảm tạ Chúa.
Bởi chưng anh em hãy biết rõ điều này là: tất cả những kẻ tà dâm, ô uế hay tham lam, là một thứ nô lệ thần tượng, đều không được hưởng phần gia nghiệp trong nước của Ðức Kitô và Thiên Chúa. Ðừng để ai lấy hão huyền mà phỉnh gạt anh em, vì những điều ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ xuống trên những con cái ngỗ nghịch. Vậy anh em chớ thông đồng với những kẻ ấy. Xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng hiện nay anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người (c. Ep 5, 1).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng. Nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 10-17
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?"
Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Chữa lành hơn là trừ quỉ
Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXX Thường Niên, bài Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người đàn bà khòm lưng 18 năm trường ở trong hội đường vào một ngày hưu lễ.
"Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".
Sở dĩ người đàn bà này bị khòm lưng 18 năm như vậy không phải là vì bà bị dị tật bẩm sinh ngay từ khi mới sinh, hay vì một chứng bệnh quái lạ nào khác, hoặc vì bị tai nạn vào một lúc nào đó trong đời của bà, mà là vì "bà bị quỷ ám". Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định hiện tượng này trong câu Người cảnh giác "viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat" và "tất cả những kẻ chống đối Người": "Người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?".
Trong biến cố chữa lành này, Chúa Giêsu đã tự động ra tay chứ không cần phải chờ cho tới khi nữ nạn nhân khòm lưng 18 năm đáng thương này kêu xin Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".
Chắc đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu gặp nữ nạn nhân đáng thương này và bà cũng bắt gặp Người lần đầu tiên, trong một hội đường, nơi có thể bà hằng tuần đến nghe lời Chúa, và cũng là nơi có thể Chúa Giêsu mới tới lần đầu. Không biết bà đã nghe ai nói về Người hay chưa, về các phép lạ Người làm, mà bà khi nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy khôn ngoan hơn các luật sĩ và biệt phái như thế mà cũng vô cảm, như không biết Người là ai, trong khi đó người mù ngồi ăn xin ở vệ đường ở thành Giêricô, như trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B cho thấy, đã nhào đến van xin Người chữa lành đôi mắt của anh ta cho bằng được.
Có thể bà cần phải nhìn thấy dung nhan vô cùng hiền hậu và ánh mắt chinh phục của Người nữa bà mới có thể nhận biết Người là ai và như thế nào, trong khi đó, như Phúc Âm thuật lại, "bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được". Ở đây, chúng ta thấy hai hình ảnh rất sâu xa:
Trước hết, vì con người "không thể trông lên được", không biết Chúa là ai, mà Thiên Chúa cần phải đến với con người trước, cần phải đoái trông đến con người, để chính Ngài làm cho họ có thể như nữ nạn nhân khòm lưng "đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa", nghĩa là có thể ngước trông lên Ngài, có thể nhận biết Ngài, có thể theo Ngài, có thể làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.
Sau nữa, hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, do ma quỉ là "tên sát nhân ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho dù họ có được thánh tẩy bởi Phép Rửa, cũng vẫn đầy những mầm mống tội lỗi và đam mê nết xấu, liên lỉ xu hướng về tội lỗi ("khòm lưng" luôn chúi đầu và chúi mặt xuống đất), có thể vấp ngã bất cứ lúc nào (người khòm lưng, chứ không phải gù lưng, rất dễ ngã xuống đất, nếu nhỡ có một ai đó đụng vào sau lưng, như thể bị ma quỉ cám dỗ xúi bậy).
Tại sao trong trường hợp này Chúa Giêsu không trừ quỉ cho người đàn bà khòm lưng 18 năm này, mà lại chữa lành cho bà thôi, không như trường hợp Người đã trừ quỉ cho một người bị câm do quỉ ám (xem Mathêu 9:32-33)? Thật ra, chữa lành cho nữ nạn nhân cho khỏi bị khòm lưng này cũng là cách gián tiếp trừ quỉ, là cách "tháo xiềng xích" mà satan đã "cột trói" bà, bởi vì nếu quỉ không bị Người khu trừ khỏi bà thì bà vẫn còn bị khòm lưng như thường.
Trường hợp không trừ quỉ mà chỉ chữa lành này cũng tương tự như trường hợp Người đã chữa lành cho một người bất toại là để chứng tỏ Người có quyền tha tội của Người, một quyền hành Người thực sự có mà nếu Người quả thực không tha được tội cho người bất toại là nguyên nhân gây ra hậu quả tật nguyền của người này, thì Người cũng không chữa lành cho nạn nhân bất toại ấy được (xem Mathêu 9:1-8).
Hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, như trên đã cảm nhận, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, nên luôn sống theo xác thịt, luôn hướng hạ ("khòm lưng" - một tật nguyền khiến con người không bao giờ thấy trời, ám chỉ họ không thể nào hướng thượng, mà chỉ thấy đất, chỉ luôn hướng hạ, hướng về trần tục tầm thường, chiều theo xác thịt hèn hạ, có thể sa ngã bất cứ lúc nào).
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô cũng chỉ cách chữa lành cho những con người xu hướng hạ theo "tội tà dâm và mọi thứ tội ô uế hay là gian tham" và "những chuyện hoa tình, tục tĩu và giễu cợt", thành phần bị thánh nhân cho là "những kẻ tà dâm, ô uế hay tham lam, là một thứ nô lệ thần tượng", bị thần tượng thống trị, cúi gầm mình xuống trước thần tượng, bằng cách "hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô", tức là "hãy ăn ở như con cái sự sáng", những con người được chân lý giải phóng luôn "thẳng đứng và ngước đầu lên" (Luca 21:28), như thái độ của một người con Thiên Chúa sống trong tự do và theo tác động của Thánh Linh.
Những con người "thẳng đứng và ngước đầu lên", sau khi được ơn cứu độ chữa lành tật khòm lưng khuất phục, như nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, nhờ đó đã được "đứng thẳng", nhưng để tránh khỏi tình trạng bị tái phát tật "khòm lưng" suốt đời chỉ toàn gập thân xuống không thể trông lên được như trước hay hơn trước, họ cần phải luôn "ngước đầu lên" nữa, ở chỗ, như Thánh Phaolô nhắc nhở trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là "bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người", có thế họ mới được ứng nghiệm như Thánh Vịnh 1 trong bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng. Nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 5, 21-33
"Mầu nhiệm này thật lớn lao; trong Ðức Kitô và trong Hội Thánh".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Ðức Kitô. Người vợ hãy phục tùng chồng mình, như đối với Chúa: vì chồng là đầu người vợ, như Ðức Kitô là đầu Hội Thánh: chính Người là Ðấng Cứu Chuộc thân thể mình. Nhưng như Hội Thánh phục tùng Ðức Kitô thể nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy.
Hỡi những người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh để thánh hoá Hội Thánh, khi Người dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo, hay phải điều gì khác tương tự, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền.
Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ mình như chính thân mình. Ai yêu thương vợ mình, là yêu thương chính mình. Vì không ai ghét thân xác mình bao giờ, nhưng nuôi dưỡng và nâng niu nó, như Ðức Kitô đối với Hội Thánh: vì chúng ta là chi thể của thân xác Người, do xương thịt Người. "Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình: và cả hai nên một thân xác". Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh. Dù sao, mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như bản thân mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (c. 1a).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra, bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thấy nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 18-21
"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Nước Thiên Chúa là một sự sống phát triển
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXX Thường Niên, thuật lại 2 dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng để sánh ví về "Nước Thiên Chúa" như sau:
Dụ ngôn thứ nhất: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Dụ ngôn thứ hai: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Trong cả hai dụ ngôn này đều cho thấy sự sống của "Nước Thiên Chúa", được tỏ hiện qua sự phát triển của sự sống siêu nhiên và thiêng liêng này, một sự sống thần linh, trước hết, bắt nguồn chỉ là một cái mầm, nhỏ như là một "hạt cải", nhưng sau đó đã "mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Phải chăng "hạt cải" đây ám chỉ đức tin, "người kia" đây ám chỉ Chúa Kitô, "gieo" đây ám chỉ việc Chúa Kitô tỏ mình ra, nhất là qua cuộc Vượt Qua của Người, "trong ruộng mình" đây ám chỉ trên thế gian này? Nếu những diễn giải theo suy đoán này không sai thì ý nghĩa của dụ ngôn này có thể hiểu là Nước Trời giống như đức tin cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trên thế gian này vậy.
Chính đức tin cứu độ này, một khi "mọc lên", hình ảnh ám chỉ một Chúa Kitô Phục Sinh, thì sẽ "trở thành một cây to" ám chỉ Giáo Hội Chúa Kitô, một cộng đồng đức tin, đồng thời cũng là một bí tích cứu độ trần gian của Người và với người, một phương tiện cứu độ các linh hồn như "chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Sự phát triển tiêu biểu cho sự sống thần linh này còn được ví như "tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
Phải chăng "tấm men" đây ám chỉ lời Chúa hay Phúc Âm và bí tích thánh (Phụng Vụ Thánh Thể); "người đàn bà kia" ám chỉ Giáo Hội; "bỏ vào" ám chỉ áp dụng, cử hành, ban phát; "ba đấu bột" ám chỉ 3 thành phần làm nên cộng đồng dân Chúa, cộng đồng đức tin, đó là giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ (tất nhiên giáo sĩ bao gồm cả hàng giáo phẩm); "đều dậy men" ám chỉ các phần tử của Giáo Hội được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô để sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng?
Đến đây, nếu các dẫn giải vừa được suy diễn không sai, thì chúng ta thấy 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" này, một liên quan đến "hạt cải" và một liên quan đến "tấm men" liên hệ với nhau. Ở chỗ, một dụ ngôn liên quan đến sứ vụ của Chúa Kitô ("người kia", rõ hơn là "người đàn ông kia - a man") trong công cuộc gieo vãi đức tin cứu độ ("hạt cải") trên thế gian, và một dụ ngôn liên quan đến vai trò của Giáo Hội ("người đàn bà kia") trong việc làm cho 3 thành phần chính yếu của Giáo Hội là giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân được thấm nhuần tinh thần và sự sống của Chúa Kitô. "Tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột" còn có thể hiểu là chính chứng từ đức ái trọn hảo của Giáo hội, một yếu tố bất khả thiếu để làm cho 3 đấu bột dậy men , trước hết là chính cộng đồng dân Chúa, sau nữa là cộng đồng nhân loại chưa nhận biết Chúa, và thứ ba là cộng đồng Do thái giáo chưa "chấp nhận / đón nhận Người" (Gioan 1:11-12).
Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô nói về cả Chúa Kitô, được ám chỉ nơi hình ảnh "người kia" trong dụ ngôn "hạt cải" đức tin, lẫn Giáo Hội, được ám chỉ nơi hình ảnh "người đàn bà" trong dụ ngôn "tấm men" sự sống thần linh. Nếu cả 2 dụ ngôn "hạt cải" và "tấm men" đều liên quan đến sự sống, một sự sống thần linh vô cùng viên mãn được tỏ hiện nơi tính cách và tầm mức phát triển từ một mầm "hạt cải" nhỏ xíu từ từ biến thành một "cây vĩ đại", và từ "tấm men" bị vùi lấp đi nhưng càng ngày lại càng phồng to lên nơi môi trường 3 đấu bột thế nào, thì "Nước Trời" sẽ trị đến và chỉ trị đến trên trần gian này, bởi tình yêu gắn bó giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người: Một Chúa Kitô là "người kia" đã gieo "hạt cải" đức tin vào lòng các tông đồ từ cuộc vượt qua của Người, và một Giáo Hội là "người đàn bà" biết sử dụng "tấm men" bí tích nói chung và Thánh Thể nói riêng, để thông ban sự sống thần linh vô cùng viên mãn cho Nhiệm Thể của mình có Chúa Kitô là Đầu.
Bài Đáp Ca hôm nay theo chiều hướng của Bài Đọc 1 cùng ngày về mối liên hệ yêu thương giữa Chúa Kitô là Đầu và Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể là hình ảnh và là thực tại Nước Trời trị đến trên trần gian này, như được một số câu trong Thánh Vịnh 127 về "những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa", thành phần nhờ đó mới có thể góp phần vào cho đến khi "nhìn thấy" được một Nước Trời vinh hiển trị đến nơi hình ảnh "cảnh thịnh đạt của Giêrusalem
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra, bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thấy nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.
Thứ Tư
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 6, 1-9
"Không phải phụng sự loài người, nhưng là tôi tớ của Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Hỡi những kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa: đó là lẽ phải. Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa rằng "để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu".
Còn phần anh em là những kẻ làm cha mẹ, anh em chớ làm cho con cái anh em tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng theo lời dạy bảo và khuyên răn của Chúa.
Hỡi những kẻ làm nô lệ, hãy vâng phục các chủ nhân, với lòng tôn sợ, kính nể, và chân thành như vâng phục Ðức Kitô: không phải vâng phục chiếu lệ trước mắt, như để lấy lòng người ta, nhưng như những tôi tớ của Ðức Kitô, tận tâm vâng theo thánh ý Thiên Chúa, hãy chí thú phục vụ, như phục vụ Thiên Chúa, chớ không phải loài người: vì biết rằng hễ ai làm điều gì lành, sẽ được Chúa ban trả sự lành, dầu kẻ ấy là nô lệ hay tự do. Phần anh em là những chủ nhân, anh em hãy cư xử như vậy đối với họ, chớ doạ nạt, vì biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em ngự trên trời: Người không tây vị một ai.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 13cd-14
Ðáp: Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán (c. 13c).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài, Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 22-30
"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta".
Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Cứu độ:
ân sủng không phải công lênh
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXX Thường Niên, trong bài Phúc Âm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta về vấn nạn số người được cứu độ, một vấn nạn bất chợt được đặt ra cho Chúa Giêsu khi Người đang "rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem", đích điểm mà Người phải đến để hoàn tất ơn cứu độ - Vậy Người đã trả lời ra sao?
Để hiểu được câu trả lời của Chúa Giêsu, cần phải biết nguyên văn câu hỏi từ một người nào đó trong đám đông đi theo Người bấy giờ: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Đây là một câu vừa nghi vấn "phải chăng", vừa khẳng định "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ", một câu hỏi chỉ muốn người trả lời xác nhận theo đúng ý của người hỏi, chẳng hạn: "Đúng thế, chỉ có một số ít sẽ được cứu độ mà thôi!"
Sở dĩ người đặt ra câu hỏi này chủ trương "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vì người này cho rằng chỉ có dân Do Thái là dân của Chúa mới là dân thánh, mới được cứu độ, ngoài ra, tất cả dân ngoại đều tội lỗi, xấu xa, đáng ghê tởm, không bao giờ được cứu độ. Chưa hết, ngay cả trong chính dân Do Thái của họ, thì thành phần thu thuế và đĩ điếm được liệt vào hạng tội nhân, cũng chẳng được cứu độ. Thế nên, "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vậy. Còn nữa, là dân Do Thái nhưng phải công chính như thành phần biệt phái và luật sĩ cặn kẽ giữ luật, mới được rỗi, chứ không phải chỉ lơ mơ hoặc loáng thoáng giữ luật mà được rỗi đâu. Nghĩa là vấn đề cứu rỗi là do con người bởi việc họ làm, hơn là do ân ban và ơn nhận.
Nếu thế thì vấn nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho chung dân Do Thái và cho riêng thành phần biệt phái cùng luật sĩ này cho rằng việc cứu độ chỉ giành cho những ai tuân giữ luật Chúa, và cứu độ không phải là một "ơn", được gọi là "ơn cứu độ", mà là việc cứu độ liên quan đến việc tuân giữ luật của họ. Ngoài ra, chủ trương việc cứu độ hơn là "ơn cứu độ" này còn ngầm cho rằng không có vấn đề thống hối ăn năn, một khi con người đã sa ngã phạm tội thì kể như không được cứu độ nữa.
Đó là lý do khi được Chúa Giêsu nhắc nhở "ai trong các người không có tội thì cứ ném đá chị ta đi (người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình)" (Gioan 8:7), họ mới chẳng những chợt hổ thẹn bỏ đi từ người lớn tuổi hơn (xem Gioan 8:8), mà còn được nhắc nhở rằng ai cũng có tội, cần phải ăn năn thống hối, chứ đừng lên án và sát phạt người khác làm như thể mình chẳng có tội và chẳng đáng bị ném đá. Và đó cũng là lý do bài Phúc Âm cho Thứ Sáu tuần XXIX Thường Niên tuần trước, Chúa Giêsu nhắc nhở họ về các nạn nhân bị Philatô giết và bị tháp đè chết là tội lỗi hơn họ, bằng không, các thứ đau khổ sẽ xẩy đến cho họ như hậu quả do tội họ gây ra nhưng họ không biết ăn năn thống hối.
Phần Chúa Giêsu, Người đã không trả lời dứt khoát với vấn nạn này rằng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" như họ mong đợi, hay là "sẽ có nhiều người được cứu độ". Người chỉ nói đến điều kiện để được cứu độ mà thôi: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". "Cửa hẹp" đây ám chỉ phải bé nhỏ mới lọt, nghĩa là phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:30), nghĩa là phải luôn sống tin tưởng vào Đấng cứu độ mình. Đồng thời Người cũng thòng thêm một câu ngay sau đó, một câu như thể Người tỏ ra đồng ý và chấp nhận chiều hướng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" của người đặt vấn đề với Người, và câu được Người bồi thêm là: "Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được".
Như thế, nếu muốn được cứu độ, tức muốn được lên trời, con người cần phải "vào qua cửa hẹp", trong khi đó, thực tế cho thấy "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được" thì đúng là phải kết luận rằng: "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ" mà thôi.
Tại sao thế? Tại sao lại xẩy ra chuyện kỳ quặc như thế: "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được"? Chẳng lẽ người ta muốn được cứu rỗi mà cũng không được hay sao, mà cũng không đúng như ý Chúa muốn cứu độ họ hay sao? Trái lại, cuối cùng còn bị Ngài phủ nhận và chối bỏ một cách phũ phàng cùng nghiêm thẳng xua đuổi nữa: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta". Cho dù họ có tự biện minh và bào chữa hợp tình hợp lý rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi".
Chính những lời họ tự bào chữa và biện minh này đã thực sự chứng tỏ họ là một trong "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được", cho dù họ "đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi", tương tự như tín hữu Công giáo sau này ra trước tòa phán xét có chuyện gì không may thì viện lẽ mình đã tham dự Thánh Lễ, một cử hành phụng vụ bao gồm phần phụng vụ lời Chúa ("Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi") và phần phụng vụ Thánh Thể ("ăn uống trước mặt Ngài"), nhưng vẫn bị hư đi!
Những lời họ tự bào chữa và biện minh này còn cho thấy họ quả thực đã chủ trương do các việc họ làm mà họ được cứu độ, hơn là "ơn" cứu độ Chúa ban. Và vì thế, họ ở vào số "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được". Trong khi đó, thành phần dân ngoại mà họ cho là chắc chắn hư đi, không được rỗi như họ, thì lại được "ơn" cứu độ Chúa ban, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Người tiên báo cho họ biết rằng: "Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa". Và Người kết luận: "Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết (như thành phần dân ngoại), và những người trước hết sẽ nên sau hết (như thành phần dân Do Thái)".
Nếu "cửa hẹp" ám chỉ sống bé nhỏ mới có thể lọt qua, nghĩa là luôn tin tưởng vào Đấng cứu độ của mình, được tỏ hiện bằng đức tuân phục, thì quả thực là thích hợp với những lời Thánh Phaolô khuyên nhủ thánh phần bé nhỏ trong xã hội, bao gồm cả con cái bé nhỏ trong nhà phải tỏ ra "vâng phục" đối với cha mẹ của mình, lẫn những ai mang thân phận nô lệ cũng phải "vâng phục" chủ nhân của mình.
Trái lại, thành phần đóng vai trò lớn hơn là cha mẹ trong gia đình, hay chủ nhân trong xã hội, cũng phải sống bé nhỏ nữa, không phải ở chỗ "vâng phục" như những ai thuộc quyền của mình, mà là tỏ ra tôn trọng người dưới của mình vì Chúa và trong Chúa, Đấng cao trọng hơn hết mọi sự và mọi người, nghĩa là họ phải biết đối xử với nhau bằng đức tin và đức ái, hơn là bằng cái tôi vĩ đại của mình.
Chỉ có những tâm hồn nào "vào qua cửa hẹp" là "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" mới được cứu độ, nghĩa là mới được vào Nước Trời, hay là mới được thấu hiểu những mầu nhiệm Nước Trời, nhờ đó mới có được những thâm tín và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong bài Thánh Vịnh 144 ở Bài Đáp Ca sau đây:
1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài, Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
3) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên.
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 6, 10-20
"Anh em hãy mặc lấy mã giáp của Thiên Chúa để có thể đứng vững".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, về tương lai, anh em hãy can đảm trong Chúa, và trong quyền năng sức mạnh của Người. Anh em hãy mặc lấy mã giáp của Thiên Chúa, để anh em có thể chống lại được với những mưu chước ma quỷ. Bởi vì chúng ta không những chiến đấu với huyết nhục, mà còn chiến đấu với kẻ chấp chính và quyền thế, với kẻ cai quản thế giới u minh này, và những ác thần trên không gian. Bởi đó, anh em hãy mặc lấy mã giáp của Thiên Chúa, để có thể kháng cự được trong ngày đen tối, và đứng vững sau khi bình định được tất cả. Vậy anh em hãy đứng vững, thắt đai lưng chân lý, mặc áo giáp công chính, và chân mang giày để sẵn sàng truyền bá Tin Mừng hoà bình. Anh em hãy luôn luôn mang khiên thuẫn đức tin, nhờ đó anh em dập tắt được mọi tên lửa kẻ cực ác. Anh em hãy nhận lấy mũ chiến cứu độ và cầm gươm của Thánh Thần, (tức là lời của Thiên Chúa).
Bằng mọi lời cầu xin và khẩn nguyện, anh em hãy nguyện cầu mọi lúc trong Thánh Thần. Hãy tỉnh thức ân cần lo việc đó, và cũng hãy cầu nguyện cho tất cả các thánh. Hãy cầu nguyện cho cả tôi nữa, để tôi được lợi khẩu khi mở miệng, và can đảm rao giảng mầu nhiệm Tin Mừng mà tôi là sứ giả ngay trong lúc phải mang xiềng xích, hầu khi rao giảng, tôi mạnh dạn nói năng như tôi phải nói.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 143, 1. 2. 9-10
Ðáp: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a).
Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa, là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến. - Ðáp.
2) Chúa là Tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con, Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu. Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ ca mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: x. Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 31-35
"Không lẽ một tiên tri phải giết chết ngoài thành Giêrusalem?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy". Người trả lời: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: "Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem".
"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!"
Ðó là lời Chúa.
Suy
Nghiệm Lời Chúa:
Bất chấp con cáo Hêrôđê
Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXX Thường Niên, Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại lời Chúa Giêsu, Đấng đang tiến về giáo đô Giêrusalem, đích điểm và đỉnh điểm của cuộc hành trình cứu độ của Người với tư cách là một Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái đồng thời cũng là Đấng Cứu Chuộc nhân trần (Redemptor hominis), tiên báo cho những người biệt phái biết, (chứ không phải là các môn đệ của Người biết), lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Người ở Giêrusalem.
"Trong ngày ấy, có
mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: 'Xin Thầy lên đường và đi
khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy'. Người trả lời: 'Các ông hãy đi nói với
con cáo đó rằng: Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai,
rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm
sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài
thành Giêrusalem'".
Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu ngấm ngầm báo trước về cuộc tử nạn của Người với những người ngoài thành phần môn đệ của Người. Nhưng quả thật là lần đầu tiên với nhóm biệt phái. Ngoài ra, theo Phúc Âm Thánh ký Gioan, ngay từ đầu, Người cũng đã báo trước với chung dân Do Thái nữa ở ngay tại Đền Thờ Giêrusalem, khi Người thách họ "hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại nó" (Gioan 2:19).
Chưa hết, theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, gần đến giờ của mình, tức là sau khi Người đã vinh quang vào Thánh Giêrusalem và đã thanh tẩy Đền Thờ, Người còn nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái nữa, qua dụ ngôn người con duy nhất của chủ vườn nho là chính bản thân Người bị bọn tá điền sát hại để chiếm gia nghiệp của người con này nữa (xem Mathêu 21:23,37-38).
Ở đây, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, không biết những người biệt phái báo tin cho Người về âm mưu của quận vương Hêrôđê có hiểu được những gì Người nói liên quan đến cuộc tử nạn của Người sẽ xẩy ra ở giáo đô Giêrusalem hay chăng, tuy nhiên, thành phần biệt phái vẫn âm mưu hại Người này có một số trong họ lại muốn cứu Người thì phải kể là sự lạ.
Hơn thế nữa, có người trong họ cũng đã mời Người đến nhà dùng bữa, như nhân vật tên Simon (xem Luca 7:36,40) hay nhân vật thủ lãnh nhóm này ở bài Phúc Âm ngày mai (xem Luca 14:1). Thậm chí có nhân vật biệt phái trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái là Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Người ban đêm nữa (xem Gioan 3:1). Chính Chúa Giêsu đã chọn một Pharisiêu để làm tông đồ cho dân ngoại là chàng Saulê (xem Tông Vụ 23:6). Như thế đủ cho thấy chúng ta đừng bao giờ "vơ đũa cả nắm" theo thành kiến về cá nhân nào hay về một phe nhóm nào có "con sâu làm rầu nồi canh".
Về phần Chúa Giêsu, khi nghe tin báo nguy hiểm cho bản thân mình như thế từ những người biệt phái, Người vẫn không hề tỏ ra lo âu sợ hãi và vội vàng tìm cách trốn tránh, trái lại, Người còn bảo những người báo tin ấy hãy đi nói lại với vị quận vương tinh quái như "con cáo" ấy về những gì Người vẫn tiếp tục cần làm và phải làm: "trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai", cho tới khi hoàn tất sứ vụ của Người: "rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời".
Thậm chí Người cũng chẳng ngần ngại công khai cho biết Người trong thời gian ấy đang ở đâu nữa, cứ việc tìm đến với Người nếu muốn, không hề sợ bị bại lộ tông tích: "Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường" để tiến về Giêrusalem và chỗ đó mới là nơi định mệnh của Người: "vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem hay sao".
Nếu Đền Thờ Giêrusalem biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa thì Thành Giêrusalem biểu hiệu cho dân Chúa, nơi Thiên Chúa muốn ở giữa họ (xem Khải Huyền 21:1-3) như là một Emmanuel - Thiên Chúa ở giữa chúng ta (xem Mathêu 1:23 và Gioan 1:14).
Thế nhưng, cho dù Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ luôn ở với họ, họ vẫn liên lỉ ngoại tình bằng việc hiến mình tôn thờ các ngẫu tượng của họ và các thần ngoại bang, bất chấp thành phần được Thiên Chúa sai đến nhắc nhở họ, bao gồm cả chính Con của Ngài, và vì thế họ sẽ phải hứng chịu hậu quả tương xứng cho tới khi họ nhận biết Người là Đấng Thiên Sai của họ, như Chúa Giêsu đã báo trước ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:
"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: 'Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!'"
Theo gương Chúa Kitô không hề lo âu sợ hãi hay trốn ẩn những âm mưu của quận vương Hêrôđê, trái lại, Người vẫn cứ tiếp tục hành trình cứu độ của Người cho tới khi đích điểm "Giêrusalem", Kitô hữu giáo đoàn Epheso đã được Thánh Phaolô khuyên nhủ để chẳng những có thể "chiến đấu với những ác thần", "có thể kháng cự được trong ngày đen tối", có thể "dập tắt được mọi tên lửa kẻ cực ác", đó là họ phải "thắt đai lưng chân lý, mặc áo giáp công chính, và chân mang giày để sẵn sàng truyền bá Tin Mừng hoà bình. Anh em hãy luôn luôn mang khiên thuẫn đức tin, nhờ đó anh em dập tắt được mọi tên lửa kẻ cực ác. Anh em hãy nhận lấy mũ chiến cứu độ và cầm gươm của Thánh Thần, (tức là lời của Thiên Chúa)".
Nghĩa là họ luôn tin tưởng vào Thiên Chúa ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, như "Đá Tảng của con", theo tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay từ Thánh Vịnh 143 như sau:
1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa, là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến.
2) Chúa là Tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con, Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu. Ngài bắt chư dân phải khuất phục con.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ ca mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài.
Thứ Sáu
(Thứ Sáu ngày 1/1/2024 này trùng với và bị át đi bởi Lễ Trọng Các Thánh, xin xem ở sau PVLC Thứ Bảy Lễ Các Đẳng mùng 2/11)
Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 1, 1-11
"Ðấng đã khởi sự trong anh em công việc tốt lành, sẽ làm hoàn tất cho đến ngày của Ðức Kitô".
Khởi đầu bức thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Phaolô và Timôthêu, tôi tớ của Ðức Giêsu Kitô, kính gửi tất cả các thánh trong Ðức Giêsu Kitô ở thành Philípphê, cùng với các chủ tịch giáo đoàn và các phụ tá. Nguyện chúc ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, ở cùng anh em!
Tôi luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa của tôi mỗi khi nhớ tới anh em, trong mọi kinh nguyện mà tôi hân hoan cầu xin cho anh em, vì anh em đã góp phần rao giảng Tin Mừng ngay từ ngày đầu tiên cho tới bây giờ.
Tôi tin tưởng điều này là Ðấng đã khởi sự trong anh em công việc tốt lành đó, sẽ làm hoàn tất cho đến ngày của Ðức Giêsu Kitô. Mà tôi tưởng nghĩ về mọi người anh em như thế thì chính đáng: vì tôi tích để anh em trong lòng tôi, dù khi tôi mang xiềng xích, dù lúc tôi biện hộ hay củng cố Tin Mừng, mọi người anh em đều thông phần vào sự vui mừng của tôi. Thực, có Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: Tôi trìu mến tất cả anh em trong lòng Ðức Giêsu Kitô là dường nào. Ðiều tôi khẩn nguyện là lòng yêu mến của anh em mỗi ngày một thêm chan chứa hơn, trong sự thông biết và mọi sự suy hiểu, để anh em biết xác định những điều tốt lành hơn, hầu giữ mình trong sạch và không gì đáng trách trong ngày của Ðức Kitô, dư đầy hoa quả công chính, nhờ Ðức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Vĩ đại thay công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Ngài, cho tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Ngài thấy công cuộc quyền năng của Ngài, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 1-6
"Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa:
Bất chấp cả Ngày Hưu Lễ
Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXX Thường Niên, trình thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành ở ngay trong nhà của một vị thủ lãnh nhóm biệt phái vào ngày hưu lễ, nguyên văn như sau:
"Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ
lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một
người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các
Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh
không?' Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi
cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có
con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng
các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".
Bài Phúc Âm này cho thấy Chúa Giêsu tấn công địch ngay trong lòng địch, đó là ở ngay trong nhà của một thủ lĩnh biệt phái Người đã chữa lành vào ngay ngày hưu lễ, thành phần biệt phái vẫn hay theo dõi Người để bắt bẻ Người và mưu đồ hại Người, một cuộc tấn công Người cố ý làm, cho dù có đụng đến chủ trương duy luật của thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật trong dân chúng ấy.
Thế nhưng, họ thông luật ở chỗ thuộc nhiều luật lệ hơn dân chúng, bao gồm cả việc giữ luật hơn dân chúng, thế nhưng họ lại dẫn giải luật một cách thiển cận và theo thiên kiến vị kỷ, bởi thế, họ không thấy được đâu là tinh thần thực sự của luật và mục đích chính yếu của những gì được gọi là luật, của những gì tự bản chất chỉ là phương tiện hơn là cùng đích giúp con người đạt được cứu cánh của họ .
Chính vì thế, Chúa Giêsu muốn lợi dụng việc chữa lành cho "một người mắc bệnh thủy thũng" vào ngày hưu lễ ở trong chính nhà của một người lãnh đạo biệt phái để nhờ đó có thể soi sáng cho họ biết những gì họ chủ trương là lệch lạc, là sai lầm, cần phải chỉnh đốn lại:
"Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat,
có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh... Ðoạn Người bảo các
ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi
xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả
lời câu hỏi ấy".
Sở dĩ thành phần biệt phái thông luật này tỏ thái độ "làm thinh" trước hai câu hỏi tối căn bản được Chúa Giêsu đặt ra gợi ý cho họ suy nghĩ và tự vấn không phải là vì họ chịu thua, hay đang cần giờ để tìm thêm được lý mạnh hầu phản công lại Người, hoặc vì nể mặt Người, mà chính là vì họ "không thể trả lời câu hỏi ấy".
Nếu "im lặng là đồng lõa" thì phải chăng những người biệt phái chứng kiến thấy việc Chúa Giêsu ngang nhiên chữa lành trong ngày hưu lễ ở ngay nhà của họ, nhất là "không thể trả lời câu hỏi" được Người đặt ra cho họ, đã hoàn toàn chấp nhận những gì Chúa Giêsu nói là chí lý, là chính xác, là chân thực, cần phải áp dụng thi hành?
Cũng có thể, nếu họ có thiện chí và tinh thần cởi mở. Bằng không, trái lại, với tinh thần cực đoan và bảo thủ, kèm theo tự ái về thế giá thông luật của mình, họ sẽ vẫn tiếp tục đường lối sai lầm của họ, với những biện minh và dẫn giải chủ quan phi chân lý. Nếu xẩy ra trường hợp đáng tiếc này thì cũng dễ hiểu. Vì bình thường con người ta vẫn hay cố chấp cho dù thực sự biết mình sai, để bảo vệ tiếng tăm mặt mũi của mình. Do đó, họ vẫn tiếp tục ngoan cố làm sai, bất chấp hậu quả gây ra cho bản thân họ cũng như cho những ai được họ dẫn dắt!
Phép lạ chữa lành cho người thủy thủng trong bài Phúc Âm hôm nay không phải hay chưa phải là việc làm vĩ đại bởi quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, thậm chí phép lạ cả thể nhất là phép lạ hồi sinh Lazarô cũng thế, vì các phép lạ này chỉ liên quan đến thân xác của con người mà thôi, mà Người đến cứu con người cả xác lẫn hồn, cứu độ toàn thể bản tính đã bị hư đi bởi nguyên tội của họ, những gì vĩ đại quyền năng vô cùng của Thiên Chúa muốn nhắm đến là làm cho con người tin vào Người mà được cứu độ. Và đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu chỉ lợi dụng nạn nhân thủy thủng để giải thoát những người biệt phái và luật sĩ đang bị nô lệ cho lề luật theo khuynh hướng duy luật và tự mãn của họ, nhờ đó họ có thể tin vào Người mà được cứu độ và trở thành công chính thực sự.
Đó là lý do, về phần chúng ta là những ai được Thiên Chúa mạc khải về Ngài nơi Chúa Giêsu Kitô là Người Con của Ngài, thì chẳng những tin tưởng và chấp nhận mạc khải ấy, mà còn, như Thánh Phaolô khuyên nhủ Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê trong Bài Đọc 1 hôm nay, làm sao để "lòng yêu mến của anh em mỗi ngày một thêm chan chứa hơn, trong sự thông biết và mọi sự suy hiểu, để anh em biết xác định những điều tốt lành hơn, hầu giữ mình trong sạch và không gì đáng trách trong ngày của Ðức Kitô, dư đầy hoa quả công chính, nhờ Ðức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa", như tâm tình hân hoan "ca tụng Chúa" của Thánh Vịnh 110 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Ngài, cho tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Ngài thấy công cuộc quyền năng của Ngài, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 1, 18b-26
"Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, miễn là Ðức Kitô vẫn được rao giảng, đó là điều làm tôi vui mừng, và tôi sẽ còn vui mừng mãi. Vì chưng tôi biết rằng nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ ơn Thánh Thần của Ðức Giêsu Kitô giúp sức, điều đó sẽ đưa tôi đến ơn cứu độ, theo sự tôi chờ đợi và hy vọng, tôi sẽ không hổ thẹn chút nào, trái lại tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng như mọi khi, và giờ đây, dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi.
Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em.
Một khi tin tưởng điều đó, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ lưu lại với tất cả anh em, để anh em được tấn tới và được hân hoan trong niềm tin, ngõ hầu anh em vì tôi mà được tràn đầy hiên ngang trong Ðức Kitô, bởi tôi trở lại với anh em một lần nữa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3. 5bcd
Ðáp: Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (c. 3a).
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, ôi Chúa trời con! - Ðáp.
2) Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào tôi được tìm về ra mắt Chúa Trời? - Ðáp.
3) Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.- Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-11
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc.
"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy
Nghiệm Lời Chúa:
Biết thân biết phận thì chỉ đáp ứng hơn
là chọn lựa
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy
Tuần XXX Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Đúng hơn, cả hai
bài Phúc Âm hôm qua và hôm nay là một, vì khung cảnh diễn ra đều ở trong
cùng một địa điểm là "nhà
một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa", nhưng
về nội dung thì được
Giáo Hội cắt ra làm hai, vì ở
nơi đây Chúa đã dạy hai bài học cho thành phần biệt phái đang ăn uống với
Người bấy giờ.
Bài học thứ nhất đã được Chúa Giêsu huấn dụ trong bài Phúc Âm hôm qua về tinh thần và mục đích của lề luật liên quan đến sự kiện Người chữa lành cho người bị bệnh thủy thủng vào ngày hưu lễ. Bài học thứ hai được Người huấn dụ họ sau khi "Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Bài học thứ hai này trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy đó là "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết", một thái độ khôn ngoan nhất, một chọn lựa tốt lành nhất. Không phải để, về phần tiêu cực, tránh được bẽ mặt khi "ngồi vào chỗ nhất", chỗ mà có thể "có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết". Cũng không phải để, về phần tích cực, được vẻ vang hơn khi "Người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc".
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong các cuộc hội họp, hay ngay cả trong nhà thờ, giáo dân Việt Nam nói riêng thường thích ngồi ở dưới hơn là ngồi ở trên. Cho dù có mời lên chỗ trống còn nhiều ở trên cũng không chịu. Có thể là vì họ sợ ngủ gật. Có thể là vì họ muốn ngồi đấy để chuồn ra ngoài cho dễ, hay biến cho nhanh dù chưa xong lễ. Có thể là vì bạn bè cùng tham dự không chịu thay đổi chỗ ngồi nên ngồi với nhau cho vui. Có thể là vì họ không muốn bị ai dòm ngó đằng sau. Có thể là vì họ có con nhỏ quấy phá muốn tránh chia trí cho mọi người. Có thể là vì họ cảm thấy mình hèn hạ tội lỗi bất xứng chỉ đáng ngồi cuối cùng v.v.
Ai cũng có lý do chính đáng để cứ ngồi ở chỗ cuối. Thế nhưng, chúng ta hãy suy nghĩ thật kỹ câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" Chúa Giêsu huấn dụ những người biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng để huấn dụ cả chúng ta nữa, chúng ta mới thấy đó là một nguyên tắc sống đức tin và đồng thời cũng là một linh đạo rất thiết thực, cần thiết, hữu dụng và không thể không áp dụng để có thể sống bình an và nên trọn lành.
Thật vậy, vấn đề then chốt ở câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" này đó là thái độ đáp ứng tuân theo hơn là chủ động chọn lựa. Bởi thế, Chúa Giêsu không bảo rằng "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", mà là "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng". Tại sao thế? Tại vì nếu chúng ta mà "chọn" tức là chúng ta có quyền, chúng ta làm chủ, chúng ta làm theo ý muốn của chúng ta, làm theo ý nghĩ, ý thích, ý riêng của chúng ta, và sẽ chẳng bao giờ vừa với lòng tham vô đáy của chúng ta, không bao giờ hợp với tính hay thay đổi theo cảm giác cảm tình của chúng ta v.v.
Trong đời sống tu đức cũng thế. Bao lâu chúng ta còn làm chủ, còn tự tin, còn cậy mình v.v. thì bấy lâu chúng ta còn xa Chúa, chưa trọn lành, cho đến khi, qua những đau thương thử thách Chúa gửi đến cho chúng ta để thanh tẩy chúng ta, để kéo chúng ta ra khỏi thế gian, chúng ta bấy giờ mới chỉ còn biết bám lấy Chúa, chỉ còn biết tin tưởng vào Ngài và phó thác cho Ngài, nghĩa là bấy giờ nhờ được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt và ngự trị, chúng ta mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), mới có thể "thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), mới có thể "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12).
Đó là lý do chúng ta thấy trong Biến Cố Truyền Tin, Mẹ Maria đầy ân phúc đã không "chọn" chỗ cuối cùng, mà là chấp nhận, là "đi ngồi vào chỗ cuối cùng" của Mẹ đó là thân phận của một nữ tỳ xin vâng (xem Luca 1:38), là chỗ Chúa chọn cho Mẹ - Phải chăng vì thế mà Mẹ đã không hề lên tiếng chối từ cho dù được chọn làm Mẹ Thiên Chúa!?!
Đó là lý do chúng ta còn thấy chỉ khi nào Tông Đồ Phêrô không còn tự mình đi đây đi đó nữa, mà trái lại, ngài còn bị dẫn đi đến nơi ngài không muốn, hoàn toàn trái ý của ngài, ở trong thế bị động hơn là chủ động như trước, ngài mới có thể thực sự "theo Thày", tức mới thực sự nên giống Đấng chịu đóng đinh là Thày của ngài (xem Gioan 21:18-19).
Đó cũng là lý do tại sao kẻ lớn nhất trên Nước Trời là kẻ "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), như tâm hồn của người nam cao trọng nhất được người nữ sinh ra (xem Mathêu 11:11), đến chỉ để tỏ cho dân chúng biết Đấng đến sau mình (xem Gioan 1:31,27): "Người cần được gia tăng, còn tôi cần bị giảm xuống" (Gioan 3:30).
Trường hợp của dân Do Thái thì sao - họ có "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" hay chăng, hay là, đúng như Chúa Giêsu nhận thấy họ trong bài Phúc Âm hôm nay rõ ràng là "những kẻ được mời chọn chỗ nhất"?
Quả thực đúng như thế. Ở chỗ, Thiên Chúa đã kén chọn dân Do Thái giữa các dân tộc trên thế giới này, nhưng thực tế cho thấy, qua giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, họ đã không sống đúng với ơn gọi chuyên biệt này của họ, không "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" được Thiên Chúa chọn cho ấy, trái lại, họ đã tự "chọn chỗ cuối cùng mà ngồi" cho họ, đó là một "chỗ" vời vợi xa cách Thiên Chúa của họ hơn bao giờ hết và hơn ai hết, "chỗ" ngoại tình với tà thần và sấp mình tôn thờ ngẫu tượng, trắng trợn loại bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, ở Thư gửi cho Giáo đoàn Philiphê, Thánh Phaolô đã cho thấy ngài thực sự đã "đến ngồi vào chỗ cuối rốt", như Chúa Giêsu đã khuyên thành phần biệt phái và luật sĩ đang dự bữa ở nhà của vị thủ lãnh biệt phái mời Người thích ngồi chỗ cao trọng và ham muốn hư danh, và ngài quá khứ cũng đã từng là một biệt phái hăng say hơn ai hết. Thánh nhân đã "ngồi vào chỗ cuối rốt" ở chỗ hy sinh cho lợi ích của Chúa và anh chị em mình, hơn là chính bản thân mình:
"Đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em. Một khi tin tưởng điều đó, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ lưu lại với tất cả anh em, để anh em được tấn tới và được hân hoan trong niềm tin, ngõ hầu anh em vì tôi mà được tràn đầy hiên ngang trong Ðức Kitô, bởi tôi trở lại với anh em một lần nữa".
Cùng với Thánh Phaolô, những tâm hồn nào chỉ muốn "đến ngồi vào chỗ cuối rốt" mới thực sự cảm thấy "hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống", như những tâm tình của Thánh Vịnh 41 trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, ôi Chúa trời con!
2) Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào tôi được tìm về ra mắt Chúa Trời?
3) Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.
Ngày 2 tháng 11
Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Ðã Qua Ðời
Lễ Nhớ
Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cũng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.
Này tang tóc gieo u sầu ảm đạm,
Con nhìn Ngài mà lòng những xôn xao,
Ôi Giê-su, nguồn hy vọng dạt dào,
Chúa là sự phục sinh, là sức sống !
Xưa Ngài cũng trải qua cơn dao động,
Từng băn khoăn đau đớn bởi tử thần,
Rồi gục đầu trước Thánh Phụ từ nhân
Mà kính cẩn trao dâng luồng sinh khí.
Tật nguyền của chúng con, Ngài chia sẻ,
Ôi tấm lòng Mục Tử lớn lao thay,
Muốn chúng con cùng đau khổ với Ngài,
Cùng an nghỉ ngay trong lòng Thánh Phụ !
Trên thập giá, đôi tay Ngài rộng mở
Như đón chờ để ấp ủ vào tim
Hết những ai vì bệnh hoạn ưu phiền
Còn khắc khoải chưa yên mà nhắm mắt.
Ngài phá vỡ cửa âm ty ngục thất,
Đầy chiến công, lên mở cửa Nước Trời,
Nỗi sầu này : xin cho đổi niềm vui,
Và chết đoạn, được trường sinh vĩnh cửu.
Mong toàn thể người thân yêu bạn hữu
Đã ly trần, nay nghỉ giấc bình an
Được Ngài thương cho hưởng phúc thiên đàng,
Hầu ca tụng tán dương Ngài muôn thuở.
Tâu Vua Cả Ki-tô đầy uy dũng
Đã đập tan xiềng xích của tử thần,
Quả thật Ngài làm rạng rỡ Phụ Thân,
Trả vinh dự cho loài người hèn yếu.
Tật nguyền của chúng con, Ngài gánh chịu,
Quyết dấn thân vào cuộc chiến phi thường,
Hầu đập tan mãnh lực của xà vương,
Ngài thắng trận khi cam lòng chịu chết.
Rồi hùng dũng ra khỏi mồ oanh liệt,
Để muôn người nhờ mầu nhiệm Phục Sinh,
Dẫu bao phen từng chết bởi tội tình,
Vẫn được hưởng ơn Ngài thương cứu sống.
Xin ban tặng chuỗi ngày đầy ân sủng,
Đợi Ngài về mời ăn cưới nửa đêm,
Đoàn chúng con đã chuẩn bị dầu đèn,
Đáng dự tiệc trên quê trời mãi mãi.
Xin Thẩm Phán thương mở lòng từ ái,
Đón nhận vào nguồn ánh sáng thiên cung.
Chúng con đây tin cậy mến một lòng,
Hằng gắn bó cùng Ba Ngôi vĩnh cửu.
Mong toàn thể người thân yêu bạn hữu
Đã ly trần, nay nghỉ giấc bình an,
Được Ngài thương cho hưởng phúc thiên đàng,
Hầu ca tụng tán dương Ngài muôn thuở.
Lễ Nhất
Bài Ðọc I: Rm 6, 3-9
"Chúng ta phải sống đời sống mới".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy.
Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 5).
Hoặc đọc: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 4a).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 11, 25-26
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6, 51-59
"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Ðó là lời Chúa.
Lễ Nhì
Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9
"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".
Trích sách Khôn Ngoan.
Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 6-7bc. 17-18. 20-21
Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn con lên tới Chúa (c. 1b).
Hoặc đọc: Lạy Chúa, phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi (c. 3b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
2) Xin cho lòng con được nhẹ bớt lo âu, và giải thoát con khỏi cảnh ưu tư phiền muộn. Xin Chúa coi cảnh lầm than khốn khổ của con, và tha thứ hết mọi điều tội lỗi. - Ðáp.
3) Xin gìn giữ mạng sống con và giải thoát con, đừng để con bẽ bàng vì đã tìm nương tựa Chúa. Nguyện cho lòng con vô tội và trung thứ bảo vệ con, vì con trông cậy vào Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 2 Tm 2, 11-12a
Alleluia, alleluia! - Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, thì chúng ta cùng sống với Người; nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 23, 33. 39-43
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Ðó là lời Chúa.
Lễ Ba
Bài Ðọc I: Rm 5, 5-11
"Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 7 và 8b và 9a. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Hoặc đọc: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nghe con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con. - Ðáp.
4) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy trông đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và trông đợi Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 6, 39
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ý của Cha là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17, 24-26
"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Ðó là lời Chúa.
ĐTC Biển Đức XVI - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXXI Thường Niên 5/11/2006 về Ý Nghĩa Sự Chết
Anh Chị Em thân mến:
Trong những ngày theo sau việc phụng vụ tưởng nhở đến kẻ chết, nhiều giáo xứ cử hành một tuần bát nhật cho người chết, một cơ hội thuận lợi để tưởng nhớ nguyện cầu cho những người thân yêu cũng như để suy niệm về thực tại của sự chết, một thực tại bị “thứ văn minh của tiện nghi” thường cố gắng loại bỏ khỏi tâm thức của con người, nhận chìm vào những bận bịu lo âu thường nhật.
Thật vậy, chết là những gì thuộc về cuộc sống, và không phải chỉ là cái kết thúc cuộc sống mà, nếu chúng ta chú ý, nó còn ở hết mọi lúc trong cuộc đời nữa. Cho dù có xẩy ra đủ mọi thứ phân tâm đi chăng nữa, việc mất mát đi một người thân yêu cũng là những gì giúp cho chúng ta nhận thức được ‘cái trục trặc’ này, khiến chúng ta cảm thấy sự chết như là một sự hiện diện hoàn toàn đối địch với ơn gọi tự nhiên muốn sống và hạnh phúc của chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm đảo lộn ý nghĩa của sự chết. Người đã làm như thế bằng giáo huấn của Người, nhất là bằng việc đích thân đương đầu với sự chết. Phụng vụ mùa Phục Sinh xướng lên rằng: ‘Người chết để hủy diệt sự chết’. Một vị Giáo Phụ đã viết ‘Nhờ vị Thần Linh bất tử, Chúa Kitô đã đánh bại sử chết là những gì đã sát hại con người’ (Melito of Sardis, "On Easter," 66). Nhờ đó, Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ thân phận loài người của chúng ta, hướng nó đến chân trời hy vọng. Thật ra Người đã được sinh ra để có thể chết đi và nhờ đó giải thoát chúng ta khỏi làm tôi cho sự chết. Thư gửi giáo đoàn Do Thái đã viết: ‘Bằng ân sủng của Thiên Chúa Người đã nếm trải sự chết cho hết mọi người’ (2:9).
Từ đó, sự chết không còn như trước nữa: Nó thực sự đã bị tước đoạt đi cái ‘nọc độc’ của nó. Tình yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu thương tác động nơi Chúa Giêsu, đã cống hiến một ý nghĩa mới cho tất cả cuộc sống của con người, nhờ đó cũng đã biến đổi chính sự chết. Nếu nơi Chúa Kitô, sự sống của con người là ‘việc lìa bỏ’ thế gian về nhà Cha’ (Jn 13:1) thế nào, thì giờ chết chính là giây phút diễn ra một cách cụ thể và cuối cùng việc lìa bỏ này vậy.
Những ai dấn thân sống như Người đều được thoát khỏi nỗi hãi sợ sự chết, họ không còn nở ra nụ cười châm biếm của một kẻ thù nữa, mà là tỏ ra một dung mạo thân tình của ‘người chị em’, như Thánh Phanxicô đã viết trong bài ‘Ca Vịnh Tạo Sinh’. Nhờ đó, Thiên Chúa vì thế được chúc tụng ngợi khen: ‘Lạy Chúa, chúc tụng Chúa về người Chị Em Tử Thần Về Xác Thân của chúng con’. Đức tin nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không được sợ hãi sự chết, vì nó chỉ là một giấc mơ mà một ngày kia chúng ta tỉnh giấc thôi.
Cái chết thực sự mà người ta cần phải sợ đó là sự chết về phần linh hồn, một sự chết được Sách Khải Huyền gọi là ‘cái chết thứ hai’ (x 20:14-15, 21:8). Thật vậy, người nào chết trong tình trạng có tội trọng mà không chịu ăn năn thống hối, cứ nhất định ngạo mạn phủ nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, là người tự loại mình khỏi Vương Quốc của sự sống vậy.
Nhờ lời chuyển cầu của Rất Thánh Nữ Maria và Thánh Giuse, chúng ta hãy nguyện cầu cùng Chúa ban cho chúng ta ơn biết nghiêm chỉnh dọn mình ra khỏi đời này vào lúc Ngài gọi chúng ta, với niềm hy vọng được đời đời ở cùng Ngài, cùng với các thánh và những người quá cố thân yêu của chúng ta.
(Sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói tiếp bằng tiếng Ý liên quan tới tình hình Thánh Địa:)
Tôi hết sức lo âu theo dõi tin tức về tình hình suy thoái ở Giải Gaza, nên tôi muốn bày tỏ với thành phần dân chúng ở đó việc tôi lưu ý tới nỗi khổ đau họ chịu gây ra bởi bạo lực.
Tôi xin anh chị em hãy cùng tôi cầu nguyện xin Thiên Chúa Tòan Năng và Nhân Hậu sáng soi thành phần thẩm quyền Do Thái và Palestine, cũng như những quốc gia có trách nhiệm đặc biệt ở miền này, để họ quyết tâm ngăn chặn tình trạng đổ máu, gia tăng những hoạt động trợ giúp nhân đạo, và cổ võ việc tái diễn ngay một cuộc thương thảo nghiêm chỉnh và cụ thể.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/11/2006
Năm điểm chính yếu trong bài huấn từ truyền tin 5/11/2006 ngắn gọn về sự chết của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Qua bài huấn từ truyền tin ngắn gọn về sự chết trên đây của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, không biết chúng ta có cảm thấy hết sức thấm thía về 5 điểm chính yếu sau đây hay chăng?
Thứ nhất, ngài nhận định rằng thế giới văn minh ngày nay hầu như quên đi hay không muốn nghĩ tới sự chết. Ngài nói: “Sự chết là một thực tại bị ‘thứ văn minh của tiện nghi’ thường cố gắng loại bỏ khỏi tâm thức của con người, nhận chìm nó vào những bận bịu lo âu thường nhật”.
Thứ hai, ngài còn cảm nhận rằng “chết là những gì thuộc về cuộc sống, và không phải chỉ là cái kết thúc cuộc sống mà, nếu chúng ta chú ý, nó còn ở hết mọi lúc trong cuộc đời nữa”. Tại sao thế? Ngài đã tiếp tục diễn giải cái lý do của nó là vì, ngài nói: “chúng ta cảm thấy sự chết như là một sự hiện diện hoàn toàn đối địch với ơn gọi tự nhiên muốn sống và hạnh phúc của chúng ta”.
Thứ ba, thế nhưng, theo niềm tin Kitô Giáo được ngài xác tín rằng: “Chúa Giêsu đã làm đảo lộn ý nghĩa của sự chết bằng việc đích thân đương đầu với sự chết”. Đó là lý do, cũng theo niềm tin Kitô Giáo, ngài đã tuyên xưng rằng: “Từ đó, sự chết không còn như trước nữa: Nó thực sự đã bị tước đoạt đi cái ‘nọc độc’ của nó”.
Thứ bốn, nếu sự chết đã được hoàn toàn biến đổi như thế thì tự nhiên phát sinh ra hai hệ quả, hệ quả trước nhất ở ngay chính ý nghĩa tích cực của sự chết – chết là về cùng Cha, như ngài cảm nhận: “nếu nơi Chúa Kitô, sự sống của con người là ‘việc lìa bỏ’ thế gian về nhà Cha’ (Jn 13:1) thế nào, thì giờ chết chính là giây phút diễn ra một cách cụ thể và cuối cùng việc lìa bỏ thế gian này vậy”; và hệ quả thứ hai xẩy ra nơi tâm trạng có tính cách tích cực của người chết, như ngài khẳng định: “chúng ta không được sợ hãi sự chết, vì nó chỉ là một giấc mơ mà vào một ngày kia chúng ta tỉnh giấc thôi”.
Thứ năm, cái làm cho con người sợ chết là trọng tội, là ở trong tình trạng liều mất linh hồn, và tình trạng chết về phần hồn này, tình trạng chết hoàn toàn mất Ơn Nghĩa Chúa này mới là những gì đáng sợ và đáng tránh, vì nó là cái chết thứ hai, cái chết đời đời, không còn bao giờ được cứu độ nữa. Đức Thánh Cha đã cảnh báo như sau: “Cái chết thực sự mà người ta cần phải sợ đó là sự chết về phần linh hồn, một sự chết được Sách Khải Huyền gọi là ‘cái chết thứ hai’ (x 20:14-15, 21:8). Thật thế, người nào chết trong tình trạng có tội trọng mà không chịu ăn năn thống hối, cứ nhất định ngạo mạn phủ nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, là người tự loại mình ra khỏi Vương Quốc của sự sống vậy”.
Chúng tôi mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên A ngày 7/11/2020)
Trích khảo luận của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, về khía cạnh tốt lành của sự chết.
Thánh Phao-lô tông đồ nói : Thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. Sau đó, để chúng ta biết rằng sống trên cõi đời này, người ta phải chết, nhưng cũng có cái chết tốt lành, thánh nhân khuyên chúng ta hãy mang trong thân mình sự chết của Đức Giê-su ; vì ai có sự chết của Đức Giê-su nơi mình, thì cũng có sự sống của Đức Giê-su nơi thân xác mình nữa.
Vậy ước gì sự chết hoạt động trong chúng ta để sự sống cũng hoạt động nữa. Có chết mới được sống tốt đẹp, nghĩa là có chiến thắng mới được sống tốt đẹp. Chúng ta chỉ được sống tốt đẹp khi cuộc chiến đã ngừng hẳn, khi luật xác thịt không thể chống lại luật tinh thần nữa, khi không còn một cuộc đối đầu nào nữa với thân xác phải chết của chúng ta, và nơi thân xác phải chết này chỉ còn chiến thắng thôi. Chính tôi cũng không biết sự chết ấy có mạnh hơn sự sống không. Chắc một điều là tôi xúc động trước lời đầy thế giá của thánh Phao-lô tông đồ : Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì hoạt động nơi anh em. Cái chết của một người duy nhất đem lại sự sống cho biết bao dân tộc ! Vì thế, thánh Phao-lô dạy những ai đang sống trên đời này hãy ước ao được chết như vậy, để cái chết của Đức Ki-tô rực sáng lên nơi thân xác chúng ta. Đó là cái chết hồng phúc khiến con người bên ngoài của chúng ta tiêu tan đi và con người bên trong được đổi mới, ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất bị phá huỷ và ngôi nhà trên trời mở rộng cửa đón chúng ta.
Ai từ khước không chịu hiệp thông với xác thịt này, ai cởi bỏ những xiềng xích trói buộc, người ấy được coi như đã chết. Chúa đã nói với bạn về những xiềng xích đó qua lời ngôn sứ I-sai-a : Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm.
Chúa đã cam lòng chịu chết để chấm dứt tội lỗi ; muốn cho cái chết không phải là giới hạn cuối cùng của con người, Chúa đã cho kẻ chết sống lại. Như vậy, nhờ cái chết mà tội lỗi bị huỷ diệt, và nhờ sự sống mà con người được tồn tại mãi.
Bởi đó, chết là cửa ngõ mọi người phải đi qua. Bạn phải kiên trì mà đi qua : đi từ mục nát qua bất hoại, từ thân phận phải chết qua tình trạng bất tử, từ hỗn loạn qua an bình. Vậy bạn đừng nao núng khi nghe nói đến cái chết, nhưng hãy vui mừng vì những lợi ích do cuộc vượt qua lành thánh đem lại. Bởi vì, chết là gì nếu không phải là chôn vùi thói hư và làm nảy sinh nhân đức ? Do đó có câu : Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính, nghĩa là cùng được mai táng với họ để cởi bỏ tính hư tật xấu của mình, mặc lấy ân sủng Chúa ban cho họ, những người đã từng mang trong linh hồn và thân xác mình cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô.
ĐTC Phanxicô - Giảng Lễ Các Đẳng Linh Hồn ở Hầm Mộ Pricislla Roma 2019
Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?
Hôm nay, 2/11, Giáo Hội tưởng nhớ đến và cầu nguyện cho Các Linh Hồn Tín Hữu đã Qua Đời còn ở trong Luyện Ngục, một ngày lễ bao gồm nhiều ý nghĩa Giáo Hội muốn nhắc nhở con cái của mình như sau:
1- Có đời sau, có cõi vĩnh hằng bất biến, chứ không phải chỉ có đời này mà thôi, chết là hết;
2- Linh hồn của con người bất tử, không chết như thân xác của họ sau thời gian sống tạm gửi trên trần gian hữu hình và hữu hạn này;
3- Quê hương đích thực của con người tạo vật được Thiên Chúa dựng nên trên đời này là Thiên đàng, một thực tại hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi toàn thiện và toàn ái là Cha và Con và Thánh Thần;
4- Muốn được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi trên Thiên Đàng, linh hồn của con người cần phải tuyệt đối tinh tuyền thánh hảo, xứng đáng với Vị Thiên Chúa Chí Thánh Chí Tôn;
5- Được Thiên Chúa cứu chuộc toàn thể bản tính của mình, nên cả thân xác của con người nữa, cuối cùng cũng sẽ phục sinh, để cùng với linh hồn thiêng liêng bất tử, được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa trên Thiên Đàng sau cuộc Chung Thẩm của Chúa Kitô Vượt Qua, Đấng sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Với niềm tin tưởng như Giáo Hội trong Ngày Lễ Cầu Hồn Cho Các Tín Hữu đã Qua Đời 2/11 hằng năm này, chúng ta hãy cùng nhau lợi dụng dịp lễ này để suy niệm một chút, và vấn đề trên hết và trước hết, vấn đề then chốt nhất cần phải đặt ra ở đây hôm nay đó là:
1- Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?
2- Nếu chúng ta tin thế gian này chỉ là tạm bợ mau qua, Thiên Đàng mới là quê hương vĩnh hằng vinh phúc của chúng ta thì chúng ta đã sẵn lòng về với Chúa bất cứ lúc nào Ngài gọi chúng ta chưa??
3- Trên thực tế, chúng ta có tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết mọi sự hay chăng??? (Mt 6:33)
Tất cả những gì chúng ta làm trên trần gian này đều chứng thực cho chúng ta thấy chúng ta có thực sự đang tìm kiếm những gì trên trần gian này, có thực sự tìm Nước Chúa trước hết và trên hết hay chăng!Không phải chỉ ở chỗ tham dự Thánh Lễ, trong đó chúng ta nghe lời Chúa và hiệp lễ hằng ngày mà đủ, vì Chúa vẫn có thể phủ nhận chúng ta rằng "Ta không hề biết các ngươi" dù chúng ta có biện minh rằng chúng ta đã từng nghe Người giảng dạy (có thể hiểu là nghe lời Chúa trong lễ) và ăn uống với Người (có thể hiểu là hiệp lễ) - (xem Lk 13:25-27).
Hơn thế nữa, chúng ta còn cần phải: 1- cương quyết chống lại các chước cám dỗ, 2- phải chọn những gì trọn lành hơn là những gì dễ chịu thoải mái, và 3- phải chịu đựng mọi trái ý xẩy đến cho mình nữa v.v., mới chứng tỏ chúng ta quả thực tin có đời sau và tìm kiếm những gì chân thật và hoàn hảo bất diệt, và chúng ta quả thực tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết và trên hết mọi sự.
Giả sử Chúa cho các linh hồn dưới hỏa ngục được trở về trần gian nhưng phải chịu khổ gấp trăm ngàn lần hơn ở dưới hỏa ngục và liên lỉ suốt cả nghìn năm như thế thì họ có sẵn sàng trở lại trần gian hay chăng? Theo tôi, chắc chắn họ sẽ vui mừng hết sức vì biết rằng cho dù có khổ đến mấy đi nữa nhưng họ vẫn còn hy vọng được cứu rỗi và nắm chắc được phần rỗi của mình.
Và giả sử Chúa cho cả các thánh trên trời trở lại trần gian, một chuyện không bao giờ xẩy ra, như trường hợp các linh hồn đã muôn đời hư đi trong hỏa ngục, nhưng nếu được phép, theo tôi, các thánh cũng chấp nhận liền, không phải vì thiên đàng không đủ cho các ngài, mà là vì các ngài tự mình vẫn cảm thấy mình kính mến Chúa là Đấng vô cùng toàn thiện chí ái chưa đủ, nên được dịp là các ngài lợi dụng để yêu Chúa hơn bao nhiêu có thể, nhất là bằng những hy sinh đau khổ chỉ ở trên thế gian này mới có.
Thế thì:
1- Về thời gian: Tại sao chúng ta lại phung phí thời gian từng giây từng phút qua đi không bao giờ trở lại ở trên trần gian này với những thứ phù du chứ! Thời gian sống trên trần gian này quá ư là ngắn ngủi (hầu như là hư không) so với cõi đời đời, nhưng phải nói là nó quí "vô cùng", vì chỉ một tíc tắc cuối đời thôi của cuộc sống trần gian, chúng ta một là được Chúa hai là mất Chúa đời đời kiếp kiếp?
Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian mau qua ngắn ngủi trên đời này thì chúng ta chẳng những có thể biến mỗi ngày từ 24 tiếng thành 36 tiếng hay 48 tiếng, mà còn biến thời gian thành vĩnh cửu nữa, nhờ tinh thần sống siêu nhiên của chúng ta. Thật vậy, với sức tự nhiên mỗi ngày chúng ta chỉ làm được một số việc giới hạn nào đó, nhưng với lòng yêu mến Chúa, chúng ta có thể làm gấp đôi như vậy, thì không phải một ngày đã trở thành 2 ngày rồi hay sao, chỉ nhờ lòng yêu mến Chúa của chúng ta. Chưa hết, nếu chúng ta chỉ tìm ý Chúa và làm trọn ý Chúa trong mọi sự, thì chúng ta quả thực đã sống đời đời ngay trong thời gian và ngay trên trần gian này rồi vậy. Bởi vì: "Thế gian cùng với những quyến rũ của nó đang qua đi, nhưng ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa sẽ tồn tại muôn đời" (1Jn 2:17).
2- Về đau khổ: Tại sao chúng ta lại không chấp nhận tất cả những đau khổ, so với vinh quang bất diệt đời sau hay với hình phạt muôn đời trong hỏa ngục, thì chẳng là gì trên trần gian mau qua tạm gửi này, những đau khổ chẳng là gì đó lại có thể chẳng những đền bù tội lỗi của chúng ta, mà còn được thông hiệp với cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng quí báu của Chúa Kitô cho phần rỗi của "những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn", nhất là được dịp chịu đựng để tỏ lòng kính mến hơn nữa Đấng toàn ái chí tôn đã vô cùng yêu thương từng con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự như Ngài, đến độ đã trở thành đáng thương hơn cả đối tượng đáng thương của Ngài?
Nếu chúng ta đã không sợ đau khổ, trái lại, còn như Thánh Phaolô, coi Thánh Giá Chúa Kitô là vinh dự của chúng ta (xem Galata 6:14), thì tại sao chúng ta không xin Chúa cho chúng ta được chết vì Chúa và như Chúa cho phần rỗi của anh chị em chúng ta, một cái chết vô cùng ý nghĩa và vô giá, vì được diễm phúc nên giống Chúa Kitô, và được như Mẹ Maria vô nhiễm đồng công với Người cứu các linh hồn, được trở thành sự sống đời đời cho các linh hồn cần đến LTXC hơn, được LTXC tỏ hiện rạng ngời nhất qua cái chết như Chúa và với Chúa của chúng ta.
3- Về Đức Ái: Tất cả mọi sự trên đời này rồi cũng qua đi, kể cả đức tin bất khả thiếu để được cứu độ, chỉ duy đức ái là không qua đi, trái lại, đức ái sẽ tồn tại muôn đời, và chỉ có đức ái mới làm nên ý nghĩa và giá trị của cuộc đời, đến độ, không có đức ái chỉ toàn là thù hằn, bất an, đau khổ, trái lại, với đức ái con người luôn sống trong bình an, bất chấp mọi khổ đau gây ra cho mình bởi bất cứ ai, thậm chí còn dám chịu khổ với tha nhân, như tha nhân và cho tha nhân nữa, và chính đức ái là hoa trái thực sự của đức tin, một mầm mống sự sống nhỏ như hạt cải nhưng đã biến thành một cây vĩ đại đức ái, đến độ chim trời là các linh hồn đến làm tổ cứu độ nơi đức ái là chính Thiên Chúa này. Đức ái quả thực chính là thiên đàng trần thế vậy, và ai sống đức ái là hoan hưởng niềm vui bất diệt Thiên Đàng ngay trên trần gian này.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thiên Chúa là Cha toàn năng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô sống lại từ cõi chết, và sẽ cho thân xác yếu hèn của chúng ta được phục sinh. Vậy ta hãy tha thiết nguyện cầu :
Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.
Lạy Chúa là Cha chí thánh, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng con đã cùng chết, cùng được mai táng với Đức Ki-tô, và cùng sống lại với Người, - xin cho chúng con bước vào đời sống mới, để sau khi chết, chúng con được sống mãi với Người.
Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.
Chúa nuôi sống chúng con bằng bánh bởi trời, - xin cho chúng con nhờ đó mà tìm được sức sống, và đến ngày sau hết được phục sinh vinh hiển.
Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.
Chúa đã sai thiên thần đến an ủi Đức Ki-tô khi Người hấp hối, - xin cho chúng con vững lòng trông cậy trong giờ phút lâm chung.
Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.
Xưa Chúa đã giải thoát ba thiếu niên khỏi lửa hồng thiêu đốt, - xin đừng chấp tội anh chị em chúng con đã qua đời.
Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.
Chúa là Thiên Chúa kẻ sống và người chết, đã cho Đức Giê-su sống lại, - xin cho những ai đã qua đời được phục sinh, và cho chúng con được cùng họ hưởng vinh quang muôn đời.
Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.
Đức Ki-tô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. Vì thế, ta hãy thiết tha cầu nguyện :
Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Con Đức Chúa Trời hằng sống, Chúa đã làm cho bạn của Chúa là ông La-da-rô được sống lại, - xin cho những người đã được Chúa đổ máu ra cứu chuộc cũng được sống lại hiển vinh.
Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Đấng an ủi kẻ ưu phiền, Chúa đã lau sạch nước mắt cho những kẻ thương khóc người thân, - xin nâng đỡ anh chị em chúng con đang phải ưu phiền vì tang tóc.
Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Đấng chiến thắng tử thần, Chúa đã chết để đập tan quyền lực tội lỗi đang hoành hành nơi thân xác chúng con, - xin cứu chúng con khỏi chết muôn đời, và cho chúng con được hưởng phúc trường sinh với Chúa.
Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Đấng Cứu Thế, xin nhớ đến những người chưa biết Chúa, và sống không hy vọng, - xin cho họ tin rằng có một Đấng đã phục sinh, và có một cuộc đời bất tận.
Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Đấng chúng con hằng trông đợi, khi Chúa gọi chúng con từ giã cuộc đời chóng qua này, - xin dẫn đưa chúng con vào quê trời vĩnh cửu.
Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là ánh sáng của trần gian, Chúa đã mở mắt cho người mù được thấy, - xin cho anh chị em chúng con đã qua đời được vui hưởng ánh sáng ngàn thu.
Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.
Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhậm lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho lòng chúng con luôn trông cậy vững vàng : Chính Đức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Ngày 1 tháng 11
Lễ Các Thánh Nam Nữ
Lễ Trọng
Đại Lễ kính toàn thể Các Thánh Nam Nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng hà sa số những người đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.
Thánh thi (Phụng Vụ Giờ Kinh Ban Mai)
Quỳ lạy Đấng Cứu Tinh cao cả,
Xin cứu dân Ngài đã chuộc về,
Cậy trông Thánh Mẫu quyền uy
Ra tay tế độ phù trì chúng sinh.
Xin toàn thể đạo binh thiên sứ,
Và ngàn muôn tổ phụ bao đời
Hợp cùng ngôn sứ muôn nơi
Chuyển cầu cho hết mọi người trần gian.
Khấn nguyện thánh Gio-an Tẩy Giả,
Thánh Phê-rô giữ cửa thiên đàng,
Bậc tông đồ Chúa cao sang,
Xích xiềng tội lỗi xin thương giải trừ.
Hàng tử đạo năm châu bốn bể,
Và chư huynh tư tế hiển vinh,
Cùng bao liệt nữ trung trinh,
Xin mau rửa sạch tội tình chúng tôi.
Mong các thánh sống đời ẩn sĩ,
Cùng chư tôn liệt vị Nước Trời
Cầu thay nguyện giúp chúng tôi,
Đáng cho Chúa thưởng cuộc đời kiên trung.
Lời vinh chúc tán dương cảm tạ,
Dâng Ba Ngôi một Chúa thiên đình
Hằng ban phúc lộc trường sinh
Cho hàng thần thánh hiển vinh muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Kh 7, 2-4, 9-14
"Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc
đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng".
Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc
đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn
thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: "Chớ có tàn phá
đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của
Thiên Chúa chúng ta". Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là
một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ
thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng
trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay
cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên
Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên".
Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các
trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy
Thiên Chúa rằng: "Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ,
vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời.
Amen". Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: "Những người
mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?" Tôi đáp lại rằng:
"Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ". Và người bảo tôi rằng: "Họ là những
người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong
máu Con Chiên".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a).
Xướng: 1) Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu
và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái
đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi. - Ðáp.
2) Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh
điện? Ðó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để
lòng xuôi theo sự giả trá. - Ðáp.
3) Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa,
Ðấng giải thoát họ. Ðấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ
tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-3
"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối
với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và
thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế
gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con
Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta
biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người
thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi
Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Ðấng Thánh.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 11, 28
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những
ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con". -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 1-12a
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc
Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng
dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. -
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. -
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai
đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai
hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai
có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho
những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc
cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi
ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui
mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Chia sẻ Lời Chúa:
sự sống viên trọn
Thật vậy, Sách Khải Huyền ở đoạn 7 đã cho chúng ta thấy số phận của Các Thánh nơi hình ảnh "đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: 'Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên'... Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: 'Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?' Tôi đáp lại rằng: 'Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ'. Và người bảo tôi rằng: 'Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên'".
Phải, nếu NÊN THÁNH là nên giống Chúa Kitô, mà Chúa Kitô là
một Đấng Thiên Sai Cứu Thế khổ nạn và tử giá, và nếu môn đệ
không hơn Thày, đầy tớ không hơn chủ (xem Gioan 13:16), thì ai
muốn theo Người, muốn làm môn đệ của Người không thể đi
con đường nào khác ngoài con đường chính Người đã đi như một
gương mẫu tối hậu cho họ. Càng nên giống Người càng phải khổ.
Càng khổ càng nên giống Người, đúng như dự án của Thiên Chúa: "Những
ai Ngài biết trước thì Ngài cũng tiền định cho thông phần
hình ảnh Con của Ngài" (Roma 8:29). Như thế, nếu Các Thánh
là thành phần giống Chúa Kitô nhất thì các ngài phải là những
con người đã "đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải
Huyền 14:4): "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ
giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên'".
Bài Đáp Ca liên quan tới tinh thần của các ngài.
Thế nhưng, để có thể "từ đau khổ lớn lao mà đến, giặt áo và
tẩy áo trắng trong máu Con Chiên", "đi đến bất cứ nơi nào Con
Chiên tới" như thế, Các Thánh, như Bài Đáp Ca cho thấy, cần
phải "là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa, những kẻ tìm tôn
nhan Thiên Chúa của Giacóp", thành phần "có bàn tay vô
tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá".
Bài Đọc 2 liên quan tới vinh phúc của các ngài.
Ngay từ khi lãnh nhận Phép Rửa, Kitô hữu đã là thánh, vì đã được trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa, đã được thông phần vào bản tính vô cùng hoàn thiện của Thiên Chúa và sự sống thần linh vô cùng viên mãn của Ngài, một hiệp thông thần linh ngay khi còn ở trần gian này, và nhờ đó, sau này, như lời trong Bài Đọc 2 được trích từ Thư 1 của Thánh Gioan khẳng định: "chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy".
Bài Phúc Âm liên quan đến thánh đức của các ngài.
Vẫn biết, nhờ Phép Rửa, Kitô hữu đã LÀ THÁNH, nhưng thực tế cho
thấy bản tính vướng mắc nguyên tội của con người, cho dù đã được
thanh tẩy, đã được tha khỏi nguyên tội, vẫn còn nguyên dấu vết
và hậu quả của nguyên tội, chẳng những sống đời khổ đau và
cùng đời chết đi, mà vẫn còn mầm mống tội lỗi là đam mê nhục dục
cùng tính mê nết xấu trong mình nữa, khiến họ luôn hướng hạ và
khuynh chiều về xác thịt, có thể sa ngã phạm tội bất cứ lúc nào,
cần phải quyết liệt chiến đấu cho tới cùng, nhất là khi gặp gian
nan khốn khó.
Bởi thế, cho dù đã LÀ THÁNH, trong cuộc hành trình đức tin trên
trần thế, đầy những cám dỗ và khổ đau, gây ra bởi xác thịt, thế
gian và ma quỉ, Kitô hữu vẫn cần phải liên lỉ NÊN THÁNH nữa,
bằng cách thắng vượt bản tính tự nhiên luôn tìm hưởng thụ đầy vị
kỷ của mình, mà trung thành sống theo tác động thần linh của
Thiên Chúa. Nhờ đó, họ mới có thể LÀM THÁNH đúng như ơn gọi
LÀM Con Thiên Chúa và bản chất LÀ Con Thiên Chúa của họ, thành
phần tác hành như Thiên Chúa là Cha của mình muốn, như Cha của
mình tác hành: "trọn lành như Cha trên trời" (Mathêu
5:48), "thương xót như Cha thương xót" (Luca 6:36),
và "yêu nhau như Thày đã yêu" (Gioan 13:34, 15:12).
Bài Phúc Âm của Thánh ký cho Lễ Các Thánh hôm nay đã cho thấy
thành phần LÀM THÁNH này, qua những tác động siêu nhiên,
tác động thần linh, tác động trọn lành của họ, những
tác động được gọi là thánh đức và được liệt kê thứ tự như sau:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ
nghiệp.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no
thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót
thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem
Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là
của họ.
Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và
bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con
hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở
trên trời".
Thánh đức của các thành phần con cái Thiên Chúa, của những ai
LÀM THÁNH như Các Thánh, đó là sống những tinh thần trọn lành
sau đây:
"Nghèo khó": CÁC THÁNH là những vị trước hết không
theo đam mê yêu thích và dính bén với bất cứ một người nào, một
vật nào, một việc nào hay một sự gì trên thế gian này ngoài
Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ duy nhất tối cao của các vị, là
"Nước Trời" của các vị; dù mọi sự trên thế gian này cần
thiết mấy chăng nữa, tốt lành mấy chăng nữa và ích lợi mấy chăng
nữa, các vị cũng chỉ sử dụng chúng như phương tiện tạm bợ hơn là
cùng đích của các vị.
"Hiền lành": CÁC THÁNH là những vị không bao
giờ tỏ thái độ khinh bỉ trần gian và ghét bỏ trần gian, như
những tâm hồn mới bước vào đường nhân đức cảm thấy sốt sắng nhất
thời mắc phải, hay như những tâm hồn là nạn nhân của thế gian
nên quay ra thù hận ghét bỏ thế gian, trái lại, tinh thần nghèo
khó siêu thoát còn làm cho các vị thanh thoát sử dụng tất cả mọi
sự và "hiền lành" đối xử với tất cả mọi sự đúng như giá
trị của chúng, nên các vị chẳng những không mất chúng mà còn
giữ được chúng như "được đất làm của mình vậy", ở
chỗ các vị thánh hóa chúng bằng tinh thần khó nghèo siêu thoát
của các vị.
"Khóc lóc": CÁC THÁNH là những vị
sống khổ chế theo tinh thần khó nghèo trọn lành, cho dù việc
sống khổ chế của các vị có làm cho bản tính tự nhiên vốn xu
hướng về hưởng thụ vị kỷ của các vị ban đầu trải qua những
lúc cảm thấy tiếc xót; thế nhưng, cho dù lòng tham muốn tự
nhiên có cảm thấy "đau buồn" hay "khóc lóc",
như Dân Do Thái xưa trong sa mạc muốn quay về với củ hành củ
tỏi Ai Cập, các vị vẫn cảm thấy một thứ "an ủi" khôn
sánh trong tâm hồn.
"Đói khát sự công chính": CÁC THÁNH là những vị đói
khát sự công chính hơn ai hết, vì các vị đã có được 3
phúc đức đầu trên đây trong Tám Mối Phúc Thật liên quan đến tinh
thần từ bỏ tạo vật cũng như chính mình, đến độ các vị không "đói
khát" hay mong ước gì hơn ngoài Nước Trời, ngoài "sự
công chính", ngoài phần rỗi các linh hồn, đến độ cái làm
cho các vị "no thỏa" nhất, mãn nguyện nhất, vui sướng
nhất là được hy sinh và phục vụ tha nhân, nhất là những người
anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô, theo khả năng và hoàn
cảnh hết sức của các vị.
"Thương xót": CÁC THÁNH là những vị
"thương xót" đồng loại hơn ai hết, nhất là những người
anh chị em hèn mọn nhất của các vị về thể lý (nghèo khổ), về tâm
lý (khù khờ), về tâm linh (dại dột), về luân lý (tội lỗi),
về đạo lý (lầm lạc) v.v. Các vị cảm thấy những bất hạnh nơi anh
chị em của mình như là của các vị, và vì thế các vị dám dấn
thân hy sinh cho họ hết sức mình, đến độ, các vị trở thành đáng
"thương xót" như Chúa Kitô khổ giá đáng thương hơn cả
tội nhân.
"Có lòng thanh sạch": CÁC THÁNH là những vị được
hiệp nhất nên một với Vị Thiên Chúa là Tình Yêu, bằng tấm "lòng
thanh sạch", chẳng những ở chỗ các vị không hề quyến luyến
và dính bén với bất cứ một sự gì trần tục thấp hèn trên thế gian
này, mà còn ở chỗ, nhất là sau khi các vị trải qua đêm tối tăm
thanh tẩy đức tin của các vị, các vị được Thánh Linh Chúa
chiếm đoạt và làm chủ, nhờ đó các vị có được một con mắt hết
sức tinh tường hơn ai hết trong việc "nhìn xem Thiên Chúa",
tức là trong việc dễ dàng nhận biết ý Chúa muốn để đáp ứng
một cách thích đáng.
"Ăn ở hòa thuận": CÁC THÁNH là những vị
tràn đầy bình an của những người "con cái Thiên Chúa",
không gì có thể cướp mất bình an Chúa Kitô ban cho các vị ở nơi
tâm hồn của các vị, cho dù các vị có bị đau khổ thử thách, trái
lại, chính nhờ tình trạng bình an sâu xa trong tâm hồn các vị
ngay trong chính những biến loạn của cuộc đời như thế của các
vị mà các vị luôn "ăn ở thuận hòa", không bao giờ
có đối thủ, không bao giờ biết thù hằn oán ghét ai, trái lại,
luôn tha thứ và nhẫn nại chịu đựng hết mọi phiền toái hay xúc
phạm gây ra bởi những người anh chị em của các vị.
"Chịu bách hại vì lẽ công chính": CÁC THÁNH là những vị
sống công chính, mà công chính như ánh sáng chiếu soi tăm tối
nên các vị luôn trở thành mục tiêu chống đối và "bách hại"
của quyền lực sự dữ, của thành phần bất chính, như lương tâm
chân chính bao giờ cũng bị con người phàm tục đê hèn phản
loạn và đàn áp, như các tiên tri loan báo những gì Thiên
Chúa nhắc nhở đều bị dân Do Thái chống đối và sát hại, như chính
Chúa Kitô bị dân Người phủ nhận và đóng đanh; nếu không một
quyền lực sự dữ nào có thể triệt hạ được Đấng phục sinh từ trong
kẻ chết, thì quyền lực bất khuất và bất diệt ấy cũng
biến những bách hại của các vị trở thành hạt giống "Nước
Trời".
Chúng ta hãy mau đến với các anh em đang chờ đợi chúng ta
(Giờ Kinh Sách Phụng Vụ 1-11)
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.
Chúng ta ca ngợi các thánh để làm gì ? Chúng ta tôn vinh các thánh để làm gì ? Chúng ta mừng ngày đại lễ này để làm gì ? Những vinh dự trần gian ích gì cho các ngài, một khi Chúa Cha trên trời tôn vinh các ngài đúng như lời Chúa Con đã hứa ? Lời tán dương của chúng ta ích gì cho các ngài ? Các thánh không cần chúng ta tôn vinh và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài. Thật ra, chúng ta kính nhớ các ngài thì ích lợi cho chúng ta chứ không phải cho các ngài. Phần tôi, tôi phải thú thật là khi tưởng nhớ các ngài, tôi cảm thấy bừng lên trong tôi một khát vọng mãnh liệt.
Thật vậy, việc kính nhớ các thánh hoặc khơi lên hoặc thôi thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này : đó là mong được họp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Tóm lại, chúng ta được hân hoan sum họp trong mối dây hiệp thông với toàn thể các thánh. Cộng đoàn các con đầu lòng của Thiên Chúa đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn vô tình ! Các thánh đang mong chúng ta, thế mà chúng ta lại coi thường ! Các bậc công chính đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn hờ hững !
Cuối cùng, thưa anh em, chúng ta hãy thức dậy, hãy trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô. Chúng ta hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới. Chúng ta hãy mong những người đang mong chúng ta, hãy mau đến với những người đang đợi chúng ta, hãy hết lòng ước nguyện tiến đến với những người đang chờ chúng ta. Không những chúng ta phải ao ước được hợp đoàn với các thánh, mà còn phải ao ước được chia sẻ hạnh phúc với các ngài, để khi chúng ta mong được ở với các ngài, thì chúng ta cũng nóng lòng ôm ấp tham vọng được chia sẻ vinh quang với các ngài. Quả vậy, ôm ấp tham vọng như thế chẳng có chi là xấu xa, khao khát được vinh quang như thế không có gì là nguy hiểm.
Việc kính nhớ các thánh đốt lên trong chúng ta khát vọng thứ hai : đó là mong mỏi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện cho các thánh thế nào thì Người cũng xuất hiện cho chúng ta như thế, và chúng ta cũng được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang. Trong khi chờ đợi, hẳn nhiên Người tỏ mình ra cho chúng ta không phải theo bản chất thường hằng của Người, nhưng theo thân phận Người đã đón nhận vì chúng ta : Người cho thấy Người là đầu của chúng ta, nhưng không phải là đầu đội triều thiên vinh quang, mà là đầu cuốn vòng gai vì tội lỗi chúng ta. Thật đáng xấu hổ khi đầu đội vòng gai mà một chi thể lại theo đuổi lạc thú, vì toàn thể chiếc áo đỏ thẫm khoác trên mình Người chưa phải là áo vinh dự cho bằng là áo nhạo cười. Sẽ có ngày Đức Ki-tô ngự đến, và ngày đó không còn phải loan báo về cái chết của Người nữa, để chúng ta biết rằng chính chúng ta cũng đã chết và sự sống của chúng ta hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô. Đầu hiển vinh sẽ xuất hiện và, cùng với đầu, các chi thể đã được tôn vinh sẽ chiếu sáng, khi Người biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống đầu vinh hiển là chính Người.
Vậy chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh quang ấy. Và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, có quyền hướng tới hạnh phúc lớn lao chừng ấy, chúng ta cũng phải hết sức ước ao được các thánh cầu nguyện cho, ngõ hầu những gì tự sức chúng ta không xin được, thì nhờ lời chuyển cầu của các ngài, Chúa sẽ ban cho chúng ta.
"Các thánh
chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí Tích
Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền 'ấn tín' ấy, tác hành như
là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa
Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các
vị 'thấy Thiên Chúa như Ngài là'".
Xin chào Anh Chị Em thân mến và chúc mừng ngày quan thày!
Trong việc cử hành hôm nay, Lễ Các Thánh,
chúng ta cảm thấy thực tại Các Thánh Thông Công đặc biệt trở nên sống động,
tức là đại gia đình của chúng ta, được làm nên bởi tất cả mọi phần tử của
Giáo Hội, có thành phần chúng ta còn đang hành
trình trên trần gian, có những người - đông đảo hơn - đã ra khỏi trần gian
và đã về Trời. Tất cả chúng ta đều được hiệp nhất, được gọi là "Các Thánh
Thông Công", tức là cộng đồng của tất cả những ai đã lãnh nhận
Phép Rửa.
Trong phụng vụ, Sách Khải Huyền nhắc nhở
chúng ta một đặc tính thiết yếu của các thánh như thế này: các vị là những
con người hoàn
toàn thuộc về Thiên Chúa. Cuốn Sách này cho thấy các vị là một đám đông
"được tuyển chọn", mặc áo trắng và có in "ấn tín của Thiên Chúa"
(7:2-4,9-14). Qua cái cá biệt cuối cùng này, được nhấn mạnh bằng thứ ngôn từ
bóng bẩy, cho thấy các
thánh thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn và chuyên biệt; các
vị là tài sản của Ngài. Mang ấn tín của Thiên Chúa trong đời sống của mình
và nơi con người của mình nghĩa là gì? Tông Đồ Gioan
cũng cho biết rằng nó có nghĩa là trong
Chúa Giêsu Kitô, chúng ta đã thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa (xem
1Gioan 3:1-3).
Chúng ta có nhận thức được đại tặng ân này
hay chăng? Chúng ta có nhớ rằng nơi Phép Rửa chúng ta đã được Cha Trên Trời
"niêm ấn" và đã trở nên con cái của Ngài hay chăng? Nói đơn giản là chúng
ta mang tên họ của Thiên Chúa, tên họ của chúng ta là Thiên Chúa, vì chúng
ta là con cái của Thiên Chúa. Đây là gốc gác của ơn gọi nên thánh! Các
thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí
Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền "ấn tín" ấy, tác hành
như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa
Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các
vị "thấy Thiên Chúa như Ngài là".
Đặc tính thứ hai thích đáng với các thánh
đó là các
vị trở nên những tấm gương để bắt chước.
Chúng ta hãy lưu ý nhé: chẳng
những các vị Thánh được tôn phong mà có thể nói cả những vị Thánh "ở bên
cạnh" chúng ta, những vị nhờ ơn Chúa đã nỗ lực thực hành Phúc Âm nơi những
cái thường tình trong đời sống của họ.
Chúng ta cũng đã gặp những vị Thánh này: có lẽ chúng ta đã có một ai đó
trong gia đình của chúng ta, hay trong số bạn bè quen biết của chúng ta.
Chúng ta cần phải biết ơn họ và nhất là cần phải tạ ơn Chúa là Đấng đã ban
họ cho chúng ta, Đấng đặt họ gần chúng ta, như là những tấm gương sống động
và lây lan về cách sống chết trung thành với Chúa Giêsu cũng như với Phúc Âm
của Người. Biết bao người tốt lành chúng ta đã biết đến và đang biết đến và
chúng ta nói rằng: "Người này là một vị Thánh!", chúng ta nói như thế một
cách bộc phát. Đó là những vị Thánh kề bên chúng ta, những vị chưa được tôn
phong nhưng đang sống với chúng ta.
Để bắt chước các hành vi cử chỉ yêu thương
và nhân hậu của họ là một cái gì đó như thể kéo dài sự hiện diện của họ trên
thế gian này. Thật vậy, những
hành vi cử chỉ phúc âm ấy là những hành vi cử chỉ duy nhất chống lại cái hủy
hoại của sự chết: một hành động êm ái dịu dàng, một hành động quảng đại giúp
đáp, giành thời gian lắng nghe, một cuộc viếng thăm, một lời nói tử tế, một
nụ cười tươi... Những
hành vi cử chỉ này có vẻ tầm thường chẳng là gì trước con mắt của chúng ta,
thế nhưng trước con mắt của Thiên Chúa chúng lại là những gì thường hằng, vì
tình yêu và lòng thương cảm mạnh hơn cả sự chết.
Chớ gì Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Các Thánh,
giúp chúng ta tin tưởng hơn nữa vào ân sủng của Thiên Chúa, tiến bước nhanh
chóng trên đường
thánh thiện. Chúng ta hãy ký thác cho Người Mẹ của chúng ta nỗ lực hằng ngày
của chúng ta, và chúng ta cũng nguyện cầu cùng Mẹ cho kẻ chết của chúng ta
với niềm hy vọng sâu xa rằng chúng ta sẽ được gặp lại họ một ngày kia tất cả
cùng nhau ở trong mối hiệp thông vinh hiển trên Thiên Đàng.
http://www.zenit.org/en/articles/full-text-pope-s-angelus-address--3
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)
ĐTC PHANXICÔ: HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ CÁC THÁNH THỨ TƯ NGÀY 1-11-2017
"Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm"
Xin chào và mừng
lễ Anh Chị Em thân mến!
Lễ Trọng Các Thánh là lễ của "chúng ta", không phải vì chúng ta tốt lành mà
vì sự thánh thiện của Thiên Chúa đã đụng chạm tới chúng ta. Các Thánh không
phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên
Chúa đụng chạm.
Chúng ta có thể so sánh các vị với những cửa sổ ở các nhà thờ, nơi ánh sáng
lọt qua bằng các bóng mầu khác nhau. Các Thánh là những người anh chị em của
chúng ta, thành phần đã lãnh nhận ánh sáng của Thiên Chúa nơi tâm hồn của
mình và truyền đạt ánh sáng này cho thế giới, mỗi vị theo cái bóng của mình.
Tuy nhiên, tất cả các vị đều trong sáng; các vị đã chiến đấu để loài bỏ đi
các dấu vết và bóng tối của tội lỗi, để cho ánh sáng tốt lành của Thiên Chúa
chiếu qua. Đó là mục đích của đời sống: để cho ánh sáng của Thiên Chúa chiếu
qua nhờ đó đời sống của chúng ta cũng mới có mục đích.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu hướng về thành phần của
Người, về tất cả chúng ta, mà nói với chúng ta rằng "Phúc thay - Blessed"
(Mathêu 5:3). Người đã mở đầu việc giảng dạy của Người bằng lời ấy, có nghĩa
là "Phúc Âm - Gospel", là Tin Mừng - Good News, vì đó là lối sống hạnh phúc.
Ai ở với Chúa Giêsu thì có phúc - blessed, thì hạnh phúc - happy. Hạnh phúc
không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế.
Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế
chăng? Hạnh
phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải
thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin
như thế chăng? Chúng ta cần phải tiến tới chỗ tin như thế. Bấy giờ các thứ
yếu tố làm thành một đời sống hạnh phúc mới được gọi là các mối
Phúc Đức - Beatitudes: phúc cho ai đơn sơ, cho ai khiêm hạ biết
giành chỗ cho Thiên Chúa, những người có thể khóc thương kẻ khác và khóc vì
lầm lỗi của mình, những người hiền lành, chiến đấu cho công lý, biết thương
xót tất cả mọi người, biết canh giữ tính chất tinh tuyền của tâm can, luôn
hoạt động cho hòa bình và sống hân hoan; họ không biết thù ghét, thậm chí
ngay cả khi chịu khổ đau, họ đáp lại sự dữ bằng sự lành.
Đó là những mối Phúc Đức. Chúng không đòi hỏi những cử chỉ hào nhoáng; chúng
không giành cho thánh phần siêu việt - supermen, mà là cho những ai sống các
thứ thách đố và khốn khó hằng ngày, mà là cho chúng ta. Các Thánh là như thế
đó: như tất cả chúng ta, các vị hít thở bầu khí phóng uế của sự dữ xầy ra
trên thế giới này; tuy nhiên, trong cuộc hành trình các vị vẫn không bao giờ
lạc mất dấu
vết của Chúa Giêsu - Jesus' trace,
được nói đến trong các mối Phúc Đức, như tấm
bản đồ của đời sống Kitô hữu. Hôm nay là lễ của những ai đã đạt
tới đích điểm được phác họa nơi tấm bản đồ ấy:
không những của các Thánh nhân theo niên lịch, mà còn cả của rất nhiều anh
chị em "cận kề" chúng ta nữa, những con người có lẽ chúng ta đã gặp gỡ và
biết đến. Đó là một lễ của
gia đình - a family feast, của nhiều con người đơn sơ và kín đáo
thực sự giúp Thiên Chúa trong việc đẩy mạnh thế giới này. Có rất nhiều người
hôm nay đây! Rất nhiều. Xin cám ơn những người anh chị em ẩn danh đang giúp
Thiên Chúa đẩy mạnh thế giới này, những con người sống giữa chúng ta. Chúng
ta chào họ bằng một tràng pháo tay nhiệt liệt!
Trước hết - hãy nói đến mối Phúc Đức thứ nhất - họ là những người "có tinh
thần nghèo khó" (Mathêu 5:3). Nghĩa là gì? Nghĩa là họ không sống vì thành
đạt, quyền năng và tiền của; họ biết rằng ai tích lũy giầu sang phú quí cho
bản thân mình thì không làm giầu trước nhan Thiên Chúa (xem Luca 12:21).
Trái lại, họ tin rằng Chúa mới là kho tàng của đời sống, tình yêu thương tha
nhân là nguồn lợi tức duy nhất thực sự. Đôi khi chúng ta không cảm thấy hạnh
phúc về một cái gì đó chúng ta đang thiếu hay quan tâm, một khi chúng ta
không được cứu xét đến như chúng ta mong muốn; chúng ta hãy nhớ rằng mối
Phúc Đức của chúng ta không ở trên đời này, mà là ở trong Chúa và nơi tình
yêu thương: con người thực sự có phúc chỉ khi nào ở với Người, chỉ ở chỗ yêu
thương mà thôi.
Sau hết, tôi muốn nói đến một mối Phúc Đức khác, mối phúc đức không có trong
Phúc Âm mà là ở cuối cuốn Thánh Kinh, mối phúc đức về việc kết thúc đời
sống: "Phúc cho thành phần chết trong Chúa" (Khải
Huyền 14:13). Ngày mai chúng ta sẽ được kêu gọi hỗ trợ người chết của chúng
ta bằng việc cầu nguyện, nhờ đó họ được hoan hỉ muôn đời trong Chúa. Chúng
ta hãy tưởng nhớ đến những người thân yêu của chúng ta bằng tấm lòng tri ân
và chúng ta hãy nguyện cầu cho họ.
Xin Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Các Thánh và là Cửa Thiên Đàng, chuyển cầu cho
cuộc hành trình nên thánh của chúng ta và cho những người thân yêu của chúng
ta đã ra đi trước chúng ta và giờ đây đang ở quê hương thiên đình.
https://zenit.org/articles/angelus-address-solemnity-of-all-saints/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi
tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu
Thiên Chúa ngự giữa triều thần thánh. Chúng ta hãy vui sướng cầu xin :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời !
Lạy Chúa, cùng với các thiên thần, các tổ phụ và ngôn sứ, chúng con xin dâng lời ca tụng :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời !
Cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Thân Mẫu Chúa Cứu Thế, chúng con xin khen ngợi suy tôn :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời !
Cùng với các Tông Đồ và môn đệ Chúa Giê-su, cùng với các tác giả Sách Tin Mừng, chúng con xin chân thành cảm tạ :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời !
Cùng với các nhân chứng của Đức Ki-tô, chúng con xin dâng cả xác hồn làm lễ tế :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời !
Cùng với các thánh nam nữ, thành phần của Giáo Hội, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Chúa :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời !
Chúa là vinh quang muôn đời của các thánh. Vậy ta hãy vui sướng cầu xin :
Xin Chúa nhậm lời các thánh chuyển cầu,
mà cứu độ chúng con.
Lạy Chúa là Đấng vô cùng thượng trí, nhờ Đức Ki-tô, Chúa đã đặt các thánh Tông Đồ làm nền tảng Giáo Hội, - xin cho chúng con luôn trung thành tuân giữ lời giáo huấn của các ngài.
Xin Chúa nhậm lời các thánh chuyển cầu,
mà cứu độ chúng con.
Chúa đã ban sức mạnh cho các thánh tử đạo, để các ngài hy sinh mạng sống và làm chứng cho Đức Ki-tô, - xin cho các tín hữu cũng được lòng can đảm để làm chứng cho Đức Ki-tô như vậy.
Xin Chúa nhậm lời các thánh chuyển cầu,
mà cứu độ chúng con.
Chúa đã ban cho các thánh trinh nữ được vinh dự nên giống Đức Ki-tô là Đấng vô cùng trinh khiết, - xin cho những ai đã dâng mình cho Chúa, biết sống trọn đời trinh khiết để làm chứng cho Nước Trời.
Xin Chúa nhậm lời các thánh chuyển cầu,
mà cứu độ chúng con.
Chúa cho chúng con được thấy Chúa hiện diện trong cuộc đời các thánh, và được nghe tiếng Chúa qua lời các ngài dạy dỗ, - xin cho chúng con được cảm thấy gần gũi Chúa hơn khi tôn kính các ngài.
Xin Chúa nhậm lời các thánh chuyển cầu,
mà cứu độ chúng con.
Xin cho anh chị em chúng con đã lìa thế được chung hưởng vinh quang Nước Trời, cùng với Đức Mẹ và các thánh, - và cho cả chúng con sau này cũng được hưởng phúc vô biên.
Xin Chúa nhậm lời các thánh chuyển cầu,
mà cứu độ chúng con.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Chúng con cầu xin