SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

 

Tuần XXXI Thường Niên Năm B (Chúa Nhật) Năm Chẵn (trong tuần)



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Ðnl 6, 2-6

"Hỡi Israel, hãy nghe đây: Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng ngươi".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.

"Hỡi Israel, hãy nghe đây mà tuân hành các điều Chúa truyền dạy cho ngươi, thì ngươi được phần phúc và sinh sản ra nhiều hơn, như lời Chúa là Thiên Chúa tổ phụ ngươi đã hứa ban cho ngươi phần đất chảy sữa và mật.

"Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47-51ab

Ðáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa; lạy Chúa là đá tảng, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Vạn tuế Thiên Chúa, chúc tụng Ðá Tảng của con, ngợi khen Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho đức vua được đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 7, 23-28

"Vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu".

Trích thư gởi cho tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, có nhiều người làm tư tế (của Giao Ước cũ), vì lẽ sự chết ngăn trở họ tồn tại lâu bền. Còn Ðức Kitô, vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu. Bởi đó, Người có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta.

Phải, vì chúng ta cần một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Người không cần phải như các tư tế hằng ngày dâng lên của lễ trước là đền tội lỗi mình, sau là đền tội lỗi dân chúng, vì Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 28b-34

"Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp:

"Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".

Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".

Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

 

My Reflections...: Reflection for March 12 Friday of the Third Week of  Lent: Mark 12:28-34

 

Chia sẻ suy niệm

 

Chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục được chất chứa trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B hôm nay, liên quan đến giới răn cao trọng nhất.

Trước hết, trong bài Phúc Âm hôm nay, để trả lời cho hỏi của một "người trong nhóm luật sĩ": "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?", Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".

Câu trả lời của Chúa Giêsu, phần đầu, không phải chỉ lập lại hầu như nguyên văn lời huấn dụ của Moisen cho dân Do Thái trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi", mà còn bao gồm cả giới răn yêu thương tha nhân như bản thân mình nữa.

Câu trả lời của Chúa Giêsu chí lý đến nỗi đã làm cho luật sĩ này không thể nào không công nhận và khen tặng, vì chắc đó cũng là những gì nhân vật thông luật này thâm tín và cố gắng giữ luật và dạy luật cho dân chúng như đúng tinh thần và cốt lõi của luật là yêu thương. 

"Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".
     Về phần mình, nếu câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho vị luật sĩ khâm phục thế nào thì câu công nhận của vị luật sĩ sau đó cũng rất tâm đắc với Chúa Giêsu. Ở chỗ, nhân vật này chẳng những công nhận những gì Người nói là chí lý mà còn thêm một nhận định riêng đầy ý thức của mình nữa khi so sánh giá trị cao vượt của yêu thương "hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".

Câu công nhận đầy cảm nghiệm của vị luật sĩ ấy đã hoàn toàn phản ảnh với những gì Chúa Giêsu đã quả quyết trong bữa ăn ở nhà của nhân viên thu thuế Levi được Người kêu gọi và trở lại theo Người, một bữa ăn trong số khách tham dự có cả những người biệt phái là thành phần đã kêu trách Chúa với các môn đệ của Người về hành động Người ngồi ăn uống với thành phần tội lỗi, những lời kêu trách hoàn toàn sai trái với cốt lõi của lề luật là tình thương: "Điều Ta mong muốn là lòng nhân lành chứ không phải lễ vật(Mathêu 9:11-13).

Đó là lý do, sau khi nghe câu trả lời công nhận đầy cảm nhận chính xác này của vị luật sĩ ấy, hơn hẳn hầu hết thành phần luật sĩ và biệt phái thông luật, giữ luật và dạy luật trong dân chúng, Chúa Giêsu đã không thể nào không lên tiếng khen ngợi và phấn khích con người "bày tỏ ý kiến khôn ngoan" ấy rằng: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Nghĩa là nhân vật này như thể đã thấy được tất cả sự thật nơi lề luật, như Moisen được thấy Đất Hứa từ đỉnh núi Nabo là nơi vị giải phóng dân Do Thái này chưa được đặt chân vào vậy (xem Dân Số 27:12).

Thật vậy, thâm tín được giới răn cao trọng nhất là kính mến Thiên Chúa hết mình và yêu thương tha nhân như mình là chuyện đã khó, nhưng áp dụng thực hành hai giới răn chính yếu và cao trọng nhất này nữa mới càng khó hơn. Có một số Kitô hữu Công giáo nói rằng mến Chúa thì dễ mà yêu người thì khó. 

Cảm nghiệm này của họ dường như chối bỏ hai nguyên tắc mến chúa thì phải yêu người mà yêu người thì phải phản ảnh tình Chúa yêu: 1- đã mến Chúa thì phải yêu người (xem 1Gioan 4:20-21), bởi thế nếu yêu người mà khó thì mến Chúa cũng khó, không thể nào lại dễ được; 2- muốn yêu người thì phải có tình yêu Thiên Chúa là Đấng đã yêu họ chứ không một ai có thể yêu người một cách trọn lành như chính Chúa đã yêu họ (xem Gioan 13:34, 15:12). 

Đó là lý do Thánh Phaolô Tông Đồ, trong thư gửi Giáo đoàn Do Thái ở Bài Đọc 2 hôm nay, ở câu kết, đã nhận định rằng: "Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời".

Được lãnh nhận Phép Rửa, Kitô hữu cũng được thông phần với vai trò vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô: Vai trò vương đế của Kitô hữu là ở chỗ họ làm chủ mọi sự như Chúa Kitô Phục Sinh được toàn quyền trên trời dưới đất (xem Mathêu 28:19); vai trò ngôn sứ của họ là ở chỗ họ làm chứng nhân như Chúa Kitô và cho Chúa Kitô về tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô (xem Gioan 3:16); và vai trò tư tế của họ là ở chỗ họ thánh hóa tất cả mọi tạo vật và sự vật được trao phó cho họ hay họ tiếp xúc trong đời sống trần gian của họ.

Riêng vai trò tư tế của mình, cho dù họ tự bản chất là thành phần "những người yếu đuối làm tư tế", nhưng vai trò tư tế của họ được thông phần với Chúa Kitô là vị tư tế thượng phẩm, một vị thượng tế chẳng những là chủ tế mà còn chính là hy tế cứu độ cho phần rỗi của nhân loại nữa, hoàn toàn chỉ vì Người yêu thương nhân loại như Cha đã yêu Người (xem Gioan 17:23), nhờ đó họ cũng mới có thể yêu thương nhau như Người đã yêu thương họ. Và chỉ có đức ái trọn hảo nơi Kitô hữu sống trọn vẹn vai trò tư tế này mới thực sự "hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh" mà họ hằng ngày, với vai trò tư tế phổ quát hay thừa tác, hiến dâng trong phụng vụ Thánh Thể.

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa một cảm nhận sâu xa về thân phận yếu đuối của con người, một thân phận rất cần đến Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể giúp họ mến Chúa hết mình và nhất là yêu tha nhân như chính Ngài yêu họ:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa; lạy Chúa là đá tảng, chiến lũy, cứu tinh.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. 

3) Vạn tuế Thiên Chúa, chúc tụng Ðá Tảng của con, ngợi khen Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho đức vua được đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài. 

 


Kính Thánh Martin de porres - Tướng tiên phong đức ...

(03/11)


 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 2, 1-4

"Anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Ðức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau; chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh, hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình; mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3

Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.

Xướng: 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 29ab

Alleluia, alleluia! - Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 12-14

"Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Nguyện Lời Chúa

 

Lòng Thương Xót Chúa không loại trừ một ai

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XXXI Thường Niên hôm nay là bài Phúc Âm tiếp theo hai bài Phúc Âm cuối tuần trước, vì cùng ở trong một bối cảnh của một bữa ăn diễn ra tại nhà của một trong những lãnh đạo viên của thành phần biệt phái.

Nếu trong bài Phúc Âm cho Thứ Bảy tuần vừa rồi huấn dụ của Chúa Giêsu liên quan đến thái độ của khách được mời đến dự tiệc, thì ở bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ của Người liên quan đến người mời khách là chính vị gia chủ đã mời Người:

"Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: 'Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn'". 

 Ở đây chắc hẳn Chúa Giêsu không cố ý nói rằng chúng ta chẳng bao giờ mời thân nhân và thân hữu đến dự bữa khoản đãi của chúng ta nhân một dịp nào đó, như chúng ta theo khuynh hướng tự nhiên vẫn làm và luôn làm, mà chỉ khuyên chúng ta rằng dầu sao chúng ta cũng: 

1- Trước hết, đừng quên những con người xa lạ khác, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất trong xã hội đáng thương, cần thương yêu, ưu đãi và giúp đỡ hơn ai hết; 

2- Sau nữa, chúng ta có làm gì cho ai, dù cho người thân yêu hay xa lạ, chúng ta cũng đừng làm chỉ vì mình, ở chỗ để được đền đáp xứng đáng, hơn là chỉ vì yêu thương họ, cho dù họ "không có gì đền ơn".

Tại sao làm ơn hay yêu thương mà không cần đền ơn hay đáp trả như thế? - Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã hướng thượng chúng ta về đời sau như thế này: "vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn". 

Nghĩa là, theo tinh thần của lời Chúa này: 1- việc làm yêu thương bác ái không bao giờ qua đi, sẽ vĩnh viễn tồn tại (được ám chỉ ở chữ "sống lại"); 2- việc yêu thương trọn hảo mới làm cho con người nên "công chính"; 3- việc bác ái yêu thương mới làm cho con người phản ảnh Thiên Chúa (một tình trạng liên hệ với ý nghĩa "được đền ơn").

 

Và đó là lý do Thánh Phaolô Tông Đồ, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã nhắc nhở và huấn dụ Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Philiphê như thế này: "Anh em thân mến... chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh, hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình; mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác".

Muốn đặt người khác và lợi ích của người khác hơn của mình: "coi kẻ khác vượt trổi hơn mình", nghĩa là muốn coi trọng và ưu đãi tất cả những người hèn kém hơn mình: "hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác", thành phần Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô không thể nào không có một ý thức và tâm tình như Thánh Vịnh 130 ở Bài Đáp Ca hôm nay sau đây:

 

1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời.


 

Ngày 04 tháng 11

Thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô, giám mục

lễ nhớ bắt buộc

Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên. Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.

(Phụng Vụ Giờ Kinh 4/11)

Ngày 04.11 Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ Giám Mục (1538 – 1584) | Giáo Phận Bà Rịa

1. Đôi dòng tiểu sử

 

Bôrômêô chào đời tại Milan ngày mồng 2 tháng 10 năm 1538. Song thân ngài là ông Bôrômêô Arôma và bà Magatita Mêđixê, chị ruột của Đức Giáo Hoàng Piô IV. Hai ông bà thuộc dòng quý tộc và có lòng đạo đức, ngay nên ngay khi vừa lên năm tuổi, Bôrômêô đã được gởi đi học. Ngày tháng trôi qua, mặc dầu trí khôn không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng do sự siêng năng cần mẫn, Bôrômêô chẳng mấy chốc đã qua hết bậc trung học, rồi lên đại học Pavia. Cuối năm 1559, khi vừa đúng 21 tuổi, Bôrômêô được vinh dự lãnh hai cấp bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật một trật qua sự khảo hạch của giáo sư Phanxicô Anxia, một giảng sư về luật nổi tiếng lúc ấy.

Theo tục lệ thời bấy giờ người ta có thể xin gia nhập hàng giáo sĩ ngay từ hồi còn nhỏ. Chính vì thế nên vừa mới được 12 tuổi, Bôrômêô đã được thâu nhận vào hàng giáo sĩ. Năm 1560, tức là một năm sau ngày lấy hai bằng tiến sĩ, Bôrômêô được Đức Giáo Hoàng triệu về Rôma. Mặc dù ngài thuộc về một gia đình quý tộc ở Milan và có bà con với dòng họ Medici rất uy thế, nhưng ngài lại muốn tận hiến cho Giáo Hội. Khi người bác của ngài là Ðức Hồng Y de Medici được chọn làm giáo hoàng năm 1559 với tước hiệu là Piô IV, Đức Giáo Hoàng đã đặt ngài làm làm Hồng y -Phó tế” và Quản trị Tổng Giáo Phận Milan trong khi ngài chỉ là một  giáo dân và một sinh viên. Vì sự thông minh xuất chúng nên ngài được giao cho nhiều chức vụ quan trọng có liên hệ đến Tòa Thánh, và sau này được bổ nhiệm làm Quốc Vụ Khanh của tòa thánh. Cái chết đau đớn của người anh đã đưa ngài đến quyết định làm linh mục, mặc dù họ hàng ngài muốn ngài phải kết hôn. Ngài được thụ phong linh mục năm 25 tuổi, và sau đó không lâu được tấn phong làm giám mục của Milan.

Tên của Thánh Carôlô Borrômêô đi liền với chữ cải cách. Ngài sống trong thời kỳ Cải Cách Tin Lành, và đã đóng góp trong công cuộc cải cách toàn thể Giáo Hội trong những năm cuối của Công Ðồng Triđentinô. 

Chính thánh nhân là người đã thúc giục đức giáo hoàng phục hồi Công Ðồng Triđentinô vào năm 1562 sau 10 năm bị ngưng trệ. Ðứng ở đằng sau và âm thầm làm việc, thánh nhân là người có công trong việc duy trì sự liên tục của các khóa họp Công Ðồng mà nhiều khi tưởng đã đổ vỡ. Thời gian này, ngài phụ giúp Đức Piô IV hoàn tất một cách tốt đẹp Công đồng Triđentinô đã được khai mạc vào năm 1545 dưới triều Đức Giáo Hoàng Phaolô III. Ngài giữ vai trò điều phối chương trình làm việc của các nghị phụ, thu thập tài liệu, đúc kết ý kiến và viết dự thảo nghị quyết của Công đồng. "Ngài làm việc có khi thâu đêm suốt sáng để soạn lại các báo cáo khắp nơi gởi về, lãnh ý kiến và thi hành chỉ thị của Đức Thánh Cha. Đúng ra ngài là người chấp hành sự vụ hơn là thực hiện chức vụ của một vị một cố vấn".

Do mắc cộng việc tại công đồng Triđentinô, nên ngài không được phép cư trú tại Milan, cho tới khi công đồng bế mạc. Trong giai đoạn cuối của Công Ðồng, ngài chịu trách nhiệm hoàn toàn công việc giao dịch thư tín. Trong thời gian công đồng, ngài cũng được phép lo công việc cuả Tổng Giáo Phận Milan là nơi mà bức tranh tôn giáo và luân lý không sáng sủa lắm. Công đồng kết thúc, ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565, ngài mới được Đức Giáo Hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa Đấng kế vị là Đức Giáo Hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.Chỉ sau lễ an táng người cậu yêu quí là Đức Giáo Hoàng Piô IV và sau cuộc bầu cử Đức Tân Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Tổng Giám mục mới trở về phục vụ giáo phận Milan, một giáo phận rộng lớn nhất nhì của Giáo Hội. 18 năm trời phục vụ giáo phận Milan đối với ngài là 18 năm làm việc vất vả nhất, nhưng lại thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nhất.

Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng Giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị Giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân Công đồng Triđentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành Giám mục "kiểu mới" của Công đồng Triđentinô, ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo Hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác ngài đã chuyển các sắc lệnh của Công đồng ra hành động trong Giáo Hội Công giáo, ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị Giáo tỉnh và mười một hội nghị Giáo phận.
 
Ngài kiên trì viếng thăm toàn Giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo Công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của ngài đã là ảnh hưởng quyết định của ngài, ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi ngài đang cầu nguyện năm 1569.
 
Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường Công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.
 
Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của ngài, ngài đã hiến mình làm hiến tế, bố thí tất cả những gì ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính ngài cũng ngủ trên sàn nhà, ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.
 
Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức Tổng Giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng : dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.
 
Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho ngài.
 
Chính Thánh Carôlô tiên phong trong việc làm gương. Ngài chia sẻ hầu hết phần lương của ngài cho công việc bác ái, tự ý từ bỏ đời sống sang trọng của một tổng giám mục, và ăn chay đền tội. Ngài hy sinh giầu sang, danh vọng, sự mến mộ và ảnh hưởng để trở nên nghèo hèn. Trong thời kỳ dịch tễ và đói kém năm 1576, ngài cố tìm cách để nuôi ăn 60,000 đến 70,000 người mỗi ngày. Ðể thực hiện điều này, ngài phải mượn một số tiền rất lớn mà nhiều năm sau mới trả hết. Khi nạn dịch hoành hành đến mức tối đa, các giới chức hành chánh dân sự bỏ trốn thì ngài vẫn ở lại thành phố để thi hành công việc mục vụ cho những người đau yếu, người hấp hối và những ai cần sự giúp đỡ.

Vào năm 1578, ngài thành lập một tổ chức các linh mục triều, gồm Các người Tận hiến của Thánh Ambrôsiô (bây giờ là Người tận Hiến của thánh Carôlô Borrômêô), đồng thời ngài tích cực rao giảng, chống lại sự xâm nhập của giới Tin Lành Cải cách, và đưa những người Công Giáo bỏ đạo trở về với Giáo Hội. Ngài gặp sự chống đối từ mọi phía trong các nỗ lực của ngài nhằm cải tổ con người cùng các cơ chế. Công việc và gánh nặng của chức vụ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài.

Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói : "Kìa cơn mê của Giám mục thánh Modèna".
 
Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, ngài cười khi người ta khuyên ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, ngài lịm vào trong sự tôn thờ. Ngài từ trần khi mới 46 tuổi. Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làm cho cả Milan đau đớn. Sử gia viết truyện đời ngài nói: "Đêm ấy, ít có ai ngủ được".
 
Đức Phaolô V đã phong thánh cho ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.

2. Bài học

Mỗi vị thánh có một nét đặc biệt. Có thánh nổi bật về sự khó nghèo, có thánh lưu tâm hơn về sự vâng phục, có thánh lại say mê việc truyền giáo. Và tất cả các ngài là những người đã sống những nhân đức anh hùng, đến nỗi các ngài trở thành những đóa hoa đẹp tô điểm cho vườn hoa Giáo Hội.

Nhìn lại cuộc đời của thánh Carôlô chúng ta thấy nổi bật lên một vài đức tính đặc biệt. Đó là lòng nhiệt thành và một ước vọng muốn luôn thăng tiến.

Chính lòng nhiệt thành và ước muốn luôn thăng tiến này đã khiên ngài không quản ngại những hy sinh vất vả để phục vụ Giáo Hội và đoàn chiên Chúa trao cho ngài dẫn dắt.

Làm sao người ta có thể quên được những đóng góp của ngài và sự thành công của công đồng Triđentinô và những thành quả sau 18 năm trời phục vụ Giáo phận Milan, một Giáo phận có tầm cỡ, có lẽ chỉ kém Giáo phận Roma mà thôi.

Lịch sử còn ghi lại việc ngài cải tổ canh tân đời sống linh mục và tu sĩ theo sự chỉ dẫn của Công đồng Triđentinô. Làm sao mà ngài có thể thản nhiên trước việc một số tu sĩ và linh mục không còn giữ được phẩm chất của đời sống dâng hiến. Chính vì thế mà ngài đã ra công bỏ sức ra để hướng dẫn, giúp đỡ giúp các linh mục tu sĩ tìm lại được đời sống đạo đức của mình.

Chúng ta hãy nghe một đoạn bài giảng trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng:

"Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng: không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói: Con đàn hát và nguyện chủ tâm.

Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Kitô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác."

Lịch sử cũng còn ghi lại những đóng góp của ngài trước biến cố đau thương  xảy đến cho con cái ngài. Làm sao người ta có thể quên được đại họa dịch tả và nạn đói kém xảy ra tại Milan vào hai năm 1576 và 1577. Thị trấn Locarnô, một thắng cảnh du lịch ở ngay dưới đãy núi Alpe, với dân số 4.800 chỉ còn lại 700  người. Trước cảnh đau thương ấy, Đức Tổng Giám mục đã không từ bỏ một sự giúp đỡ nào mỗi khi có thể. Ngài đã bán tất cả đồ đạc trong nhà để lấy tiền cứu trợ. Ngài đã quên ăn quên ngủ để lo thăm viếng và giúp đỡ các bệnh nhân dọn mình chết. Chính vì sự tận tụy hy sinh ấy cùng với nỗi vất vả của việc mục vụ và tông đồ trong gần hai mươi năm trời, khiến ngài kiệt sức rồi ngã bệnh nặng. Và chiều ngày thứ bảy, mùng 3 tháng 11 năm 1584 ngài đã ra đi thanh thản và bình an ở tuổi 47 tuổi tại Milan.

Với những công nghiệp lớn lao và những nhân đức hết sức anh hùng của một Hòng Y Giám mục, Chúa đã thưởng công cho ngài. Ðức Thánh Cha Phaolô V đã nâng Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1610.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp

Bạn đừng nói một đàng làm một nẻo

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 4/11)

Trích bài giảng của thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng.

Tôi nhìn nhận rằng hết thảy chúng ta đều là những con người yếu đuối, nhưng Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã ban cho chúng ta những phương tiện giúp chúng ta dễ dàng hành động, nếu chúng ta muốn. Linh mục nọ muốn có một đời sống tinh tuyền theo lương tâm đòi hỏi, muốn sống tiết độ và có phong cách của bậc thiên thần : đó là điều hợp lý ; nhưng vị ấy lại không quyết tâm dùng những phương tiện cần thiết là : ăn chay, cầu nguyện, tránh tiếp xúc với những người xấu, tránh những cuộc giao du thân mật nguy hại.

Vị linh mục đó phàn nàn rằng mỗi khi vào nhà nguyện để đọc thần vụ hay đi dâng thánh lễ, thì tức khắc cả trăm ngàn chuyện nảy ra trong tâm trí, làm cho mình lo ra, không thể hướng lòng về Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi : trước khi vào nhà nguyện hoặc đi dâng thánh lễ, vị đó đã làm gì trong phòng thánh, đã chuẩn bị tâm hồn như thế nào, đã sử dụng những phương thế nào để hồi tâm ?

Có phải bạn muốn tôi dạy bạn làm sao để tiến tới trên đường nhân đức, và nếu trong nhà nguyện, bạn đã cầm trí được rồi thì làm thế nào lần sau bạn cầm trí hơn nữa, và lời cầu nguyện của bạn cũng đẹp lòng Thiên Chúa hơn ? Hãy nghe tôi đây. Nếu bạn đã có được một chút lửa tình yêu bốc cháy trong lòng, thì đừng vội trưng ra, đừng phơi ra trước gió. Hãy giữ lò lửa cho kín, kẻo nó nguội đi và mất sức nóng ; hãy loại bỏ những sự chia trí, hãy hồi tâm kết hợp với Thiên Chúa và tránh những cuộc chuyện trò vô ích.

Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư ? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp ; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư ? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng : không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện ; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói : Con đàn hát và nguyện chủ tâm. Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm ; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng ; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì ; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào ; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Ki-tô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác.

Lạy Chúa, xin hằng ban ơn Thánh Thần cho Giáo Hội, như xưa Chúa đã ban cho thánh giám mục Ca-rô-lô, để Giáo Hội biết không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, nhờ đó, thế giới sẽ tìm thấy hình ảnh trung thực của Đức Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 2, 5-11

"Người đã tự hạ mình, vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Ðức Giêsu Kitô: Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm.

Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28-30a. 31-32

Ðáp: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội (c. 26a).

Xướng: 1) Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.

2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa. - Ðáp.

3) Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.


Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 15-24

"Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được".

"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".

Ðó là lời Chúa.




Suy Nguyện Lời Chúa

                    Lòng Thương Xót Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ


m nay, Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên Quanh Năm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta trong Bài Phúc Âm của ngài về bữa tiệc mời và thái độ đáp ứng của khách được mời.


Chúng ta nên nhớ rằng, Bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua và 2 Bài Phúc Âm cuối tuần trước, những Bài Phúc Âm ở nửa đầu của Đoạn 14 này cho biết rằng Người đang tham dự bữa ăn ở nhà của một trong những người lãnh đạo nhóm biệt phái, một môi trường hiếm quí Người muốn lợi dụng để có thể tỏ mình ra cho riêng thành phần hầu như toàn biệt phái lúc ấy. 


Theo thứ tự của các Bài Phúc Âm này thì đầu tiên, ở Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước, Người đã dạy cho thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật một cách duy luật này về ý nghĩa nhân bản đích thực của bản chất luật, bằng cách chữa lành nạn nhân bị thủy thủng ngay trong ngày hưu lễ và tại nhà của gia chủ biệt phái. 


Sau đó, ở Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Người dạy cho thành phần biệt phái ham danh đầy khoe khoang này về thái độ họ cần phải có khi họ được mời đến dự tiệc nơi công cộng, ở chỗ "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng", nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ chỗ nào đã ấn định cho mình, chứ không phải "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", tức những gì theo ý riêng chủ quan đầy tham vọng của mình.


Rồi trong Bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Hai, cũng liên quan đến bữa ăn, Người trực tiếp ngỏ cùng gia chủ biệt phái mời Người hôm ấy về tinh thần mà ông cần có trong việc mời mọc khách đến tham dự tiệc tùng do ông khoản đãi, ở chỗ, đặc biệt là mời những ai không thể nào đền đáp lại lòng tốt của ông.


Cũng lợi dụng bối cảnh của một bữa ăn hôm ấy và chẳng những theo tư cách là khách tham dự (như Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước), mà còn theo tư cách của người đãi tiệc (như Bài Phúc Âm hôm qua), hôm nay, qua Bài Phúc Âm theo ngày, và lợi dụng câu hỏi của "một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa'", Người đã nói đến cả 2 vế: vế người đãi tiệc lẫn vế khách được mời.


Về vế người đãi tiệc, Bài Phúc Âm hôm nay cho biết Chúa Giêsu đã tiếp tục dùng dụ ngôn mà dạy như thế này: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi".


Về vế của khách được mời, Bài Phúc Âm cho biết phản ứng của "mọi người" trong họ, nại đủ những lý do riêng tư chính đáng của họ như sau: "Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: 'Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người thứ hai nói: 'Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người khác lại rằng: 'Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được'".


Trước thái độ có vẻ coi thường của khách được mời, của "mọi người", của tất cả mọi khách được vinh dự mời như thế, khiến cho bữa tiệc thịnh soạn của mình dọn ra chỉ để đãi khách như bị ế ẩm như thế, người đãi tiệc đã tỏ thái độ ra sao, Bài Phúc Âm hôm nay đã thuật lại như sau: 


"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt'. Người đầy tớ trở về trình rằng: 'Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ'. Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi'".


Ở đây, trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người đãi tiệc và khách được mời này có ít là hai điều cần chú ý, nhờ đó có thể biết được ẩn ý của dụ ngôn, nghĩa là biết được dụ ngôn này ám chỉ về ai, điều chú ý thứ nhất liên quan đến phía khách được mời và điều chú ý thứ hai liên quan đến phía người đãi tiệc.


Về phía khách được mời, dụ ngôn cho biết là "mọi người đồng thanh xin kiếu" và thành phần "mọi người" đây phải chăng ám chỉ chung dân Do Thái, cho đến nay, họ vẫn từ chối tham dự bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ dọn ra cho họ và mời họ đầu tiên, bằng cách, cho đến nay họ vẫn chưa chấp nhận Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai của họ?


Về phía người đãi tiệc, dụ ngôn cho thấy thái độ của người này tỏ ra trước phản ứng bất lợi của khách được mời, một thái độ rất tuyệt vời trong việc giải quyết theo chiều hướng biến dữ thành lành. Ở chỗ, người đãi tiệc này đã mời đủ mọi loại khách xa lạ khác đến tham dự thay chỗ cho đám khách quí thân quen trước đó, một thái độ được tỏ ra đúng như những gì Chúa Giêsu đã dạy cho gia chủ biệt phái trong bài Phúc Âm hôm qua qua việc mời khách thì mời thành phần không thể đáp trả. 


Đám khách xa lạ được mời đến sau để thay chỗ cho nhóm khách được mời đến trước nhưng từ chối đó là ai, nếu không phải là thành phần dân ngoại, thành phần, như Thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại, đã nhận định trong Bài Đọc 1 Thứ Bảy tuần trước: "một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ", cũng như trong Bài Đọc 1 Thứ Hai hôm qua: "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin nên anh em được thương xót, cũng thế, nay họ không tin, vì Thiên Chúa muốn tỏ lòng thương anh em mà họ cũng được xót thương".


Bởi thế, câu "không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi" trong bài Phúc Âm được hiểu là theo nguyên tắc thì như thế. Tuy nhiên, trên thực tế theo dự án cứu độ của Thiên Chúa là Tình yêu vô cùng nhân hậu thì Ngài muốn cứu độ tất cả mọi người (xem 1Timôthêu 2:4) chứ không riêng gì dân Do Thái hay chỉ có dân ngoại, mà là cả hai, theo đường lối khôn ngoan nhất của Ngài để nhờ đó Ngài có thể tỏ lòng thương tất cả mọi người (xem Roma 11:32), và cũng nhờ đó mọi người được Ngài cứu độ đều phải công nhận rằng ơn cứu độ của họ là do họ được Thiên Chúa thương mà thôi. 

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã cho chúng ta biết về "bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa" và "mọi sự đã dọn sẵn sàng" cho thành phần được Bài Đáp Ca hôm nay nhắc tới, một bữa tiệc được dọn ra "trước mặt những người tôn sợ Chúa", vì họ là thành phần "cơ bần", chỉ biết trông cậy vào Chúa thôi, do đó cũng chỉ có họ mới cảm nhận được giá trị cao quí của bữa tiệc ấy, đối với thân phận bất xứng của mình, nên không dám khinh chê, giống như thành phần khách ưu tiên được mời trước họ, và vì thế nên họ "sẽ ăn và được no nê", như thế này:

 

1- "Bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa" đây ở nơi Vị Thiên Chúa làm người: "Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm".

 

2- "Mọi sự đã dọn sẵn sàng" đây là ở nơi cuộc Vượt Qua của vị Thiên Chúa làm người này: "Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang".


 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 2, 12-18

"Anh em hãy lo cho mình được ơn cứu độ; Thiên Chúa tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, như anh em vẫn luôn luôn vâng lời, không phải trong lúc tôi có mặt mà thôi, nhưng hơn nữa, cả lúc này là lúc tôi vắng mặt, anh em cũng phải kinh hãi run sợ mà lo cho mình được ơn cứu độ. Vì chưng, Thiên Chúa là Ðấng tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm theo sở định của Người.

Anh em hãy thi hành mọi việc, đừng kêu ca và nghi ngại, để anh em biến thành những người không có gì đáng chê trách, và trở nên những người con vẹn toàn không ai bắt lỗi được của Thiên Chúa ở giữa một thế hệ hư hốt và gian tà. Giữa những kẻ ấy, anh em hãy chiếu sáng ra như những vì sao trong vũ trụ, hãy tích trữ lời hằng sống, để làm sáng danh tôi trong ngày của Ðức Kitô, vì tôi đã không bôn tẩu cách hư luống và đã không uổng công lao nhọc.

Và nếu tôi phải đổ máu làm lễ vật tiến dâng vì đức tin anh em, tôi sẽ vui mừng và hân hoan với tất cả anh em. Và cả anh em nữa, anh em cũng sẽ được vui mừng và hân hoan với tôi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. - Ðáp.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 25-33

"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".

"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

Ðó là lời Chúa. 


Sept. 4 Gathering: Haters gonna hate — Luke 14:25-35 – New Wineskins


Suy Nguyện Lời Chúa

Một món nợ tình bất khả đáp trả (return) nhưng vẫn có cách bù đắp (reimbursement / refund)

 

i Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua, nhưng hoàn toàn với một bối cảnh khác, không còn ở trong bữa ăn tại nhà của một trong những người lãnh đạo của thành phần biệt phái nữa, mà là đã xong bữa ăn ấy và đang thực hiện một cuộc hành trình, tiếp tục tiến về Giêrusalem, một cuộc hành trình đến một đích điểm chất chứa một ý nghĩa cần phải được Chúa Giêsu khẳng định và cảnh giác cho rất ư là nhiều người đang hào hứng đồng hành với Người bấy giờ, như Bài Phúc Âm thuật lại như sau:

 

"Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: 'Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta'". 

 

Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những khẳng định và cảnh giác những ai theo Người lên Giêrusalem, một số người đông thật là đông, số người đồng hành với Người ấy không biết có phải vì đã xem thấy đầy những phép lạ Người làm, nghe những lời Người giảng vô cùng khôn ngoan xuất chúng, nên tưởng rằng theo Người đến giáo đô Giêrusalem là thủ phủ của Do Thái giáo họ sẽ được vinh dự một cách nào đó trước mặt dân chúng bởi họ thuộc về nhóm của Người hay chăng, Người còn cho họ biết rằng họ cần phải lượng sức mình kẻo bị thất vọng, như Người đã khuyên họ ngay sau khi cảnh giác họ về thân phận của những ai muốn theo Người cần phải từ bỏ và vác thập giá trên đây:

 

"Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'. Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

 

Tại sao theo Chúa Kitô cần phải bỏ mình và vác thập giá, nếu không phải vì Người là Đấng "đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:28)? Nghĩa là ai muốn theo Người không thể nào không phục vụ, mà phải phục vụ hết mình, phục vụ đến sẵn sàng thí mạng sống mình cho tha nhân như Người, và vì thế nếu không từ bỏ chính bản thân mình, đến độ còn có thể sẵn sàng chịu tất cả mọi gian nan khốn khó cho đến cùng vì phần rỗi của tha nhân nữa, không thể nào theo Người được

 

Và vì thế chúng ta cần phải "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12). Chúng ta nợ tình với Thiên Chúa, một món nợ tình với Vị Thiên Chúa vô cùng không thể nào chúng ta là tạo vật có thể đền đáp cho chính Ngài, có thể đáp trả một cách tương xứng, nhưng chúng ta vẫn có thể đền đáp Ngài nơi chính tha nhân nói chung, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô (xem Mathêu 25:40,45). Trong Kinh Lạy Cha Chúa Giêsu cũng đã dạy các môn đệ của Người thực hành nguyên tắc trả nợ sòng phẳng này với Thiên Chúa nơi tha nhân qua câu nguyện: "Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (Mathêu 6:12).

 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã đặt điều kiện bất khả thiếu để theo Chúa là một hành động khôn ngoan, ở chỗ biết coi Người trên hết mọi sự, nên từ bỏ tất cả mọi sự và vác thập giá mà theo Người cho đến cùng, thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê chẳng những phải khôn ngoan tính toán, như việc xây nhà hay nghênh chiến được Chúa Kitô nêu lên trong Bài Phúc Âm, mà nhất là phải cậy dựa vào ân sủng, phải tin tưởng vào Chúa là "Ðấng tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm theo sở định của Người", nhờ đó, họ mới có thể theo một Đấng khổ nạn và tử giá, như chính bản thân của Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Nếu tôi phải đổ máu làm lễ vật tiến dâng vì đức tin anh em, tôi sẽ vui mừng và hân hoan với tất cả anh em. Và cả anh em nữa, anh em cũng sẽ được vui mừng và hân hoan với tôi".

 

Lòng tin tưởng của những ai khôn ngoan muốn theo Chúa Kitô như gương Thánh Phaolô, một lòng tin tưởng vào "Ðấng tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm theo sở định của Người" như thế, là những gì đã được Thánh Vịnh 26 diễn tả một cách vừa bóng bẩy: "một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi", vừa thực tế như sau: "Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!", ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. 

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!

 

 

Thứ Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 3, 3-8

"Những điều xưa kia được kể là lợi ích cho tôi, thì nay tôi coi là bất lợi vì Ðức Kitô".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, chính chúng ta là những người chịu cắt bì, chúng ta phụng thờ Thiên Chúa theo thần trí, và khoe mình trong Ðức Giêsu Kitô, chứ không tin tưởng vào xác thịt, mặc dầu chính tôi cũng có thể ỷ lại vào xác thịt. Nếu có ai khác nghĩ mình có lý để ỷ lại vào xác thịt, thì tôi còn có lý hơn: tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành, tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách.

Nhưng những điều xưa kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Ðức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 15, 1-10

"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Ðó là lời Chúa.





Suy Nguyện Lời Chúa

Nơi Thiên Chúa chỉ có Niềm Vui Thương Xót


Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên hôm nay Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca bắt đầu 10 câu đầu của đoạn 15, một đoạn từ đầu đến cuối hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 3 dụ ngôn, 2 ngắn đầu và 1 dài cuối.

 

Sở dĩ Chúa Giêsu phải nói đến 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa ấy, là vì, như đầu Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: 'Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng'".  


Để đáp lại thái độ có vẻ kỳ thị và khinh người của nhóm biệt phái tự cho mình là công chính bấy giờ, Chúa Giêsu đã cho họ biết đâu là tinh thần họ phải có đối với tội nhân, đối với thành phần bị họ cho là "những kẻ tội lỗi", bằng 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa liền. Và Hai dụ ngôn ngắn về Lòng Thương Xót Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay ấy như sau:

 

"Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!' Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải".

 

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

 

Hai dụ ngôn trên đây, một dụ ngôn về con chiên lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm con chiên lạc, và dụ ngôn về đồng bạc bị thất lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm đồng bạc bị thất lạcđều cho thấy Lòng Thương Xót Chúa yêu thương và lưu ý đến từng người, yêu thương cho tới cùng, hoàn toàn không bỏ mất một ai, không bỏ mất một sự gì, dù nhỏ mọn mấy chăng nữa. 

 

Hơn thế nữa, cả hai dụ ngôn này thậm chí còn cho thấy thái độ của các vị chủ nhân sau khi tìm thấy con chiên lạc hay đồng bạc bị mất nữa, ở chỗ các vị chẳng những không trút cơn giận dữ xuống trên đầu trên cổ con chiên lạc hay đồng bạc bị mất là những gì làm cho các vị chủ nhân của chúng đã mất giờ tìm kiếm và hết sức vất vả kiếm tìm, trái lại, cả hai còn tỏ ra hết sức hân hoan vui sướng nữa

 

"Khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!'... khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'".

 

Nếu "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải", thì dụ ngôn về nhân vật tìm kiếm con chiên lạc đây ám chỉ chính Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) bằng mầu nhiệm nhập thể và vượt qua của Người. 

 

Và con chiên lạc và đồng bạc thất lạc đây ám chỉ chẳng những chung loài người sa ngã phạm tội (99 con chiên không lạc được bỏ lại một nơi để đi tìm con chiên lạc có thể hiểu là ám chỉ các thiên thần vì liên quan đến hình ảnh "trên trời sẽ vui mừng... " sau khi con chiên lạc được tìm thấy, hay "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng..." sau khi kiếm được đồng bạc thất lạc)mà còn ám chỉ đến từng cá nhân ("một người tội lỗi hối cải" được lập lại 2 lần như nhau ở cuối 2 dụ ngônvướng mắc nguyên tội luôn chiều theo xác thịt, thế gian và ma quỉ. 

 

Nếu Chúa Kitô là hiện thân đích thực và sống động của Lòng Thương Xót Chúa và cho Lòng Thương Xót Chúa nhập thể giáng sinh và khổ giá phục sinh là để mang ơn cứu độ và sự sống thần linh cho chung nhân loại cũng như cho riêng từng người, thì ai đã được Người cứu độ nhờ Phép Rửa đều phải quan tâm đến phần rỗi của nhau, phải sống chết cho phần rỗi của nhau, như Chúa Kitô đã đối xử với họ, bằng không, chính phần rỗi của riêng mình cũng chưa chắc được bảo đảm, vì chúng ta đã tỏ ra coi thường ơn cứu độ vô giá nơi anh chị em mình. 

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã tâm sự với Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê về bản thân ngài trước kia chỉ là một con chiên lạc, và là một đồng bạc bị thất lạc, ở chỗ: "tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành, tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách". Nhưng lại là những gì đã được LTXC tìm kiếm và đã mang về với Người: "Những điều xưa kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Ðức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô".

 

Và chỉ có tâm hồn nào cảm nghiệm được LTXC đối với bản thân yếu hèn bất xứng và cuộc đời lầm lạc lỗi lầm của mình mới là "những ai tìm Chúa, hãy mừng vui", như câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay, và mới có được tâm tình của Thánh Vịnh 104 trong bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.

 




Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 3, 17 - 4, 1

"Chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và bây giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này. Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người.

Bởi thế, anh em thân mến và quý yêu, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi. Anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa"(c. 1).

Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.

2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.

3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 1-8

"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".

"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".

"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".

Ðó là lời Chúa.





Suy Nguyện Lời Chúa

                                                                    Khôn sống mống chết trong đời sống thiêng liêng

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm không tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm về việc tìm kiếm con chiên lạc và đồng bạc bị thất lạc. 

Sau 2 dụ ngôn này là dụ ngôn về người cha nhân lành thương 2 người con đáng thương của mình tùy theo hoàn cảnh của mỗi đứa, nhưng lại không được Giáo Hội chọn đọc, mà lại chọn đọc Bài Phúc Âm ở đầu Đoạn 16 về người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc nên đang mưu toan tìm cách sống còn. 

 

 

Người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc: "Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa'". 

 

Người quản lý bất lương đang mưu toan tìm cách sống còn: "Người quản lý thầm nghĩ rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'. Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'".

 

Mục đích của dụ ngôn này là gì, hay Chúa Giêsu muốn nói đến dụ ngôn này để làm gì, nếu không phải Người muốn khuyên "các môn đệ" là đối tượng được Người nói với trong bài Phúc Âm hôm nay, như câu Người kết luận cũng trong cùng Bài Phúc Âm rằng các vị là "con cái ánh sáng" thì ngây thơ khù khờ, cần phải "hành động cách khôn khéo... khi đối xử với đồng loại" như "con cái đời này" vậy! 

 


"Người quản lý bất lương" này "khôn khéo" ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ anh ta chẳng những đánh lừa được chủ nợ mà cả con nợ của chủ nợ nữa. Bằng cách, anh ta đã biến các con nợ của chủ thành con nợ của mình, khi tự động giảm nợ cho các con nợ số nợ của họ với chủ nợ. 

Có thể các con nợ cũng biết rằng người quản lý này gian lận ở việc anh ta giảm nợ cho họ, nhưng dầu sao cũng vẫn có lợi cho họ thì họ vẫn cứ hưởng chứ dại gì mà vạch trần việc gian lận của anh ta làm chi với chủ của anh ta, hoàn toàn không hề biết gì đến tình trạng sắp bị thất nghiệp của anh ta, một con người quen làm nghề quản lý, chứ không quen làm việc tay chân mệt nhọc phần xác, hay chẳng làm gì mà vẫn có tiền như ngồi ăn xin xấu hổ mất mặt.  

Thế nhưng, cho tới khi anh ta bị thất nghiệp, đi lang thang kiếm sống, ghé vào các nhà con nợ đã được anh ta giảm nợ cho để xin giúp đỡ, thì chẳng lẽ những người ấy lại phũ phàng từ chối xua đuổi anh ta hay sao? Bấy giờ cho dù họ mới biết bị anh ta lừa đảo song đã muộn và không thể không giúp anh ta cách nào đó, không nhiều thì ít, không trước thì sau, miễn là đừng hoài hoài mãi mãi.  

Chắc chủ nợ của anh ta có nhiều con nợ đã được anh ta lạm dụng ban ơn giảm nợ cho, nên anh ta cứ tháng này đến nhà người này, tháng sau đến nhà người khác gõ cửa, và anh ta ăn xin một cách ngon lành, không xấu hổ, vì anh ta là ân nhân của các con nợ từ người chủ đã sa thải anh ta. Thật là "khôn khéo", đúng như người chủ nhận xét về anh ta ở cuối bài Phúc Âm hôm nay.     

Như thế phải chăng Chúa Giêsu đã chấp nhận cái khôn lanh trần gian có vẻ gian dối lừa đảo của người quản lý bất lương trong dụ ngôn là tốt, đáng các môn đệ của Người noi gương bắt chước. Vì Chúa Kitô "là sự thật" (Gioan 14:6) nên Người không thể nào hợp với những gì là gian dối lừa đảo, và vì Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) nên Người không chấp nhận bóng tối. 
 

 

Bởi vậy, Người không khuyên các môn đệ bắt chước đường lối gian manh của người quản lý bất lương, mà chỉ khuyên các vị hãy bắt chước ước muốn lành mạnh của nhân vật này để khôn khéo làm sao có thể sống sót qua cơn gian nan khốn khó mà thôi: "phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ". 

Thật ra, theo luân lý Công giáo (xem Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo các khoản 1755-1756), một việc tốt cần phải hội đủ ba điều kiện bất khả thiếu, đó là, thứ nhất việc làm tự bản chất là tốt, thứ hai là phải có ý hướng tốt khi làm việc ấy, và thứ ba là làm việc ấy một cách thích đáng. 

Chẳng hạn, đi làm việc tông đồ tự nó là việc làm tốt, với ý hướng chính yếu là để giúp cho giáo xứ hay cộng đoàn dân Chúa của mình thêm sinh động và thăng tiến, thế nhưng, nếu làm việc tông đồ này đến độ bỏ bê trách nhiệm trong gia đình thì việc tông đồ ấy không tốt nữa. 
 

 

Hay làm việc tông đồ này khi nào có thể nhưng với ý hướng lợi dụng việc tông đồ để quen biết mà trục lợi trong vấn đề làm ăn tư riêng cũng không tốt. Nếu chính việc làm tự bản chất là xấu, chẳng hạn việc trộm cắp, cho dù để giúp người nghèo thì việc trộm cắp cũng không thể trở thành việc tốt v.v. 

 

Con người dù có ý tốt đến đâu cũng không thể nào biến một việc tự bản chất là xấu thành lành. Chẳng hạn nguyên tổ Eva dù có ý muốn chính đáng và tốt lành là nên giống như Thiên Chúa, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và xu hướng về lý tưởng nên giống như Ngài, thế nhưng cách thức để đạt tới đích điểm ấy, đạt được ý hướng ấy lại không tốt, ở chỗ bất tuân ý Chúa bằng cách nghe theo rắn quỉ ăn trái cấm không được phép, thì việc làm của nữ nguyên tổ cùng với phu quân của nàng nguyên tổ này bấy giờ là xấu, tội lỗi.

 

Việc làm của người quản lý bất lương trong dụ ngôn được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, cho dù có ý hướng tốt là làm sao để có thể sống còn, nhưng cách làm của nhân vật này lại có tính cách dối trá, gian lận của chủ (và cũng chính vì máu "phung phí" như thế mà hắn đã bị sa thải), nên việc làm của hắn trở thành xấu xa. Giá hắn đến xin chủ thương tình để hắn sửa mình và đền bù những gì hắn đã phung phí cho chủ, hoặc xin chủ cho làm việc khác nhẹ nhàng mà không dính dáng gì đến tiền bạc có phải hơn không.  

 

Áp dụng thực tế vào đời sống đức tin bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể hiểu như thế này:

 

1- tất cả những gì con người có đều là của Chúa và từ Chúa là chủ nhân ông của tất cả những sự chúng ta có, dù là sự sống, linh hồn và thân xác, dù là tài năng hay của cải vật chất;

 

2- chúng ta chỉ đóng vai trò quản lý của Chúa là chủ nhân ông tất cả những gì chúng ta có, chứ chúng ta không phải là chính chủ nhân ông có quyền định đoạt hay muốn sử dụng chúng tùy ý muốn của chúng ta;

 

3- một khi chúng ta lạm dụng những gì Chúa ban cho chúng ta theo ý của chúng ta hơn là đem phục vụ tha nhân theo ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta phung phí những gì Chúa ban cho chúng ta như người quản lý trong bài dụ ngôn hôm nay;

 

4- để cảnh tỉnh việc làm sai trái của chúng ta trong vai trò chỉ làm quản lý của chúng ta, Chúa có thể cảnh giác chúng ta bằng một tai họa gì đó, như bị lường gạt thiệt hại về của cải, như thể người chủ đòi viên quản lý tính số trước khi cho nghỉ việc, bởi hắn lạm dụng nên không đáng làm việc của hắn nữa;

 

5- bấy giờ chúng ta có thể nhờ đó mà nhận thức lỗi lầm sai trái lạm quyền của mình trên những gì Chúa ban cho mình, để tỏ lòng ăn năn hoán cải, bằng cách tha thứ cho những ai đã lường gạt chúng ta, như thể chúng ta tha bớt nợ nần cho họ về tội gian dối họ phạm đến Chúa nơi chúng ta;

 

6- và cũng nhờ chính thái độ thứ tha này, ở chỗ, tha phần nợ của phạm nhân gây ra cho chúng ta trong số nợ họ mắc với chủ, nơi hành động gian dối lường gạt chúng ta của họ, mà chúng ta được Chúa thương khi ra trước tòa phán xét của Chúa, ở chỗ, chúng ta biết tha cho họ thì nhờ tội lỗi họ phạm đến Chúa, họ nợ Chúa khi phạm đến chúng ta, mà chúng ta cũng được hưởng lợi từ LTXC.

 

Về người quản lý bất lương trong Bài Phúc Âm hôm nay, đối với Thánh Phaolô ở Bài Đọc 1 cùng ngày, sở dĩ nhân vật quản lý này "bất lương" bởi "bị tố cáo đã phung phí của chủ", là vì, như ngài đã nhắc nhở và cảnh giác Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê, "chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này".

 

Tuy nhiên, khi bị chủ nhân cảnh báo đuổi việc thì đã khôn lanh nghĩ đến tương lai sống còn của mình, một tương lai an toàn bảo đảm, một thứ khôn lanh được Chúa Giêsu khen, như Thánh Phaolô tiếp tục huấn dụ giáo đoàn Philiphê trong Bài Đọc 1 như sau: "Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người".

 

Đúng thế, chỉ có một nơi an toàn nhất cho tương lai của loài người nói chung, cũng như của những ai kính sợ Thiên Chúa và tin vào Ngài nói riêng, đó là "nhà Chúa", là "Giêrusalem", đích điểm của đời sống tạm bợ, ngắn ngủi và phù vân của con người trên trần gian này, nơi "được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên" (Đáp Ca hôm nay câu xướng 2). Bởi thế mới là nơi đáng cho ai khao khát thần linh: "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: 'Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa'. Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi" (Đáp Ca hôm nay câu xướng 1).


 

Thứ Bảy

Ngày 09 tháng 11

CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LA-TÊ-RA-NÔ

 

Thánh đường La-tê-ra-nô là vương cung thánh đường của đức giáo hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Con-tan-ti-nô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”. Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của đức giáo hoàng, người kế vị thánh Phê-rô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hợp nhất trong Dân Thiên Chúa.

Ngày 9 tháng 11 CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LA-TÊ-RA-NÔ

 

 

Bài Ðọc I: Ed 47, 1-2. 8-9. 12

"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến. Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9

Ðáp: Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao (c. 5).

Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.

2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.

3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 3, 9b-11. 16-17

"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em là toà nhà của Thiên Chúa. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem coi mình xây lên thế nào? Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Ðức Kitô.

Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 2 Sb 7, 16

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn lựa và thánh hoá nơi này, để danh Ta được hiện diện khắp nơi cho đến muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 2, 13-22

"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".

Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".

Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

Ðó là lời Chúa.

 

Tập tin:Archbasilica of St. John Lateran HD.jpg

 

 

Thánh thi (Phụng Vụ Giờ Kinh Sáng ngày 9/11)

Từ thành thánh trên trời gửi xuống
Đá góc tường gầy dựng thiên cơ,
Ấy là chính Đức Ki-tô,
Xây Nhà Giáo Hội thiên thu vững vàng.

Thành thánh được Thiên Hoàng yêu chuộng,
Hằng tụng ca hợp xướng nhịp nhàng,
Ba Ngôi Một Chúa cao sang,
Lời hô tiếng hát trổi vang không ngừng.

Xin Chúa Cả đoái thương ngự xuống
Điện thờ này, theo lượng khoan nhân,
Nghe lời khấn nguyện nài van,
Nơi đây tuôn đổ muôn vàn tình yêu.

Cũng nơi đây mọi điều mong ước,
Chúng con trông sẽ được toại nguyền,
Mai vào cõi phúc vô biên,
Cùng chư thần thánh nghỉ yên muôn đời.

Xin bái chúc ngàn lời vinh dự
Dâng Ngôi Cha, Thánh Tử, Thánh Linh,
Hoạ theo nhã nhạc thiên đình,
Trần gian hợp tiếng tôn vinh hát mừng.

 

Lời cầu (Phụng Vụ Giờ Kinh Ban Mai ngày 9/11)

Cùng với Đức Ki-tô, chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha cho Giáo Hội :

Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.

Đây đền thờ xây trên nền đá tảng là Đức Ki-tô, đây dân thánh đặt niềm tin vào Người,

Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.

Đây vườn nho Cha đã trồng và luôn săn sóc, đây dân thánh đem quả trường sinh cho nhân loại,

Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.

Đây đoàn chiên được quy tụ dưới quyền người Mục Tử duy nhất, đây dân thánh để ý nghe tiếng Người,

Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.

Đây mảnh đất Cha đã gieo Lời hằng sống, đây dân thánh như lúa vàng Cha thu lượm vào kho,

Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.

Đây thành đô Thiên Chúa, thành Giê-ru-sa-lem trên trời, đây dân thánh được mời dự tiệc cưới Con Chiên,

Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.

09/11 - Lễ cung hiến Đền Thờ Latêranô - Đền thờ tâm hồn

Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.

 

Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Thánh đường này được gọi là “Latêrano”, là tên của gia đình Hoàng Hậu Fausta, người đã dâng hiến đền thờ và dinh thự của bà cho Đức Giáo Hoàng vào thế kỷ thứ IV. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.

Thánh Đường Latêranô được gọi là Mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.

Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mầng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: Giếng Rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên dân Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”

“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.

“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư ? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư ? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”.

Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới dự Thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm Tuần Thánh Ðức Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Rôma, với các Hồng y, Giám mục và ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là Rửa chân cho các Tông đồ.

 

Đền thờ Chúa Cứu thế Cực Thánh và Thánh Gioan Tẩy giả và Thánh sử Gioan tại Latêranô (Santissimo Salvatore e Santi Giovanni Battista ed Evangelista in Laterano), được hoàng đế Roma là Constantinô, vị đã hợp thức hóa Kitô giáo bằng sắc chỉ năm 313, đã xây cất vào khoảng năm 320, thời gian Giáo Hội vừa thoát khỏi các cuộc bách hại tàn khốc của đế quốc Roma suốt 3 thế kỷ đầu. Đền thờ này cũng được gọi là Tổng Đền Thờ (Archibasilica), là vì: 1- đây là nhà thờ đầu tiên của Kitô giáo, 2- nhà thờ chính yếu của Kitô giáo vì là Vương Cung Thánh Đường của Giám Mục Roma, vị cũng là chính Giáo Hoàng, 3- và là nhà thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ hay đền thờ hoặc vương cung thánh đường trên thế giới. Tổng Đền Thờ Gioan Laterano này tọa lạc ngay trong trung tâm thành phố Roma, nhưng ở bên ngoài và cách biệt với lãnh thổ Quốc Đô Vatican khoảng 4 kilômét về phía tây bắc của Đền Thờ. Từ thế kỷ 16, Đền Thờ này đã cử hành những đêm Phục Sinh, đặc biệt là đã tiếp nhận từng đoàn người dân thành Roma đến gia nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, qua Phép Rửa Tội và cử hành Lễ Vượt Qua trong đền thờ.

  

Vào đầu thế kỷ thứ 4, gia đình laterani bị tước lột đất đai của họ bởi vì trong gia đình của họ có một phần tử bị cáo buộc là tham, gia âm mưu chống lại Hoàng đế Roma. Phần đất này được lấy trao cho Vị Giám Mục Roma là chính Đức Giáo Hoàng để xây cất Đền Thờ đầu tiên này của Kitô giáo. Kích thước của đền thờ là dài 140 mét (460 ft), Rộng 140 mét (460 ft) và Chiều rộng ở lòng đền thờ là 65 mét (213 ft)
Qua các thế kỷ, đền thờ đã bị cháy mấy lần và 1 lần bị động đất vào năm 897, nhưng cho dù có sửa chữa nguyên mẫu của đền thờ vẫn không hề thay đổi. Chính tại Đền Thờ này mà các vị giáo hoàng đăng quang cho tới năm 1870, nơi các vị giáo hoàng đã cư trú, và sau này cho dù tông dinh của các vị giáo hoàng được chuyển về Vatican vào hạ bán thế kỷ 14, đền thờ này vẫn là nơi các vị giáo hoàng cử hành Thứ Năm Tuần Thánh. Vào chính ngày 9/11/2019, ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến dâng lễ vào lúc 5:30 chiều.

 

Rome


Trong chuyến Hành Hương Tia Sáng Từ Balan 2014, dịp ĐTC Gioan Phaolô được Giáo Hội tuyên phong hiển thánh Chúa Nhật 27/4/2014, Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) chúng tôi đã đến kính viếng cả 4 Đền Thờ chính ở Roma, trong đó có cả Đền Thờ Gioan Laterano hôm Thứ Hai 28/4/2014. Ở trong nhà thờ, chúng tôi quan sát thấy có tượng 12 Thánh Tông Đồ ở 12 cột trụ của đền thờ, có những mảnh gỗ từ Bàn Tiệc Ly của Chúa Giêsu ở trên bàn thờ phía cánh phải của cung thánh nhìn xuống, và ở đằng sau bàn thờ chính có gian cung thánh rất rộng bao gồm cả ngai tòa của vị giám mục Rôma là giáo hoàng, và chính vì thế Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô mới là đền thờ có tấm vóc quan trọng về quyền bính, chứ không phải là Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, nơi từng có tông dinh giáo hoàng 

Phái đoàn hành hương TĐCTT trong chuyến Hành Hương Tia Sáng Từ Balan 2014 ngày 28/4.

Trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 2021 này, ngày đến Ý chính là ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ này và phái đoàn TĐCTT sẽ tái viếng thăm ngày 18/11/2021.

 

Bên cạnh đền thờ này có Lateran Palace, nơi các vị giáo hoàng đã liên tục ở qua cả ngàn năm, từ thế kỷ thứ 4, nghĩa là ngay từ khi có đền thờ này cho đến thế kỷ 14, tức là cho tới sau khi vị giáo hoàng từ  Agvinon Pháp quốc trở về Roma vào năm 1377, thời điểm Lateran Palace đồng thời cũng bị cháy, nên các vị giáo hoàng từ đó bắt đầu về ở Vatican bên cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô cho tới nay. Lateran Palace thời xưa cũng đã từng là nơi diễn ra 3 công đồng riêng (non-ecumenical councils) vào những năm 649, 769 và 964, và 5 Công Đồng Chung (ecumenical councils) vào những năm 1123, 1139, 1179, 1215 và 1512-1517).

 

Bài đọc 2

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta được trở nên đền thờ của Thiên Chúa

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 9/11)

Trích bài giảng của thánh Xê-da-ri-ô, giám mục Ác-lơ.

Anh em thân mến, hôm nay nhờ lòng khoan nhân của Đức Ki-tô, chúng ta hân hoan mừng rỡ cử hành ngày kỷ niệm khánh thành ngôi đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dân Ki-tô hữu quả có lý khi trung thành mừng kính ngày trọng đại của Mẹ Hội Thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội Thánh mà họ được tái sinh vào cuộc sống thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần đầu, chúng ta là những kẻ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng lần sau, chúng ta đã được trở nên những kẻ được Người xót thương. Lần sinh thứ nhất dẫn chúng ta đến cõi chết, còn lần sinh thứ hai lại đưa chúng ta về cõi sống.

Thưa anh em, trước khi được thanh tẩy, mọi người chúng ta là miếu thờ ma quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô. Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ nhiều hơn về ơn cứu độ linh hồn, chúng ta sẽ biết chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên. Vì thế, thánh Phao-lô tông đồ đã nói : Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em.

Và vì khi Đức Ki-tô đến, Người trục xuất ma quỷ ra khỏi lòng chúng ta để chuẩn bị ngôi đền thờ cho chính Người trong chúng ta, nên với sự trợ giúp của Người, chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, để nơi chúng ta, Người không còn phải chịu sỉ nhục vì các việc làm xấu xa của chúng ta nữa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì sỉ nhục Đức Ki-tô. Như tôi đã nói : trước khi Đức Ki-tô cứu chuộc chúng ta, chúng ta là đền đài của ma quỷ, về sau chúng ta lại được nên ngôi nhà của Thiên Chúa : chính Thiên Chúa đã đoái thương làm cho chúng ta trở thành ngôi nhà cho Người ngự.

Vì thế, thưa anh em, nếu chúng ta muốn hân hoan mừng ngày cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Sở dĩ tôi nói như vậy là để ai nấy có thể hiểu rằng : mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như thế.

Bạn muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư ? Bạn đừng làm cho linh hồn bạn ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Nếu bạn muốn ngôi thánh đường rực sáng, thì Thiên Chúa cũng muốn bạn không được để cho linh hồn ra tối tăm, nhưng lời Chúa nói phải được thực hiện : ấy là ánh sáng của các việc lành chiếu sáng trong chúng ta và như thế, Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời, được tôn vinh. Bạn muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa : Ta sẽ ngự giữa họ và sẽ đi đi lại lại giữa họ.

 

Lời cầu (Phụng Vụ Giờ Kinh Ban Chiều ngày 9/11)

Đấng cứu độ chúng ta đã hy sinh mạng sống mình, để quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác bốn phương về một nhà, vậy ta hãy dâng lên Người lời tha thiết nguyện xin :

Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã xây Hội Thánh trên tảng đá vững bền, - xin củng cố lòng tin của Hội Thánh.

Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.

Từ cạnh sườn Chúa, máu và nước đã chảy ra để trở nên nguồn ơn thánh hoá, - xin cho Hội Thánh được đổi mới không ngừng.

Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.

Chúa hiện diện giữa những ai tụ họp vì danh Chúa, - xin nhậm lời Hội Thánh đang đồng tâm nhất trí nguyện cầu.

Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.

Chúa ngự trị với Chúa Cha trong tâm hồn những ai yêu mến Chúa, - xin làm cho tình thương của Hội Thánh ngày thêm hoàn hảo.

Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.

Chúa không khước từ một ai biết chạy đến cùng Chúa, - xin đón nhận tất cả mọi người quá cố vào nhà Cha trên trời.

Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.

 

Lời nguyện  

 

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho dân Chúa được gọi là Hội Thánh, xin nhìn đến chúng con đang tụ họp nơi đây nhân danh Chúa mà ban cho chúng con biết kính thờ, yêu mến và phụng sự Chúa cho phải đạo, hầu đạt tới phúc lộc quê trời Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin

 

 


Thứ Bảy

 

(Thứ Bảy ngày 9/11/2024 này bị trùng với và bị át đi bởi Lễ Kính Cung Hiến Đền Thờ Laterano)


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 4, 10-19

"Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, tôi rất vui mừng trong Chúa vì sự săn sóc của anh em đối với tôi đã sinh hoa kết quả: anh em đã nghĩ tới vấn đề đó từ lâu rồi nhưng anh em không có dịp tỏ bày ra. Tôi nói thế không phải vì sự túng thiếu của tôi, vì chưng tôi đã học tập để tự túc trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi.

Nhưng anh em đã hành động chí lý khi san sẻ mọi quẫn bách của tôi. Này anh em, người thành Philipphê, anh em cũng đã thừa biết là ngay lúc bắt đầu rao giảng Tin Mừng, khi tôi rời bỏ Macêđônia, không một giáo đoàn nào đã đóng góp vào sổ chi tiêu của tôi, trừ một mình anh em mà thôi: vì một đôi lần, anh em đã gửi đồ về thành Thêxalônica cho tôi dùng. Không phải tôi cầu ơn cầu nghĩa gì, nhưng tôi cầu cho vốn liếng anh em được sinh hoa kết quả dồi dào. Hiện tôi có đủ mọi sự và có dư thừa: tôi đã được đầy đủ sau khi nhận lãnh những tặng vật anh em nhờ Êpaphrôđitô gửi đến, là hương thơm ngạt ngào, là lễ vật được Thiên Chúa vui lòng chấp nhận.

Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh quang của Người, trong Ðức Giêsu Kitô. Vinh danh Thiên Chúa là Cha chúng ta muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 5-6. 8a và 9

Ðáp: Phúc đức thay người tôn sợ Chúa (c. 1a).

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.

3) Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi. Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

 

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 9-15

 

"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con.

 

"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".

 

Ðó là lời Chúa.




Suy Nguyện Lời Chúa

Không thể bắt cá hai tay

 

Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca được Giáo Hội chọn đọc tiếp tục với Bài Phúc Âm hôm qua, liên quan đến người quản lý bất lương bị chủ sa thải nên đã tìm cách để tồn tại trong tình trạng thất nghiệp khốn khổ ấy, và cách thức người quản lý bất lương này làm liên quan đến tiền bạc gian lận của chủ.

 

Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, tiếp tục huấn dụ "các môn đệ", Chúa Giêsu đã nói với các vị về tiền bạc.

 

Trước hết, đối với tha nhân, Người bảo các vị hãy lợi dụng tiền bạc mà làm việc bác ái, hay nói đúng hơn, đừng coi của hơn người mà ngược lại phải coi người hơn của: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời". 

 

Nếu chúng ta coi người hơn của, thì theo lời Chúa dạy, có nghĩa là chúng ta đã "trung tín trong việc nhỏ (là sử dụng chính đáng tiền bạc nhỏ mọn chẳng là gì so với đức ái cao cả)thì cũng trung tín trong việc lớn (tức mới có thể sống bác ái là những gì trọng đại được)". Ngược lại, nếu chúng ta coi của hơn người, tức là "gian dối trong việc nhỏ (ở chỗ sử dụng tiền của một cách bất chính) thì cũng gian dối trong việc lớn (ở chỗ sống vị kỷ chẳng biết sống bác ái yêu thương gì hết)". 

 

Đến đây chúng ta mới thấy dụ ngôn hôm qua về người quản lý bất lương gian lận tiền bạc bị sa thải vì "phung phí" của chủ có thể sẽ trở thành trường hợp của chính các môn đệ là những người theo Chúa Kitô, qua lời Ngưòi khẳng định với các vị trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật (có thể Chúa ám chỉ các linh hồn được các vị coi sóc hay ơn cứu độ cần các vị ban phát) cho các con".

 

Sau nữa, đối với Thiên Chúa, Người bảo các vị đừng lệ thuộc vào tiền của mà hãy chỉ phụng sự Thiên Chúa mà thôi, tức hãy coi Thiên Chúa hơn tiền của: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ". Đó là lý do, Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ là thành phần theo Người rằng: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". 

 

Đúng thế, theo tâm lý chung cũng như theo kinh nghiệm sống đạo thực tế, một khi con người ham thích tiền bạc, mê man của cải trần gian, lúc nào cũng tìm cách và tính toán sao cho có tiền, có nhiều bao nhiêu tốt bấy nhiêu, rồi xài sang, sống hết sức tiện nghi đến xa xỉ, thiếu thốn một chút gì thì không chịu được, thì kêu ca nhăn nhó v.v., họ sẽ dễ dàng quên Chúa và bỏ Chúa, thậm chí có những lúc lạm dụng chính đức bác ái để làm tiền, và cũng chỉ vì tiền, vì lợi lộc đâm ra lỗi đức bác ái yêu thương cao cả, mất lòng Chúa. Chẳng hạn, phũ phàng thay và mâu thuẫn thay, họ tranh nhau gây quĩ bác ái cứu trợ v.v. 

 

"Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời" nghĩa là gì, nếu không phải nếu "tiền bạc gian dối" ở đây chẳng những theo nghĩa đen, có nghĩa là tiền bạc chúng ta kiếm chác một cách bất chính, mà theo nghĩa bóng, còn có nghĩa là Kitô hữu chúng ta lạm dụng tiền bạc của cải, hay tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta, như là một quản lý viên để hưởng thụ hơn là phục vụ và chia sẻ với tha nhân, như trường hợp của tên quản lý trong bài Phúc Âm hôm qua, thì hãy sử dụng chúng mà "mua lấy bạn hữu", nghĩa là nếu bị ai làm thiệt hại đến những gì "của" chúng ta, do chúng ta đã sử dụng bất chính trái với ý Chúa là chủ ban cho chúng ta, thì hãy tha thứ cho họ, để nhờ đó, chúng ta cũng được thứ tha trước vị chủ mà chúng ta đã lạm dụng vai trò quản lý của mình phung phí những gì Ngài ban cho chúng ta, đến độ, Ngài phải gián tiếp cảnh giác chúng ta bằng một phạm nhân nào đó, thành phần phạm nhân này, do đó, lại trở thành ân nhân của chúng ta, "bạn hữu" của chúng ta, giúp chúng ta được "vào chốn an nghỉ đời đời".

 

Giáo huấn trong Bài Phúc Âm hôm nay của Chúa Giêsu đề cao tinh thần hơn vật chất, đề cao Thiên Chúa và tha nhân cao cả hơn tiền bạc thường hèn, một huấn dụ Người chỉ khuyên dạy cho riêng các môn đệ của Người, nhưng không ngờ đã trở thành như một cái tát vào mặt thành phần tham lam của cải trần gian, cũng hiện diện và nghe thấy giáo huấn này của Người bấy giờ, và vì thế, cuối Bài Phúc Âm hôm nay còn có thêm chi tiết: "Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người". Một thái độ "nhạo cười" như thể họ cho giáo huấn của Người là những gì không tưởng, chẳng thực tế, không bao giờ thực hiện được, chẳng ai theo nổi.

 

Thế nhưng, đáp lại, Chúa Giêsu đã thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối và lối sống giả hình của thành phần "biệt phái", có vẻ thông luật và giữ luật hơn người, như là các thày dạy luật này rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta (chẳng hạn như tiền của hay danh giá hoặc chức quyền được người ta sùng bái như ngẫu tượng trên hết của họ), thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người 2 điều: một liên quan đến tha nhân, đó là "hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu", và một liên quan đến Thiên Chúa, đó là: "không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ". Tuy nhiên, hai điều này là những gì bất khả phân ly, ở chỗ, chỉ khi nào con người biết "làm tôi" một mình Thiên Chúa, thì họ mới biết "dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu", bởi bấy giờ "tiền của" đối với họ chỉ là phương tiện, là đầy tớ, hơn là cùng đích, là chủ nhân ông của họ.

 

Việc hỗ trợ Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy họ chỉ làm tôi Thiên Chúa mà thôi, nên họ mới sốt sắng chia sẻ "tiền của" họ có với Thánh Phaolô, ở chỗ "san sẻ mọi quẫn bách của tôi", và kết quả họ gặt hái được đó là: "sự săn sóc của anh em đối với tôi đã sinh hoa kết quả", "đó là hương thơm ngạt ngào, là lễ vật được Thiên Chúa vui lòng chấp nhận". Về phần Thánh Phaolô, vì ngài cũng chỉ làm tôi cho một mình Thiên Chúa, nên cũng chẳng lệ thuộc vào tiền của từ họ cung ứng cho ngài, nhất là khi "túng thiếu", đến độ: "Tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi".

 

Những con người chỉ biết làm tôi một chủ duy nhất là Thiên Chúa, chứ không làm tôi cho tiền của, hay vừa làm tôi cho Thiên Chúa vừa làm tôi cho cả tiền của, nghĩa là coi Thiên Chúa ngang hàng với tiền của, chỉ gắn bó với Ngài khi bất hạnh, và bỏ Ngài khi sung túc v.v., nhờ đó, nhờ biết đặt để giá trị tiền bạc như phương tiện đạt đến cùng đích của mình là Thiên Chúa, mà họ cũng biết lợi dụng tiền của vật chất để mua chuộc bạn bè, bằng đức bác ái yêu thương phục vụ và tha thứ, thì họ chính là những con "người biết tôn sợ Chúa", như được Thánh Vịnh 111 trong Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:


1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.

2) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời.

3) Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi. Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.