SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Thường Niên Tuần III 
Năm B (Chúa Nhật) và Năm Chẵn (Trong Tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


   

Chúa Nhật


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Gn 3, 1-5. 10

"Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay".

Trích sách Tiên tri Giona.

Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng, Giona tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9.

Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.

2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 7, 29-31

"Bộ mặt thế gian này đang qua đi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mc 1, 15

Alleluia, alleluia! - Nước Chúa đã gần đến, hãy tin tưởng vào Phúc Âm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 1, 14-20

"Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Mark 1:14-20 – The Radical Church Militant

 

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

ĐỨC KITÔ - LỜI RAO GIẢNG TIÊN KHỞI

 

 

Có thể nói, theo Thánh ký Marco, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức thi hành thừa tác vụ Thiên Sai Cứu Thế của mình từ bài Phúc Âm hôm nay. Tức là, sau biến cố Người chịu Phép Rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, như phần đoạn đầu tiên bao gồm các câu Phúc Âm trước các câu của Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ III Mùa Thường Niên Năm B hôm nay.

 

Tuy nhiên, theo phụng vụ, sau biến cố Người lãnh nhận Phép Rửa, Người chưa vào hoang địa 40 ngay để chay tịnh và chịu cám dỗ. Trái lại, theo Thánh ký Gioan, Người còn ở gần Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ít là 2 ngày nữa sau biến cố Phép Rửa (xem Gioan 1:29, 35, 43). Thậm chí, cũng theo Phúc Âm Thánh Gioan, có thể Chúa Giêsu còn về Galilêa để dự tiệc cưới Cana "vào ngày thứ ba" sau biến cố Phép Rửa nữa (xem Gioan 2:1). Đó là lý do Giáo Hội đã cố ý chọn đọc ba bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan về thời đoạn mấy ngày chuyển tiếp lưng chừng này cho Chúa Nhật II Thường Niên, trước khi tới bài Phúc Âm cho Chúa Nhật III Thường Niên Năm B hôm nay.

 

Ngay chi tiết đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay cũng cho thấy một sự kiện chuyển tiếp thật tuyệt vời, sự kiện chuyển tiếp từ một tận điểm sang một khởi điểm đã được ấn định cần phải khít khao xẩy ra, đó là: "Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa". Đúng thế, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dù sao cũng chỉ được sai đến để dọn đường cho "Đấng đến sau" (trước biến cố Phép Rửa, như các bài Phúc Âm Nhất Lãm trong Mùa Vọng cho thấy) và để làm chứng cho Người là "Chiên Thiên Chúa" (như các bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho thấy trong các ngày 2-5/1 trước Lễ Hiển Linh ngày 6/1), tự bản thân của ngài "không phải là ánh sáng" (Gioan 1:8), mà ngài chỉ "được sai đến... để làm chứng cho ánh sáng" (Gioan 1:6-7), cho tới khi "ánh sáng thực chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), thì ngài "bị bắt" và bị nhốt ở trong ngục tối, như ánh sáng của "cây đèn" (xem Gioan 5:35) tự nhiên phải trở nên mờ khuất trước ánh sáng xuất hiện: "Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa".

 

Bài Phúc Âm hôm nay bao gồm 2 phần rõ ràng: Phần đầu liên quan đến Lời Rao Giảng Tiên Khởi của Chúa Kitô, và phần sau liên quan đến việc Người chọn 4 môn đệ đầu tiên là hai cặp anh em ở cùng quê và cùng làm một nghề đánh cá là cặp anh em Simon - Anrê và cặp anh em Giacobê - Gioan. Thế nhưng, căn cứ vào nội dung và chiều hướng chung của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, thì ý tưởng chính yếu ở ngay Lời Rao Giảng Tiên Khởi của Chúa Kitô: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm".

 

Thật vậy, trong Lời Rao Giảng Tiên Khởi này của mình, Chúa Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), đã mạc khải cho thấy cả "những sự trên trời" lẫn "những sự dưới đất" (Gioan 3:12). Chúa Giêsu đã mạc khải cho thấy "những sự trên trời", đó là: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến", liên quan đến phần của Thiên Chúa; Chúa Giêsu đã mạc khải cho thấy "những sự dưới đất", đó là: "Các người hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm", liên quan đến phần của con người.

 

Chính vì "thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến", ở chỗ thời điểm Thiên Chúa có ý định hoàn tất lời hứa cứu độ của Ngài với nguyên tổ loài người ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15) đã thực sự đến rồi, ngay từ Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, mà nay bắt đầu được hiện lộ nơi việc chính thức tỏ mình ra của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), Đấng đến để thiết lập Vương Quốc của Thiên Chúa trên trần gian này bằng Cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua từ sự chết đến sự sống, khiến cho vương quốc cùng với các công việc của ma quỉ hoàn toàn bị phá hủy (xem 1 Gioan 3:8). Đó là lý do khi Chúa Kitô bắt đầu công bố Lời Rao Giảng Tiên Khởi này thì quả thực là "nước Thiên Chúa đã gần đến", về thời gian chỉ còn khoảng 3 năm ngắn gọn, thế thôi.

 

Thế nhưng, muốn được hưởng Ơn Cứu Độ của Người, nghĩa là muốn được vào Nước Thiên Chúa do Người thiết lập, con người cần phải "ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm", một cặp điều kiện, hay đúng hơn, một điều kiện lưỡng diện bất khả thiếu và bất khả phân ly để con người được cứu độ, được vào Nước Thiên Chúa. Có nghĩa là phải chân nhận mình là con người tội lỗi đáng thương, ở chỗ "ăn năn sám hối", với tất cả lòng tin tưởng vào "Phúc Âm Sự Sống - Evangelium Vitae"  Lòng Thương Xót Chúa, Đấng duy nhất có thể chẳng những cứu mình khỏi tội lỗi và sự chết mà còn cho mình được thông hiệp sự sống thần linh vô cùng trọn hảo viên mãn của Ngài và với Ngài.

 

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy cả Bài Đọc I lẫn Bài Đọc II đều đáp ứng Lời Rao Giảng Tiên Khởi khẩn trương có tính cách mời gọi này của Chúa Kitô: "hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Nếu trong Bài Đọc I, dân thành Ninivê thuộc dân ngoại đã làm gương "ăn năn sám hối" thật tuyệt vời: "Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ", đến độ, "Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó", thì ở Bài Đọc II, Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã khuyên Kitô hữu thuộc giáo đoàn Corintô "hãy tin tưởng vào Phúc Âm", tức hãy sống đức tin như thế này:

 

Chính vì "Thời giờ vắn vỏi", một sự kiện "vắn vỏi" ở ngay đầu lời khuyên này của Thánh Phaolô như âm vang lời Chúa Kitô mạc khải "Nước Thiên Chúa đã gần đến" ở trong bài Phúc Âm, mà Kitô hữu chỉ "còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi". Có nghĩa là một khi sống bởi đức tin và sống theo đức tin thì chẳng khác gì Kitô hữu sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, coi mọi sự chỉ là phương tiện để đạt đến cùng đích, để phục vụ Nước Trời.

 

Trước hết là gương sám hối thật tuyệt vời của dân thành Ninive: ở chỗ họ là dân ngoại, hoàn toàn không biết gì một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái, một dân tộc lại tỏ ra khinh bỉ họ, thế mà họ vẫn chấp nhận vị tiên tri của dân Do Thái (chứ không phải tiên tri của họ). Đến độ, vị tiên tri này vừa đi rao giảng ngày đầu tiên trong 3 ngày thôi mà họ đã đồng loạt bảo nhau, từ vua tới dân, từ người đến thú phải tỏ ra những hành động ăn năn sám hối. Trước lòng thành đầy tin tưởng của một thành dân ngoại này, Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân hậu làm sao có thể giáng phạt họ chứ! Nên "Người không thực hiện điều đó" - "Ninivê sẽ bị phá huỷ"!

 

Trái lại, chính dân Do Thái là dân Chúa lại không chịu sám hối. Điển hình là chính tiên tri Giona. Khi thấy dân Ninive sám hối và được Chúa tha thì lại giận Chúa, như trình thuật sau biến cố của bài Đọc I hôm nay cho thấy. Thành phần trí thức và lãnh đạo của dân Do Thái cũng có sám hối gì đâu. Lý do chính yếu sở dĩ thành phần này của dân Do Thái không thể và khó có thể tin nhân vật Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, là Lời Chúa, là "Phúc Âm" của Thiên Chúa, là vì họ không sám hối, bởi họ cho mình là công chính, nghĩa là họ "không giống như tên thu thuế kia" (xem Luca 18:11), thành phần tội lỗi mới cần phải ăn năn sám hối.

 

Sau nữa, gương sống động nhất của thành phần "tin vào Phúc Âm" này chính là 4 người môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay, 4 chàng thanh niên có gia đình và nghề nghiệp đàng hoàng. Ở chỗ, vừa được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, một nhân vật mới quen với anh em Anrê và Simon (xem Gioan 1:40-42), lên tiếng kêu gọi "'Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người'. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người".

 

Đúng thế, Chúa Giêsu Kitô chính là Phúc Âm của Thiên Chúa, là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa (xem Gioan 14:9), mà nếu không tin tưởng vào Người, như "tin vào Phúc Âm", thì 4 chàng thanh niên chuyên nghiệp đánh cá này không thể nào có thể tác hành một cách vô cùng điên rồ dại dột trước mắt thế gian như vậy: "Lập tức các ông bỏ lưới theo Người", hay "bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người". Thế mới biết mãnh lực vô cùng hấp dẫn xuất phát từ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đã có tác dụng thần linh như thế nào nơi những ai "tin vào Phúc Âm" như hai cặp anh em trong Bài Phúc Âm hôm nay, những con người chân thành chất phác, đầy lòng khao khát thần linh và cởi mở trước tác động thần linh, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.

3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.

 

 

 

 

Ngày 21 tháng 1

Thánh A-nê, trinh nữ, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

 

A-nê là một thiếu nữ Rô-ma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi cuộc bách hại của hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305). Đó là sự việc thánh Am-rô-xi-ô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rô-ma tưởng nhớ thánh nữ với hết tình yêu mến.

hah1234

 

Chưa đủ sức chịu khổ mà đã thừa sức chiến thắng

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 21/1)

Trích khảo luận của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, về các trinh nữ.

Hôm nay là ngày sinh nhật trên trời của một trinh nữ, chúng ta hãy noi gương trong trắng của người. Hôm nay là ngày sinh nhật trên trời của một vị tử đạo, chúng ta hãy dâng hy lễ. Hôm nay là ngày sinh nhật trên trời của thánh A-nê. Tương truyền rằng thánh nữ đã được phúc tử đạo năm mười hai tuổi. Người ta đối xử tàn bạo không nương tay với một thiếu nữ còn ít tuổi, thì lại càng làm lộ ra sức mạnh lớn lao của đức tin nơi thiếu nữ ấy, vì cô đã dám làm chứng.

Tấm hình hài nhỏ bé ấy, liệu có chịu nổi một vết thương chăng ? Người thiếu nữ không có sức chịu nổi lưỡi đòng thâm thâu, thế mà lại có sức thắng được lưỡi đòng ấy, đang khi những cô bé cùng trạc tuổi không chịu được nét mặt nghiêm khắc của cha mẹ, và khi bị kim đâm thì khóc như bị thương nặng.

Người thiếu nữ ấy vẫn bình thản giữa những bàn tay đẫm máu của lý hình, không nhúc nhích khi nghe tiếng xiềng xích nặng nề kéo lê lẻng xẻng. Tuy chưa biết chết là gì, nhưng người thiếu nữ ấy đã sẵn sàng : giờ đây cô đưa thân ra đón lưỡi gươm của tên lính hung bạo. Ngay cả khi bị miễn cưỡng lôi đến bàn thờ tế thần thì ngang qua những ngọn lửa, cô vẫn giơ tay lên Chúa Ki-tô, và trong lò lửa tàn bạo đó, cô đã làm dấu thánh giá để tôn vinh Chúa toàn thắng. Giờ đây cô đưa cổ và hai tay cho người ta xiềng lại, nhưng không dây xiềng nào có thể xích được những chi thể quá mềm mại đó.

Đây không phải là một kiểu tử đạo mới sao ? Chưa đủ sức chịu khổ mà đã thừa sức chiến thắng ; chiến đấu thì vất vả, nhưng được ân thưởng lại dễ dàng. Tuổi đời còn non dại, mà đã là bậc thầy về chí can trường. Tân nương vội vã tới loan phòng cũng không lẹ bằng người trinh nữ này vui vẻ tiến ra nơi hành quyết. Cô đẹp không phải vì bím tóc nhưng vì thuộc về Đức Ki-tô. Đầu cô không đội vòng hoa nhưng được điểm trang bằng đức hạnh.

Mọi người đều khóc nhưng chính cô thì không. Nhiều người lấy làm lạ vì thấy sao cô dễ dàng xả thân như thế ; chưa được hưởng cuộc đời mà cô đã rộng rãi cho đi như là đã hoàn toàn mãn nguyện. Ai nấy đều kinh ngạc, vì ở tuổi đó, cô chưa làm chủ được chính mình mà đã làm chứng cho Thiên Chúa. Cuối cùng, cô đã làm cho người ta phải tin cô, khi cô làm chứng về Thiên Chúa, trong lúc người ta chưa tin cô được về những vấn đề thuộc con người, bởi lẽ điều vượt quá tính tự nhiên thì do Đấng tác tạo thiên nhiên mà có.

Lý hình đã tìm mọi cách làm cho cô khiếp đảm, đã dùng hết lời ngon ngọt thuyết phục cô, hứa hẹn bao điều để cô chịu kết hôn. Nhưng cô quả quyết : “Thật là sỉ nhục cho Hôn Phu, nếu tôi còn mong đợi ai làm tôi vui lòng. Ai chọn tôi trước thì người ấy được. Này đao phủ, còn đợi chi nữa ? Tôi không muốn người ta thích thú ngắm nhìn thân xác tôi, hãy để cho nó chết đi !” Cô đứng, cầu nguyện rồi giơ cổ cho người ta chém.

Có lẽ bạn thấy được tên lý hình đang run sợ như chính hắn bị tuyên án, thấy tay tên đao phủ run rẩy giơ lên, sợ xanh mặt, vì cô bé lâm nguy, trong khi cô chẳng sợ nguy hiểm gì cho mình. Vậy trong một lễ vật hy sinh, các bạn có hai lời chứng : lời chứng về tiết hạnh và lời chứng về đức tin. Cô đã giữ vững đức đồng trinh và được phúc tử đạo.

 

Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ

Từ thế kỷ thứ IV, thánh Anê là một trong các vị thánh được tôn kính nhất trong Giáo hội Rôma. Ngày kỷ niệm được ghi nhận trong lịch Rôma cổ là ngày chuyển di hài thánh nữ (Depositio martyrum) vào ngày 21.01.354. Nhiều giáo phụ đã tôn kính nữ thánh: Thánh Ambrôsiô đã viết một Hạnh tử đạo về thánh nữ và đã viết một bài Thánh thi ca tụng, và còn có các thánh Prudence, Giêrôm, Augustinô… Tên thánh nữ đã được ghi vào Kinh nguyện Thánh Thể Rôma cùng với các nữ thánh Agatha, Lucie, Cécile… và trên ngôi mộ của bà, hoàng đế Constantin đã cho xây một đại Thánh đường: Sainte Anê hors les Murs.

Anê (tiếng Hy Lạp là Agnè = “thanh sạch”, tiếng Latinh là Agnus “con chiên”) là một thiếu nữ Rôma khoảng 12,13 tuổi dưới thời bách hại của hoàng đế Dioclètien. Nhiều truyền thuyết Latinh và Hy Lạp diễn tả cuộc khổ nạn của bà. Anê là Kitô hữu vào thời các môn đệ của Đức Kitô bị bách hại và bị giết. Lúc đó, một số người Kitô hữu chối đạo vì sợ, bà liền ra trước mặt nhà chức trách Rôma, tuyên xưng vững vàng đức tin của mình và khao khát được tử đạo. Bà đã trả lời với vị thẩm phán nghi ngờ về đức khiết tịnh của bà : “Tôi đã đính ước với Đấng các thiên thần phải cung phụng. Tôi giữ niềm tin vào Người và tôi hoàn toàn thuộc về Người”. Bị bắt đem vào một chỗ đồi bại, một ánh sáng từ trời đã bao phủ bà. Bị kết án thiêu sống, các ngọn lửa bao quanh bà, nhưng không đốt nóng. Bà nói với lý hình sắp chặt đầu mình: “Đừng sợ, hãy mau chặt đầu tôi, để tôi sớm về với Đấng tôi yêu.”

Đại Thánh đường thánh Anê luôn là một nơi hành hương. Ngày lễ kính thánh nữ, người ta sẽ đem hai con chiên đến gần bàn thờ, trước khi dâng cho Đức Giáo Hoàng. Lông của hai con chiên này dùng để dệt các Pallium: Một dấu hiệu mà Đức Giáo Hoàng mang và ngài cũng ban cho một số vị xứng đáng trong Hội Thánh.

Thánh nữ Anê được tôn kính là thánh quan thầy cho đức trinh khiết. Trong ảnh hình, bà xuất hiện với con chiên, và đôi khi, với một chim bồ câu, mỏ ngậm một chiếc nhẫn.

  1. Thông điệp và tính thời sự

Trong một bài giảng kính thánh nữ Anê vào năm 376, thánh Ambrôsiô đã nói: “Các anh chỉ có một nạn nhân, nhưng lại có một cuộc tử đạo hai mặt: Sự trinh khiết và đức tin. Bà đã giữ được đức trinh khiết và bà đã được phúc tử vì đạo.”

  1. Sự trinh khiết của thánh Anê, được nhấn mạnh kỹ lưỡng trong Hạnh tử đạo, cũng được làm nổi bật trong Phụng vụ. Thánh Ambrôsiô đã lấy Anê làm mẫu gương cho các trinh nữ trong chuyên khảo về đức Khiết tịnh, đã nói trong bài giảng: “Bà như một trinh nữ đã tiến lên với những bước vui mừng đến pháp trường… Đáp lại với những hăm doạ vuốt ve, lời hứa của kẻ bách hại. Bà nói: “Đấng đầu tiên đã chọn tôi, chính Người sẽ đón tôi.”
  2. Con chiên, biểu trưng sự thanh khiết, cũng là biểu trưng sự tử đạo cao cả nhất. Bài đọc một trong Thánh lễ, rút từ sách Khải huyền, nói về đám người đông đảo đứng trước ngai vàng và trước con chiên, mặc áo trắng, cành lá dừa cầm trong tay. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,9-17).

Thánh Anê xứng đáng đứng gần Con Chiên. Bà cầu nguyện: “Con sẽ đến với Ngài, Chúa Cha rất thánh, Đấng con yêu mến, con tìm kiếm và luôn khao khát”. Đối lại với những quyền lực thế gian, thánh Ambrôsiô nói: “Một bé gái đứng lên, cầu nguyện và giương cổ chờ đợi…” vì sức mạnh Thiên Chúa bao trùm lên sự yếu đuối con người. Chính vì thế mọi dân tộc đều ca ngợi.

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

http://loichua.donboscoviet.org/ngay-21-thang-1-thanh-anne-trinh-nu-tu-dao/

 


Một trong những đức tính nổi bật của vị thánh trẻ Anê, tử đạo là lòng can đảm và kiên trì. Thánh nhân dù mới có 13 tuổi đời đã anh dũng hy sinh vì Chúa:" Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người chết vì người mình yêu" (Ga 15, 13) và như thánh Phaolô viết: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".

MỘT CON NGƯỜI, MỘT CUỘC ÐỜI

Thánh Anê đã cảm nghiệm sâu xa lời thánh vịnh: "Máu tế thần, con quyết chẳng dâng, tên của thần, môi con không tụng niệm" (Tv 15, 4). Nên, dù mới có 12 tuổi đời, thánh nữ Anê đã rao giảng Ðức Kitô là Thiên Chúa. Thánh nhân không sợ sệt, không nhát đảm, người ta đã muốn làm hoen ố đời con gái của thánh nữ, nhưng Chúa luôn gìn giữ Người và con người của thánh nữ luôn tỏa hương thơm tươi tốt. Thánh Anê đã giữ mình tinh tuyền đến nỗi không một chàng trai nào dám động tới thân xác của Người. Thánh nhân luôn có một tâm niệm" Tôi chỉ tin một Ðức Kitô, Ðấng tôi hằng yêu mến ". Ngài luôn ý thức:" Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính Ngài nắm giữ " (Tv 15, 5). Thánh nữ phó thác sinh mạng và cuộc đời Ngài trong tay Thiên Chúa. Vì thế cái chết đối với Ngài chỉ thay đổi chứ không mất đi. Một nhát chém hay sự thiêu đốt không làm Ngài siêu lòng, nhưng là để Ngài được gặp mặt Chúa và sống bên Chúa suốt đời.

CHÚA THƯỞNG TRIỀU THIÊN CHO THÁNH NỮ ANÊ

Thánh Anê đã được diễm phúc tử vì đạo. Xác thánh nhân được an táng tại biệt thự riêng của gia đình. Công chúa của Hoàng đế Constantin vào năm 321 được thánh nữ chữa khỏi một chứng bịnh, nên đã cho xây trên phần mộ của thánh Anê một ngôi nhà thờ nguy nga, đồ sộ. Chúa thưởng công cho Người:" Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi ! ( Tv 15, 11 ).

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhục những gì hùng mạnh. Hôm nay chúng con mừng kỷ niệm ngày thánh nữ Anê, tử đạo về trời. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anê, trinh nữ, tử đạo).
 
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang%201/Ngay21-Agnes.htm



“Người thiếu nữ không có sức chịu nổi lưỡi đòng đâm thâu, thế mà lại có sức thắng được lưỡi đòng ấy, đang khi những cô bé cùng trạc tuổi không chịu được nét mặt nghiêm khắc của cha mẹ, và khi bị kim đâm thì khóc như bị thương nặng.” 
Đó là lời thánh giám mục Ambrôxiô dành cho thánh nữ Anê, vị thánh mà hôm nay chúng ta chiêm ngắm ngài.

Anê tên theo tiếng Hy Lạp (Agnès) nghĩa là “thanh sạch,” theo tiếng Latinh (Agnus) nghĩa là “con chiên.” Con chiên biểu trưng sự thanh khiết và cũng là biểu trưng cho sự tử đạo cao cả nhất. Tên gọi đầy ý nghĩa ấy quả thật rất đúng với cuộc đời của vị thánh trinh nữ tử đạo trẻ Anê.

Vào thời hoàng đế Diôclêtin bách hại đạo, thánh Anê, một thiếu nữ Rôma trẻ đã kiên cường làm chứng cho đức tin khi mới tròn 12 tuổi. Giữa lúc các môn đệ theo Đức Kitô đang bị bách hại và bị giết, một số Kitô hữu đã chối đạo vì sợ, thì người thiếu nữ trẻ tuổi đã ra trước mặt nhà chức trách Rôma, tuyên xưng đức tin của mình một cách vững vàng và khao khát được tử đạo. Thánh nữ đã trả lời với vị thẩm phán nghi ngờ về đức khiết tịnh của mình rằng: “Tôi đã đính ước với Đấng các Thiên thần phải cung phụng. Tôi giữ niềm tin vào Người và tôi hoàn toàn thuộc về Người.” Khi bị kết án thánh nữ đã nói với lý hình sắp chặt đầu mình: “Đừng sợ, hãy mau chặt đầu tôi, để tôi sớm về với Đấng tôi yêu.” “Ai nấy đều kinh ngạc, vì ở tuổi đó, cô chưa làm chủ được chính mình mà đã làm chứng cho Thiên Chúa. Cuối cùng, cô đã làm cho người ta phải tin cô, khi cô làm chứng về Thiên Chúa, trong lúc người ta chưa tin cô được về những vấn đề thuộc con người.”  

Đọc lại đôi nét về tiểu sử cuộc đời của thánh nữ trẻ Anê, ta thấy sự khác biệt giữa thời bách đạo khi xưa và sự tự do tôn giáo của ngày hôm nay. Sự khác biệt về việc làm chứng cho đức tin bằng máu tử đạo trong thời kì đầu của Giáo hội và việc sống đạo bằng chứng tá đời sống đức tin của Giáo hội giữa lòng thế giới hôm nay. Việc người trẻ can đảm sống trong sạch, chiến đấu với môi trường xã hội đầy cám dỗ để gìn giữ đức khiết tịnh, có thể nói đó là bằng chứng hùng hồn về đức tin của người trẻ ấy.


Để đạt đến một đời sống vững tin trước những thử thách, cạm bẫy và đau khổ, quả thực không dễ dàng với mỗi người chúng ta nhất là đối với các bạn trẻ của thời đại hôm nay. Chúng ta thể hiện lòng mến mộ, cảm phục khi chiêm ngắm thánh trinh nữ tử đạo ở tuổi 12. Vì rằng, ngài chưa “đủ sức chịu khổ mà đã thừa sức chiến thắng... Tuổi đời còn non dại, nhưng đã là bậc thầy về chí can trường.”

Hơn thế nữa, cuộc đời của thánh nữ Anê còn là một động lực sống mạnh mẽ cho các bạn trẻ; bởi chưng, người trẻ hôm nay đang đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách, nhưng cách thức để đón nhận, giải quyết và vượt qua nhiều khi lại là những cách thức tiêu cực hủy hoại đời sống mình. Đức Thánh Cha Phanxicô đã đồng cảm với người trẻ khi nói: “Người trẻ cũng kinh nghiệm những bế tắc, những thất vọng và những ký ức đau đớn sâu xa. Họ thường cảm thấy “nỗi đau của những thất bại trong quá khứ, những vỡ mộng, những kinh nghiệm về sự phân biệt đối xử và bất công, về cảm giác mình không được yêu thương và đón nhận.” Rồi, cũng “có những tổn thương luân lý, sự đè nặng của những lỗi lầm trong quá khứ, và một mặc cảm tội lỗi vì mình đã phạm các sai lầm.”

 Phần chúng ta hãy lắng nghe tâm tư của các bạn trẻ: “Có những lúc, nỗi đau nơi một số người trẻ thật xé lòng, một nỗi đau sâu thẳm không thể diễn tả thành lời. Họ chỉ có thể nói với Chúa rằng họ đang đau khổ nhiều lắm, rằng họ thật khó đứng vững, vì họ không còn tin vào ai nữa.”

Giờ đây, cùng với thánh trinh nữ tử đạo Anê, chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện xin cho các bạn trẻ hôm nay được ơn sức mạnh cùng lòng vững vàng trong đức tin khi gìn giữ đức khiết tịnh; để khi gặp phải những gian nan, khốn khó trên đường đời, các bạn có thể can đảm đối mặt, chấp nhận và vượt qua với niềm tin vững chắc rằng: Thiên Chúa giàu lòng xót thương vẫn luôn ở bên họ trong những lúc gian nan khốn khó của cuộc đời. Amen
 


VÌ SAO GIÁO HOÀNG LÀM PHÉP CÁC CON CỪU NGÀY 21 THÁNG 1

 

Từ hơn 500 năm nay, theo truyền thống đã được ấn định, ngày 21 tháng 1 là ngày giáo hoàng chờ để đón hai người khách đặc biệt đến Dinh Tông Tòa.
Là trọng tâm của đạo công giáo, Vatican thường tiếp các nhân vật có ảnh hưởng chính trị, văn hóa hay tôn giáo quốc tế. Nhưng ngày 21 tháng 1, Quốc gia nhỏ bé này sẽ tiếp hai vị khách khiêm tốn. Theo truyền thống xưa cổ có từ thế kỷ thứ 3 của Giáo hội công giáo, hai con cừu vừa mới sinh được kết hoa hồng trắng đặt trong giỏ đem đến để giáo hoàng làm phép.
Con cừu, biểu tượng của Thánh Anê
Buổi lễ này được diện ra ở nhà nguyện Urbanô VIII, một nhà nguyện ở bên cạnh thư viện Dinh Tông Tòa, nơi giáo hoàng tiếp các vị khách lớn. Ngày này là ngày Thánh trinh nữ Anê tử đạo ở Rôma từ đầu thế kỷ thứ 4, và con cừu là biểu tượng. Chỉ mới 13 tuổi, Thánh Anê bị chém bằng gươm theo cách mà người ta giết cừu thời đó. Các con cừu vô tội này đặc biệt tượng trưng cho tín hữu kitô, và chính Chúa Giêsu cũng là con chiên bị hiến tế.
Len để làm dây pallium cho các giám mục
Các con cừu, biểu tượng của Thánh Anê, được các cha Dòng Trappe nuôi ở Trois Fontaines, Rôma, hai con cừu nhỏ bé này được lựa vì len tuyền, màu trắng và được nuôi theo các luật lệ xưa cổ và chính xác. Len được dùng để làm dây cho các giám mục tương lai được phong trong năm. Dây pallium là dây mang ngoài áo lễ tượng trưng cho sự hiệp nhất của người đứng đầu Giáo hội địa phương với Đức Giáo hoàng. Chỉ cần chú ý trong các buổi lễ do các giám chức hay giáo hoàng cử hành là thấy dây len trắng này được mang ở cổ, có sáu thập giá đen được thêu bằng lụa đen – giáo hoàng thì bằng lụa đỏ -, tượng trưng cho các vết thương của Chúa Kitô.
Mỗi năm đến ngày lễ hai Thánh Phêrô và Phaolô, hai thánh bổn mạng của thành phố Rôma, dây pallim được chính tay Đức Giáo hoàng trao cho các giám mục. Trước nghi thức trọng thể này, dây pallium được đặt gần mộ của giáo hoàng đầu tiên, ở Đền thờ Thánh Phêrô và đặt trong bình dưới hốc tường của bàn thờ Thánh Phêrô ngày 24 tháng 6, ngày lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, một thánh bổn mạng khác của Rôma, dây pallium được để ở đây cho đến ngày 29, để “thấm đượm” quyền uy mà Chúa Kitô đã trao giao cho các tông đồ đầu tiên.

 

https://www.facebook.com/pagenguoiconggiao/posts/2014537955266842?comment_tracking=%7B%22tn%22%3A%22O%22%7D

 

Xướng đáp

XTa hãy hân hoan mừng lễ thánh A-nê, và tưởng niệm cuộc thương khó của người.

ĐGiữa tuổi thanh xuân, người đã hy sinh chịu chết và đã được hưởng sự sống muôn đời.

XVì chỉ yêu thương một mình Đấng ban sự sống.

ĐGiữa tuổi thanh xuân, người đã hy sinh chịu chết và đã được hưởng sự sống muôn đời.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhục những gì hùng mạnh, hôm nay chúng con mừng kỷ niệm ngày thánh nữ A-nê tử đạo về trời, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh Anê LÊ THỊ THÀNH (bà thánh Đê) (1781-1841)

Thánh nữ tiên khởi Việt Nam - Lễ 12/7

(nhân dịp đọc truyện Thánh Anê là quan thày của vị thánh nữ đầu tiên và duy nhất này củqa Giáo Hội ở VN, cũng được phúc tử đạo như vị quan thày của mình, dù không giống vị quan thày ở chỗ trẻ trung và đồng trinh)

 

Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, số chị em phụ nữ góp phần xương máu làm chứng đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên cường bất khuất vì Đức tin kitô giáo của thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu gương hiếm có. Chính quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng "hùm xám tỉnh Nam" (Nam Định) cùng đành phải bất lực trong việc thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng nhiều phương thế, từ khuyên dụ ngon ngọt đến tra tấn nhục hình, gông xiềng, đòn đánh đến tan nát thân mình, cũng không thể lung lạc đức tin trung kiên của thánh nữ. Những giọt máu tung toé vì đòn vọt đã trở nên những bông hoa hồng kết thành triều thiên tử đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa trọng thưởng. Anê Lê thị Thành, Thánh Nữ tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

 

Người mẹ gương mẫu

 

Anê Lê thị Thành sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngay từ nhỏ, cô Thành đã theo Mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, một giáo xứ lớn nay thuộc giáo phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình. Năm 17 tuổi cô kết hôn cùng anh nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hoà sinh hạ được hai con trai tên Đê và trân và bốn gái: Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương thường gọi tên cha mẹ bằng tên người con đầu lòng, vì thế mới có tên ông Đê, bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, rất quan tâm đến việc giáo dục con cái. Cô Lucia Nụ, con gái út cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc điều tra phong thánh như sau: "Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục chúng tôi. Chính người dạy chúng tôi học chữ và giáo lý, sau dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc dục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ".

 

Một người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh: "Song thân chúng tôi chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn thân mẫu thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những điều tốt lành. Có lần người dạy tôi: Tuân theo ý Chúa con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui long đón nhận Thánh Giá chúa gởi cho.

 

Người cũng thong khuyên vợ chồng tôi: "Hai con hãy sống hòa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".

 

Bà Anê Đê thật là tấm gương sáng về đạo hạnh cho các bà mẹ công giáo.

 

Từ bác ái đến tử đạo

 

Ông bà Đê có long bác ái hay thương giúp đỡ người, nhất là trọng kính và sốt sắng giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính đức ái đó đã đưa bà Đê đến phúc Tử Đạo.

 

Tháng 03.1841 đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục hiện diện tại làng Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở nhà ông tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông Trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.

 

Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đã mật báo tin các linh mục trú ẩn cho quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan Tổng Đốc đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng ngày lễ phục sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa dâng lễ xong vội rời khỏi nhà trọ, sang trốn trên gác bếp nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô tình để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trứơc nhất. Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: "Xin cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì cha thoát, bằng không cha và con đều bị bắt".

 

Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa.

 

Mặc áo hoa hồng

 

Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời."

 

Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn"

 

Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gia. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá"

 

Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: "Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa". Quả thật bà đã thể hiện trọn vẹn mối phúc thứ tám:

 

"Tin yêu Chúa Tể muôn trùng ,

Tan vàng nát ngọc chữ trung một lòng".

 

Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"

 

Bà còn khuyên: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng"

 

Ngoài những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà còn chịu thêm đau đớn của bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gởi thuốc đến thăm, ban bí tích giải tội, xức dầu và giúp bà. Trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết long theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con".

 

Cuối cùng bà dâng lời sau hết: "Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự".

 

Bà Anê Đê đã về nhà cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy. Hôm đó là ngày 12.07.1841, sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin. Bà hưởng thọ 60 tuổi.

 

Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để cho biết nạn nhân không còn sống. Họ tẩm liệm thi hài vào quan tài do nhà chung đem tới, rồi an táng tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng về Phúc Nhạc.

 

Ngày 02.05.1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã suy tôn chân phước cho bà Anê Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và là các bổn mạng các bà mẹ Công Giáo Việt Nam. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Lm. Đào Trung Hiệu, OP 

http://conggiao.info/thanh-ane-le-thi-thanh-ba-thanh-de-1781-1841-d-9138

 

 

 

 

Thứ Hai


Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 5, 1-7. 10

"Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc Israel đến cùng Ðavít tại Hebron mà nói rằng: "Ðây chúng tôi là cốt nhục của ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: "Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel". Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Ðavít ký kết với họ một giao ước trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Ðavít làm vua Israel. Khi Ðavít lên làm vua, ngài được ba mươi tuổi, và cai trị được bốn mươi năm. Tại Hebron, ngài cai trị Giuđa được bảy năm rưỡi. Còn tại Giêrusalem, ngài cai trị toàn cõi Israel và Giuđa được ba mươi ba năm.

Nhà vua và tất cả quân sĩ theo ngài kéo đến Giêrusalem, đánh đuổi dân cư Giêbusê. Người ta nói với Ðavít rằng: "Ông đừng vào đây, bằng không những người mù què sẽ đánh đuổi ông". Như thế có nghĩa là: "Ðavít sẽ không vào được nơi này". Nhưng Ðavít đã chiếm đóng đồn Sion làm kinh thành của Ðavít.

Và Ðavít vào thành, càng ngày càng trở nên cường thịnh, và Chúa là Thiên Chúa các đạo binh phù hộ nhà vua.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 20. 21-22. 25-26

Ðáp: Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người (c. 25a).

Xướng: 1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân. - Ðáp.

2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta, Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.

3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Ta đặt tay người trên mặt biển, và tay hữu người, Ta đặt lên sông ngòi. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 22-30

"Satan phải diệt vong".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ". Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y. Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".

Ðó là lời Chúa.

 



Suy niệm

 


Đức Kitô Quyền Năng


   Hôm nay, Thứ Hai, ngày thường đầu tiên trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay. 

Bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Marco thuật lại sự kiện đụng độ giữa "những luật sĩ từ Giêrusalem đến" và Chúa Giêsu, một cuộc đụng độ càng cho thấy bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha" này. Ở chỗ, cho dù bị xuyên tạc chụp mũ Người vẫn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn nhẫn nhịn giúp cho đối phương nhận ra cái sai lầm của họ và cảnh giác họ để họ khỏi bị đời đời hư mất.

Thật vậy, khi thấy danh tiếng của Chúa Giêsu càng ngày càng nổi nang khắp nơi trong dân chúng, cho dù Người mới chỉ ở Galilêa thuộc miền bắc đất nước Do Thái, chứ chưa xuống tới Giuđêa thuộc miền nam là nơi toàn tòng dân Do Thái và có giáo đô Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, thành phần "những luật sĩ từ Giêrusalem đến nói rằng 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'".  

Không biết thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến ấy từ bao lâu rồi, đã tận mắt xem thấy Chúa Giêsu trừ quỉ hay chưa, hoặc chỉ nghe nói đến thôi, rồi suy diễn một cách méo mó như vậy để chống phá đối phương mới trở nên nổi tiếng, với chủ đích hạ bệ đối thủ của mình xuống càng sớm càng tốt?! 

Tuy nhiên, nếu "miệng nói ra những gì đầy trong lòng", như chính Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (12:34) cũng có cùng chủ trương như những người luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay, thì nội dung của lời phát biểu này dường như chất chứa tính cách cạnh tranh xuất phát từ lòng ghen ghét, chứ chưa nói đến tính cách hết sức phạm thượng của nó, của những ai phát ngôn như thế.

Thế nhưng, cho dù bị phạm thượng như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã không nổi giận, quát mắng họ hay thậm tệ quở trách họ, như Người sẽ làm sau này, được thấy ở nguyên đoạn 23 Phúc Âm Thánh Mathêu, mà còn hết sức nhân từ "gọi họ lạivà "dùng tỉ dụ" (như cha mẹ hay thày cô dạy cho đám học trò con nít của mìnhcho dễ hiểu để nhờ đó vạch ra cho họ thấy những gì sơ hở đầy mẫu thuẫn nơi cái nhận định và lập luận vừa thiển cận nông nổi vừa mâu thuẫn mù tối của họ, bằng cách Người đã lấy gậy ông đập lưng ông, như sau:

"Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong". Tức là Chúa Giêsu muốn nói với thành phần luật sĩ đầy thế lực từ giáo đô Giêrusalem rằng: quí vị thật là mâu thuẫn, chẳng hiểu gì cả, nếu tôi như quí vị nói "bị quỉ Belzebul ám" nhờ đó tôi mới có thể "nhờ chính tướng quỷ mà trừ quỷ" thì ma quỉ tự chúng chia rẽ nhau mà chết thôi - làm gì có cái chuyện hoang đường là ma quỉ quay ra tàn sát lẫn nhau để hủy diệt đi vương quốc tử thần của chúng chứ? 

Chưa hết, Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để chẳng những sửa lỗi cho họ mà còn tỏ mình ra cho họ thấy rõ hơn một chút nữa, hy vọng họ thấy được quyền phép thần linh của mình là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", một quyền phép vô địch còn hơn cả quyền lực chết chóc của thần dữ, ở chỗ còn khống chế được cả ma quỉ là loài vẫn từng thống trị loài người từ sau nguyên tội: "Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y". 

Không biết các nhà luật sĩ khôn ngoan thông thái trong bài Phúc Âm hôm nay, nghe xong câu nói nhẹ nhàng xa xa bóng gió này của Chúa Giêsu có hiểu ý Người muốn nói hay chăng, nhưng thực tại đúng là như thế, đúng là Người có một quyền lực vô địch, một quyền lực sẽ đạt đến tột đỉnh của mình nơi cuộc Vượt Qua chiến thắng tội lỗi và sự chết của Người.

Tình thương của Chúa Giêsu tỏ ra với thành phần luật sĩ mù quáng trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ ở chỗ: 1- vạch ra cho họ thấy cái sai lầm của họ; và 2- tỏ cho họ thấy quyền lực thần linh trừ quỉ của Người, mà còn 3- cảnh báo về phần rỗi đời đời của họ nữa, như thể khuyên họ hãy cẩn thận và coi chừng thứ tội nguy hiểm được Người thẳng thắn cho họ biết rằng: 

"'Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời'. Ðó là vì họ nói 'Người bị thần ô uế ám'".

Căn cứ vào lời cảnh báo này của Chúa Giêsu thì ở đây Chúa Giêsu nói đến kẻ phạm tội "kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần... nó mắc tội muôn đời'", hơn là thứ tội "phạm đến Chúa Thánh Thần", và hình phạt muôn đời giành cho kẻ phạm một thứ tội phạm thượng khủng khiếp, dám cho "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là Đấng có thể khống chế quyền lực của thần dữ "bị thần ô uế ám", có nghĩa là dám hoàn toàn phủ nhận Thánh Linh là "quyền phép Đấng Tối Cao" (Luca 1:35) ở trong Người và làm việc đó, và vì thế cũng có nghĩa là gián tiếp không chấp nhận Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để được cứu độ (xem Marco 16:16).

Trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng thế, sau khi được phong vương để làm vua của toàn cõi đất nước Do Thái bấy giờ, (như Chúa Giêsu nổi tiếng khắp cả đất nước Do Thái sau này), "Nhà vua và tất cả quân sĩ theo ngài kéo đến Giêrusalem, đánh đuổi dân cư Giêbusê. Người ta nói với Ðavít rằng: 'Ông đừng vào đây, bằng không những người mù què sẽ đánh đuổi ông'. Nghĩa là: 'Ðavít sẽ không vào được nơi này'. Nhưng Ðavít đã chiếm đóng đồn Sion làm kinh thành của Ðavít. Và Ðavít vào thành, càng ngày càng trở nên cường thịnh, và Chúa là Thiên Chúa các đạo binh phù hộ nhà vua".

Qua câu Thánh Kinh được trích từ Sách Samuel quyển 2 trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, cho dù bị dân cư Giêbusê chống cưỡng, (như thành phần luật sĩ ở Giêrusalem đến chống phá Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay), Vua Đavít vẫn có thể làm được những gì cần phải làm để thống nhất đất nước và lấy "Sion làm kinh thành", (như Chúa Giêsu trừ quỉ để thống nhất loài người lại bằng việc thiết lập vương quốc của Thiên Chúa), nhờ "Thiên Chúa các đạo binh phù hộ nhà vua" (như Chúa Giêsu đã trừ quỉ bằng quyền năng Thánh Linh vậy). 

Bài Đáp Ca hôm nay gián tiếp liên quan đến Bài Phúc Âm hôm nay và trực tiếp liên hệ với Bài Đọc 1 hôm nay, vì cả hai đều liên quan đến quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, cách riêng nơi Đavít, và Đavít lại là hình ảnh ám chỉ Đức Kitô Thiên Sai là Đấng sẽ đến để giải thoát và chăn dắt dân Chúa: "Vương quốc của Người sẽ vô tận" (Luca 1:33). 

1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân. 

2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta, Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. 

3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Ta đặt tay người trên mặt biển, và tay hữu người, Ta đặt lên sông ngòi.   

 

  

THÁNH VINH-SƠN PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO

22-1

Thánh Vinh Sơn chắc chắn là một trong những vị tử đạo nổi tiếng và được tôn kính nhất trong thế giới Công giáo, ngay từ những thời xa xưa, tại nhiều nước, không kể quê hương ngài là Tây Ban Nha. Thánh Auguttin đã viết: “Có thị trấn nào, tỉnh nào nơi trải rộng đế quốc Rôma và Danh Chúa Giêsu mà lại không cử hành lễ kính nhớ thánh Vinh Sơn”? Từ năm 410 đến 413 tháng giêng, thánh Auguttin luôn giảng một bài giảng thuyết về ngài tại Vương cung Thánh đường Cartaginê được tái lập. Lễ kính ngài trải rộng khắp Âu châu, Phi châu, và Mỹ châu. 91 nhà thờ Ý mang tên ngài. Kể từ những năm 300, thành phố Vicenza nước Ý nhận ngài làm đấng bảo trợ, vì theo một truyền thuyết thì chính nó mang tên ngài.  Sự thánh thiện của ngài vĩ đại đến nỗi ba thành phố bên Tây Ban Nha giành giựt danh hiệu là quê hương của ngài: Đó là Valencia, Saragozza và Huesca. Nhưng có lẽ chắc là ngài sinh ra tại Huesca, nước Tây Ban Nha.

Ngài thuộc một gia đình quí tộc, con của quan đại diện Eutichio và nữ tước Enola. Ngài nhận được một nền giáo dục tốt đẹp về văn chương và sớm được gửi gắm cho Đức Cha Valeriô để chăm sóc đời sống thiêng liêng cho ngài. Không những Ðức Cha Valêriô truyền đạt, hun đúc đời sống cho Vinh Sơn với tất cả nền đạo đức vững chắc mà ngài còn dạy văn chương, chữ nghĩa cho Vinh Sơn. Ðược đào tạo, hun đúc trong bầu khí thánh thiện và tràn Thánh Thần của Chúa, thánh Vinh Sơn càng lúc càng trở nên con người tốt, trở nên mẫu mực và kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô. Thấy Vinh Sơn có khả năng, lòng đạo đức, Ðức Cha Valêriô đã truyền chức phó tế cho Vinh Sơn để phụ giúp Ðức Cha trong việc loan báo Tin Mừng.

Vào năm 303, các hoàng đế Rôma ban chỉ dụ bách hại các Kitô hữu: Mọi nhà thờ, sách vở, nhà cửa của các Kitô hữu phải bị phá hủy; các Kitô hữu làm công chức phải bị cách chức, mọi bề tôi trước khi làm bất cứ một hành vi công cộng nào cũng đều phải dâng của lễ hy sinh cho các thần.

Cả Đức Giám mục Valêriô và phó tế Vinh Sơn đều không từ bỏ bổn phận của mình, trái lại các ngài mạnh mẽ làm chứng cho đức tin của họ.  Vì thế tổng trấn Đacianô ra lệnh bắt giữ họ. Bị tra tấn, Vinh Sơn đã nói nhân danh cả vị Giám mục của mình cho Đaciano hay rằng: “Đức tin của chúng tôi chỉ là một điều mà thôi: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật: Chúng tôi là các tôi tớ và các chứng nhân của Ngài. Vì Danh Ngài, chúng tôi không khiếp sợ gì cả. Quan chỉ mệt thân tra trấn chúng tôi và làm chúng tôi đau khổ. Quan đừng tin rằng mình có thể bẻ gẫy chúng tôi bằng các lời hứa vinh dự hay lời đe dọa giết chết, vì lẽ cái chết quan giáng xuống trên chúng tôi sẽ dẫn chúng tôi tới sự sống”.

Đacianô đã đem Ðức Valerius đi lưu đày, rồi ông dồn mọi sự tức giận lên phó tế Vinh Sơn. Mọi hình thức tra tấn đều được sử dụng. Nhưng kết quả chỉ làm Dacian thêm rối trí. Chính ông ra lệnh đánh đập các lý hình vì sự thất bại của họ. 

Sau cùng ông đề nghị nếu phó tế Vinh Sơn giao nộp sách Thánh để đốt theo như chỉ dụ của hoàng đế thì ông sẽ tha cho. Nhưng thánh nhân cương quyết không nhượng bộ. Sự tra tấn tiếp tục, nhưng dù nằm trên vỉ sắt được nung nóng, người tù nhân vẫn can đảm chịu đựng, đến nỗi chính lý hình cũng phải nản chí. Sau cùng phó tế Vinh Sơn bị ném vào một xà lim dơ bẩn – Ở đây ngài đã hoán cải người cai tù. Dacian tức điên người, nhưng lạ lùng thay, ông lại ra lệnh cho tù nhân được tĩnh dưỡng đôi chút. Đaciano dùng những lời dụ dỗ dịu ngọt, những ân huệ để xúi Vinh Sơn bỏ đạo. Ông cho Vinh Sơn nằm trên chiếc giường êm ái để cho các bạn hữu đếm thăm nom, nhưng tất cả các mưu chước đều vô ích.

Vinh Sơn vẫn kiên vững trong đức tin, và qua đời ngày 22 tháng giêng năm 304 và truyền thuyết nói một đoàn các thiên thần rước ngài vào Thiên đàng.

Thông điệp và tính thời sự

Vinh Sơn de Saragossa, cùng với các thánh phó tế Stêphanô và Laurensô, được xem như mẫu gương cho thừa tác vụ phó tế: Kết hợp với Giám mục Valêriô, trong việc phục vụ Hội Thánh, ngài đã theo người trong việc tử đạo, trong việc làm chứng sự trung thành của mình với Chúa Kitô và Hội Thánh.

  1. Vinh Sơn (tiếng Latinh vincere, thắng trận) có nghĩa là kẻ chiến thắng. Như kẻ chiến thắng, ngài đã minh chứng trong suốt cuộc khổ nạn: Không có sự đau đớn nào có thể chiến thắng ngài. Truyền thuyết cho rằng, dù bị quăng vào tù ngục và bị hành hạ, nhưng Vinh Sơn luôn ca hát những bài Thánh thi tán tụng.
  2. Thánh Augustinô, trong bài giảng tôn vinh thánh Vinh Sơn, làm nổi bật ân sủng Đức Kitô đã ban cho thánh nhân, khi mời gọi ngài cùng chịu đau khổ với Người. Đó là một hồng ân. Vì thế “Không ai có thể tin vào sức mạnh của mình khi chịu thử thách. Thật vậy, khi chúng ta chịu đau khổ cách can đảm, chính từ Thiên Chúa mà chúng ta được sự kiên nhẫn. Chính Người nói: Hãy vững tin, vì Ta đã thắng thế gian. Tại sao chúng ta kinh ngạc khi thánh Vinh Sơn chiến thắng trong Đấng đã thắng thế gian?… Thân xác chịu đau khổ, Thần khí nói, và lời của Thần khí không những kết án sự vô tín, nhưng còn nâng đỡ sự bất lực” (Phụng vụ giờ Kinh).

 

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

http://loichua.donboscoviet.org/ngay-22-thang-1-thanh-vinh-son-pho-te-tu-dao/

 

Thánh Vinhsơn sinh tại Huesca nước Tây Ban Nha. Hồi niên thiếu, Vinhsơn là một lễ sinh của Giám mục Valêriô. Những ngày thơ ấu. Vinhsơn sống bên cạnh Giám mục thật là êm đềm hạnh phúc. Ngày ngày Giám mục dạy Vinhsơn giáo lý và cả các môn văn chương khoa học phần đời.

Cùng với thời gian, Vinhsơn tiến triển cả về thân xác lẫn tinh thần. Thấy mình già cần phải có người giúp việc, Giám mục Valêriô liền truyền chức phó tế cho Vinhsơn để phụ lực với ngài trong việc giảng giáo.

Những ngày sống thanh bình không được bao lâu. Tiếp đến là những ngày giông tố mù trời của những cơn bắt bớ do Điôclêtianô và Maximianô.

Viên tri phủ Đacianô một con người hung tàn, khát máu được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Valensce. Ông muốn tàn sát người công giáo cho thỏa mối căm hờn. Ngày Đacianô về nhận chức tỉnh trưởng Valencia cũng là ngày mở đầu cho tấn thảm kịch đầu rơi, máu chảy. Trước hết ông truyền bắt ngay Giám mục Valêriô và thầy phó tế Vinhsơn, rồi ra lệnh tra tấn dã man hầu làm lung lạc tinh thần các giáo hữu. Nhưng hai đấng trái lại rất hân hoan sung sướng, vì coi mình là kẻ đầu tiên được mời gọi đến để nêu gương anh dũng hầu lĩnh nhận triều thiên vinh quang tử đạo. Thấy hai người cùng chung một niềm tin sắt đá, Đacianô càng giận đến thâm gan tím ruột. Ông truyền hai người phải mang xích nặng rồi cho điệu đến Saragoss, ở đó hai vị được nếm mùi tân khổ của chốn lao tù. Viên tỉnh trưởng hy vọng lối hành hình dã man cả xác và tinh thần đó sẽ làm cho hai người nao núng tâm thần và kiệt sức. Nhưng khi truyền điệu hai người đến trước mặt ông, ông thấy hai đấng vẫn được khoẻ mạnh, xinh tươi như thường. Ông lên giọng hách dịch quát viên cai ngục:

“Ngươi lại ăn đút lót của chúng nên xử đãi tử tế với những quân tử tù này phải không?”

Rồi ông quay về phía những lực sĩ của Chúa Kitô hoặc nạt nộ, hoăïc dùng lời đường mật để dụ dỗ các ngài cúng thần.

Trong cuộc tra vấn, thầy Vinhsơn nhận thấy vị Giám mục tuổi tác ứng đáp lại không mạnh mẽ và rõ ràng đủ để giãi bầy lòng can trường và chí hiên ngang, vì ngài đã già nua lại ít khẩu khiếu, nên khi vị Giám mục vừa ngừng lời Vinhsơn liền thưa với Giám mục:

“Lạy Cha, nếu có thể, con xin Cha cho phép con đỡ lời Cha”.

“Sao con lại nói vậy? – Đức Giám mục trả lời – khi ban quyền rao giảng Phúc âm cho con, đồng thời Cha cũng đã giao cho con trách nhiệm bênh vực và tuyên xưng đức tin mà Cha con ta hằng ôm ấp; con cứ việc trả lời thay Cha”. Bấy giờ thầy phó tế Vinhsơn dõng dạc đáp lại với viên tỉnh trưởng:

“Ông cứ việc gia hình, khảo lược, chúng tôi sẵn lòng chịu đựng hết vì một lòng yêu Chúa Chân Thật. Ông đừng hòng dọa nạt hay dùng lời dụ dỗ mà chinh phục được chúng tôi đâu.”

Câu trả lời đó như đổ thêm dầu vào lửa tức giận của tỉnh trưởng. Ông hầm hầm nổi giận và bắt đầu dùng kế li gián. Giám mục Valêriô được đem đi một nơi. Còn lại một mình Vinhsơn, ông khởi sự cuộc điều tra dã man. Ông truyền căng xác Vinhsơn trên giường, rồi cho các lý hình thi nhau đánh, đánh cho đến khi thân xác Vinhsơn tơi bời rách nát, từng miếng thịt văng lên, máu me đầm đìa lai láng. Trong khi chịu đòn, Vinhsơn vẫn tươi cười vui vẻ; có khi còn dùng lời hài hước để nói khích tỉnh trưởng nữa, làm ông bực tức. Ông truyền lý hình lấy những móc sắt nung đỏ để xé thịt thánh Vinhsơn. Những tên lý hình, tuy hung tợn, cũng phải chùn tay rùng mình, không thể hăng hái làm công việc dã man đó. Cử chỉ đó càng làm ông phát cáu. Tỉnh trưởng Đacianô còn sáng nghĩ ra lối tra tấn dã man khác, nhưng cực hình không đánh đổ lòng trung kiên sắt đá của Vinhsơn.

Thấy lối tra tấn đó không đem lại kết quả ông đành xoay chiến lược hành hạ trường kỳ, nghĩa là để cho tù nhân chịu đau đớn và mỏi mòn chết dần. Ông hạ lệnh giam Vinhsơn vào một ngục lát toàn bằng mảnh sành và thuỷ tinh. Nhưng trái với ý mong muốn của con người hung ác đó, ngục thất đây đã biến thành nơi cực lạc cho Vinhsơn. Chính ở nơi đây đã xẩy ra một phép lạ mà nhiều người được chứng kiến đã động lòng trở lại. Ngục thất tối om đó bỗng tràn ngập ánh sáng: thiên thần Chúa hiện đến an ủi và chữa lành các thương tích của đấng tử đạo. Nằm trên những mảnh sành nhọn sắc, Vinhsơn có cảm tưởng như trải mình trên những cánh hồng êm dịu. Tâm hồn lâng lâng vui sướng, Vinhsơn hát ca vịnh chúc tụng Chúa. Những lính canh ngục thấy sự lạ đó, hoảng sợ chạy trốn. Nhưng viên cai ngục bình tĩnh đứng lại quan sát. Nhờ đó ông đã được ơn soi sáng và trở lại theo đạo công giáo.

Nghe tin ấy viên tỉnh trưởng không khỏi ngạc nhiên rụng rời. Một lần nữa ông lại xoay chiến lược, đổi dữ làm lành và chiều đãi Vinhsơn hy vọng đánh đổ ngài chăng. Ông tự nghĩ càng hành hung hay gia hình càng bất lợi, vì như thế là xây đắùp thêm vinh quang cho đối phương. Nghĩ vậy, ông liền truyền dọn giường chiếu có chăn đệm đường hoàng cho Vinhsơn nằm. Nhưng khi vừa đặt ngài lên, thánh nhân bắt đầu nhắm mắt để ngủ một giấc ngàn thu: linh hồn Đấng Tử đạo đã vút bay về cõi cực lạc.

Cái chết đem lại hạnh phúc cho đấng thánh càng gây bực tức thêm cho viên tỉnh trưởng, vì như thế là ông không thắng được chí can trường, bất khuất của Vinhsơn. Ông nắm tay thề thốt: “Ta không trị được tên này khi sống, thì ta sẽ còn hành hạ nó khi chết cho hả giận”. Nói rồi ông truyền vứt xác Vinhsơn trong nơi hoang địa cho chim trời và thú rừng xâu xé. Nhưng nào ông có được sự thoả mãn như lòng mong muốn. Một con quạ khổng lồ ở đâu bỗng bay đến làm nhiệm vụ canh gác. Hễ con vật nào định đến ăn xác ngài, quạ liền kêu oang oác hoặc tung cánh xông vào mổ túi bụi.

Tin đó tức tốc cũng đến tai Đacianô, ông nổi xung. Nhưng rồi mắt ông sáng lên vì một thủ đoạn ông vừa sáng nghĩ: “Ừ phen này xem nó có thoát được ta không?” Ông truyền bỏ xác Vinhsơn vào một cái túi có đèo thêm một hòn đá lớn, rồi cho quăng xuống biển. Tưởng rằng mười mươi xác chết đó, nếu không lặng chìm dưới đáy nước, thì cũng hoá thành miếng mồi ngon cho cá biển. Nhưng lạ thay! Sóng biển lại đánh dạt túi đó vào bờ, một giáo hữu đã tìm được xác ngài trên một bãi biển, nơi đó sau này đã mọc lên một ngôi giáo đường nguy nga để kính nhớ đấng thánh.

Lòng tôn kính của giáo dân đối với thánh Vinhsơn không bao lâu đã được phổ biến nhanh chóng, nhờ phân phối hài cốt ngài cho nhiều nơi. Rất nhiều giáo đường nguy nga đã được xây lên để dâng kính hay mang tên Vinhsơn. Tại Pháp, thánh Vinhsơn đã được coi là một thánh tử đạo thời danh nhất. Nói đến tên ngài không ai mà không biết đến.

Nhưng hơn nữa, Vinhsơn sẽ còn được ghi nhớ và tôn kính muôn đời trong Giáo hội, vì máu ngài đã tô thắm vinh quang của Giáo hội.

http://giaoxutanviet.com/ngay-22-thang-1-thanh-vinh-son-pho-te-tu-dao-2/

   

 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 6, 12b-15, 17-19

"Ðavít và toàn dân Israel hân hoan đi rước hòm bia Thiên Chúa".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Ðavít hân hoan đi mang hòm bia Thiên Chúa từ nhà Obêđê về thành Ðavít. Vua dẫn theo bảy ca đoàn và đàn bò con làm của lễ. Khi những người mang hòm bia Thiên Chúa đi được sáu bước, thì Ðavít hiến tế một con bò và một con bê. Ngài tận lực nhảy múa trước Thiên Chúa. Ngài mang khăn vải điều ngang lưng. Ngài và toàn thể nhà Israel mang hòm bia Thiên Chúa hân hoan và trong tiếng kèn trống. Họ rước hòm bia Thiên Chúa vào đặt giữa nhà tạm mà Ðavít đã dựng sẵn. Rồi ngài hiến dâng của lễ toàn thiêu và của lễ bình an; ngài nhân danh Chúa các đạo binh mà chúc lành cho dân chúng, đoạn ngài phân phát cho toàn dân Israel, nam cũng như nữ, mỗi người một ổ bánh mì, một miếng thịt và một chiếc bánh chiên dầu. Và toàn dân giải tán, ai về nhà nấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10

Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? Chính Người là Thiên Chúa (c. 8a).

Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự quá! - Ðáp.

2) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.

3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự quá. - Ðáp.

4) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 15,15b

Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3,31-35

"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.

Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".

Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"

Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".

Ðó là Lời Chúa.

 Mark [3:31-35] The True Kindred of Jesus - YouTube


Suy niệm

 

  

Đức Kitô Tình Nghĩa   


 

Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Ba trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này. 

Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra", cũng như phản ứng của Chúa Giêsu khi Người được "đám đông ngồi chung quanh Người trình với Người rằng: 'Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy'".

Phản ứng của Chúa Giêsu, qua cả lời nói lẫn cử chỉ tác hành của Người, như được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, như sau: "Người trả lời rằng: 'Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?' Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: 'Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta'".

Phải chăng Người tỏ ra như thể bị gia đình làm phiền Người đang khi Người thi hành sứ vụ Thiên Sai của Người, nên Người có thái độ như lạnh nhạt hơn là vồn vã với gia đình của Người, thậm chí Người còn có vẻ coi trọng thính giả của Người hơn cả gia đình của Người nữa.

Bề ngoài có thể là thế thật, nhưng tận sâu xa ở những lời nói và cử chỉ có vẻ tiêu cực này của mình, Người lại sử dụng đường lối phủ nhận cách liên quan đến mối liên hệ ruột thịt tự nhiên với gia đình của Người để khẳng định một chân lý hết sức quan trọng về mối liên hệ thiêng liêng với Người là những gì Người đang thiết lập và sẽ hoàn thành vào cuộc Vượt Qua của Người trong tương lai.

Thật vậy, là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người không đến chỉ cho Mẹ của Người hay gia đình của Người thôi, mà cho toàn thể nhân loại, được đại diện bởi thành phần thính giả của Người bấy giờ. 

Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), để "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), thì Người quả thực, qua việc rao giảng và tỏ mình ra, "như ánh sáng chiếu soi mọi người", đang thiết lập mối liên hệ thiêng liêng với nhân loại, nghĩa là Người đang làm cho nhân loại tin vào Người, "chấp nhận Người", để họ "được quyền làm con Thiên Chúa" như Người và với Người.

Bởi thế, so với tình nghĩa thiêng liêng vô cùng chân thật, hoàn hảo và bền vững thì tình nghĩa xác thịt thấp hèn, hạn hữu và trần tục không thể nào sánh bằng, và vì thế tình nghĩa xác thịt tự nhiên cần phải được thăng hoa, cần được thánh hóa, cần phải được nâng cấp bằng lời Chúa. 

Nếu tình nghĩa thiêng liêng với Chúa Kitô, như Người nói, ở chỗ "làm theo ý Thiên Chúa", như chính bản thân Người liên lỉ chú trọng và thực thi cho tới cùng, thì không còn ai hơn Mẹ của Người, một Trinh Nữ đã đáp ứng lời thiên sứ truyền tin Lời Nhập Thể bằng tất cả đức tin siêu vượt của mình qua tiếng "Xin Vâng" (Luca 1:38), cho đến khi "đứng chân Thánh Giá Chúa Giêsu" (Gioan 19:25).

Như vậy, lời nói và thái độ có vẻ dửng dưng lạnh lùng như phủ nhận gia đình mình của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì chẳng những phấn khích việc nâng cấp cho thành phần thính giả của Người bấy giờ mà nhất là còn cố ý chúc tụng Mẹ của Người, lấy Mẹ của Người như là một mô phạm cho thành phần thính giả ấy trong việc lắng nghe lời Chúa (xem Luca 2:19,51).

Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng cho thấy tính chất gia đình thiêng liêng hay mối liên hệ thiêng liêng hết sức cao quí nơi dân Do Thái, vượt lên trên tất cả các mối liên hệ tự nhiên trong mọi lãnh vực, như lãnh vực tam cương của Khổng giáo là quân-sư-phụ: vua tôi, thày trò và cha con, ở sự kiện "Ðavít hân hoan đi mang hòm bia Thiên Chúa từ nhà Obêđê về thành Ðavít". 

Trước hết, tính chất gia đình thiêng liêng nơi dân Do Thái dưới triều đại Vua Đavít là ở chỗ có Thiên Chúa ở giữa và ở cùng họ: "Họ rước hòm bia Thiên Chúa vào đặt giữa nhà tạm mà Ðavít đã dựng sẵn", một hành động, ở một nghĩa nào đó, theo đúng đường lối Chúa Giêsu đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay về mối liên hệ thiêng liêng với Ngưi, ở chỗ "làm theo ý Thiên Chúa". 

Sau nữa, tính chất gia đình thiêng liêng nơi dân Do Thái dưới triều đại Vua Đavít là ở chỗ vua tôi sống với nhau một cách bình dân thân tình, như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại đặc biệt về hành động của vua: "Vua dẫn theo bảy ca đoàn và đàn bò con làm của lễ. Khi những người mang hòm bia Thiên Chúa đi được sáu bước, thì Ðavít hiến tế một con bò và một con bê. Ngài tận lực nhảy múa trước Thiên Chúa. Ngài mang khăn vải điều ngang lưng. Ngài và toàn thể nhà Israel mang hòm bia Thiên Chúa hân hoan và trong tiếng kèn trống".

Sau hết, tính chất gia đình thiêng liêng nơi dân Do Thái dưới triều đại Vua Đavít còn là ở chỗ vua đóng vai như cha mẹ của con dân, luôn quan tâm đến con dân của mình và chăm sóc cho con dân của mình: "Rồi ngài hiến dâng của lễ toàn thiêu và của lễ bình an; ngài nhân danh Chúa các đạo binh mà chúc lành cho dân chúng, đoạn ngài phân phát cho toàn dân Israel, nam cũng như nữ, mỗi người một ổ bánh mì, một miếng thịt và một chiếc bánh chiên dầu. Và toàn dân giải tán, ai về nhà nấy".

Nếu "đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời - Ubi caritas et amor, Deus ibi est" thì ở đấy cũng là gia đình của Chúa, trong đó mọi người là anh em với nhau trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". Cảm nhận này được bày tỏ trong Bài Đáp Ca hôm nay, một Bài Đáp Ca tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa là Vị Vua cần phải ngự đến ở giữa con dân của Ngài là dân Do Thái ngày xưa và Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa Kitô ngày nay. 

1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự quá! 

2) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. 

3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự quá. 

4) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. 

 


Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 7, 4-17

"Ta sẽ cho con của ngươi kế vị, và bảo đảm triều đại ngươi".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan lời này rằng: "Hãy đi và nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng? Vì từ ngày Ta dẫn dắt con cái Israel ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, Ta không ở trong nhà, nhưng Ta di chuyển trong nhà tạm và trong trại. Khắp mọi nơi Ta đi qua với con cái Israel, có khi nào Ta nói cùng một trong các chi họ Israel mà Ta truyền dạy chăn dắt Israel dân Ta rằng: "Tại sao không xây cất cho Ta một ngôi nhà bằng cây hương nam?"

Giờ đây, ngươi hãy nói cùng Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa các đạo binh phán thế này: Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta và Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta sẽ tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt để một nơi cho Israel dân Ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một ngôi nhà. Ðến khi qua đời, ngươi sẽ được an giấc cùng các tổ phụ ngươi. Kế đó Ta sẽ cho con của ngươi kế vị và làm cho vương quốc ngươi vững mạnh. Chính người sẽ xây dựng cho danh Ta một ngôi nhà, và Ta bảo đảm ngôi báu triều đại ngươi tồn tại đến muôn đời. Ta sẽ là Cha người, và người sẽ là con Ta. Nếu người có phạm lỗi, Ta sẽ sửa trị người bằng roi người lớn và bằng tai hoạ con cái loài người. Nhưng Ta sẽ không cất khỏi người lòng từ bi của Ta, như Ta đã xử với Saolê, kẻ đã bị Ta khai trừ khỏi mặt Ta. Và nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi!" Nathan đã thuật lại cho Ðavít tất cả những lời và thị kiến này.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 4-5. 27-28. 29-30

Ðáp: Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái (c. 29).

Xướng: 1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.

2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian. - Ðáp.

3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh. - Ðáp.

 

Alleluia: 1Sam 3,9

Alleluia, Alleluia. - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4,1-20

"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.

Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng:

"Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống.

Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết.

Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất.

Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu.

Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô.

Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được.

Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".

Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".

Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông:

"Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội".

Người nói với các ông:

"Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?

Người gieo hạt là gieo lời Chúa.

Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ.

Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền.

Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai.

Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được.

Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".

Ðó là Lời Chúa.

 


Suy niệm

 

 

   

 Đức Kitô Mạc Khải   

 

Tiếp tục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bài Phúc Âm Thứ Tư hôm nay trong Tuần 3 của thời điểm phụng vụ này liên quan đến dụ ngôn "người gieo hạt đi gieo hạt giống".

Theo bài Phúc Âm thuật lại ở phần đầu thì nội dung của dụ ngôn này như sau: "Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".

Cũng theo bài Phúc Âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã giải thích ý nghĩa của từng hình ảnh được ám chỉ trong dụ ngôn cho các môn đệ nghe, như lời yêu cầu của các vị:

"Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".

Trong phần dẫn giải của mình, Chúa Giêsu không cho biết "người gieo hạt" là ai. Tuy nhiên, vì "gieo hạt là gieo lời Chúa" như Chúa Giêsu dẫn giải, thì "người gieo hạt" đây còn ai khác ngoài chính bản thân Người, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

Nếu "hạt đây là lời Chúa" và lời Chúa đây chất chứa "ân sủng và chân lý", vì chính bản thân Người là "Lời", bởi thế "người gieo hạtđây tức là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra để thông ban cho "những ai chấp nhận Người" (Gioan 1:12) "ân sủng và chân lý" của Người và từ Người: "ân sủng" là "được quyền làm con Thiên Chúa" và "chân lý" là "được sinh ra bởi Thiên Chúa, chứ không phải bởi huyết nhục, bởi nhục dục hay bởi ý muốn của con người" (Gioan 1:13).

Đúng thế, theo dẫn giải của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay thì hạt khi chưa gieo vẫn còn là hạt, nhưng một khi đã gieo xuống rồi thì hạt được gieo xuống ấy trở thành người nghe, người đón nhận. Có tất cả 4 loại người chính yếu tiêu biểu đáp ứng lời Chúa, đáp ứng mạc khải thần linh là chính Chúa Kitô, hay "chấp nhận" Chúa Kitô cũng thế.

Nếu "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) và là người "sinh bởi Thiên Chúa" thì họ quả thực là "những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm". 

Vậy thì 3 thành phần còn lại sẽ có thể được suy diễn và áp dụng như sau:

"Những hạt ở trên vệ đường là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi huyết nhục", nghĩa là hoàn toàn sống theo tự nhiên nông nổi bề ngoài một cách hờ hững lãnh đạm với những gì siêu nhiên, thuộc lãnh vực đức tin, thuộc đời sống thiêng liêng.


"Những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi nhục dục", sống theo cảm giác cảm tình nên rất thay đổi bất nhất.


"Những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi ý muốn của con người", sống tìm kiếm và theo đuổi ưu tiên lợi lộc trần gian, coi trọng giá trị trần gian hơn những gì là chân thực bất biến. 


Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cho thấy Thánh Vương Đavít là một "hạt giống gieo trong đất tốt", ở chỗ, vua luôn nghĩ đến Thiên Chúa và coi trọng Thiên Chúa trong suốt cả cuộc đời của mình, (tất nhiên cũng có một lúc vua đã sa ngã phạm tội trầm trọng nhưng vua đã hết lòng ăn năn thống hối), cũng như trong triều đại của vua. Chẳng hạn vua có ý định "xây cất cho (Chúa) một ngôi nhà để ở" khi vua thấy vua ở trong đền đại nguy nga lộng lẫy mà Hòm Bia Chúa lại ở "nhà tạm", một nơi không xứng với Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả chí tôn


Bởi thế, vì vua "là người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi" nên vua là "hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm". 


Vua là "hạt ba mươi", ở chỗ: "Ta sẽ tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất... Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một ngôi nhà. Ðến khi qua đời, ngươi sẽ được an giấc cùng các tổ phụ ngươi".


Vua là "hạt sáu mươi", ở chỗ: "Kế đó Ta sẽ cho con của ngươi kế vị và làm cho vương quốc ngươi vững mạnh. Chính người sẽ xây dựng cho danh Ta một ngôi nhà, và Ta bảo đảm ngôi báu triều đại ngươi tồn tại đến muôn đời. Ta sẽ là Cha người, và người sẽ là con Ta...". 


Vua là "hạt một trăm", ở chỗ: "Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi!" 

Bài Đáp Ca hôm nay liên quan trực tiếp với bản thân vua Đavít, vương tổ của Chúa Kitô và là tiền thân cho vương quyền của Người, một mảnh đất tốt cũng chính là hạt sinh gấp trăm trong dụ ngôn người gieo hạt của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay:

1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". 

2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.

3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh. 


Thánh Phanxicô Salêsiô, Giám Mục Tiến Sĩ

 

24/1

 

Image result for st francis de sales

 

 

Hiền Lành Khiêm Nhượng

 

Một đứa trẻ giận dữ nhất cũng phải nói rằng: thánh Phanxicô Salêsiô là vị thánh hiền hoà nhất thế giới, Ngài đã biết cách để sửa mình và do đó đưa ra phương thức tốt đẹp để nên thánh : "Tôi chỉ nghĩ tới sự dịu hiền, dĩ nhiên, không phải chỉ có điều đó mà thôi. Sau này các bạn hữu Ngài đã ngạc nhiên vì sự im lặng thánh nhân giữ được trước những lăng nhục.

 

Ngài nói: - "Gì vậy, bạn muốn tôi bỏ mất trong giây lát một chút dịu dàng mà tôi đã mất 20 năm để thu thập sao ?"

 

Sự dịu dàng Ngài đã thực hiện với bao nghị lực, bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, Ngài đã có thể nói với bạn bè sau một cảnh thô tục mà một lãnh Chúa đã làm cho Ngài rằng : - Tôi giận sôi người lên, nhưng tôi thích chết đi còn hơn là nói lên một điều nhỏ nào có thể làm buồn lòng Thiên Chúa.

 

Thật khó hiểu nổi cách thế mà trong Ngài, một lòng nhân hậu dịu dàng như vậy đã thay thế cho bạo lực. Đối với người dọa nạt, Ngài trả lời: - Thưa ông, nếu ông có một con mắt, tôi sẽ nhìn ông bằng con mắt kia với lòng trìu mến.

 

Cả thánh Vincentê Phaolô cũng nói : - Khi muốn chiêm ngưỡng sự dịu hiền của Thiên Chúa, tôi nhìn về giám mục thành Ghênêva.

Nhắc tới thánh Phanxicô Salêsiô, không ai là không phải cảm phục Ngài về sự hiền lành.

Ngài là một người có bẩm tính rất nóng nảy, họ hàng bà con,  bạn bè ai cũng biết thế...

Một hôm, có người đến Toà Giám Mục Annecy để thăm thánh nhân. Trong câu chuyện trao đổi hai bên, nhiều lần ông ta đã lớn tiếng cái vã, đấm bàn đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô vẫn cứ ngồi nghe cách thinh lặng, thỉnh thoảng lại nhũn nhặn mời ông khách xơi trà, hút thuốc. Trước những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại bằng những lời lẽ hết sức dịu dàng, khiến ông khách quý bắt đầu cảm thấy hổ thẹn rồi từ từ rút lui.

Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm chỉ theo dõi câu chuyện giũa hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông phóng ngay ra phòng thánh nhân và lạ thay... Phanxicô vẫn tươi cười bình tĩnh! Ông liền nói:

- Này chú Phanxicô, xưa nay chú tính nóng như lửa, sao độ này lại hiền từ nhịn nhục đến thế. Tôi ở phòng sau nghe ông ta nói mà sốt ruột lộn gan, muốn nhào ra đánh cho ông ta một trận vỡ mặt ra. Đồ lếu láo mất dạy!

- Anh ạ, ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực bội tức giận lắm chứ, nhưng em cố gắng theo gương Cha Giêsu, hiền Lành và khiêm nhượng trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được một chút ít nhân đức bằng cách tự bảo: này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng mở, đừng nói gì! Rồi cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, thì bắt được cả bầy ruồi; chứ lấy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con.

Rồi một hôm khác có người quí phái dẫn một đàn chó và đoàn gia nhân đến trước sân nhà Đức giám mục Phanxicô Salêsiô: chó thì để sủa ồn ào, gia nhân thì để chửi bới kịch liệt. Ông ta còn lên tận cửa phòng Đức giám mục, múa tay múa chân thóa mạ Ngài như giông nổi sét vang. Thánh nhân điềm tĩnh ngồi nghe bất động chẳng nói chẳng rằng. Đối phương cho như thế là khinh dể mình, lại càng tức giận, động viên toàn lực lượng thể xác và tinh thần, chửi rủa thêm gấp bội. Thánh nhân làm bộ như tượng gỗ nói trong Thánh Kinh: có tai mà không có nghe, có miệng mà không nói, có mắt mà không trông xem... Sau cùng ông kia kiệt lực phải rút lui...

Các bạn hữu của thánh nhân liền đến hỏi tại sao Ngài có thể giữ một thái độ thản nhiên như vậy được ?

Đức giám mục tiết lộ bí quyết:

- Tôi đã minh ước với lưỡi tôi là bao lâu tâm hồn tôi còn bị xúc động, lưỡi tôi không còn sản xuất một lời nào.

Tiểu sử cuộc đời

Thánh Phanxicô ra đời tại biệt thự Sales danh tiếng vùng Savoie nước Pháp ngày 21/8/1567. Thân phụ Ngài là ông Phanxicô Nouvelles, một lãnh chúa và thân mẫu ngài là bà Phanxicô Sion, miền Sales. Cả hai là những tín hữu khôn ngoan, nhân đức, hết lòng chăm sóc cho con và giáo dục chúng nên người. Nhờ được sống trong bầu khí đạo đức đày tình yêu thương như thế mà cậu Phanxicô sớm tỏ ra là một thiếu niên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành.  Phanxicô còn được thấm nhuần tinh thần Tin Mừng ngay từ nhỏ nên đã sớm trở nên một đứa trẻ đạo đức, thánh thiện và bác ái.

Hơn muời tuổi, Phanxicô chịu phép Thêm sức, xưng tội lần đầu. Và vừa 14 tuổi được cha mẹ cho đi tu. Mấy năm sau ngài chịu phép cắt tóc.

Vào tuổi 17 một cơn dằn vặt thiêng liêng kinh khủng ám ảnh Ngài: người tưởng rằng: mình không còn sống trong tình trạng ơn thánh nữa, hoả ngục dành cho Ngài và nơi khủng khiếp này không còn tình yêu Chúa nữa.

 

Phanxicô cầu khần : - Lạy Chúa ít ra cuộc sống vắn vỏi này con biết dành để yêu mến Chúa.

 

Kiệt sức, Ngài chạy đến xin đức Trinh nữ gìn giữ mình được trinh trong và cứu thoát cho khỏi cơn thử thách gay go này. Ngài đọc kinh "hãy nhớ" và sau cùng tìm lại được bình an.

Năm 1580 Phanxicô được gửi đến Paris theo học khoa tu từ và triết lý, dưới quyền giám hộ của linh mục thánh thiện Morac Deâge. Dù sống giữa đô thị lớn, ngập lụt những xa hoa trần tục, thầy Phanxicô không để mình xao xuyến, hay bị lôi cuốn. Chàng vẫn giữ tấm hồn trong sạch, trung thành với lý tưởng tận hiến. Đó là kết quả lòng tin tưởng thầm kín vào Chúa như lời ngài thường nói: “Thiên Chúa là Thầy dậy duy nhất của tôi về mọi khoa nên thánh. Và tôi hoàn toàn tín nhiệm vào Ngài”. Tại Paris ngài xin gia nhập Hiệp hội Thánh Mẫu sinh viên do các cha dòng Tên khởi xướng lập nên.

Qua sáu năm học tại Paris, Phanxicô trở về Savoie rồi sang Ý theo học tại trường Đại học Padoua. Tại đây ngài chuyên về luật khoa và thần học. Hai năm sau ngài nhận mũ tiến sĩ do Đức Giám mục thành Padoua trao tặng. Phanxicô từ giã kinh thành văn hóa, đi hành hương Rôma, Loretto, và về Savoie.

Với tấm bằng tiến sĩ Luật, Ngài nắm trong tay một tương lai sáng lạn, huy hoàng. Gia đình Ngài mong ước cho Ngài được nhận tước quận công miền Villaroget, giữ ghế luật sư tại Savoie, và sau cùng kết hôn với ái nữ của lãnh chúa trong vùng. Thế nhưng họ đã thất vọng. Cha của Ngài đã phẫn nộ vô ích trước lòng cương quyết và từ tốn của thánh nhân. Dù cuộc đời Ngài có dễ dàng thăng quan, tiến chức, có chỗ vững chắc trong xã hội, nhưng thánh nhân quyết tâm từ bỏ tất cả, để đi theo Chúa Giêsu.

Thánh nhân được thụ phong linh mục năm 1595. Thánh nhân được Ðức Giám mục Granier tin tưởng, tín nhiệm đề cử làm nhà hộ giáo, giảng thuyết chính thức chống lại bè rối Calvin ở Challais. Với một tâm hồn lạc quan, vui tươi, tin tưởng và phó thác cho Chúa: "Chúa là nguồn vui của Con". Không có đe dọa hay bạo lực nào bắt Người ngừng giảng được. Nơi nào không thể đến rao giảng, Ngài phân phát truyền đơn. Suốt ba năm dưới ảnh hưởng của thánh nhân, 72 ngàn người theo thệ phản đã hoán cải.

 

Năm 1602, vua Henri IV đã muốn thánh Phanxicô làm giám mục thành Paris nhưng Ngài đã từ khước danh dự này và nói : - Thưa Ngài, tôi đã đính hôn với một bà Chúa nghèo, tôi không thể từ giã bà để theo một bà khác giàu có hơn. Nhà vua rất thán phục sự độc lập của Ngài và tuyên bố rằng: Phanxicô vĩ đại hơn ông là kẻ làm vua nhiều. Cũng vào năm 1602 ngay sau khi Ðức Cha Granier từ trần, Chúa yêu thương đã cất nhắc Ngài, đặt Ngài làm giám mục thay thế Ðức Cha vừa qua đời.

 

Các bài giảng thuyết của Ngài sớm lừng danh, đến độ những thành phố lớn đòi được nghe tiếng Ngài. Nhưng giám mục người Xa-voa (Savoie) thích giảng cho dân nghèo hơn. Ngài còn cho họ cả tới áo mặc của mình. Người ta thấy Ngài không giữ lại gì cho mình. Ngài chỉ thánh giá và nói: - Người ta có thể từ chối điều gì được, đối với một Thiên Chúa đã tự đặt mình vào trạng huống này vì chúng ta ?

 

Đối với các tội nhân, Ngài thân tình đón tiếp họ: - Các con hãy đến đây để cha ôm ẵm và đặt các con vào lòng cha. Cha chỉ đòi các con một điều là không được thất vọng, phần còn lại cha lãnh tất cả.

 

Đi tìm kiếm một linh hồn, nếu cần Ngài vượt qua rừng trong đêm tối, bất chấp bọn cướp giật hay thú rừng độc dữ, chân Ngài thường rớm máu vì băng giá. Một lần bọn sát nhân nhào tới, Ngài âu yếm bảo họ : - Các bạn không cần đòi mạng tôi làm chi, bởi vì tôi đã hiến mạng sống tôi để bảo tồn sự sống của các bạn.

 

Người ta có thể thấy rõ là Ngài đã nói thực. Bao người sát nhân đã làm như bao người khác: họ trở thành bạn hữu của Phanxicô. Và làm sao yêu Ngài, mà lại không yêu tôn giáo đã làm cho Ngài hiến thân trọn vẹn cho mỗi tâm hồn như vậy. Ngài nói : - Một linh hồn là một giáo phận rộng đủ cho một giám mục rồi.

 

Phanxicô không ngừng rao giảng, ngồi tòa, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người cùng khổ. Giữa những công việc bề bộn, Ngài còn viết nhiều tác phẩm được nhiều Kitô hữu mến chuộng như quyển: "Đường trọn lành", quyển "Dẫn vào đời sống nhiệt thành" (cuốn này đã được chuyển sang Việt ngữ với tựa đề: sống thánh giữa đời), chứng tỏ rằng: đời nhiệm hiệp và các nhân đức cao cả nhất, đều có thể nảy nở, ngay trong cuộc sống từ cung điện, lẫn "trong binh đội và trong các xưởng máy", Ngài truyền "dệt nên những sợi dây nhân đức nhỏ bé". Cuốn "khảo luận về tình yêu Thiên Chúa" của Ngài đáng cho Ngài được vinh quang như ở giữa bầu lửa, trong khi chuẩn bị viết về tình yêu của Ngôi Lời vĩnh cửu.

 

Thánh Phanxicô đã lập nhiều tu viện và tiếp tục hứơng dẫn các tu viện ấy. Ngài đã lập Dòng Chị Em Con Ðức Mẹ, sau này được đổi thành Dòng Thăm Viếng. Hai ngàn bức thư của Ngài vẫn còn, Ngài trao dòng "Thăm viếng" cho thánh nữ Chantal, một người vợ góa lập dòng mà Ngài hiệp nhất bằng một tình yêu trắng hơn tuyết, trong sáng hơn ánh mặt rời.

 

Ngài sống một đời sống hiền lành và khiêm nhường cố gắng làm việc cho tới phút cuối cùng. Thánh nhân kiệt sức khi Ngài nhận giảng dạy tại Lyon dịp lễ Giáng sinh. Ngài ngã bệnh lúc lên đường. Vừa tới nơi Ngài biết mình sắp chết. Người ta chỉ còn nghe thấy Ngài nói : - Lạy Chúa là tất cả của con. Với các bạn bè đang khóc lóc Ngài nói : - Các bạn lại không muốn ý Chúa được thực hiện sao ?

 

 Ngài được Chúa gọi về ngày 27-12-1622. Theo lời ngài trối lại, người ta đưa xác ngài về dòng Thăm viếng tại Annecy. Đến ngày 19-4-1685, Đức Giáo Hoàng Alêxanđria VII phong người lên bậc hiển thánh, và tới năm 1877 dưới thời Đức Thánh Cha Piô IX, thánh Giám mục Phanxicô được tặng phong là một thánh tiến sĩ của Giáo Hội.

 

Trọn đời thánh Phanxicô yêu mến hoàn thành thánh ý Chúa. Bí quyết đời thánh thiện của Ngài diễn tả như sau : - Với giá vĩnh cửu, cái gì chấm đứt với thời gian lại có thể ảnh hưởng trên chúng ta được ? Phải ước muốn một mình Thiên Chúa thôi, một cách tuyệt đối không thay đổi và bất khả xâm phạm.

 

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Phanxicô Salêsiô Giám mục biết trở nên tất cả để hoà mình với mọi người hầu muôn dân được ơn cứu độ. Xin cho chúng con hằng noi Gương thánh nhân để lại, mà hết lòng phục vụ anh em, để làm chứng lòng yêu thương nhân hậu của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chùa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp

 

ĐTC Biển Đức XVI

2/3/2011 – Bài 134 về Thánh Francis de Sales

 

Xin đọc bài của ĐTC Biển Đức XVI về vị thánh này ở cái link dưới đây

Thánh Francis de Sales

 

 

 

 

Ngày 25 tháng 1

Lễ Thánh Phaolô, Tông Đồ trở lại

(Lễ kính)

 

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Trên đường đi Đa-mát, ông Sao-lô quê thành Tác-xô đã khám phá ra hai điều : Trước hết, Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành ; thứ đến, Đấng Phục Sinh với các Ki-tô hữu là các anh em người, chỉ là một. Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.

 

Bài đọc 1Gl 1,11-24

Phao-lô, một người Do-thái, trở thành Tông Đồ Đức Ki-tô

Trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ga-lát.

11 Thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết : Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người. 12 Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải. 13 Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái : tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. 14 Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi : hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.

15 Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. 16 Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, 17 cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. 18 Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. 19 Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa. 20 Viết cho anh em những điều này, tôi cam đoan trước mặt Thiên Chúa là tôi không nói dối. 21 Sau đó tôi đến miền Xy-ri và miền Ki-li-ki-a. 22 Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Ki-tô tại miền Giu-đê không biết mặt tôi. 23 Họ chỉ nghe nói rằng : “Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt”, 24 và vì tôi, họ tôn vinh Thiên Chúa.

Bài đọc 2

Vì lòng yêu mến Đức Ki-tô, thánh Phao-lô chịu đựng tất cả

Trích bài giảng của thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục.

Con người là gì, bản tính nhân loại của chúng ta cao trọng thế nào, và con người có khả năng đến đâu dù cũng chỉ là động vật, thì, hơn bất cứ ai, thánh Phao-lô đã cho chúng ta thấy rõ. Người sống mỗi ngày một cao thượng hơn, vươn lên mỗi ngày một mạnh mẽ hơn ; khi gặp hiểm nguy, người luôn chiến đấu với niềm phấn khởi mới. Người cho thấy điều đó khi nói : Tôi quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Khi thấy giờ chết đã gần kề, thánh Phao-lô khuyến khích người khác cùng hiệp thông và chia sẻ niềm vui với mình, người nói : Anh em hãy vui lên và cùng chia sẻ niềm vui với tôi. Khi gặp nguy hiểm và bị lăng nhục, người lại vui mừng viết cho các tín hữu Cô-rin-tô : Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, bị bắt bớ. Người gọi đó là khí cụ để làm điều công chính, và cho thấy nhờ vậy người đã gặt hái được những thành quả mỹ mãn.

Vì thế, khi bị âm mưu hãm hại, người vẫn đắc thắng chống lại mọi cuộc tấn công của kẻ thù. Bất cứ ở đâu bị đánh đòn, bị lăng nhục và nguyền rủa, người luôn xử sự như kẻ mừng chiến thắng khải hoàn, thu lượm được nhiều chiến phẩm ; người hãnh diện và tạ ơn Thiên Chúa mà nói : Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng hằng chiến thắng khải hoàn nơi chúng tôi. Vậy, người mau mắn đến với những nhục nhằn tủi hổ vì rao giảng Tin Mừng, còn hơn là chúng ta mau mắn đến lãnh nhận danh dự và vinh quang ; người ước mong được chết hơn là chúng ta ham sống, thích khó nghèo hơn là được giàu có ; người muốn làm việc liên lỉ hơn là kẻ khác mong cho xong việc để được nghỉ ngơi. Quả thật, người chỉ khiếp sợ và xa tránh một điều, là làm mất lòng Thiên Chúa, chứ chẳng sợ bất cứ điều gì khác. Vậy, người chẳng ao ước điều gì hơn là luôn luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Đối với người, điều lớn hơn tất cả là được hưởng tình yêu của Đức Ki-tô ; được như thế, người cho mình là hạnh phúc hơn hết mọi người ; còn nếu không, người cũng chẳng ham ở trong hàng vua chúa quan quyền. Nhưng người muốn mình là kẻ rốt hết, thậm chí thuộc số những kẻ bị án phạt, mà có lòng yêu mến này, hơn là được ở giữa những người cao sang danh vọng mà không có lòng yêu mến đó.

Thật vậy, đối với người, nỗi đớn đau tột độ, và khác thường là phải tách rời khỏi tình thương của Đức Ki-tô : đó chính là hoả ngục, là hình phạt duy nhất, là khổ hình triền miên không sao chịu được. Còn được hưởng tình thương của Đức Ki-tô là có tất cả : sự sống, trần gian, thiên thần, hiện tại, tương lai, vương quốc, lời hứa và vô số ơn lành. Khi có tình thương này rồi, người chẳng kể chi là buồn phiền hay vui thú. Thật vậy, mọi sự trên đời, người chẳng coi gì là cay đắng hay ngọt ngào nữa.

Người khinh chê mọi vật hữu hình như cỏ thối, xem bạo chúa và đám dân phẫn nộ như loài sâu bọ.

Người coi cái chết, nỗi đớn đau và mọi cực hình như trò chơi của trẻ con, khi vì Đức Ki-tô mà người phải chịu đựng những điều ấy.

 

Xướng đáp1 Tm 1,13b-14 ; 1 Cr 15,9b

XTôi đã được Chúa xót thương, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin.

ĐĐức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người.

XTôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.

ĐĐức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người.

 

Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phao-lô tông đồ mà dạy dỗ muôn dân. Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Ki-tô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 22, 3-16

"Kêu danh thánh Chúa, tôi chỗi dậy".

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Ngày ấy, Phaolô nói với dân chúng: "Tôi là người Do-thái, sinh tại Tarsê xứ Cilicia, đã được nuôi nấng trong thành này, đã được đào tạo theo chân lý lề luật cha ông dưới chân ông Gamaliêl. Tôi nhiệt thành với lề luật cũng như hết thảy quý vị hôm nay. Tôi đã bắt bớ giết chóc đạo này, xiềng xích và bỏ tù cả đàn ông lẫn đàn bà. Như thầy thượng tế và toàn thể hội đồng kỳ lão đã làm chứng điều đó. Các ngài đã trao cho tôi chứng minh thư để tôi đến kiếm anh em ở Ðamas, bắt trói họ và điệu về Giêrusalem để trừng phạt.

Xảy đến lúc đó khoảng trưa, tôi đang trên đường gần đến Ðamas, thình lình một luồng ánh sáng chan hoà từ trời chói rạng quanh tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe tiếng phán bảo tôi: "Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Người trả lời: "Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ". Và những người cùng ở đó với tôi lúc ấy, cũng thấy ánh sáng, nhưng không nghe tiếng Ðấng nói với tôi. Tôi hỏi: "Lạy Chúa, con phải làm gì?" Chúa liền nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, vào thành Ðamas, ở đó sẽ nói cho ngươi tất cả những gì ngươi phải làm". Nhưng vì ánh sáng chói loà kia, tôi không còn thấy được, nên các bạn tôi cầm tay dẫn tôi vào thành Ðamas. Có một người kia tên là Anania, người đạo đức, sống theo Lề luật, và được mọi người Do-thái ở đó kính phục, đến tìm tôi và đứng gần tôi mà nói: "Hỡi anh Saolô, anh hãy nhìn!" Ngay lúc đó tôi nhìn thấy ông.

Và ông nói: "Thiên Chúa cha ông chúng ta đã tiền định cho anh biết thánh ý Người, thấy Ðấng Công Chính và nghe tiếng Người nói. Vậy anh phải làm chứng cho Người trước mặt mọi người về điều anh đã thấy và đã nghe. Và bây giờ, anh còn chần chừ gì nữa? Hãy chỗi dậy và cầu khẩn danh Người mà chịu thanh tẩy và gột rửa mình cho sạch tội lỗi".

Ðó là lời Chúa.

 

 

2. Hoặc: Cv 9, 1-22

"Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?"

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Saolô còn mải say mê hăm doạ giết các môn đồ Chúa. Ông đến thượng tế, xin chứng minh thư gởi đến hội đường ở Ðamas, để nếu gặp ai theo đạo ấy, bất luận nam nữ, ông bắt trói đem về Giêrusalem.

Ðang khi đi đường, lúc đến gần Ðamas, bỗng nhiên một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông, ông ngã xuống đất và nghe tiếng phán rằng: "Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Ông thưa: "Lạy Ngài, Ngài là ai?" Chúa đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ; giơ chân đạp mũi nhọn thì khổ cho ngươi". Saolô run sợ và kinh hoàng hỏi rằng: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?" Chúa phán: "Hãy chỗi dậy, vào thành, và ở đó người ta sẽ nói cho ngươi phải làm gì". Những kẻ đồng hành với ông đứng lại, hoảng hốt; họ nghe rõ tiếng mà không thấy ai. Saolô chỗi dậy khỏi đất, mắt ông vẫn mở mà không trông thấy gì. Người ta cầm tay dẫn ông vào thành Ðamas; ông ở lại đấy ba ngày mà không thấy, không ăn, cũng không uống.

Bấy giờ ở Ðamas, có một môn đồ tên là Anania; trong một thị kiến, Chúa gọi ông rằng: "Anania". Ông thưa: "Lạy Chúa, này con đây". Chúa phán: "Hãy chỗi dậy và đến phố kia gọi là phố "Thẳng", và tìm tại nhà Giuđa một người tên Saolô, quê ở Tarsê; nó đang cầu nguyện". (Saolô cũng thấy một người tên Anania bước vào, và đặt tay trên ông để ông được sáng mắt). Anania thưa: "Lạy Chúa, con đã nghe nhiều người nói về người này rằng: ông đã gây nhiều tai ác cho các thánh của Chúa tại Giêrusalem; tại đây, ông đã được các thượng tế cho phép bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa". Nhưng Chúa phán: "Cứ đi, vì người này là lợi khí Ta đã chọn, để mang danh Ta đến trước dân ngoại, vua quan và con cái Israel. Ta sẽ tỏ cho nó biết phải chịu nhiều đau khổ vì danh Ta".

Anania ra đi, bước vào nhà, và đặt tay trên Saolô mà nói: "Anh Saolô, Chúa Giêsu, Ðấng hiện ra với anh trên đường đi đến đây, sai tôi đến cùng anh, để anh được thấy và được tràn đầy Thánh Thần. Tức thì có thứ gì như những cái vảy rơi khỏi mắt ông, và ông được sáng mắt.

Ông chỗi dậy chịu phép rửa, và sau khi ăn uống, ông được lại sức, ông ở lại ít ngày cùng với các môn đồ thành Ðamas. Và lập tức ông rao giảng trong các hội đường rằng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Mọi người nghe rao giảng đều kinh ngạc và nói rằng: "Há chẳng phải ông này đã bách hại những người đã cầu khẩn danh ấy tại Giêrusalem, và cũng đã tới đây mà truy nã họ để điệu họ về cho các thượng tế sao?"

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy ngợi khen Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.

2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt. và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 16

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn các con giữa thế gian, hầu để các con đi và mang lại hoa trái, để hoa trái các con tồn tại". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 16, 15-18

"Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Tại sao gọi Thánh Phaolô là Tông Đồ?

 

Thánh Phaolô là một vị thánh rất đặc biệt trong Giáo Hội, nên:


Ngài vẫn được Giáo Hội vẫn gọi ngài là Tông Đồ, Tông Đồ Dân Ngoại, cho dù ngài không thuộc về hàng ngũ 12 tông đồ, nhưng Thật vậy, theo nguyên tắc thì không thuộc về hàng ngũ 12 tông đố thời Chúa Giêsu, được chính Chúa Kitô tuyển chọn, tỏ mình ra (nhất là khi Người phục sinh từ trong cõi chết) và sai đi như 12 vị có trong danh sách được bộ Phúc Âm Nhất Lãm liệt kê, thì không phải là tông đồ, mà chỉ là môn đệ của Chúa Kitô mà thôi. Tuy nhiên, căn cứ vào 3 yếu tố chính yếu bất khả thiếu để được trở thành tông đồ và đáng gọi là tông đồ đó là: 1- được chính Chúa Giêsu tuyển chọn, 2- được chính Chúa Giêsu tỏ mình ra cho, và 3- được chính Chúa Giêsu sai đi, thì Thánh Phaolô đã hội đủ 3 điều kiện tất yếu này, như được chính ngài tự thuật như sau (và các chi tiết nhiều hơn ở bên dưới đoạn này:


3.1- Được chính Chúa Giêsu tuyển chọn:  "Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết" (Tông Vụ 26:16)


Tông Vụ 9:10-22

10 Bấy giờ ở Đa-mát có một môn đệ tên là Kha-na-ni-a. Trong một thị kiến, Chúa phán với ông: "Kha-na-ni-a! " Ông thưa: "Dạ, lạy Chúa, con đây."11 Chúa bảo ông: "Đứng lên, đi tới phố gọi là Phố Thẳng, đến nhà Giu-đa tìm một người tên là Sao-lô quê ở Tác-xô: người ấy đang cầu nguyện12 và thấy một người tên là Kha-na-ni-a đi vào, đặt tay trên mình để làm cho mình lại thấy được."13 Ông Kha-na-ni-a thưa: "Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói về người ấy, về tất cả những điều ác người ấy đã làm cho dân thánh Chúa tại Giê-ru-sa-lem.14 Còn ở đây, người ấy được các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa."15 Nhưng Chúa phán với ông: "Cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ít-ra-en.16 Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta."17 Ông Kha-na-ni-a liền đi; ông vào nhà, đặt tay trên ông Sao-lô và nói: "Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần."18 Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Sao-lô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa.19 Rồi ông ăn và khoẻ lại.

20 rồi lập tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giê-su trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa.21 Mọi người nghe ông giảng đều kinh ngạc và nói: "Ông này chẳng phải là người ở Giê-ru-sa-lem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giê-su sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao? "22 Nhưng ông Sao-lô càng thêm vững mạnh, và ông làm cho người Do-thái ở Đa-mát phải bẽ mặt, khi minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a.

 

Tông Vụ 13:46-47

46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại.47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất."

 

 

3.2- Được chính Chúa Giêsu tỏ mình:  "Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ.8 Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non" (1Corinto 15:7-8); "Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại" (Galata 1:15-16).  .

 

1Cor 15:3-10

Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh,4 rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.5 Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai.6 Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.7 Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ.8 Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.

9 Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.10 Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. (15)

Galata 1: 11-19, 8-9

Tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người.12 Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải.13 Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa.14 Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.

15 Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người.16 Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên,17 cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát.18 Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày.19 Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.

 

8 Nhưng nếu có ai, kể cả chúng tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi!9 Như tôi đã nói, và nay tôi xin nói lại: nếu có ai loan báo cho anh em một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi!

 

 

3.3- Được chính Chúa Giêsu sai đi: "Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do-thái và các dân ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xa-tan mà trở về cùng Thiên Chúa". (Tông Vụ 26:17) 

 

Tông Vụ 22:17-21

17 "Khi trở về Giê-ru-sa-lem, đang lúc tôi cầu nguyện trong Đền Thờ, thì tôi xuất thần18 và thấy Chúa bảo tôi: "Mau lên, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem gấp, vì chúng sẽ không nhận lời anh làm chứng về Thầy đâu.19 Tôi thưa: "Lạy Chúa, chính họ biết rõ con đây đã đến từng hội đường bắt giam và đánh đòn những kẻ tin Chúa.20 Khi người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân của Chúa, thì chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy.21 Chúa bảo tôi: "Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa”.

Tông Vụ 26:12-18

12 "Thế là sau khi được các thượng tế trao quyền và uỷ nhiệm, tôi lên đường đi Đa-mát.13 Kính thưa đức vua, đang khi đi đường, vào lúc trưa, tôi đã thấy một luồng ánh sáng chói lọi hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống chung quanh tôi và các bạn đồng hành.14 Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất, và tôi nghe có tiếng nói với tôi bằng tiếng Híp-ri: "Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi!15 Tôi hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa đáp: "Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ.16 Nhưng ngươi hãy chỗi dậy, đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết.17 Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do-thái và các dân ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng18 để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xa-tan mà trở về cùng Thiên Chúa. Như vậy, nhờ tin vào Ta, chúng sẽ được ơn tha tội và được hưởng phần gia tài cùng với các người đã được thánh hiến."

2Cor 12:11-12

mặc dầu tôi chẳng là gì, tôi đâu có thua kém các Tông Đồ siêu đẳng kia.12 Anh em đã thấy thực hiện nơi anh em những dấu chỉ của sứ vụ Tông Đồ: nào là đức kiên nhẫn hoàn hảo, nào là những dấu lạ điềm thiêng, nào là các phép l.

 

Ngài được Giáo Hội kính nhớ 1 năm 2 lễ: Lễ ngài trở lại 25/1, ở bậc lễ kính (feast), và Lễ về biến cố ngài tử đạo, cùng với Thánh Phêrô, cả hai đều ở Roma, tuy ngày tháng khác nhau, và cả hai được Giáo Hội tưởng kính ở bậc lễ trọng ngày 29/6. 


Ngài là vị tông đồ nổi vào bậc nhất trong bộ Thánh Kinh Tân Ước, ở chỗ, bộ Thánh Kinh Tân Ước gồm có 27 cuốn và được chia ra làm 3 phần: phần lịch sử bao gồm 4 Phúc Âm và Tông Vụ, phần giáo huấn gồm 21 bức thư và phần tiên tri là Cuốn Khải Huyền, thề mà, nói chúng, ngài chiếm một nửa số sách Thánh Kinh Tân Ước: 14 cuốn trong số 27 cuốn Thánh Kinh Tân Ước; chưa hết, cũng trong phần lịch sử này, tuy không viết phúc âm, nhưng môn đệ của ngài là Thánh Ludca lại viết phúc âm; rồi trong phần lịch sử, cuốn Tông Vụ là tác phẩm nhắm đến sứ vụ truyền giáo thì ngài đóng vai chính; và trong phần giáo huấn bao gồm 21 bức thư thì 14 bức thư là của ngài, tức chiếm 2/3 số thư.

 

 

Ngày Lễ Thánh Phaolô Trở Lại 25/1 hằng năm được Giáo Hội chọn là ngày Kết Thúc Tuần Bát Nhật Cầu Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành, là vì: Kitô giáo toàn là dân ngoại (dân ngoài Do Thái giáo), thế giới của vị tông đồ dân ngoại Phaolô này, nơi ngài, mọi nền văn hóa khác nhau của dân ngoại đều được phúc âm hóa và được hiệp nhất nên một trong đức tin tuân phục cùng với đức ái trọn hảo, một hiệp nhất trong đa dạng như nơi thân thể, được ngài so sánh có nhiều phần thể nhưng chỉ có một thân thể duy nhất có Chúa Kitô là Đầu (xem 1Corinto 12:12; Epheso 1:22; Colose 1:18,24).

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL

 

ĐTC Biển Đức XVI

 

3/9/2008 Thánh Phaolô: Trở Lại

 

27/8/2008- Thánh Phaolô: Tiểu Sử

 

 

 

 

Thứ Năm

 

(nếu không bị trùng và bị át đi bởi Lễ Kính Thánh Phaolô trở lại trên đây)


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 7, 18-19. 24-29

"Lạy Chúa là Thiên Chúa, tôi là ai và gia đình tôi là chi?"

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Sau khi Nathan nói với Ðavít xong, vua Ðavít đến ngồi trước Thiên Chúa mà nói rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, con là ai và gia đình con là chi mà Chúa dẫn con đến đây? Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa, như thế Chúa còn cho là ít, nên Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa trong tương lai lâu dài, vì lạy Chúa, đó là thường tình của loài người.

"Chúa đã thiết lập dân Israel làm dân Chúa đến muôn đời, và lạy Chúa, chính Chúa trở thành Thiên Chúa của họ. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, xin hãy thực hiện mãi mãi lời Chúa đã nói về tôi tớ và về nhà của nó, và hãy làm như Chúa đã phán, để danh Chúa được ca khen đến muôn đời, và được truyền tụng rằng: 'Chúa các đạo binh là Thiên Chúa của Israel'. Xin cho nhà tôi tớ Chúa được vững chắc trước nhan thánh Chúa. Lạy Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã mạc khải cho tôi tớ Chúa biết những lời này: 'Ta sẽ xây dựng cho ngươi một ngôi nhà', vì thế, tôi tớ Chúa vững tâm thốt lên lời khẩn nguyện trên đây. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, và lời Chúa thì chân thật, vì Chúa đã tỏ ra cho tôi tớ Chúa những điều hạnh phúc ấy. Giờ đây, xin hãy khởi sự chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa, để nhà tôi tớ Chúa tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời, vì lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã phán và xin giáng phúc cho nhà tôi tớ Chúa đến muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 131, 1-2. 3-5. 11. 12. 13-14

Ðáp: Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người (Lc 1, 32a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, để thương Ðavít, xin Chúa nhớ đến mọi nỗi ưu tư của người: người đã thề như thế nào với Chúa, người đã khấn hứa cùng Ðấng toàn năng nhà Giacóp rằng: - Ðáp.

2) "Tôi sẽ không vào lều trại nhà tôi, tôi sẽ không bước lên giường nằm, tôi sẽ không nhắm mắt ngủ, không để cho mi mắt tôi được nghỉ an, cho tới khi tôi gặp được nơi ngự điện cho Chúa, gặp được cung lâu cho Ðấng Toàn năng nhà Giacóp". - Ðáp.

3) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời, rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi". - Ðáp.

4) "Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi". - Ðáp.

5) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Ngài phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4, 21-25

"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe". Và Người bảo họ rằng: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy niệm



  Đức Kitô tỏa sáng   


Hôm nay, Thứ Năm Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này liên quan đến những lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm sau đây:

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".

Đối tượng của những lời Chúa Giêsu phán dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như Thánh ký Marco cho biết, đó là "dân chúng", chứ không phải là các môn đệ của Người, cho dù các môn đệ của Người là thành phần đã được Người ví như "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).

"Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao?": Chúa Giêsu muốn nói gì đây hay ám chỉ ai đây? Phải chăng Người muốn ám chỉ Lời giảng dạy của Người? Vì "Lời Ngài là đèn soi chân con bước, là ánh sáng soi đường con đi" (Thánh Vịnh 119:105). 

Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, mà bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn "người đi gieo hạt" và "hạt là Lời Chúa", thì bài Phúc Âm hôm nay Người muốn tiếp tục đề tài Lời Chúa hay mạc khải thần linh, nhưng bằng một hình ảnh khác hay đúng hơn bằng một tác động khác, thay vì "đi gieo hạt" như trong bài Phúc Âm hôm qua thì lại "đặt trên giá đèn" trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nếu ánh sáng là hình ảnh hay tiêu biểu cho sự thật cũng như cho bản chất của ánh sáng hay của sự thật là chiếu soi, là giải phóng thì quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng". 

Câu "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng" này cũng có thể hiểu là không gì có thể ẩn khuất, cho dù là thâm tâm của con người, là âm mưu tinh quái nhất của con người, cũng không thể nào qua mặt được Lời Chúa, không thể nào che giấu được Lời Chúa là Chúa Kitô, che giấu được ánh mắt thần linh của Người: "Người tự mình biết được những gì nơi con người ta" (Gioan 2:25).

Trong bài Phúc Âm hôm qua, khi nói về dụ ngôn "người đi gieo hạt", Chúa Giêsu còn nói cả về phía thành phần lãnh nhận và đáp ứng thế nào: hạt vệ đường, hạt đá sỏi, hạt bụi gai, hạt đất tốt bao gồm hạt 30, hạt 60 và hạt 100, thì trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, Người cũng bao gồm cả vế thành phần lãnh nhận nữa: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy" (chính động từ "nghe" ở đây cũng cho thấy "đèn soi" là Lời Chúa, đối tượng của tác động "nghe").

"'Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".

Đúng thế, càng cởi mở và khao khát lời Chúa, nhất là càng nhiệt thành và mau mắn đón nhận Lời Chúa, tức là càng tìm kiếm chân lý là Chúa Kitô, càng đáp ứng Chúa Kitô là mạc khải thần linh, thì tùy theo tầm vóc của mình, một tầm vóc được ví như cái "đấu", cũng như tùy theo cường độ khát vọng thần linh của mình, tùy theo khoảng rộng cởi mở của mình, một thứ cường độ và khoảng rộng được ví như tác động "đong" của con người lãnh nhận, Lời Chúa ở nơi họ, một là "có, sẽ được cho thêm", hai là "không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".

Thật ra, cho dù tác dụng của "đèn soi" hay của "hạt gieo" có vẻ bị lệ thuộc vào môi trường là người nhận, ở chỗ nếu họ không mở cửa thì ánh sáng của "đèn soi" không lọt vào được, hay nếu không gặp "đất tốt" thì "hạt gieo" sẽ không thể nẩy mầm và phát triển, nhưng tự mình, "đèn soi" vẫn không thể nào không tỏa sáng để làm cho môi trường biến khuất tối tăm, và "hạt gieo" vẫn chất chứa mầm sống để làm cho môi trường phát triển tốt tươi

Những môi trường nhân bản nào khép kín không tiếp nhận ánh sáng của "đèn soi", hay khô cằn không thể thích hợp với mầm sống của "hạt gieo" là những môi trường nhân bản hay những con người tự tác hại bản thân mình, chứ không thể nào tác hại đến chính "đèn soi" tự bản chất vẫn soi chiếu, hay đến chính "hạt gieo" tự bản chất vẫn làm cho cây cối phát triển.

Nếu Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm qua cho thấy một Đavít "đất tốt" thế nào thì Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng tiếp tục cho thấy một Đavít "đong đấu" như vậy, đến độ vua ở vào trường hợp "ai đã có, sẽ được cho thêm", như chính vua đã cảm nhận ở đầu Bài Đọc 1 hôm nay

"Lạy Chúa là Thiên Chúa, con là ai và gia đình con là chi mà Chúa dẫn con đến đây? Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa, như thế Chúa còn cho là ít, nên Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa trong tương lai lâu dài, vì lạy Chúa, đó là thường tình của loài người".

Vua Đavít "đã có" ở chỗ"Chúa đã thiết lập dân Israel làm dân Chúa đến muôn đời, và lạy Chúa, chính Chúa trở thành Thiên Chúa của họ. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, xin hãy thực hiện mãi mãi lời Chúa đã nói về tôi tớ và về nhà của nó, và hãy làm như Chúa đã phán, để danh Chúa được ca khen đến muôn đời, và được truyền tụng rằng: 'Chúa các đạo binh là Thiên Chúa của Israel'". 

Vua Đavít "sẽ được cho thêmở chỗ: "Xin cho nhà tôi tớ Chúa được vững chắc trước nhan thánh Chúa. Lạy Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã mạc khải cho tôi tớ Chúa biết những lời này: 'Ta sẽ xây dựng cho ngươi một ngôi nhà', vì thế, tôi tớ Chúa vững tâm thốt lên lời khẩn nguyện trên đây. Vậy giờ đây, ... xin hãy khởi sự chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa, để nhà tôi tớ Chúa tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời, vì lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã phán và xin giáng phúc cho nhà tôi tớ Chúa đến muôn đời".

Bài Đáp Ca hôm nay được trích từ Thánh Vịnh 131, một Bài Thánh Vịnh nói về Vua Đavít chứ không phải Bài Thánh Vịnh của Vua Đavít, nhưng lại chất chứa những gì từ vua hướng về Chúa Kitô là giòng dõi của vua, như câu đáp chính của bài Đáp Ca hôm nay nói rõ: "Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người":  

1) Lạy Chúa, để thương Ðavít, xin Chúa nhớ đến mọi nỗi ưu tư của người: người đã thề như thế nào với Chúa, người đã khấn hứa cùng Ðấng toàn năng nhà Giacóp rằng: 

2) "Tôi sẽ không vào lều trại nhà tôi, tôi sẽ không bước lên giường nằm, tôi sẽ không nhắm mắt ngủ, không để cho mi mắt tôi được nghỉ an, cho tới khi tôi gặp được nơi ngự điện cho Chúa, gặp được cung lâu cho Ðấng Toàn năng nhà Giacóp". 

3) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời, rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi". 

4) "Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi". 

5) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Ngài phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích". 

 

Thứ Sáu


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 11, 1-4a. 5-10b. 13-17

"Ngươi đã khinh dể Ta và đã cướp vợ Uria làm vợ mình".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Khi ấy, sang năm mới, là lúc các vua thường ra trận, thì Ðavít sai Gioáp, các tôi tớ của vua và toàn dân Israel đi tiêu diệt dân Ammon và bao vây Rabba. Còn Ðavít thì ở lại Giêrusalem. Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì một bữa trưa nọ, Ðavít ra khỏi giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó là ai. Người ta thưa đó là bà Bethsabê, con ông Êliam, vợ Uria người Hêthê. Ðavít sai cận vệ đi tìm bà. Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin cho Ðavít mà rằng: "Tôi đã có thai".

Vậy Ðavít sai người đến nói với Gioáp rằng: "Hãy sai tướng Uria người Hêthê về đây cho trẫm". Gioáp sai Uria về gặp Ðavít, và Uria đến gặp Ðavít. Ðavít hỏi thăm tin tức về Gioáp, quân sĩ, và trận chiến diễn tiến thế nào. Rồi Ðavít nói cùng Uria: "Ngươi hãy về nhà rửa chân đi". Uria rời khỏi hoàng cung, và người ta mang cho ông một phần ăn của nhà vua, nhưng Uria cùng các cận vệ nằm ngủ ngay trước cửa nhà vua chứ không về nhà. Người ta đi báo tin cho Ðavít hay "Uria không đi về nhà". Ðavít mời ông ăn uống trước mặt mình và ép uống rượu cho say. Ðến chiều Uria đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên chõng, chớ không về nhà. Sáng hôm sau, Ðavít viết một lá thư gởi cho Gioáp và sai Uria mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: "Hãy đặt Uria vào nơi giao tranh gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết". Vậy khi Gioáp bao vây thành, liền cử Uria đến địa điểm mà ông biết có những quân địch mạnh nhất. Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Gioáp, nhiều quân sĩ của Ðavít ngã gục, và cả Uria người Hêthê cũng tử trận.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 10-11

Ðáp: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã phạm tội (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.

4) Xin cho con cảm thấy vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4, 26-34

"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được". Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm

   

 Đức Kitô Nước Trời  


Thứ Sáu Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, Bài Phúc Âm nói riêng và phụng vụ Lời Chúa nói chung vẫn phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này.

Trước hết, ở bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã sử dụng 2 dụ ngôn để nói về mầu nhiệm hay thực tại "Nước Thiên Chúa", dụ ngôn đầu về "người kia đã gieo hạt xuống đất" và dụ ngôn sau về "hạt cải", thứ tự như sau:

Dụ ngôn về "người kia đã gieo hạt xuống đất": "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

Dụ ngôn về "hạt cải": "Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được".

Về dụ ngôn "người kia đã gieo hạt xuống đất", Chúa Giêsu có bao gồm 2 đặc điểm liên hệ với nhau giữa người gieo hạt giống và chính hạt giống, đó là "người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa". 

"Người đó cũng không hay biết nữa" ở đây có thể hiểu là: 1- không cần để ý, vì theo kinh nghiệm nhà nông người này đã thừa biết rằng: "đất tự nó làm cây lúa mọc lên"; 2- hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của hạt giống được mình gieo xuống: "hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên... trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt"; và 3- sống trong chờ đợi công lao gieo vãi chuyên nghiệp của mình: "Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

Dụ ngôn thứ nhất của Bài Phúc Âm hôm nay rất thích hợp với trường hợp của Vua Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay. Ở chỗ, thật sự là "người gieo hạt xuống đất..." như đã "ngủ" say đến độ "không hay biết" những giây phút gian ác thầm kín ngoại tình và sát nhân của một vị vua vẫn được gọi là Thánh Vương Đavít này.

Vua đã ngoại tình ở chỗ: "Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì một bữa trưa nọ, Ðavít ra khỏi giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó là ai. Người ta thưa đó là bà Bethsabê, con ông Êliam, vợ Uria người Hêthê. Ðavít sai cận vệ đi tìm bà. Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin cho Ðavít mà rằng: 'Tôi đã có thai'".

Vua đã sát nhân ở chỗ: "Ðavít mời ông ăn uống trước mặt mình và ép uống rượu cho say. Ðến chiều Uria đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên chõng, chớ không về nhà. Sáng hôm sau, Ðavít viết một lá thư gởi cho Gioáp và sai Uria mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: 'Hãy đặt Uria vào nơi giao tranh gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết'. Vậy khi Gioáp bao vây thành, liền cử Uria đến địa điểm mà ông biết có những quân địch mạnh nhất. Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Gioáp, nhiều quân sĩ của Ðavít ngã gục, và cả Uria người Hêthê cũng tử trận".

Tội ngoại tình và sát nhân của Thánh Vương Đavít này dường như đã thích hợp với dụ ngôn thứ hai về "hạt cải": Ở chỗ, "khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất", một tính chất có thể áp dụng vào trường hợp của Vua Đavít là những gì vua làm trong Bài Đọc 1 hôm nay: hèn hạ, xấu xa, "nhỏ bé nhất" so với tất cả những gì cao cả vua đã từng làm suốt đời của vua, từ hồi niên thiếu. "Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được", ở chỗ, vua đã nhận biết mình và ăn năn thống hối cùng chấp nhận đền tội lỗi của mình, lại càng làm cho Chúa được vinh danh hơn. 

Trong bài giảng lễ ngày thường ở Nhà Trọ Matta hôm Thứ Hai ngày 18/1/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ cảm nhận của mình về trường hợp vua Đavít như sau:

"Thần Linh Chúa đã chiếm đoạt Đavít... tất cả đời sống của Đavít là đời sống của một con người được Chúa xức dầu, được Chúa chọn... Phải chăng Chúa đã biến chàng thành một vị thánh?... Vua Đavít và thánh Vương Đavít, đúng, thế nhưng chàng đã trở thành một vị thánh sau một khi sống một cuộc đời thọ tuổi.... 

"Một vị thánh và một tội nhân. Là một con người có khả năng hiệp nhất Vương Quốc Do Thái, vua đã có thể dẫn dắt dân Do Thái. Thế nhưng vua cũng bị sa chước cám dỗ... vua đã phạm tội lỗi: vua cũng là một kẻ sát nhân. Để che lấp cái nhục dục của mình là tội ngoại tình... vua đã thành một kẻ sát nhân. Vua thực sự đã sát nhân. Thánh Vương Đavít đã giết người hay sao? Khi Thiên Chúa sai tiên tri Nathan để vạch trần sự kiện này ra cho vua, vì vua không nhận thức được cái dã man thô tục mà vua đã truyền khiến, thì vua đã nhìn nhận tội lỗi của mình và xin ơn tha thứ...." 

Đúng thế, ngay sau khi được tiên tri Nathan vạch tội của vua ra, vua ra tỏ ra thật lòng ăn năn thống hối, như chính vua đã bày tỏ cùng Chúa trong Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. 

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. 

4) Xin cho con cảm thấy vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. 

"Đời sống của con người này đã đánh động tôi. Nó khiến chúng ta nghĩ về cuộc đời của mình. Tất cả chúng ta đều đã được Chúa chọn lãnh nhận Phép Rửa, đều thuộc về dân của Ngài, đều trở thành các vị thánh; chúng ta đã được Chúa thánh hóa trên đường nên thánh. Khi đọc về cuộc đời này, cuộc đời của một đứa nhỏ - không... không phải là một đứa nhỏ, mà là một nam thiếu niên - từ thiếu thời tới già đời, khoảng thời gian con người này đã làm nhiều điều tốt lành cũng như những điều không tốt khác. Nó làm cho tôi nghĩ rằng trong cuộc hành trình Kitô hữu, cuộc hành trình Chúa đã mời gọi chúng ta thực hiện, không có một vị thánh nào mà không có quá khứ và cũng không có một tội nhân nào mà lại không có tương lai". 

Phải, chính vì "cuộc hành trình Chúa đã mời gọi chúng ta thực hiện, không có một vị thánh nào mà không có quá khứ và cũng không có một tội nhân nào mà lại không có tương lai", như Đức Giáo Hoàng Phanxicô cảm nhận, mà "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

 

Ngày 26 tháng 1

Thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô, giám mục

lễ nhớ bắt buộc

 

Jan. 26: Sts. Timothy and Titus, Bishops AV+ Divine Office Reading. –  AnaStpaul


Cùng với thánh Lu-ca, thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phao-lô. Mẹ thánh Ti-mô-thê là người Do-thái, còn chính ông thì đã được thánh Phao-lô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phao-lô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Ê-phê-xô. Còn thánh Ti-tô đã được thánh Phao-lô nhận ở An-ti-ô-khi-a ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Thư thánh Phao-lô gửi cho ông Ti-mô-thê (1 – 2 Tm) và thư gửi cho ông Ti-tô (Tt) được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.

 

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ, xin nhậm lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin

 

ĐTC Biển Đức XVI Thứ Tư 13/12/2006 -  Bài 27: Thánh Timôthêu và Titô

 

Thánh Timôthê (c. 97?):

Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôthê thì giống như của một Giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng Phúc Âm và chịu đau khổ.

Thánh Timôthê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân "hỗn hợp", nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô giáo. Sau đó, Timôthê được thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và thánh Phalô cùng sáng lập Giáo hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, Timôthê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.

Khi Timôthê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôthê cũng bị tù (Dt 13,23). Và thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôthê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô.

Timôthê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. "Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung," trong thư I thánh Phaolô viết cho Tm 4,12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôthê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôthê: "Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn" (1Tm 5,23).


Thánh Titô (c. 94?):

Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là Dân Ngoại, thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: "Khi tôi đến Troas... Tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không gặp được Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia... Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách, xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến..." (2 Cr 2,12a, 13; 7, 5-6).

Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.

Lời Bàn

Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong "sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn." Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-timothe-va-thanh-tito-40934

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Ghi chú cổ nhất về Thánh Lễ kính thánh Timôthê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai Vị thánh.

Thánh Kinh cho biết, Timôthê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; Thánh Phaolô ghi chú: bà nội Lois đã dạy cho Timôthê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôthê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôthê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông Đồ (Cv 17,14-15; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17; 16,10); rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).

Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: “Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôthê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.

Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troas, ngài muốn gặp Titô, “người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo Hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là “người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôthê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.

2. Thông điệp và tính thời sự

Kinh Tổng Nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông Đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôthê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích : Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.

Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôthê đã lãnh nhận và thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần Trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.

Cũng trong lá thư gởi cho Timôthê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: “Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông Đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.

Kinh Tổng Nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: “Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.

Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: “Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng.

Enzo Lodi (Nguồn:tgpHaNoi)

https://www.kath-vietnamesen.de/26-01-thanh-timothe-va-thanh-tito-giam-muc-le-kinh/

 

 


Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 12, 1-7a, 10-17

"Tôi đã phạm tội đến Chúa".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Chúa sai Nathan đến cùng Ðavít. Ông đến và nói với Ðavít rằng: "Trong thành kia có hai người, một người giàu và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều chiên bò, còn người nghèo thì không có gì, ngoài một con chiên con mà ông đã mua và nuôi dưỡng, nó lớn lên trong nhà ông cùng với con cái ông, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén và cùng ngủ một giường với ông; ông kể nó như con gái mình. Có một người khách đến thăm người giàu ấy, ông ta không muốn bắt chiên bò của mình để dọn tiệc đãi khách, nhưng lại bắt con chiên của người nghèo mà dọn tiệc đãi khách". Ðavít tức giận người đó lắm, và nói cùng Nathan rằng: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống! Người làm như thế là đáng chết. Nó phải bồi thường gấp bốn lần vì đã hành động bất nhân như thế!"

Nathan liền nói với Ðavít: "Ngài chính là người đó. Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa thanh thiên bạch nhật".

Ðavít nói cùng Nathan rằng: "Tôi đã phạm tội đến Chúa". Và Nathan nói cùng Ðavít rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho ngài rồi, ngài sẽ không phải chết. Nhưng vì việc này, ngài làm dịp cho quân thù của Chúa nói phạm thượng, nên đứa con của ngài sẽ chết". Rồi Nathan ra về.

Và Chúa giáng hoạ trên đứa con của Ðavít do vợ của Uria sinh ra, nên nó lâm trọng bệnh. Ðavít khẩn cầu Chúa cho đứa trẻ, ông ăn chay và lui về phòng nằm dưới đất. Các kỳ lão đến nhà vua và nài xin vua chỗi dậy, nhưng vua không chịu và không dùng bữa với họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 16-17.

Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).

Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.

3) Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4, 35-41

"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


   

  

 Đức Kitô chỗi dậy

 

Hôm nay Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinhchủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này vẫn được tiếp tục ở chung phụng vụ Lời Chúa hôm nay, cách riêng là bài Phúc Âm, qua sự kiện Người dẹp yên bão tố.

Thật vậy, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này đã tỏ mình ra qua sự kiện dẹp yên bão tố để cứu các môn đệ của Người, thành phần yếu đức tin cần phải mạnh tin hơn nhờ chứng kiến thấy quyền năng của Người: "Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: 'Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?'"

Căn cứ vào sự kiện xẩy ra được Phúc Âm hôm nay thuật lại là "chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'" chúng ta thấy quả thực các môn đệ đáng bị Thày của các vị quở trách: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"

Lời quở trách này của Người như thể Người muốn nói cùng các vị rằng: Tại sao các con lại cuống lên và quá hoảng loạn như thế. Chính Thày đang ở bên các con và ở cùng các con mà các con còn sợ và vẫn sợ hay sao. Các con không nhớ rằng Thày đã từng tỏ quyền năng thần linh của Thày ra bằng cách chữa lành đủ thứ bệnh nạn tật nguyền, thậm chí trừ được cả quyền lực của ngụy thần ma quỉ. 

Phải, chắc chắn các môn đệ của Người không chối cãi được quyền năng của Thày trong việc Người chữa lành và trừ quỉ, nhưng còn bão tố dữ dội khủng khiếp trong thiên nhiên như lần này thì các vị mới gặp lần đầu tiên, nên không biết quyền năng của Thày các vị ra sao và tới đâu, liệu có thể làm chủ nổi sức mạnh cuồng phong kinh hoàng bấy giờ hay chăng thì chưa thấy, do đó để chắc ăn các vị cần phải "đánh thức Người đậy mà nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'"

Đúng là cơn bão tố quá dữ dội đến độ đã làm cho các môn đệ trở nên hoảng loạn, thậm chí các vị không còn bình tĩnh để nghĩ được rằng tại sao Thày của các vị có thể ngủ say đến thế, đến độ "những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước" mà Thày lại cứ "dựa gối mà ngủ ở đằng lái" được là làm sao? Các vị đang hết sức chống chọi với bão tố mà còn có thể bị chết thì chẳng lẽ Thày ngủ như vậy mà thoát chết được hay sao??

Tuy nhiên, dầu sao cũng nhờ tình trạng quá yếu kém đức tin của các vị mà Chúa Kitô được dịp tỏ quyền năng của Người nơi cả thiên nhiên tạo vật nữa, chứ không phải chỉ nơi loài người hay nơi ma quỉ mà thôi. Thiên nhiên tạo vật sở dĩ xẩy ra những thiên tai cũng do bởi tội lỗi của loài người, như bệnh hoạn tật nguyền cũng bởi nguyên tội, bị quỉ ám cũng bởi nguyên tội. Là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người cứu độ con người chẳng những phần hồn mà còn phần xác của họ nữa

Chỉ vào lúc con người cảm thấy hoàn toàn bất lực, cảm thấy bất khả cứu vãn, Thiên Chúa thường mới lợi dụng để tỏ mình ra, nhờ đó đức tin của họ được gia tăng trong đời sống trần gian này và Người được họ nhận biết. Bởi thế, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: 'Hãy im đi, hãy lặng đi'. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ". 

Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng cho thấy trường hợp sóng gió bão bùng nổi lên trong cuộc đời của Vua Đavít, gây ra bởi tội lỗi của vua, như được thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm qua. Bão tố nổi lên như hậu quả của tội vua phạm, như lời tiên tri Nathan tiên báo trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là:  

"Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa thanh thiên bạch nhật".

Chưa hết, cho dù vua Đavít có tỏ lòng ăn năn thống hối chăng nữa thì tội được tha nhưng hậu quả của tội vua phạm thì vua vẫn phải đền tội của mình một cách cân xứng. Đó là lý do đoạn kết của Bài Đọc 1 hôm nay mới tiếp tục cho biết thêm như sau: 

"Ðavít nói cùng Nathan rằng: 'Tôi đã phạm tội đến Chúa'. Và Nathan nói cùng Ðavít rằng: 'Chúa cũng đã tha tội cho ngài rồi, ngài sẽ không phải chết. Nhưng vì việc này, ngài làm dịp cho quân thù của Chúa nói phạm thượng, nên đứa con của ngài sẽ chết'. Rồi Nathan ra về. Và Chúa giáng hoạ trên đứa con của Ðavít do vợ của Uria sinh ra, nên nó lâm trọng bệnh. Ðavít khẩn cầu Chúa cho đứa trẻ, ông ăn chay và lui về phòng nằm dưới đất. Các kỳ lão đến nhà vua và nài xin vua chỗi dậy, nhưng vua không chịu và không dùng bữa với họ".

Bài Đáp Ca hôm nay, cũng được trích từ Thánh Vịnh 50 là Thánh Vịnh thống hối của Vua Đavít, tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua, bài thánh vịnh trong Bài Đáp Ca hôm nay, sau phần thống hối ăn năn (trong Bài Đáp Ca hôm qua), sang tới phần xin những ơn cần thiết để có thể sống đẹp lòng Chúa, chẳng hạn những ơn tiêu biểu sau đây:

1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. 

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. 

3) Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. 


 

Ngày 27 tháng 1 - Thánh Angiêla Mêrici, trinh nữ (1474-1540)

 

 


 

Angela sinh ngày 21 tháng 3 năm 1474  tại Desenzano, xứ Lombardie, Ý Đại Lợi. Angela mồ côi cha mẹ và ở với các anh và cậu. Vào lúc 56 tuổi, Angela Merici từ chối lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng. Ngài biết Ðức Clementê VII muốn ban cho ngài một vinh dự lớn lao và một cơ hội vĩ đại để phục vụ khi đức giáo hoàng yêu cầu ngài nhận trách nhiệm lãnh đạo một dòng nữ tu chuyên về điều dưỡng. Nhưng Angela biết công việc điều dưỡng không phải là điều Thiên Chúa muốn mời gọi ngài thi hành.


Ngài mới từ Ðất Thánh trở về. Khi trên đường đến đó ngài bị bệnh nặng và bị mù. Tuy nhiên, ngài nhất quyết tiếp tục cuộc hành hương và thăm viếng các thánh địa với tất cả lòng sùng kính hơn là muốn chiêm ngưỡng bằng cặp mắt. Trên đường về ngài được chữa lành và được sáng mắt. Ðiều ấy chắc chắn đã nhắc nhở ngài rằng không thể nhắm mắt trước nhu cầu của những người chung quanh, và đừng đóng cửa lòng trước lời mời của Thiên Chúa.


Ở khắp nơi trong thành phố, đâu đâu ngài cũng thấy các em gái nghèo nàn, không có học vấn và cũng không có tương lai. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu của Thánh Angela, vấn đề giáo dục phụ nữ là dành cho người giầu và cho các nữ tu. Angela là người có học thức. Cha mẹ ngài chết sớm khi ngài mới mười tuổi và sau đó ngài phải sống với người chú. Ngài thực sự bối rối khi thấy chị của ngài từ trần mà không được lãnh nhận các bí tích. Trong một thị kiến ngài được đảm bảo là chị của ngài được an toàn trong bàn tay Thiên Chúa — và cũng qua thị kiến ấy ngài tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa.


Khi chú ngài từ trần, trở về nhà ngài nhận thấy các em gái trong vùng không có một chút học vấn. Nhưng ai sẽ dạy các em? Thời ấy thật khác biệt. Phụ nữ không được phép làm nghề giáo và các cô chưa chồng thì không được tự ý đi ra ngoài — dù để phục vụ người khác. Nữ tu là các phụ nữ có kiến thức nhưng họ không được phép bước chân ra khỏi tu viện. Thời đó không có dòng nữ tu chuyên về giáo dục như ngày nay.


Ðể giúp đỡ các em, Angela nghĩ ra một phương cách mới. Ngài quy tụ một nhóm các cô thuộc dòng Ba Phanxicô, đi ra đường phố và tụ tập các em gái lại để dạy học cho các em. Các cô không có tiền cũng như không có quyền thế, họ chỉ có tấm lòng tận tụy cho việc giáo dục và cho Ðức Kitô. Sống trong chính nhà của mình, họ gặp gỡ để cầu nguyện và dạy học. Họ thành công đến nỗi Angela được yêu cầu đưa sáng kiến ấy để thực hiện ở các thành phố khác, và đã làm nhiều người kinh ngạc, kể cả đức giáo hoàng.


Mặc dù ngài từ chối đức giáo hoàng, nhưng có lẽ thỉnh cầu của đức giáo hoàng đã gợi ý cho ngài thấy rằng cần phải chính thức hóa tổ chức của ngài. Mặc dù chưa bao giờ là một nữ tu, Hội Thánh Ursula của Angela là nhóm nữ tu đầu tiên hoạt động ngoài khuôn khổ nhà dòng và là dòng nữ đầu tiên chuyên lo giáo dục.

Lúc đó, chưa có những nữ tu viện dành cho các chị em và cũng chẳng có ai đã từng nghĩ đến chuyện này bao giờ. Thánh nữ Angiêla Merisi là người đầu tiên đã tụ họp một nhóm chị em và mở các trường dạy trẻ. Vào ngày 25 tháng Mười Một năm 1535, hai mươi tám chị em đã tận hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Họ tuân giữ luật dòng thánh Ursula. Angiêla đặt hội dòng dưới sự bảo trợ của thánh Ursula. Đây là lý do họ có được danh hiệu đó. Thoạt đầu, các chị đã cư ngụ tại nhà quê của mình. Bởi có nhiều khó khăn nên phải trải qua một thời gian dài sau họ mới có thể cùng được chung sống trong tu viện. Thánh nữ Angiêla Merisi mất vào ngày 27 tháng Giêng năm 1540 khi hội dòng của ngài vừa được phôi dựng. Lòng cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa đã giúp Angiêla vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Ngài không hồ nghi gì về việc Thiên Chúa sẽ quan phòng lo liệu cho công việc ngài đã khởi sự. Và Thiên Chúa đã thực hiện.

Các nữ tu dòng thánh Ursula đã có mặt tại nhiều quốc gia. Hội dòng hiện vẫn tiếp tục hoạt động cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người; nhất là việc giáo dục các trẻ em và các thanh thiếu niên.

Thánh nữ Angiêla Merisi nhắc nhở chúng ta rằng những sự khó và những chán nản thất vọng có thể giúp chúng ta nhận ra những nỗi đau thương nơi người khác. Khi chúng ta sẵn lòng vươn tay ra, Thiên Chúa sẽ dùng chúng ta để thực hiện những công việc phi thường của Người. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Angiêla Merisi giúp chúng ta biết cách tỏ lòng tế nhị và xót thương đối với tha nhân.

Thánh Angela Merici từ trần ngày 27 tháng 1 năm 1540 tại Brescia, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi. Mộ phần trở nên một nơi hành hương. Thánh tích còn tại thánh đường Thánh Afra, Brescia Ý Đại Lợi. Ngay sau khi qua đời, nữ tu Angela đã được dân chúng thành phố ca tụng như một đấng thánh. Họ đến kính viếng thi hài của chị thánh đông đảo đến độ phải hoãn lễ an táng đến 30 ngày sau.

Thánh nữ được tôn phong Chân Phước năm 1768 do Đức Giáo Hoàng Clement XIII và đến ngày 27 tháng 5 năm 1807 Đức Giáo Hoàng Pius VII đã ghi tên thánh nữ vào sổ bộ các thánh của Giáo Hội.

Lời Trích
Khi sự thay đổi trở nên khó khăn đối với nhiều người, có lẽ thật hữu ích khi nhớ lại lời của thánh nữ nói với các nữ tu: "Nếu theo thời gian và vì nhu cầu, các chị phải vâng theo các quy luật mới và thay đổi một vài điều, thì hãy thi hành với sự thận trọng và hãy để ý đến lời khuyên bảo."


Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp