SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

M
ùa Thường Niên Tuần V 

Năm B
(Chúa Nhật) và Năm Chẵn (trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




 

Chúa Nhật


Lời Chúa


 

 

Bài Ðọc I: G 7, 1-4. 6-7

"Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối".

Trích sách Gióp.

Bấy giờ Gióp nói rằng: "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 146, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát tâm can (c. 3a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán. - Ðáp.

2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một. - Ðáp.

3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 9, 16-19. 22-23

"Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Chiên của Ta nghe biết tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 1, 29-39

"Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.

Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.

Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mk 1, 29-39

 

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

 

ĐỨC KITÔ - KHU TRỪ MA QUỈ

 

 

 

Chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) cho Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh vẫn tiếp tục một cách hết sức xác đáng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Thứ V Năm B Thường Niên tuần này. Ở chỗ, Người Con "đầy ân sủng" này "chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ", và ở chỗ Người Con "đầy chân lý" này "đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ".

 

Thật vậy, loài người, sau nguyên tội lại càng trở thành đáng thương hơn bao giờ hết và hơn ai hết, đến độ Thiên Chúa đã phải đích thân hóa thành nhục thể nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô để nên giống con người mọi bề ngoại trừ tội lỗi, nhờ đó, qua Con của Ngài, bằng nhân tính của Con Ngài như dấu chỉ hiện diện, như phương tiện cứu độ và như bí tích thông ban, Ngài có thể chữa lành cho họ về phần xác, khu trừ ma quỉ cho họ về phần tâm linh và tha thứ tội lỗi cho họ về phần lương tri.

 

Bởi nguyên tội, bản tính của loài người đã bị băng hoại, và hoàn toàn bị mất đi mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa cùng mối liên hiệp với thiên nhiên tạo vật, khiến cuộc sống của con người được sinh ra trên trần gian này chẳng khác gì như là một "bể khổ" (theo cảm quan của Phật giáo), hay như là một cuộc lưu đầy ở trong thung lũng châu lệ (theo cảm nhận của Kitô giáo trong Kinh Salve Regina Lạy Nữ Vương), một cảm nhận đầy tính chất bi quan như được Ông Gióp bày tỏ trong Bài Đọc I hôm nay:

 

"Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: 'Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối'. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".

 

Tuy nhiên, chính vì cuộc đời bất hạnh của mình trên trần gian này mà con người, theo lý thuyết, mới không bị hay khó bị trói buộc vào những gì là tạm bợ mau qua trên trần gian này, trái lại, có thể nhờ đó mà họ tìm kiếm những gì là hạnh phúc nhất, chân thật nhất và thiện hảo nhất, tìm kiếm một sự sống viên mãn vô cùng bất tận, bằng một lòng tin tưởng vào Đấng Tối Cao, hơn là tin vào mình, tin vào khả năng tự độ ảo tưởng của mình, một Đấng Tối Cao toàn năng có thể giải cứu họ, nhất là vào những lúc họ cảm thấy đau thương đến độ "giập nát tâm can", như tâm tình của họ được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán.

2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một.

3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất.

 

Đúng thế, con người không thể nào tự cứu được mình cho khỏi hậu quả của nguyên tội là đau khổ và chết chóc về thể lý, cùng với những băng hoại về tâm linh, bao gồm tình trạng mù quáng nơi trí khôn và yếu nhược nơi ý chí, đến độ cuộc chiến nội tâm của họ giữa lành và dữ, nếu họ còn lương tâm, đã khiến họ phải cùng với Thánh Phaolô than lên rằng: "Bởi đó tôi khám phá ra cái luật là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy xuất hiện ngay sự ác. Con người nội tâm của tôi vui thích luật của Thiên Chúa; nhưng các chi thể của tôi lại hướng về một thứ luật khác chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong thứ luật tội lỗi vẫn tiềm tàng trong các chi thể của tôi. Tôi thật là một con người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi cái thân xác chết chóc này đây? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!" (Roma 7:21-25).

 

Phải, chính "Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta", "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" mới có thể cứu loài người đã vướng mắc nguyên tội chúng ta mà thôi, thành phần đã từ thân phận làm con cái Thiên Chúa ngay từ ban đầu tự nguyện trở thành nô lệ của Satan và đồng bọn ngụy thần của hắn, những tác nhân "gieo rắc sự chết ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho đến khi Chúa Giêsu Kitô xuất hiện để phá hủy vương quốc của ma quỉ và thiết lập vương quốc của Thiên Chúa: "Ai phạm tội, thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ" (1Gioan 3:8).

 

Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở cả hai câu chính yếu nhất về việc làm và lời nói của Chúa Giêsu, Thánh ký Marco đều nhắc đến cùng một sự kiện then chốt bất khả thiếu, và đều liên quan đến ma quỉ (được người viết gạch dưới để chứng thực): "Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn... Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người."... "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ".

 

Nếu Chúa Kitô chỉ chữa lành bệnh tật mà không khu trừ ma quỉ thì Người giống như vị thày thuốc chỉ chữa triệu chứng mà không chữa cho tận tuyệt gốc chứng bệnh vậy. Nếu việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền của con người là chữa lành hậu quả của nguyên tội nơi con người, thì việc trừ quỉ cho con người là việc giải thoát con người khỏi thân phận làm nô lệ ma quỉ, là việc chiếm lại thành phần nạn nhân con tin nhân loại đã và đang bị lọt vào tay bọn cướp ma quỉ. Nếu hiện tượng quỉ ám liên quan tình trạng con người nạn nhân nào đó bị ma quỉ chi phối điều khiển bao gồm cả thân xác của họ, thì hiện tượng quỉ ám này cũng có thể áp dụng cho bất kỳ trường hợp nào con người chiều theo chước cám dỗ của ma quỉ. Thật ra, nói chung, ở một nghĩa nào đó, con người ai cũng bị quỉ ám, bởi bất kỳ ai trong họ cũng đều có sẵn nội công của thần dữ, có nọc độc của rắn quỉ, đó là các thứ đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, những độc chất gian dối chết chóc do ma quỉ tiêm nhiễm vào trần gian ngay từ ban đầu qua hai nguyên tổ nói chung và qua nữ nguyên tổ Evà nói riêng.

 

Một hoa trái tuyệt vời cho thấy cuộc vượt qua từ sự chết gây ra bởi ma quỉ mà vào sự sống được thông ban từ Chúa Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha.. đầy ân sủng và chân lý", đó là chàng thanh niên Saulê, một tín đồ nhiệt thành (đến cuồng tín) với Do Thái giáo một cách chân tình, nhưng lại hoàn toàn nhầm lạc, cho tới khi chàng bị quật ngã trong lúc hung hăng đi bách hại Kitô hữu tiên khởi, bởi một ánh sáng từ trời (xem Tông Vụ 9:3-4). Sau khi được giải phóng, chàng đã trở thành một Đại Tông Đồ Dân Ngoại, cho đến độ ngài không thể không rao giảng Tin Mừng ngài đã lãnh nhận và dám hy sinh tất cả cho phần rỗi của anh em mình, như chính ngài đã tự thú trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo đoàn Corintô trong Bài Đọc II hôm nay: 

 

"Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.... Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng".

 

 



Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 8, 1-7. 9-13

"Họ mang hòm bia Thiên Chúa vào nơi Cực Thánh, và mây bao phủ nhà Chúa".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, các kỳ lão Israel, cùng những thủ lãnh các chi họ và những trưởng gia tộc con cái Israel đều tề tựu trước mặt vua tại Giêrusalem, để cung nghinh hòm bia Thiên Chúa từ thành Ðavít, tức là thành Sion. Trong ngày đại lễ, nhằm tháng Ethanim, tức tháng bảy, toàn dân Israel tụ họp quanh vua Salomon. Khi các kỳ lão Israel đến, các tư tế liền khiêng hòm bia, và mang hòm bia Chúa đi, mang cả nhà tạm giao ước và tất cả những đồ thánh trong nhà tạm; các tư tế và các thầy Lêvi phụ trách khiêng đi.

Vua Salomon và toàn dân Israel tề tựu quanh ngài, tiến đi với ngài trước hòm bia, và tế lễ vô số chiên bò không kể xiết. Các tư tế khiêng hòm bia Thiên Chúa đặt vào nơi đã chỉ định tại đền thờ, nơi cực thánh, dưới cánh các tượng vệ binh thần. Các tượng này giang cánh trên nơi để hòm bia, và che phủ hòm bia và các đòn khiêng. Trong hòm bia không có gì khác ngoài hai bia đá mà Môsê đã đặt vào hòm ở núi Horeb, lúc Chúa lập giao ước với con cái Israel khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa. Bấy giờ Salomon nói rằng: "Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 131, 6-7. 8-10

Ðáp: Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ (c. 8a).

Xướng: 1) Ðây là điều chúng tôi đã nghe nói tại Ephrata, chúng tôi đã gặp thấy nơi đồng ruộng Gia-ar. Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa, hãy sụp lạy trước bệ dưới chân Ngài. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ, Chúa và Hòm Bia oai quyền của Chúa cùng đi! Các tư tế của Ngài hãy mặc lấy lòng đạo đức, và các tín đồ của Ngài hãy mừng rỡ hân hoan. Xin vì Ðavít là tôi tớ Chúa, Chúa đừng hắt hủi người được Chúa xức dầu. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 6, 53-56

"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.

Ðó là lời Chúa.

 


   

Suy nghiệm Lời Chúa

 

    Đức Kitô Thần Lực    

 

Hôm nay, Thứ Hai Tuần V Thường Niên, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm, lại càng rõ nét hơn bao giờ nơi Bài Phúc Âm hôm nay, một bài phúc âm được Thánh ký Marco thuật lại về quyền năng chữa lành của Người như sau:

"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Thật vậy, cảnh tượng được Bài Phúc Âm hôm nay trình thuật đã làm cho chúng ta thấy được hình ảnh đáng thương của thành phần dân chúng đau khổ bởi tật nguyền bệnh nạn cần được chữa lành luôn sống trong hy vọng, đợi chờ và tìm kiếm Đấng Cứu Tinh của mình: "nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng". 

Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy cả hình ảnh chính yếu về một Đấng Cứu Thế đầy quyền lực, đến độ Người không cần trực tiếp giơ tay đụng đến bất cứ một bệnh nhân hay một người bị tật nguyền nào, thế mà họ vẫn được chữa lành, chỉ cần họ tin tưởng sờ đến gấu áo của Người (chứ không phải hay không cần chạm đến thân xác của Người) là đủ: "tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Hiện tượng chữa lành hay được chữa lành kiểu mới, hoàn toàn không theo truyền thống này, xuất phát từ sáng kiến và hành động đầy đức tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm ở bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước, một người đàn bà đã được Chúa Giêsu có ý công khai hóa việc bà làm giữa một đám thật đông đang chen nhau theo Người lúc ấy. Biết được cái mẹo vặt mà tuyệt này, dân chúng bảo nhau làm, vừa giản tiện vừa mau chóng nữa, giúp cho chính Chúa Giêsu cũng có thể nhờ đó chữa lành nhiều người trong một thời gian ngắn. 

Hiện tượng chữa lành như trong bài Phúc Âm hôm nay còn xẩy ra cả ở nơi Thánh Tông Đồ Phêrô nữa, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 5 câu 15-16, một vị thánh có một thần lực đến độ cả đến bóng của ngài đi ngang qua phủ trên ai thì người ấy được chữa lành, một thần lực bề ngoài có thể hơn cả chính bản thân Chúa Kitô, Đấng đã khẳng định trước với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly rằng "ai tin vào Thày ... họ sẽ làm được những việc lớn lao hơn những gì Thày làm, vì Thày về cùng Cha(Gioan 14:12), nghĩa là nhờ đó Thày mới ở trong họ.

Đúng thế, cho dù thành phần tật nguyện bệnh hoạn không cần sờ đến gấu áo của Thánh Phêrô, như gấu áo của Chúa Kitô, mà chỉ cần được bóng của ngài thoáng qua thôi đã được chữa lành, thì thần lực xuất phát từ ngài cũng không phải tự ngài và của ngài, mà là bởi Chúa Kitô ở trong ngài, như cây nho thông nhựa sống của mình cho cành nho, nhờ đó và vì thế chỉ có cành nho (là các môn đệ của Người) mới sinh trái và mới có thể sinh hoa trái, chứ hoa trái không bao giờ xuất phát từ chính thân nho (là Chúa Kitô).

Vấn đề chính yếu ở đây có thể chứng thực Đức Giêsu Nazarét là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là thần lực của Người và là thần lực từ Người xuất phát, ngoài ra không bao giờ có một con người thuần túy nào ở trên đời này như Người, có thể chữa lành cho con người ta, không phải chỉ bằng cách trực tiếp đặt tay, đụng chạm đến con người cần được chữa lành, mà chỉ cần bằng gấu áo của Người, thậm chí còn qua cả thành phần môn đệ trung gian của Người sau này nữa.

Cách thức chữa lành bằng gấu áo và qua trung gian môn đệ như thế là hình bóng tiên báo về bản chất thần linh cùng tác dụng thần linh nơi các Bí Tích của Chúa Giêsu, những khí cụ thần linh được Người thiết lập để tiếp tục hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế, và qua thừa tác vụ của Giáo Hội trong việc cử hành cùng ban phát các Bí Tích Thánh, Người tiếp tục chữa lành cho chung nhân loại và riêng đàn chiên của Người, đến độ chính Giáo Hội đã trở thành bí tích cứu độ của Người và cho Người (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 1).

Thế nhưng, về phần người được chữa lành hay muốn được chữa lành thì vấn đề quan trọng và then chốt đối với họ là tin tưởng. Bằng không, cho dù Chúa Kitô có thần lực đến đâu chăng nữa, Người cũng chẳng có tác dụng thần linh gì nơi họ, dù họ có tật nguyện bệnh nạn về cả phần xác lẫn phần hồn đáng thương đến đâu chăng nữa.

Như thế không phải là thần lực của Chúa Giêsu có giới hạn và bị bất lực trước những ai không chấp nhận Người, và do đó Người không làm gì được họ, cho dù Người hết sức muốn thông ban và cứu độ, trái lại, chính đương sự tự vô hiệu hóa thần lực cứu độ vô cùng linh hiệu của Người nơi bản thân của họ, và chính bản thân họ cũng chứng thực là thần lực chữa lành của Người chỉ giành cho người nào xứng đáng lãnh nhận mà thôi, một thứ thần lực cứu độ vô cùng quí báu của Người như thế không thể nào lấy quẳng cho loài chó hay loài heo dơ bẩn (xem Mathêu 7:6).

Nếu gấu áo của Chúa Kitô có thể chữa lành thì có nghĩa là những gì được đụng chạm đến Người đều có sức chữa lành (xem 1Gioan 1:1-2). Đó là lý do những ai gặp gỡ Chúa Kitô không thể nào không trở thành chứng nhân của Người và cho Người, như 2 môn đệ của tiền hô Gioan Tẩy Giả (xem Gioan 1:35-50). Vậy Kitô hữu chúng ta quả thực đã được đụng chạm đến Thánh Thể của Ngưòi khi cử hành Thánh Lễ, thậm chí được nên một với Người khi hiệp lễ. Nhưng thử hỏi chúng ta đã có sức chữa lành hay chăng? Ở chỗ những ai giao tiếp với chúng ta có nhận ra Chúa Kitô nơi chúng ta chăng, hay trái lại, họ chỉ thấy toàn là những gì phản kitô nơi chúng ta, ở những thái độ ghen ghét hận thù, nói hành nói xấu, gian dối lừa đảo, vị kỷ chấp nhất v.v. 

Chính hoa trái chứng từ của chúng ta tới đâu cho chúng ta biết mức độ chúng ta đã hiệp thông thần linh có thật hay chăng và tới đâu! Tuy nhiên, cho dù chúng ta có còn đầy những gì là phản kitô như thế, mà vẫn tỏ ra biết mình, với tất cả thiện chí ăn năn thống hối của chúng ta, thì cũng cho thấy LTXC đã chạm đến chúng ta, nhờ đó chúng ta, bằng chính bản chất yếu hèn của mình, có thể trở thành nhân chứng cho tình yêu vô cùng nhân hậu của Người, như người đàn bà Samaritanô ở bờ giếng Giacop (xem Gioan đoạn 4).

Nếu Dân Tân Ước là Giáo Hội có các Bí Tích Thánh nói chung và Thánh Thể nói riêng là một thực tại hiện diện thần linh của Chúa Kitô giữa đàn chiên của Người như thế nào, thì Dân Cựu Ước là Do Thái cũng có Hòm Bia nói chung và chính Hai Bia Đá nói riêng như một biểu hiệu cho hiện diện thần linh của Thiên Chúa nơi họ như vậy. 

Bài Đọc I cho Năm Chẵn hôm nay được trích từ Sách Các Vua quyển 1 thuật lại biến cố từ vua (Solomon) đến dân bấy giờ long trọng nghênh đón Hòm Bia, được các vị tư tế chuyên lo việc thờ phượng trong dân (như các vị thừa tác thánh chức trong Giáo Hội từ đầu tới mãi mãi), khiêng từ Nhà tạm vào Đền Thánh Giêrusalem như sau:

"Vua Salomon và toàn dân Israel tề tựu quanh ngài, tiến đi với ngài trước hòm bia, và tế lễ vô số chiên bò không kể xiết. Các tư tế khiêng hòm bia Thiên Chúa đặt vào nơi đã chỉ định tại đền thờ, nơi cực thánh, dưới cánh các tượng vệ binh thần. Các tượng này giang cánh trên nơi để hòm bia, và che phủ hòm bia và các đòn khiêng. Trong hòm bia không có gì khác ngoài hai bia đá mà Môsê đã đặt vào hòm ở núi Horeb, lúc Chúa lập giao ước với con cái Israel khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa. Bấy giờ Salomon nói rằng: 'Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời'".

Hòm Bia Cựu Ước quả thực là biểu hiện cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa giữa dân Ngài, bởi thế, Hòm Bia ở đâu Thiên Chúa hiện diện ở đó, như trong Bài Đọc 1 cho thấy: "Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa". 

Hình ảnh "mây bao phủvẫn được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng liên quan đến sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa có thể ám chỉ Thánh Thần, "Quyền Năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ cô" (xem Luca 1:35). Bởi thế theo niềm tin của mình, Giáo Hội vẫn liên kết Thánh Linh với Đền Thờ Thiên Chúa là nơi Thiên Chúa ngự trị. 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chính Vua Solomon, khi chứng kiến thấy "có mây bao phủ nhà Chúa" và thấy "vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa" như thế, vua cũng đã bày tỏ niềm tin của mình rằng: "Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng liên kết Thiên Chúa với Hòm Bia của Ngài, mà còn nhấn mạnh đến vai trò của các vị tư tế là thành phần trực tiếp đến phụng vụ thần linh:

1) Ðây là điều chúng tôi đã nghe nói tại Ephrata, chúng tôi đã gặp thấy nơi đồng ruộng Gia-ar. Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa, hãy sụp lạy trước bệ dưới chân Ngài.

2) Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ, Chúa và Hòm Bia oai quyền của Chúa cùng đi! Các tư tế của Ngài hãy mặc lấy lòng đạo đức, và các tín đồ của Ngài hãy mừng rỡ hân hoan. Xin vì Ðavít là tôi tớ Chúa, Chúa đừng hắt hủi người được Chúa xức dầu.



Ngày 5 tháng 2

Thánh A-ga-ta, trinh nữ, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

A-ga-ta là một thiếu nữ quê ở Xi-xi-li-a. Chị đã chịu tử đạo ở Ca-ta-na, vào thời hoàng đế Đê-xi-ô bách hại đạo (năm 251).

Đồng bào của chị vẫn tin tưởng kêu cầu chị, nhất là những lúc núi lửa Ét-na hoạt động.

Rồi việc tôn kính chị được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh, cả ở phương Đông lẫn phương Tây.

Tay trinh nữ cầm đèn sáng chói,
Nàng bước vào tiệc cưới thiên thu,
Chính là hôn lễ Đức Vua,
Nước Trời hoan hỷ tung hô chúc mừng.

Nàng dự yến trong cung danh dự,
Sánh duyên cùng Thiên Tử quang vinh,
Chữ trinh xe kết chữ tình,
Nết na đức hạnh công trình bao năm.

Xin chỉ dạy cách ăn thói ở,
Lấy hồng ân che chở phù trì,
Mưu thù cho dẫu tinh vi,
Quyết tâm chống lại, gian nguy chẳng sờn.

Xin Đức Mẹ là gương trinh thục
Hằng cầu thay nguyện giúp chúng nhân,
Ơn thiêng Thánh Tử tuôn tràn,
Tha hương lãnh nhận muôn vàn đỡ nâng.

Lời vinh tụng, quỳ dâng lên Chúa
Đã ban cho trinh nữ thành công,
Triều thần thiên quốc một lòng,
Nghìn thu ca ngợi hát mừng Thánh Danh.

 

Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành,
đã trao ban thánh A-ga-ta làm quà tặng

Bài đọc 2 Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 5/2

Trích bài giảng của thánh Mê-tô-đi-ô Xi-cu-li, giám mục, về thánh nữ A-ga-ta.

Thưa anh chị em, những người đang nghe tôi nói, như anh chị em biết, hằng năm lễ kính nhớ thánh nữ A-ga-ta tử đạo quy tụ tất cả chúng ta về nơi đây. Thánh nữ là vị tử đạo thời xưa và đứng hàng đầu nhờ cuộc chiến đấu lừng lẫy của người. Nhưng người cũng là vị tử đạo thời nay, bởi vì giờ đây người như vẫn còn chiến thắng nhờ những phép lạ khác thường làm thành vòng hoa mỗi ngày kết trên đầu người và tô điểm cho người nên xinh đẹp.

Thánh nhân thật là trinh nữ, vì đã được sinh ra nhờ Lời của Thiên Chúa bất tử (Lời cũng vì tôi đã trải qua cái chết nơi thân xác của mình), và nhờ người Con hằng gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, như thánh Gio-an, nhà thần học nói : Những ai đón nhận Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.

Vậy người phụ nữ đồng trinh, người đã mời anh chị em đến tham dự tiệc thánh của chúng ta, người phụ nữ ấy đã đính hôn với một người duy nhất là Đức Ki-tô, nói theo kiểu thánh Phao-lô tông đồ về mối liên hệ vợ chồng.

Nhờ những hiểu biết đem lại ánh sáng, và nhờ máu thắm của Con Chiên đích thực của Thiên Chúa, người trinh nữ ấy đã làm cho cặp môi, đôi má và miệng lưỡi mình nên đỏ, nên tươi ; và nhờ tâm trí luôn tìm hiểu, người năng suy đi nghĩ lại và mang trong lòng cái chết của Đấng đã hết tình yêu mến mình, như thể Đấng ấy vừa mới đổ máu ra. Như thế, tấm áo người được mặc nhờ việc tuyên xưng đức tin, chẳng những mang dấu vết thắm đượm máu hồng không thể phai mờ của Đức Ki-tô, mà còn lưu truyền cho hậu thế kho tàng của đức đồng trinh đầy sức thuyết phục, với những màu sắc tươi đẹp, kèm theo các lời lẽ trào dâng như dòng suối không bao giờ cạn.

Vậy, thánh nữ thật là “tốt lành” vì thuộc về Thiên Chúa. Người được chính Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành trao ban làm quà tặng cho Đấng Hôn Phu, rồi cho chúng ta nhờ việc thông ban ơn lành ; nhờ đó, thánh nữ đem lại giá trị và ý nghĩa cho danh xưng A-ga-ta của mình.

Thật vậy, còn gì tốt lành hơn là sự thiện tuyệt đối ? Ai tìm được điều gì đáng ca ngợi hơn A-ga-ta ?

A-ga-ta tốt cả về danh, tốt cả về người. A-ga-ta nổi tiếng vì những việc lẫy lừng của mình, ngay danh xưng cũng cho thấy những việc lẫy lừng người đã thực hiện ; A-ga-ta lấy danh xưng mà lôi cuốn mọi người nô nức đến với mình ; người dùng gương sáng mà dạy dỗ cho mọi người cùng với mình tiến về sự thiện đích thực là một mình Thiên Chúa.

Lạy Chúa, thánh nữ A-ga-ta đã luôn luôn làm đẹp lòng Chúa, vì vừa sống cuộc đời kiên trinh, vừa can trường hy sinh tử đạo, xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu mà ban cho chúng con được ơn tha thứ. Chúng con cầu xin

Tiểu Sử

Trong lịch sử Giáo Hội, vào các thế kỷ ban đầu, trong thời kỳ Giáo Hội còn bị đế quốc Roma bách hại và sát hại suốt 3 thế kỷ đầu, đã có một số vị tử đạo nữ đồng trinh như

Thánh Cecilia tử đạo vào năm 230 lúc mới 20 tuổi và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 22/11, hoặc

Thánh Catarina thành Alexandria Ai Cập, một triết gia, tử đạo năm 305 lúc mới 18 tuổi, và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 25/11, hay

thánh Anê 12 tuổi tử đạo năm 304 và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 21/1, hoặc

Thánh Lucia tử đạo năm 304 khi thánh nữ được 21 tuổi và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 13/11, hay

Thánh Agatha hôm nay 5/2, vị thánh tử đạo năm 251 khi mới được 20 tuổi. Có thể nói 5 vị nữ tử đạo này là Ngũ Long Công Chúa Nữ Trinh của Vua Trời Cao Cả Giêsu Kitô, trong đó có 4 vị được Giáo hội kính nhớ trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể I của mình, ở sau phần truyền phép và trước Kinh Lạy Cha, theo thứ tự (được liệt kê ngay sau 2 thánh nữ tử đạo không đồng trinh vào các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội khác là Felicia và Perpetua) đó là Thánh Agatha, Lucia, Anê, Cecilia v.v.

Thường các vị tử đạo nữ, chẳng những chịu những cực hình dã man khủng khiếp chẳng thua kém gì các vị thánh tử đạo nam, như 2 thánh phó tế Laurenso năm 258 ở Roma lễ kính ngài vào ngày 10/8, và Vinh Sơn năm 304 ở Tây Ban Nha lễ nhớ ngài vào ngày 22/1, mà còn có thể chịu cực hình hơn cả các thánh tử đạo nam nữa, nếu so sánh về thể lực giữa nam mạnh nữ yếu, các vị thánh nữ thậm chí còn bị một cực hình đặc biệt nữa, hoàn toàn không có ở nơi các vị thánh nam, đó là các vị thánh nữ đồng trinh còn bị bạo quyền nham hiểm ác độc bỏ vào ổ điểm, để cố ý làm cho các vị tử đạo nữ trẻ trung xinh đẹp trở nên nhơ nhớp về xác thịt, như Thánh Anê, Thánh Lucia, nhất là Thánh Agatha chịu cực hình thật là có thể nói là vô cùng dã man khủng khiếp chưa từng thấy.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, dẫn nhập

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Agata, theo nghĩa tiếng Hy Lạp “người tốt”, là một thiếu nữ Sicilien, sinh tại Catane, dưới chân núi Etna. Được tử đạo vào năm 251 trong thời bách hại của Dèce; việc tôn kính nữ thánh từ Sicile lan tràn cả Phương Đông (Constantinople) lẫn Phương Tây (Rôma, Milan, Ravenne) từ thế kỷ thứ V, được mừng vào ngày 05.02. Tại Rôma, có một thánh đường được dâng kính thánh nữ vào thế kỷ thứ V, được gọi là Saint-Agathe-des-Goths. Vào đầu thế kỷ thứ VI, Đức Giáo Hoàng Symmaque đã đưa việc tôn kính thánh nữ vào thành thánh và cung hiến một đại thánh đường trên đường Via Aurelia cho thánh nữ. Người ta cho rằng Đức Giáo Hoàng Grégoire Cả đã đưa tên thánh nữ vào Kinh Nguyện Thánh Thể Rôma; tên thánh nữ có trong các hạnh tử đạo Hy Lạp lẫn La Tinh.

Thánh nữ Agata được tôn kính cách đặc biệt tại Catane; dân thành phố này tin rằng thánh nữ đã làm nhiều phép lạ trong thời đất nước gặp khó khăn ; họ tin rằng nhờ lời cầu bầu của thánh nữ đã cứu được thành khỏi bị núi lửa Etna bùng nổ. Agata được xem như thánh quan thầy của các cô bảo mẫu, người làm chuông, làm đồ nữ trang...Ngài được kể vào các thánh Bảo Trợ, được kêu cầu khi người ta bị bệnh đau thận. Mỹ thuật trình bày thánh nữ cầm một cái dĩa trong tay, trên có đôi vú bị cắt.

2. Thông điệp và tính thời sự

Thánh nữ Agata biết làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng việc thánh hiến sự đồng trinh và sự can đảm trong cuộc tử đạo.

a. Theo truyền thuyết, ngay từ bé, Agata đã chọn con đường tận hiến trinh khiết, hoàn toàn tự do dâng hiến cho tình yêu Chúa Kitô. Để chống lại các đòi hỏi của tổng trấn ngoại giáo Quitinien mà thánh nữ bị bắt, bị hành hình đau khổ và bị giết chết.

Thánh Méthode, giáo chủ Constantinople (+ 487), trong bài giảng ngày lễ tử đạo của thánh nữ, đã nhấn mạnh đến sự thánh hiến của thánh Agata, “đính hôn với hôn phu duy nhất là Đức Kitô... thánh nữ suy niệm và luôn chiêm ngắm cái chết của hôn phu một cách say mê”. Tình yêu nồng cháy đã làm cho thánh nữ hạnh phúc, như tên của thánh nữ, chỉ vì Thiên Chúa là nguồn mọi điều tốt lành.

b. Trong thời bách hại của Dèce, rất nhiều người được tử đạo, nhưng cũng có nhiều người chối đạo. Sự can đảm của các chứng nhân đức tin trước các lý hình nhấn mạnh đến tính chất anh hùng của hy tế và gương mẫu của họ, đã giúp đỡ rất nhiều người Kitô hữu thêm vững vàng trong đức tin, như thánh nữ Agata, theo như Hạnh tử đạo của bà, “vui tươi và chiếu sáng, bước vào tù ngục như vào một bàn tiệc.”

Thánh Méthode khuyến khích các tín hữu của ngài chạy đến với nữ thánh tử đạo, “như đang chiến thắng trận chiến hiện tại, thánh nữ Agata mời gọi mọi người đến với Bà, dạy dỗ bằng mẫu gương của mình: mọi người hãy đến với bà, đến với sự tốt lành chân thật, không gì khác hơn là chính Thiên Chúa.”

Enzo Lodi (nguồn:tgpHaNoi)

https://www.kath-vietnamesen.de/05-02-thanh-agata-trinh-nu-tu-dao-le-nho/

Agatha.jpg

ÐÓA SEN TẮM MÁU ĐÀO

            Mặc dầu đảo Sicilia là sào huyệt của Mafia và là trung tâm chuyển vận bạch phiến vào Mỹ, nhưng đó là quê hương của thánh Agata, một trinh nữ tử đạo năm 251 để bảo toàn tiết hạnh và chứng tỏ lòng trung kiên với Ðức Tin Kitô Giáo.

            Agata thuộc dòng dõi giầu  sang.  Con nhà  quý phái, được giáo dục sống đời đạo hạnh theo Ðức Tin chân chính.  Chúa lại ban cho nàng một nhan sắc tuyệt vời, dễ làm xiêu lòng người.  Ðang thời bách hại Kitô Giáo, bạo vương Ðêciô ra lệnh cho Quintianô, nơi quan trấn Sicilia, phải triệt hạ tận gốc rễ tàn tích Kitô Giáo tại đây.  Vừa đến Catania, nơi sinh trưởng của Agata, Quintianô liền nghe danh nàng.  Quan trấn hạ lệnh bắt Agata và điệu nàng vào đối chất với mình.  Vừa giáp mặt Agata, nhan sắc của nàng đã làm "phiêu hồn, lạc phách" vị quan trấn mang nhiều dục vọng đê hèn, đến nỗi thay vì chất vấn về đạo giáo, Quintianô đã đường mật dụ dỗ nàng phạm tội không chút thẹn thuồng! Nhưng ẩn sau vẻ đẹp của thân xác, Agata còn trang điểm đức trinh trong thiên thần, nàng thà chết còn hơn phạm tội mất lòng Chúa.  Thấy chiêu bài dụ dỗ không kết quả, Quintianô liền đổi giọng đe loi hăm dọa.  Nhưng Agata vẫn chai lì gan dạ, nhất định không chiều ý kẻ cuồng si.  Ðổi yêu thành ghét, Quintianô ra lệnh quẳng nàng vào "lầu xanh", nơi đây mụ tú bà Aphrôdisia cùng với mấy người con gái của bà chuyên nghề mãi dâm, ngày đêm thuyết phục nàng bằng lời nói cũng như hành động để đi theo con đường tội lỗi của họ.

            Suốt 30 ngày dài, Agata phải miễn cưỡng sống giữa căn nhà tội lỗi.  Ðây là một thử thách lớn lao đối với nàng! Manh tâm của Quintianô là lợi dụng môi trường lầu xanh để phá hủy đức Khiết Trinh của Agata và dẫn nàng tới chỗ chối bỏ Ðức tin. Nhưng ông lầm! Người trinh nữ được trang bị bằng sự  Chúa hiện diện ở mọi nơi, bằng lời cầu nguyện và bằng chay tịnh đã anh dũng chống lại mọi mưu chước kẻ dữ.  Chúa đã ban cho nàng sức mạnh chiến thắng kể thù.

            Sau 30 ngày kiên quyết không lay chuyển, Agata bị điệu tới trước mặt quan trấn, ông nói với nàng:

            -Cô là dòng dõi sang trọng mà không xấu hổ khi hạ mình sống đời đê hèn của  Kitô hữu ư?

            Agata nhanh nhẹn trả lời:

            -Sự khiêm hèn và đê tiện của người Kitô hữu còn đáng giá hơn sự giầu sang, niềm kiêu hãnh và tính tự phụ của các bậc quân vương!

            Những lời đanh thép đó đã khêu cơn giận của Quintianô, ông hạ lệnh vả mặt nàng.  Những cái tát, những cú đấm "thôi sơn" của bọn lính khiến máu hồng trào ra nơi miệng và lỗ mũi.  Dòng máu trinh trong của người trinh nữ khởi sự làm chứng nhân cho bạn Tình Giêsu.  Sau đó Agata bị tống giam trong ngục với lời đe dọa nếu không chối bỏ Ðức Tin, nàng sẽ phãi đương đầu với mọi tra tấn cực hình.

            Lời đe loi đó ứng nghiệm ngay ngày hôm sau.  Quintianô ra lệnh căng thây nàng.  Toàn thân bị hành hình bằng những thanh sắt nung đỏ. Ngực nàng bị những móc sắt xé rách tan tành.  Trước cực hình dã man đó, Agata can đảm nói với Quintianô:

            -Hỡi quan độc ác, ông đã bú sữa từ ngực thân mẫu , ông không xấu hổ khi xé rách cặp ngực của người trinh nữ không một chút xót thương ư?

            Nhưng Quitianô chẳng thẹn thuồng mà cũng chẳng xót thương.  Ông ra lệnh đưa nàng về ngục rồi bỏ nàng chềt đói tại đó.

            Ðêm ấy, thánh Phêrô Tông Ðồ hiện ra trong ngục và chữa lành các vết thương trên thân xác liễu yếu của Agata.  Thánh Tông Ðồ khen nàng đã can đảm chịu khó vì Chúa Kitô.  Nhưng cực hình khác đang chờ đón nàng.  Agata cảm thấy niềm an ủi vô bờ tràn ngập tâm can, nàng lớn tiếng chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa, nàng hiến thân chịu mọi cực hình vì yêu Ngài.

            Bốn hôm sau, Agata bị điệu ra trước mặt quan trấn, ông này vô cùng bỡ ngỡ khi thấy mọi vết thương trên thân xác nàng đã được chửa lành.  Agata nói với ông:

            -Ông hãy xem và hãy nhìn nhận sự toàn năng của Thiên Chúa, Ðấng tôi thờ kính! Ngài hồi phục bộ ngực tôi!  Tại sao ông lại muốn tôi chối bỏ ngài? Cho dù sự tra tấn dữ tợn nhất, cho dù cái chết cay cực nhất cũng không thể phân lìa tôi ra khỏi ngài.

            Nhưng lòng dạ Quintianô đã ra chai đá, những lời của Agata càng khiêu khích cơn giận của ông, ông liền ra lệnh rắc đổ than hồng và mảnh sành nhọn trên mặt đất, rồi quân lính lăn tròn thân xác trần trụi của nàng trên đó.  Toàn thân Agata bị cháy xém và rách nát, nhưng tâm hồn nàng can đảm lạ thường! Các người hiện diện mủi lòng trước gương can trường của người trinh nữ liễu yếu đào tơ.

            Trước tội ác và sự cứng lòng của Quintianô, Chúa để xẩy ra một cơn động đất rung chuyển cả thành phố.  Hai người bạn thân nhất của quan tổng trấn bị đè bẹp dưới đống gạch đổ nát.  Dân cư trong thành hoang mang sợ hãi, họ cho rằng đây chính là hình phạt nhãn tiền do sự độc ác của Quintianô kéo xuống trên họ.  Vì sợ dân chúng nổi loạn,  quan tổng trấn truyền đem Agata về ngục.  Vừa tới ngục, nàng qùy gối rồi giang tay, ngước mắt lên trời cầu nguyện:

            -Lạy Chúa, Ngài bảo vệ con từ tuổi ấu thơ, Ngài cất khỏi con tình yêu thế tục và ban ân sủng để con chịu đựng mọi cực hình, xin lắng nghe lời van xin của tớ nữ trung kiên Ngài, và xin hãy đón nhận linh hồn con.

            Với những lời nguyện cầu đó, thân xác người trinh nữ ngã gục và linh hồn nàng bay về trời.

             Sau khi chết, thánh Agata đã làm nhiều phép lạ.  Phép lạ vĩ đại nhất là che chở thành Catania khỏi hiểm họa núi lửa Etna.  Dân thành tôn nhận Người làm thánh Bổn Mạng.  Mỗi lần núi lửa, dân thành Catania lại cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ.  Ðang khi giòng phún thạch chảy nóng tiến dần về phía thành, người ta long trọng cung nghinh tấm khăn đã che phủ xác thánh người, rồi giơ cao hướng về giòng phún thạch...  Lạ thay, chẳng những nó không tiến gần thêm, mà trái lại từ từ chẩy ngược về phía núi trước con mắt ngỡ ngàng của mọi người.  Chúa đã làm những phép lạ như thế để tôn vinh tớ nữ của ngài.  Tên của thánh nữ được nhắc đến trong Kinh Nguyện Thánh Thể I.  Hàng năm Giáo Hội mừng kính Người vào ngày mồng 5 tháng 2.

Lm Nguyễn Mạnh Thư, CRM

http://www.dongcong.net/CacThanh/TruyenCacThanh/Thang2/Agata.htm





 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 8, 22-23. 27-30

"Chúa đã phán: "Danh Ta sẽ ở nơi đó, để nhậm lời van nài của dân Israel".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Salomon đứng trước bàn thờ Chúa, đối diện với cộng đoàn Israel, ông giơ hai tay lên trời và nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, trên trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa. Chúa giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa. Nhưng ai dám nghĩ rằng: quả thật Thiên Chúa ngự ở trần gian? Vì nếu trời và các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất đây! Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin đoái nghe lời cầu nguyện và sự van nài của tôi tớ Chúa; xin lắng nghe lời ca khen và kinh nguyện mà tôi tớ Chúa dâng lên trước mặt Chúa hôm nay, ngõ hầu đêm ngày mắt Chúa nhìn xem ngôi nhà này là nơi Chúa đã phán 'Danh Ta sẽ ở nơi đó', để nghe lời cầu nguyện mà tôi tớ Chúa kêu xin trong nơi này, để nhậm lời van nài của tôi tớ Chúa và của dân Israel sẽ cầu nguyện tại nơi đây. Từ thiên cung nơi Chúa ngự, xin Chúa nhậm lời, và khi đã nhậm lời, xin Chúa dủ lòng thương".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5 và 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.

2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, Ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con. - Ðáp.

3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Thuẫn đỡ cho chúng con, xin hãy nhìn xem, lạy Thiên Chúa, xin hãy đoái nhìn mặt Ðức Kitô của Người. - Ðáp.

4) Thực, một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 1-13

"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Ðó là lời Chúa.



Suy nghiệm Lời Chúa


  

    Đức Kitô Dạy Luật    


Hôm nay, Thứ Ba Tuần V Thường Niên, Bài Phúc Âm vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm.

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra, đúng hơn, thông mình ra, hay thông ban ân sủng của mình ra qua việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền, thậm chí bằng cả gấu áo của Người cho những ai tin tưởng chạm đến gấu áo ấy, thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, Người tỏ mình ra "là chân lý" (Gioan 14:6), Người thông ban chân lý của Người và từ Người ra cho những ai mù quáng, hay nói cách khác, Người mang chân lý đến cho những ai về tâm linh cần chữa lành cái vô thức hay mù quáng của họ, như những người bị bệnh nạn tật nguyền về phần xác cần được Người chữa lành về thể lý vậy.

Thật thế, thành phần mù quáng về tâm linh cần được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chữa lành cho đó là "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem", tức là thành phần giữ luật, thông luật và dạy luật thuộc loại thế giá, thế lực, thuộc loại chính qui, chính gốc, bởi họ có dính dáng tới giáo đô "Giêrusalem", như thể các vị giáo sĩ ở các nước Công giáo trên khắp thế giới ngoài Âu Châu và Tây phương, như ở Á Châu hay Phi Châu hoặc Mỹ Châu Latinh có bằng cấp ở Giáo đô Roma vậy. 

Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem" này đã bị khuyết tật hay bị mắc tật nguyền bẩm sinh di truyền mù quáng này ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ đúng như lời Chúa Giêsu nhận định và khiển trách họ trong bài Phúc Âm hôm nay: 

"Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". 

Phải, cái tật nguyền mù quáng của họ là ở chỗ "giả hình", bôi bác ngoài "môi miệng" chứ không thật "lòng", sống một cuộc đời "giả dối", ở chỗ "dạy những giáo lý và những luật lệ loài người", như những gì được Thánh ký Marco liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay: "không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng". 

Đáng lẽ, nếu thực sự xứng danh là thành phần thông luật thì họ phải nắm bắt được tất cả sự thật của luật và về luật, liên quan đến mục đích của luật và tinh thần của luật, từ đó họ mới có thể dạy luật cho dân chúng hiểu mà theo, để cả họ lẫn dân đều giữ luật đúng với những gì Thiên Chúa là Đấng ban luật qua Moisen mong muốn. 

Đằng này, chính vì  họ coi trọng loài người hơn Thiên Chúa, hay nói ngược lại, coi Thiên Chúa không bằng loài người, coi giá trị nhân bản cao hơn giá trị thần linh, như chính Chúa Giêsu nhận định "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy", mà họ đã giảng dạy một cách sai lầm, điển hình là họ đã dạy sai lạc điều răn thảo kính cha mẹ trong 10 Điều Răn Chúa dạy, như Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:

"Thật vậy, Môsê đã nói: 'Hãy thảo kính cha mẹ', và 'ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử'. Còn các ngươi thì lại bảo: 'Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)', và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Sở dĩ thành phần chính hiệu Giêrusalem biệt phái và luật sĩ thông luật trong bài Phúc Âm hôm nay bị Chúa Giêsu vạch trần bộ mặt giả hình và lối sống giả dối của họ ra như vậy là vì họ đã dẫn giải sai ý nghĩa của lề luật liên quan đến ý của Đấng ban lề luật cho con người, và những dẫn giải của họ hoàn toàn theo khuynh hướng tự nhiên muốn sống hưởng thụ và dễ chịu hơn là hy sinh và chịu khó, kể cả đối với những bậc sinh thành dưỡng dục họ. 

Hiện tượng và tình trạng thiên lệch đầy chủ quan và vị kỷ này của "những người biệt phái và luật sĩ từ Giêrusalem" này cũng không có gì là khó hiểu, bởi vì một khi họ coi nhẹ Thiên Chúa, coi luật của Ngài không bằng tục lệ loài người, thì cha mẹ loài người của họ cũng đâu có giá trị gì đối với họ mấy nữa. 

Và như thế, ở một nghĩa nào đó, họ đã lấy họ làm cùng đích, khi họ coi luật lệ của Thiên Chúa chỉ là phương tiện để họ hưởng thụ, ở chỗ, một đàng bề ngoài họ có vẻ tuân thủ kỹ lưỡng lề luật đấy, nhưng về tinh thần họ lại tuân thủ lề luật một cách chủ quan, nghĩa là, việc họ giữ luật là đường lối tinh ranh để họ có thể nhờ đó thỏa mãn ý riêng của họ một cách chính đáng, và như thế và nhờ thế họ mới có thể làm chủ lề luật, thay thế vị trí của chính Đấng lập luật và ban luật cho họ.

Vua Solomon trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay đã cảm nhận rất chí lý trong lời vua nguyện cầu dâng lên Thiên Chúa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, trên trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa. Chúa giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa. Nhưng ai dám nghĩ rằng: quả thật Thiên Chúa ngự ở trần gian? Vì nếu trời và các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất đây!"

Đúng vậy, trước hết, chính vì "trên trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa", nên loài người nói chung, nhất là dân Chúa là thành phần được Ngài tỏ mình ra cho dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, bao gồm cả việc Ngài ban lề luật của Ngài cho họ, chẳng những không được theo một tà thần nào khác, mà còn không được tạo nên các thứ ngẫu tượng của mình thay thế Ngài, hay nói ngược lại, không được nhân tạo hóa Thiên Chúa là Đấng đã tỏ mình ra theo ý nghĩ chủ quan nông cạn của họ, điển hình là khuynh hướng dẫn giải lề luật của Ngài hoàn toàn thuần nhân bản như trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Sau nữa, "nếu trời và các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất đây!", theo nghĩa bóng, còn có nghĩa là loài người hữu hình và hữu hạn không thể nào thấu suốt được Thiên Chúa, nên không thể giam nhốt Ngài trong lòng trí chủ quan và vốn thiên lệch của mình, trái lại, Ngài sẽ thật sự ở với họ và ngự trong họ một khi họ thành tâm tìm kiếm và phụng thờ Ngài "trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24), vì như Vua Solomon cảm nhận rất đúng trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngài là Vị "Chúa giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa". 

Bài Đáp Ca hôm nay cũng theo chiều hướng của phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói chung và Bài Đọc 1 nói riêng, ở chỗ, linh hồn chỉ sống hạnh phúc khi sống trong "nhà Chúa" (câu 2)hay ở "hành làng nhà Chúa" (câu 3) hoặc ở "ngưỡng cửa nhà Chúa" (câu 3) mà thôi, chứ không phải là nhà của mình là ý riêng của mình, hay ở hành lang nhà mình là khuynh hướng chủ quan của mình, hoặc ở ngưỡng cửa nhà mình là những việc làm giả hình của mình.

1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. 

2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, Ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con.

3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Thuẫn đỡ cho chúng con, xin hãy nhìn xem, lạy Thiên Chúa, xin hãy đoái nhìn mặt Ðức Kitô của Người. 

4) Thực, một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. 


 

 

Ngày 6 tháng 2

Thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

Ngày 5 tháng 2 năm 1597, hai mươi sáu Ki-tô hữu đã bị đóng đinh thập giá ở Na-ga-xa-ki (Nhật Bản). Trong số đó có những nhà truyền giáo từ châu Âu đến như các tu sĩ dòng Tên và dòng Phan-xi-cô, nhưng còn có cả các tu sĩ Nhật Bản, như thánh Phao-lô Mi-ki (sinh khoảng năm 1564/1566) và mười bảy giáo dân gồm : các giáo lý viên, các người thông ngôn, hai bác sĩ, và cả các trẻ em nữa. Tất cả đều tươi cười, nhiều người còn ca hát khi chịu chết để làm chứng cho Chúa Ki-tô.

Image result for saint paul miki and companions

 

Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy

Bài đọc 2 giờ kinh sách 6/2

Trích truyện tử đạo của thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn do một tác giả cùng thời thuật lại.

Thật là kỳ diệu khi thấy các vị tử đạo bị treo trên khổ giá mà tất cả đều một niềm kiên trung theo lời cha Pa-xi-ô và cha Rót-ri-ghê lần lượt khuyên bảo. Cha đặc uỷ vẫn ở yên dường như bất động, mắt đăm đăm nhìn trời. Để cảm tạ lòng nhân từ của Chúa, thầy Mác-ti-nô hát mấy thánh vịnh kèm theo câu : Trong tay Ngài, lạy Chúa. Thầy Phan-xi-cô cũng lên tiếng dõng dạc tạ ơn Thiên Chúa. Thầy Gun-xan-vô thì cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng.

Phao-lô Mi-ki, người anh em của chúng tôi, khi thấy mình ở nơi cao trọng hơn hết mà trước kia chưa bao giờ được ở, trước tiên đã nói cho những người đứng chung quanh biết mình là người Nhật và thuộc dòng Tên, mình chết vì loan báo Tin Mừng và tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân cao cả đó, rồi thêm những lời sau đây : “Đã đến lúc này, tôi thiết tưởng không ai trong quý vị lại tin rằng tôi muốn che giấu sự thật. Vậy tôi xin tuyên bố cùng quý vị là không có con đường nào đưa tới ơn cứu độ, ngoài con đường các Ki-tô hữu đang đi. Vì con đường đó dạy tôi tha thứ cho kẻ thù và mọi người đã xúc phạm đến tôi, nên tôi vui lòng tha thứ cho nhà vua và mọi người đã gây ra cái chết cho tôi, và tôi xin họ hãy ao ước đón nhận bí tích Thánh Tẩy của người Ki-tô hữu.”

Rồi đưa mắt nhìn các bạn, người khuyến khích họ trong cuộc chiến đấu cuối cùng này. Trên nét mặt mọi người thấy rạng rỡ một niềm vui, nhất là niềm vui trên gương mặt Lu-y.

Khi một Ki-tô hữu nói lớn với người rằng chẳng bao lâu nữa người sẽ ở trên thiên đàng, thì các ngón tay và toàn thân người biểu lộ niềm vui chan chứa, khiến ai nấy đều đưa mắt nhìn người.

An-tôn, ở bên cạnh Lu-y mắt đăm đăm nhìn trời, sau khi kêu tên cực trọng Giê-su, Ma-ri-a, thì xướng thánh vịnh đã học được trong lớp giáo lý ở Na-ga-xa-ki : Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi. Quả vậy, trong lớp đó, để dạy giáo lý, người ta cho các trẻ em học thuộc lòng một số thánh vịnh.

Sau hết, người thì lặp lại nhiều lần “Giê-su, Ma-ri-a” với nét mặt bình thản, người thì khuyên bảo những kẻ đứng chung quanh sống sao cho xứng danh Ki-tô hữu. Với những hành vi tương tự, các ngài tỏ ra sẵn sàng chịu chết.

Bấy giờ, theo thói quen của người Nhật, bốn đao phủ rút kiếm ra khỏi bao : thấy cảnh tượng khủng khiếp đó, mọi tín hữu kêu lên : “Giê-su, Ma-ri-a”, tiếng khóc than thảm thiết tiếp theo sau vang lên thấu tận trời. Trong khoảnh khắc, các đao phủ đã kết liễu cuộc đời mỗi vị bằng một hay hai nhát kiếm.

 

6 Tháng Hai, Thánh Phaolô Miki và Các Bạn (c.1597) - Hạnh Các Thánh - Huynh  Đoàn Đa Minh Cộng Đoàn Thánh Linh

Ngày 05/02/1597, trên một chuyến tàu, Miki và 25 bạn đồng đội bị bắt và bị treo lên những cây thập tự đối diện với bờ biển. Tuy bị treo nhưng Miki và các bạn vẫn luôn vui tươi và không ngừng giảng đạo và khuyên răn những người đến xem. Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại. Ngài tha thứ cho những kẻ sỉ vả và kết án ngài. Quá tức giận, họ đã đâm ngài cùng các bạn. Phaolô Miki và các bạn được diễm phúc tử đạo. Các ngài đã bị đóng đinh, vì thế các ngài cũng được tôn vinh cùng với Ðức Kitô.

 

PHAOLÔ MIKI VÀ NHỮNG VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA NHẬT BẢN


Những ngày đầu tháng 2 năm 1597, một đoàn phạm nhân bị dẫn đi rảo qua các thành phố của Nhật Bản, ở những nơi có đông người công giáo sinh sống. Đoàn phạm nhân này là những người bất tuân lệnh truyền của Hoàng đế trong chiếu chỉ cấm đạo. Nhà cầm quyền dùng những người này trong kế hoạch hăm dọa và răn đe những người công giáo cứng đầu, là những người không chịu bỏ đạo.Thế nhưng kế hoạch này dừng như hoàn toàn thất bại. Niềm vui của các vị tử đạo khi cái chết đến gần lại thể hiện quá rõ nét, đến nỗi hàng trăm người ngoại giáo khác bị đánh động và tin theo cái tôn giáo mà những chứng nhân này đã can đảm tuyên xưng. 

Nổi lên ở trung tâm của đoàn người ấy là một chàng trai trẻ có tên là Phaolo Miki. Dù bị kệt sức, thân thể loang lổ và xấu xí, không ai nhìn vào nhóm cái vị tử đạo mà không nhận ra dáng vẻ thanh cao của chàng trai. Phaolo mang tấm áo dòng đen đơn giản một tu sĩ Dòng Tên trong chuyến hành trình đi đến cái chết, nhưng mọi người Nhật đều nhận ra rằng, nếu muốn Phaolo hoàn toàn có thể mang bộ Kimono giàu sang và mang theo bên hông mình hai thanh gươm vốn thường được đeo bởi các Samurai quý tộc. 

Phaolo Miki sinh năm 1564 tại Tokushima, thuộc đảo Shikoku. Năm tròn 4 tuổi, cả gia đình Miki mình theo đạo công giáo. Cha của Phaolo Miki là Miki Handayu một thành viên danh dự của vương triều Oda Nobunaga. Tháng 8 năm 1586, khi được 22 tuổi, Phaolo Miki vào nhà Tập Dòng Tên và bắt đầu chương trình học để chuẩn bị làm linh mục. Đúng ra, Phaolo Miki hoàn tất chương trình ngay đúng vào thời điểm mà mình bị bắt. Cái chết tước đi khỏi Phaolo vinh dự được làm vị linh mục người Nhật Bản đầu tiên, và trao tặng cho Ngài triều thiên tử đạo đầu tiên trên đất nước Nhật Bản. 

Năm mươi năm trước, khi Thánh Phanxicô Xavier gặp được một số người Nhật Bản đã được rửa tội đã quyết định khởi hành đến quần đảo Nhật Bản để truyền giáo. Sau gần hai năm, thánh Phanxicô lập được một nhóm các thừa sai cho xứ này, trước khi Ngài tiếp tục chuyến hành trình đến với đất Trung Hoa. Nhóm các thừa sai này đã gia tăng vững vàng và đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trên đất Nhật. Chưa tới 40 năm sau, đã có hơn 200.000 người công giáo trong toàn nước Nhật. Nhiều lãnh chúa và tướng lĩnh từ nhiều tôn giáo khác nhau bước vào đạo công giáo, và những kẻ thuộc quyền cũng bước theo gương của họ. 

Tuy nhiên, việc phát triển và lan rộng của đạo công giáo cũng gặp nhiều chống đối ở nhiều nơi khác nhau. Vào thế kỷ thứ 16, Nhật là một đế quốc được cai trị bởi hai thế lực tối cao là Hoàng đế, người nắm quyền về tinh thần, và các tướng quân (Shogun) là những người nắm quyền trên những lãnh địa khác nhau của đất nước. Dưới hai thế lực này, nước Nhật bị chia thành hơn 60 vương quốc và lãnh địa lớn nhỏ khác nhau. Trong nhiều vùng, đạo công giáo hoàn toàn bị cấm cách, các nhà truyền giáo luôn bị đe dọa và không được phép thực hiện bất cứ loại hình mục vụ tôn giáo nào. Trong những vùng khác của đế quốc, tiến trình truyền giáo diễn ra hết sức chậm do những chống đối từ phía các lãnh chúa, các nhà sư và những người lãnh đạo phật giáo luôn đặt những người theo đạo công giáo dưới sự đe dọa nghiêm trọng.

Năm 1582, tướng Hideyoshi lên cầm quyền thống trị toàn nước Nhật và bắt đầu cuộc bách hại hung bạo dành cho đạo công giáo. Cuộc bách hại của ông đạt đến đỉnh điểm vào năm 1587 với sắc lệnh bắt đạo nghiệt ngã.

Cuối tháng 12 năm 1596, một đạo quân của hoàng đế bao vây những căn nhà bị tình nghi ở Miyako và Osaka. Sáu vị thừa sai dòng Phanxicô, một nhóm 18 giáo dân và 2 vị thừa sai Dòng Tên bị bắt. Theo điều khoản đã được hoàng đế ban ra, những người này bị kết án xẻo tai như dấu hiệu của một sự tủi nhục, và sẽ bị đóng đinh vào thập giá ở Nagasaki. 

Ngày 5.2. 1597, trên một ngọn đồi bên ngoài thành phố Nagasaki, hai mươi sáu cây thập giá được dựng lên cho các bị tử đạo. Đó là cuộc tử đạo đầy tiếng hát và kinh nguyện. 

Khi những thánh giá của các vị tử đạo được dựng lên, Cha Peter Baptist, bề trên của dòng Phanxicô, cao giọng bắt hát bài Benedictus, trong khi ấy cả nhóm lý hình đứng lặng yên kính cẩn, cả nhóm tử đạo đồng thanh hát trọn bài ca: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người… Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn cho Vầng Đông tự chốn cao vời đến viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” Dõi mắt nhìn quanh những người bạn đồng hành của mình đang sẵn sàng cho hy lễ, Phaolo Miki thầm thĩ dâng lời nguyện cuối cùng của cuộc đời mình: “Giống Thầy mình, tôi sẽ chết trên Thập Giá. Giống như Người, con tim tôi sẽ bị xé nát bởi một lưỡi giáo. Nhờ đó, dòng máu của tôi và tình yêu của tôi sẽ tuôn chảy trên mảnh đất này và thánh hóa nó nhân danh Người.”  

Trong số các vị tử đạo có ba trẻ còn ở tuổi thiếu niên. Nhóm trẻ cũng cao giọng với bài hát Laudate Pueri, tiếng hát lịm tắt khi lưỡi giáo xuyên qua con tim của họ.

Các vị tử đạo tiên khởi trên đất Nhật được Đức Thánh Cha Urbano VIII phong chân phướng ngày 15.9.1627 và được Đức Thánh Cha Pio IX phong hiển thánh ngày 8.7.1862.

Rome of the West: Memorial of Saint Paul Miki and Companions, Martyrs

 

26 cây thập giá trên một ngọn đồi ở thành phố Nagasaki đầu năm 1597 là lễ dâng hoa trái đầu mùa của Hội Thánh Nhật Bản. Dòng Tên góp phần vào hiến tế ấy ba anh em người bản xứ: thánh Phaolô Miki, 33 tuổi, lúc ấy đang chuẩn bị chịu chức linh mục; thánh Giacôbê Kisai, 64 tuổi, tu huynh; thánh Gioan Soan, 19 tuổi, giáo lý viên đang tìm hiểu Dòng Tên. Các vị còn lại gồm 6 thừa sai dòng thánh Phanxicô và 17 giáo dân mà người trẻ nhất mới 11 tuổi.

 

Người đầu tiên loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho Nhật Bản là thánh Phanxicô Xavier. Khu vực truyền giáo này thu hút nhiều thừa sai và lớn mạnh nhanh chóng. Chỉ trong vòng 50 năm, số tín hữu đã lên đến 200 ngàn. Dòng Tên cũng thành lập một tỉnh Dòng riêng với hơn 120 anh em mà đa số là người Nhật Bản. Vào cuối thế kỷ XVI, chế độ quân phiệt ở trung ương đang cố gắng buộc các sứ quân ở các địa phương phải phục tùng để thống nhất quyền lãnh đạo đất nước trong tay  một vị tướng, nhờ đó có thể phản ứng hữu hiệu khi các đế quốc Châu Âu có ý đồ xâm lăng. Người Nhật Bản vốn thích cái gì mới, lại thấy người Châu Âu chế tạo được tàu vượt đại dương, súng bắn xa hàng loạt, nên kính nể và dễ dàng đón nhận tôn giáo do các thừa sai Châu Âu đem tới. Điều này làm cho giới cầm quyền quân phiệt lo ngại. Họ sợ người Công Giáo sẽ nghe theo các sứ quân địa phương, hoặc sẽ ủng hộ các nước Châu Âu mà chống lại họ. Để cảnh cáo và ngăn chặn, họ cho bắt mấy thừa sai cùng với một số tu sĩ và giáo dân bản xứ đem đi xử tử.

 

Thánh Phaolô Miki được rửa tội cùng với cả gia đình lúc ngài mới 5 tuổi, và gia nhập Dòng Tên lúc ngài 22 tuổi. Trong thời gian học hành, ngài đã cho thấy tài năng của một nhà giảng thuyết đầy triển vọng. Vào những tháng nghỉ học, ngài đã từng đi giảng ở những tỉnh miền nam cũng như tại kinh đô Myako. Cuối năm 1596, ngài đang học tại nhà Dòng ở thành phố Osaka thì bị bắt cùng với tu huynh Kisai và ứng sinh Gioan Soan. Ngày nay nhiều sử gia vẫn thắc mắc tại sao nhà cầm quyền lại bắt 3 tu sĩ Dòng Tên này. Riêng thánh Phaolô Miki, ngài không hề thắc mắc, trái lại cảm thấy hết sức hân hoan: “Tôi sung sướng được giống Chúa phần nào”. Cùng với cả nhóm 26 chứng nhân, ngài được dẫn lên kinh thành Myako, và cùng bị cắt tai, cắt mũi, rồi bị đem đi diễu hành cho mọi người đều thấy.

 

Nhà cầm quyền chọn Nagasaki làm pháp trường hẳn là có ý đe dọa người Công Giáo và người nước ngoài, vì đó là thành phố cảng đông người Công Giáo và người nước ngoài nhất. Trên một đỉnh đồi, người ta dọn sẵn 26 cây thánh giá. Đoàn người bị kết án tử hình chẳng những không hề tỏ ra sợ hãi mà còn luôn miệng ca hát. Người ta buộc chân tay và bụng mỗi người vào một cây thánh giá, rồi dựng lên. Hôm ấy, dân chúng đến dự rất đông. Từ trên thánh giá, 26 chứng nhân đồng thanh hát vang: “Chúng con ca ngợi Chúa là thượng đế, chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể…” Rồi thánh Phaolô Miki hùng hồn nói về Đức Kitô, kêu gọi tín hữu vững tin và mời gọi lương dân tìm hiểu đạo. Khi được lệnh, lý hình lấy giáo đâm mỗi vị hai nhát chéo xuyên qua ngực. Thánh Phaolô Miki và các bạn đã chết trên thập giá, giống Chúa Kitô, như ngài mong ước.

 

Chế độ quân phiệt Nhật Bản qua đi mà không ai thương tiếc. Trái lại, 26 cây thánh giá trên ngọn đồi thành phố Nagasaki đã vượt mọi thử thách của thời gian, nhắc nhở mọi người về tình yêu của Con Thiên Chúa xuống trần để cứu đời.

 

Lạy Thiên Chúa là nguồn sức mạnh của các Thánh, ngang qua thập giá Chúa đã thương gọi thánh Phaolô Miki và các bạn vào cõi sống. Nhờ lời các ngài cầu thay nguyện giúp, xin Chúa ban cho chúng con được can trường giữ vững đức tin mà chúng con tuyên xưng cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

https://dongten.net/2015/02/05/thanh-phaolo-miki-va-cac-ban-tu-dao-tai-nhat-ban-nam-1597-le-nho-ngay-6-thang-2/

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Phaolô Miki là một trong 3 Giêsu-hữu thuộc nhóm 26 thánh tử đạo đổ máu ngày 05.02.1597 trên đồi Tateyama, gần Nagasaki (Nhật Bản), trong đó có: 6 nhà truyền giáo Tây Ban Nha thuộc Dòng Phanxicô ; 3 giáo lý viên thuộc Dòng Tên Nhật Bản, trong số đó có Phaolô Miki, còn có 17 giáo dân người Nhật cùng tử đạo.

Phaolô Miki được nêu danh đặc biệt vì thái độ anh hùng khi ngài bị đóng đinh cùng với các bạn. Các vị này là những người tử đạo đầu tiên của miền Viễn Đông được ghi vào sách các thánh tử đạo (Martyrologium). Trong số này, cũng có các em dưới 14 tuổi: Louis, André, Antoine. Chứng nhân cuộc tử đạo này đã nói về Antoine: “Đôi mắt hướng về trời, sau khi gọi danh thánh Giêsu và Maria, em bắt đầu cất tiếng hát Thánh Vịnh: “Các em hãy ca ngợi Thiên Chúa” mà em đã học tại Nagasaki, trong trường giáo lý”.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện nhập lễ nói: Thiên Chúa là nguồn sức mạnh của các thánh ; lời kinh này đã gọi Miki và các bạn “đã vượt qua Thánh giá để đi vào sự sống”.

Em Antoine, khi bị một vị quan dụ bỏ đạo, đã nói: “Thập giá không làm tôi sợ ; tôi lại khao khát nó vì tình thương Chúa Kitô”.

Từ trên Thánh giá, Phaolô Miki đã nói với đám đông tụ họp: ”Tôi muốn nói với anh em điều này: không có con đường cứu độ nào ngoài con đường người Kitô hữu đi. Tôn giáo này dạy tôi tha thứ, tôi xin tha thứ cho nhà vua cách thật lòng và tất cả những người tạo ra cái chết của tôi, và tôi cầu nguyện để họ có thể lãnh nhận phép rửa của người Kitô hữu”.

Bài đọc một (Gl 2,19-20) nhắc lại những lời của Phaolô Miki: Tôi chịu đóng đinh vào cây Thánh giá cùng với Đức Kitô : tôi sống, nhưng không phải là tôi, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi. Từ trên cao của 26 cây Thánh giá, các thánh tử đạo ở Nagasaki đã trở thành hình ảnh sống động của Đức Kitô, Đấng kêu gọi các môn đệ đi theo Người: Nếu ai muốn theo tôi, phải bỏ mình, vác thập giá của mình và theo tôi (Mt 16,25).

b. Phaolô Miki và các bạn đã gìn giữ và tuyên xưng đức tin cho đến lúc chết. Trình thuật về cuộc tử đạo của họ, do một chứng nhân ghi lại, cho thấy hiến tế của họ như một Phụng Vụ : người ta hát Thánh Vịnh “Các em, hãy ca ngợi Chúa”; người ta kêu đến thánh danh Giêsu và Maria ; người ta đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng và người nào đó đã lập lại lời van xin của người trộm lành : Lạy Chúa, xin nhớ đến con. Cuối cùng, 4 lý hình đã chấm dứt chứng cứ anh hùng của đức tin bằng việc lấy giáo đâm vào tim, trong khi các Kitô hữu vẫn kêu lên: ”Giêsu, Maria !” Như thế đối với họ, cũng như đối với Chúa Giêsu trên đồi Calvariô: ”Tất cả đã hoàn tất” (Ga 19,30).

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-06-02-thanh-phaolo-miki-va-cac-ban-tu-dao-46872

Lạy Chúa là nguồn sức mạnh của các thánh, Chúa đã gọi thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn bước lên thập giá mà vào cõi trường sinh. Xin Chúa thương nhậm lời các ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con hằng can đảm tuyên xưng đức tin, và trung thành giữ vững đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin

Ngày 06/02: Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo


Phaolô Miki
Tu sĩ Dòng Tên
Sinh : 1564 - tại Tokushima, Nhật Bản
Tử đạo : 05.02.1597 - tại Nagasaki, Nhật Bản

 


Thứ Tư

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 10, 1-10

"Nữ hoàng Saba đã nhìn thấy mọi sự khôn ngoan của vua Salomon".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, nữ hoàng Saba nghe biết Salomon nổi tiếng vì danh Chúa, bà đến hỏi thử ông nhiều câu đố. Bà đến Giêrusalem với đoàn tuỳ tùng đông đảo và nhiều của cải, gồm có lạc đà chở thuốc thơm, vô số vàng và đá ngọc quý báu. Bà yết kiến Salomon và bày tỏ cùng vua mọi nỗi niềm tâm sự. Salomon giải đáp mọi vấn nạn bà nêu ra, và không một lời bí ẩn nào mà không được vua giải đáp.

Nữ hoàng Saba nhìn thấy sự khôn ngoan của Salomon, thấy nhà ngài xây cất, món ăn ngài dùng, nhà của quần thần, trật tự của các công thần và y phục của họ, các quan chước tửu, và các của lễ toàn thiêu mà ngài hiến dâng trong đền thờ Chúa, thì bà hết hồn. Bà thưa cùng vua rằng: "Thật đúng như lời tôi nghe đồn trong xứ tôi về các công trình và sự khôn ngoan của ngài. Và lúc đó tôi không tin những điều người ta kể cho tôi, cho tới khi tôi đến đây, chính mắt tôi đã trông thấy, và tôi quả quyết rằng những điều đồn đại tôi nghe chưa bằng một phân nửa. Sự khôn ngoan và các công trình của ngài còn vĩ đại hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Phúc cho thần dân của ngài, và phúc cho các cận vệ của ngài, luôn luôn được ở trước mặt ngài và nghe lời khôn ngoan của ngài. Chúc tụng Thiên Chúa của ngài là Ðấng yêu thương ngài, và đặt ngài lên ngôi báu Israel. Vì Chúa yêu quý Israel muôn đời, nên đã đặt ngài làm vua, để ngài cai trị công minh chính trực". Vậy bà tặng vua một trăm hai mươi nén vàng, một số rất lớn thuốc thơm và đá ngọc quý giá. Người ta không khi nào thấy một số thuốc thơm nhiều hơn thuốc thơm mà nữ hoàng Saba tặng cho vua Salomon. Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 36, 5-6. 30-31. 39-40

Ðáp: Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan (c. 30a).

Xướng: 1) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động. Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ. - Ðáp.

2) Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chánh. Luật Thiên Chúa ở trong lòng người, và bước chân người không xiêu té. - Ðáp.

3) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga. 15, 15b

Alleluia, alleluia - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7,14-23

"Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.

Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra".

Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.

Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.

Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".

Ðó là Lời Chúa.

 

 

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Tư tuần 5 Thường Niên Hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan đến bản thân của con người ta và những gì làm cho con người ra nhơ bẩn. Theo Lời Chúa Giêsu phán dạy cho các tông đồ ở bài Phúc Âm hôm nay thì "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".

 

Nếu những gì xuất phát từ nội tâm của con người mới làm cho họ ra ô uế xấu xa thì ngược lại những gì từ ngoài vào không thể nào làm cho họ ra ô uế, như chính Chúa Kitô đã khẳng định trong cùng bài Phúc Âm hôm nay: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế". Vì, như Người dẫn giải thêm cho các môn đệ khi ở riêng với các vị: "tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra". Căn cứ vào đó, Thánh ký Marcô đã thêm chi tiết kết luận như sau: "Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch".

 

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những cái ở ngoài vào trong con người không phải chỉ có đồ ăn thức uống, là những gì qua cửa miệng của con người, mà còn bao gồm cả những thứ khác nữa, như hình ảnh qua mắt của con người, hay lời nói qua tai của con người, hoặc xúc giác kích thích qua làn da của con người, 3 giác quan có thể thu thập những cái xấu xa hay gương mù gương xấu từ bên ngoài xã hội vào trong tâm trí bên trong: chẳng hạn những hình ảnh dâm ô, những lời nói xấu xa hay những sờ mó bậy bạ. Thế nhưng, vấn đề ở đây là nếu con người chấp nhận những cái xấu từ bên ngoài bất khả tránh trên thế gian này ấy thì chúng mới có tác dụng xấu đến nội tâm của họ.

 

Vấn đề tiếp theo vấn đề trên là con người khó đề phòng và ngăn cản nổi những hình ảnh xấu, những lời nói xấu và những đụng chạm xấu bất ngờ xẩy ra cho mình, dù mình không muốn, để rồi sau đó những chất liệu xấu từ ngoài đó một khi đã lọt qua mắt, qua tai và qua xúc giác của họ, họ bị chúng ám ảnh, bị chúng quấy nhiễu, trở thành như những chước cám dỗ khiến họ khó lòng mà chống trả, thậm chí chúng đã làm cho nội tâm của họ ra xấu bằng những ý nghĩ xấu kèm theo ước muốn xấu, chẳng hạn như ngoại tình trong lòng (xem Mathêu 5:28).

 

Bởi thế, vấn đề khổ chế mới được đặt ra để giải quyết hai vấn đề then chốt trên đây. Nếu chúng ta biết chúng ta không thoát khỏi, dù chẳng có ý tìm kiếm, hoàn toàn bất ngờ, bị ảnh hưởng và chi phối bởi những thứ xấu xa từ bên ngoài vào, qua thị giác của chúng ta, hay quá thính giác của chúng ta, hoặc qua xúc giác của chúng ta, đến độ làm cho chúng ta bối rối, bất an, thậm chí sa ngã phạm tội... thì buộc chúng ta phải thực hành phương cách bất khả thiếu vô cùng cần thiết đó là khổ chế giác quan. Một khi đã khổ chế giác quan rồi mà vẫn thỉnh thoảng còn bị cái xấu bên ngoài lọt vào bên trong chúng ta vào một lúc nào đó thì nó cũng khó lòng chi phối chúng ta dễ dàng và mạnh mẽ như trước, bởi chúng ta đã cố ý tránh né nó rồi.

 

Chỉ có những tâm hồn Kitô hữu nào thực sự nhận biết mình vô cùng yếu đuối mới chịu khó và cẩn thận thực hành việc khổ chế khó khăn có vẻ cổ hủ này. Nhờ đó họ có thể giữ tâm hồn trong trắng và mới dễ dàng sống cuộc đời "vô tội", hay cùng lắm chỉ "vô tình" tác hành xấu xa một chút nào đó hay vào một lúc nào đó thôi. Nếu nhờ khổ chế, không tò mò nhìn những gì không thực sự cần thiết, không đọc hay xem những cái chẳng giúp ích mấy cho đời sống thiêng liêng, không nghe những gì khiến bản thân bị phân tâm, không đụng chạm hay để mình bị đụng chạm gây xúc cảm không tốt, cho dù bất lịch sự v.v. mà Kitô hữu có được một đời sống nội tâm và bình an thì phải công nhận họ là một con người khôn ngoan.

 

Sự khôn ngoan của Vua Salomon trong Bài Đọc I hôm nay được nữ hoàng Saba hết lời khen tặng: "Thật đúng như lời tôi nghe đồn trong xứ tôi về các công trình và sự khôn ngoan của ngài. Và lúc đó tôi không tin những điều người ta kể cho tôi, cho tới khi tôi đến đây, chính mắt tôi đã trông thấy, và tôi quả quyết rằng những điều đồn đại tôi nghe chưa bằng một phân nửa. Sự khôn ngoan và các công trình của ngài còn vĩ đại hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Phúc cho thần dân của ngài, và phúc cho các cận vệ của ngài, luôn luôn được ở trước mặt ngài và nghe lời khôn ngoan của ngài. Chúc tụng Thiên Chúa của ngài là Ðấng yêu thương ngài, và đặt ngài lên ngôi báu Israel. Vì Chúa yêu quý Israel muôn đời, nên đã đặt ngài làm vua, để ngài cai trị công minh chính trực".

 

Tuy nhiên, sự khôn ngoan của vua dầu sao cũng vẫn ở lãnh vực tự nhiên hơn siêu nhiên. Bởi thế mà sau này, cho dù có khôn ngoan trước mặt trần gian đến như thế, có thể nói vô tiền khoáng hậu như vậy, vua vẫn không khôn ngoan trước nhan Thiên Chúa, vẫn tỏ ra không khôn ngoan về đời sống đức tin và thiêng liêng, đến độ, như Bài Đọc I ngày mai cho thấy, vua đã trắng trợn ruồng bỏ chính Đấng đã ban cho vua sự khôn ngoan mà theo các thứ tà thần ngẫu tượng của thành phần thê thiếp của vua. Đó là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay mới nhấn mạnh đến khía cạnh đạo lý nơi tất cả những gì xuất phát từ "miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan": 

 

1) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động. Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ.

2) Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chánh. Luật Thiên Chúa ở trong lòng người, và bước chân người không xiêu té.

3) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.

 

 

 

Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 11, 4-13

"Bởi ngươi không giữ giao ước, Ta cất vương quốc khỏi ngươi; nhưng vì Ðavít thân phụ ngươi,Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai ngươi".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Khi vua Salomon đã về già, các bà vợ của ông mê hoặc lòng ông, kéo ông theo các thần dân ngoại, lòng ông không còn trọn vẹn với Chúa là Thiên Chúa của ông, như lòng Ðavít thân phụ ông. Salomon tôn thờ nữ thần Astarthê của dân Siđon, và thần Môlốc của dân Ammon. Và Salomon đã làm điều không đẹp lòng Chúa và không trọn niềm theo Chúa, như Ðavít thân phụ ông. Bấy giờ Salomon xây am trên núi đối diện với Giêrusalem cho Khanios, thần của dân Moab, và cho Môlốc, thần của dân Ammon. Ông cũng làm như thế cho tất cả các bà vợ ngoại bang của ông, để các bà dâng hương và tế lễ cho các thần của các bà. Vậy Chúa thịnh nộ với Salomon, vì tâm hồn ông đã bỏ Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng đã hiện ra với ông hai lần, và cấm ông không được chạy theo các thần khác, nhưng Salomon không tuân giữ điều Chúa truyền dạy ông.

Do đó, Chúa phán cùng Salomon rằng: "Bởi ngươi đã ăn ở như thế, và đã không tuân giữ giao ước và lề luật mà Ta đã truyền cho ngươi, Ta sẽ phân chia vương quốc của ngươi, và trao cho tôi tớ ngươi. Nhưng vì nể Ðavít, thân phụ ngươi, Ta sẽ không thi hành điều đó khi ngươi còn sống. Ta sẽ phân chia vương quốc ngươi ngay trên tay con của ngươi. Vì Ðavít, tôi tớ Ta, và vì Giêrusalem Ta đã tuyển chọn, Ta sẽ không lấy tất cả vương quốc: Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 3-4. 35-36. 37 và 40

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).

Xướng: 1) Phúc cho ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài; xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con. - Ðáp.

2) Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. - Ðáp.

3) Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sam 3,9

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 24-30

"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người.

Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.

Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó".

Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".

Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi".

Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.

Ðó là Lời Chúa.

Image result for Mark 7, 24-30

 

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần V Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan đến một đàn bà "dân ngoại", thuộc "dòng giống Syrôphênixi", ở "địa hạt Tyrô và Siđon" ngoài lãnh thổ dân Do Thái. Sở dĩ Chúa Giêsu đến vùng đất của dân ngoại này, không còn trong lãnh thổ dân Do Thái ấy, là vì "Người không muốn ai biết mình", khi Người "vào một nhà kia" ở đó. Người có ngờ đâu rằng, nói theo kiểu trần gian, danh tiếng của ngài, như bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần 2 Thường Niên đã lan khắp đất nước Do Thái, vượt cả ra ngoài biên cương bờ cõi của đất nước này nữa: "Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm".

 

Bởi thế, Người đã lọt vào tầm mắt theo dõi thật chuyên nghiệp trinh thám và lỗ tai nghe ngóng vô cùng thính thị của một người đàn bà dân ngoại chưa bao giờ gặp Người, như Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại: "Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người... xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà".

 

Thật là oái oăm và nghiệt ngã thay, nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét nào đó mà "bà nghe nói về Người", liên quan đến các phép lạ Người làm, đến quyền năng khu trừ ma quỉ của Người, đến giáo huấn khôn ngoan đầy thần lực của Người, nhất là đến tấm lòng khoan dung thương cảm dân chúng nói chung và những con người đang gặp gian nan khốn khó nói riêng, như trường hợp của bà, bấy giờ, sau khi bà tỏ thái độ "phục lạy Người" hết sức kính cẩn Người và tin tưởng vào Người, thì Người lại tỏ một thái độ quá ư là dị thường, một thái độ mà xét theo bình thường thật sự là hết sức khinh miệt kẻ khác (coi họ như chó má vậy), và là một thái độ kỳ thị chủng tộc (dân ngoại với dân Do Thái), như chính tai của bà đã nghe thấy "Người nói: 'Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó'".

 

Không ngờ, người đàn bà dân ngoại này, thành phần vốn bị dân Do Thái khinh miệt ấy, trước con mắt thế gian, tưởng rằng bà ta chắc chắn bị gục ngay tại chỗ bởi cái độc chiêu tàn bạo ấy, một độc chiêu đánh trúng ngay vào nhân phẩm cao quí và danh dự chủng tộc của bà, bà ta vẫn không hề hấn chi, trái lại, cũng không ngờ, bà ta lại có một nội công hết sức thâm hậu, đến độ chẳng những đã chịu đòn quá giỏi "Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, đúng thế...'", mà còn phản đòn một cách tuyệt diệu nữa: "Nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".

 

Đáng lẽ câu Chúa Giêsu khen tặng viên đại đội trưởng Roma là nhân vật đã đến xin Người chữa lành cho đứa đầy tớ nam người Do Thái đang yếu bệnh liệt giường ở nhà ông: "Tôi bảo thật cho các người biết Tôi chưa hế thấy ai trong Isarael có một đức tin mạnh như vậy" (Mathêu 8:10), cũng phải được Người nói về nữ cao thủ dân ngoại thuộc "dòng giống Syrôphênixi" này. Cả viên đại đội trưởng người Roma, lẫn người đàn bà xứ Sidon trong bài Phúc Âm hôm nay, đều được như ý nguyện nhờ lòng tin của họ, và phải nói là chính lòng tin của họ đã chữa lành và trừ quỉ, bởi Chúa Giêsu không hề đến nhà của họ, không trực tiếp gặp nạn nhân của họ, mà nạn nhân được họ thương vẫn được lành mạnh hay được trừ quỉ: "'Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi'. Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi". 

 

Dân ngoại cho dù bị dân Do Thái cho là thành phần ô uế xấu xa, so với họ là thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra cùng ban lề luật Thánh cho, tự dân ngoại, vẫn không xấu, nếu áp dụng nguyên tắc sạch dơ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm qua: từ ngoài vào không làm cho con người ra dơ bẩn mà là những cái từ trong chính con người mà ra. Chẳng hạn người đàn bà dân ngoại trong Bài Phúc Âm hôm nay có xấu đâu, trái lại, còn mạnh tin hơn chính dân Do Thái nữa. Bởi thế, nếu dân Do Thái không chấp nhận những tà thần ngẫu tượng của họ, những tà thần ngẫu tượng so với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái, thì các tà thần ngẫu tượng đó cũng chẳng làm gì được họ, cũng chẳng làm cho họ ra ô uế xấu xa đến độ bị Chúa ghê tởm ruồng bỏ như một Vua Salomon đầy vinh quang và khôn ngoan trần thế nhưng hoàn toàn bị mê hoặc mù quáng trong tâm hồn, như được Bài Đọc I hôm nay thuật lại:

 

"Khi vua Salomon đã về già, các bà vợ của ông mê hoặc lòng ông, kéo ông theo các thần dân ngoại, lòng ông không còn trọn vẹn với Chúa là Thiên Chúa của ông, như lòng Ðavít thân phụ ông. Salomon tôn thờ nữ thần Astarthê của dân Siđon, và thần Môlốc của dân Ammon. Và Salomon đã làm điều không đẹp lòng Chúa và không trọn niềm theo Chúa, như Ðavít thân phụ ông. Bấy giờ Salomon xây am trên núi đối diện với Giêrusalem cho Khanios, thần của dân Moab, và cho Môlốc, thần của dân Ammon. Ông cũng làm như thế cho tất cả các bà vợ ngoại bang của ông, để các bà dâng hương và tế lễ cho các thần của các bà. Vậy Chúa thịnh nộ với Salomon, vì tâm hồn ông đã bỏ Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng đã hiện ra với ông hai lần, và cấm ông không được chạy theo các thần khác, nhưng Salomon không tuân giữ điều Chúa truyền dạy ông. Do đó, Chúa phán cùng Salomon rằng: 'Bởi ngươi đã ăn ở như thế, và đã không tuân giữ giao ước và lề luật mà Ta đã truyền cho ngươi, Ta sẽ phân chia vương quốc của ngươi, và trao cho tôi tớ ngươi'".

 

Bài Đáp Ca hôm nay cũng nhận định rằng nếu dân Do Thái nói chung và con người nói riêng không để cho cái xấu từ bên ngoài vào, theo phương cách khôn ngoan khổ chế được chia sẻ hôm qua, thì chẳng có tà thần ngẫu tượng nào có thể làm chủ mình, như trường hợp của Vua Salomon trong Bài Đọc I hôm nay:

 

2) Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ.

3) Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Ngài.

 

Đó là lý do câu đầu tiên của Bài Đáp Ca hôm nay mới cho biết ai là người có phúc và nguyện xin rằng:

 

1) Phúc cho ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài; xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con.

 



Thánh Giêrônimô Emiliani và Thánh Josephine Bakhita Trinh Nữ

8/2

 

 

8 Tháng Hai
Thánh Giêrôme Emiliani
(1481 - 1537)





Năm 1528, người miền bắc Ý phải trải qua một nạn đói thê thảm do sự bóc lột của bọn quân phiệt Tây Ban Nha. Quay lại cuốn phim cảnh đói khổ của đồng bào họ, trong đầu óc người dân Ý không một ai mà không phải rùng mình kinh sợ. Những phần đất đai trù phú nhất cũng hoá hoang vu, nơi hoành hành của từng bầy sói đói. Từ năm 1528 cơn đói đã lên tới tột độ. Dân chúng trước đây vẫn không quen ăn thịt chó, mèo, chuột, nay coi đó như những món cao lương mỹ vị. Những con người sống giở chết giở vì đói lũ lượt kéo về thành Vênêtia (Venise) khiến ở đây cũng bị đói lây. Bên những bàn tay thực dân bóc lột, trước những cùng cực khốn khổ đó, người ta thấy không thiếu những bàn tay anh hùng, quảng đại, bác ái và hăng hái hoạt động, đã giang rộng ra để đón tiếp, nâng đỡ và xoa dịu những nhịp đập cồn cào của bao tử rỗng tuếch. Trong số những vị anh hùng ân nhân của nhân loại đó, phải kể vào hàng đầu, con người quý phái của thành Vênêtia là Giêrônimô Êmilianô mà chính tên theo tiếng ý là Girolamo Miani.
Phải chăng con người có đức bác ái anh hùng đó sinh ra đã sẵn có một nếp sống như thế, hay cũng đã phải ba chìm bẩy nổi rồi mới được như thế? Cứ nhìn vào con người thánh Inhaxiô vị sáng lập Dòng Tên, chúng ta đã có một câu trả lời khá đầy đủ rõ rệt.
Vênêtia, thuộc Ý, về mạn đông bắc, trên bờ biển Adriatica, là một thành phố thơ mộng “bồng bềnh” giữa làn nước biếc. Năm 1481, Vênêtia hân hạnh được đón nhận một em bé chào đời, em bé đó mai ngày sẽ là vinh dự cho Vênêtia nói riêng và cho Giáo hội Công giáo nói chung: Girolamo Miani hay Giêrônimô Êmilianô.
Lớn lên, Êmilianô gia nhập quân đội như Inhaxiô. Nhưng Inhaxiô luôn sống trong trật tự với một tinh thần kiêu hãnh sẵn có trong huyết thống Tây Ban Nha; còn Êmilianô có thể nói được lại sống thời thanh xuân bạt tử, hiếu chiến và vui chơi như bao quân nhân đồng thời đồng hương của ngài.
Khi còn là một sĩ quan đầy tự tin và khô đạo, chỉ huy một pháo đài của thành phố Venice, Giêrôme Emiliani bị bắt sau vụ tấn công của địch thủ là Liên Minh Cambrai, quân bảo hoàng của thành Castelnôvô gần Trêvi (Trévise) ngài bị bắt và bị xiềng xích. và bị nhốt trong một tháp canh. Chính trong thời gian tù đầy này, Giêrôme đã có thời giờ suy nghĩ, và ngài quyết định thoát khỏi xiềng xích ràng buộc chính mình. Ngài khước từ mọi quyến luyến của thế gian và trở về với Thiên Chúa.
 
Sau khi vượt thoát ngục tù, ngài treo xiềng xích ở nhà thờ Treviso gần đó - như để nói lên lòng biết ơn đã được tự do không những về phần xác mà còn được giải thoát phần tinh thần.

Nhân bị chiến thương mà đã xoay hẳn lại cuộc đời. Và cũng như Inhaxiô, Êmilianô vừa được Đức Mẹ cứu một cách lạ, liền đến tạ ơn Đức Mẹ thành Trêvi mà dân thành Vênêtia rất sùng mộ, và quyết tâm hiến thân phụng sự Người. Để chuộc lại quãng đời quá khứ không tốt đẹp mấy, ngài hằng ra sức thống hối và thực hành bác ái. Ngài thường nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu nhân từ, xin hãy đối xử với con như vị cứu tinh của con, chứ đừng như vị quan án công thẳng”.
Ít lâu sau Êmilianô được thăng làm thị trưởng thành phố Castelnuôvô một thời gian. Nhưng ngài đã không màng tưởng công danh, ngài lui về Vênêtia, chuyên cần giáo huấn các cháu và lo tự trau dồi học thức chuẩn bị chịu chức linh mục. Năm 1518, ngài thụ phong linh mục và từ đó tận hiến hoàn toàn cho công cuộc bác ái và kết thân với Gioan Phêrô Carapha Giám mục thành Kiêti đồng thời nhận Carapha làm cha linh hướng.
Năm 1528 một năm đói kém khủng hoảng, như đã nói trên, lại thêm bệnh truyền nhiễm lan tràn đó đây khiến tử thần càng thêm lộng hành dữ dội. Người chết đầy đường không ai chôn cất. Cha Êmilianô bán tất cả đồ đạc của ngài để cứu trợ những người đồng hương khốn khổ, đêm đêm ngài đi lượm xác chết đem chôn táng cẩn thận. Vì quá tận tâm ngài đã bị lây bệnh và cơn bệnh đã nên một dịp tập luyện rất tốt cho cuộc đời trọn lành của ngài. Được khỏi bệnh, cha bán hết mọi của tư hữu, để hoà mình hoàn toàn với những kẻ đói nghèo mà ngài yêu mến; ngài ăn vận như những người ăn mày. Nhất là khi thấy từng bầy trẻ mồ côi, vất vưởng, không ai màng đến, ngài thu tập chúng lại, lập thành cô nhi viện tại San Rocco. Ở đây ngài lo săn sóc chúng hồn xác. Ngài thật là một nhà dậy giáo lý nhiệt thành, có biệt tài về cách dậy giáo lý theo phương pháp đối thoại, đồng thời cha chăm lo dậy thủ công cho chúng. Nhờ đó ngay từ thiếu thời, chúng đã quen chịu khó để không ăn bám vào người khác như lời người cha hiền của chúng thường nhắc nhủ chúng: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, cũng như thánh Phaolô xưa thường khuyên nhủ giáo đoàn Texalonica rằng: “Ai không làm thì không được ăn” (2 Tx 3, 11)
Lòng bác ái của cha Êmilianô thực như nước triều dâng; dâng qua miền bãi biển Vênêtia, rồi tràn vào mãi trong nội địa các thị trấn Brescia, Bergame và cả Milanô nữa. Ở Brescia và Bergame ngài thiết lập nhiều cô nhi viện. Riêng ở Bergamô ngài còn lập một nhà cải huấn những thiếu nữ trụy lạc để đưa họ về đường ngay nẻo chính. Ngài còn lo khuếch trương chương trình hoạt động của mình bằng cách giáo huấn dân chúng nông thôn, săn sóc bệnh nhân. Có nhiều linh mục ưu tú và giáo dân sốt sắng cộng tác với ngài. Nhờ thế mà ngài thành lập được một tu hội, trước hết chuyên lo điều khiển các cô nhi viện do ngài sáng lập, sau đó lo cho cả những kẻ khốn khó, những người nghèo nàn, đau yếu, dốt nát. Nhân việc đặt trụ sở tại Somasca gần Bergamô năm 1532 mà dòng ngài lập mang tên là dòng Somasca và được Đức Giáo Hoàng Phaolô III chấp nhận với sắc lệnh đề ngày 05-07-1540.
Vì quá nhiệt tâm với những con bệnh dịch tễ, nên cha đã lây bệnh mà chết tại Somasca ngày 08-02-1537. Chết đi ngài không kịp chỉ ai nối vị. Vì thế các bạn ngài theo thói quen như cha vẫn làm là hỏi ý kiến nơi Carapha, bấy giờ là Hồng Y và là vị sáng lập dòng Têatinh (Théatinh). Các ngài muốn sát nhập vào dòng Têatinh và Đức Giáo Hoàng uỷ thác công việc cứu xét ý định ấy cho Đức Hồng Y Carapha. Sau bao cuộc thăm dò ý kiến đôi bên, Đức Hồng Y Carapha quyết định ưng chuẩn và được Đức Giáo Hoàng chấp thuận ngày 08-10-1546. Nhưng thực ra mãi năm 1547 mới sát nhập thực sự. Đến năm 1555 hai dòng lại tách ra và năm 1565 các tu sĩ Somasca mới có nhà chính ở nhà thờ thánh Mayô. Pavia lại đứng ra lập thành một dòng riêng biệt lấy tên là dòng “Các Giáo sĩ dòng thánh Mayơ đệ Pavia”. Dòng này hiện nay có mười nhà và tất cả đều ở trên đất Ý.

Nhân loại vẫn chưa hết sự bóc lột đói khổ, bệnh tật… Nhân loại đang chờ đợi kêu gào những bàn tay bác ái lăn xả vào mà nâng đỡ những cơ cực của họ. Chúng ta hãy noi theo tinh thần thánh Êmilianô, biết quên mình phụng sự cho hạnh phúc nhân loại, hầu làm cho đời sống của những người xung quanh ta được bớt phần đau khổ và cay cực một phần nào. Hãy rộng tay ban phát cho kẻ nghèo khó thì sẽ được Chúa thương và trả gấp lại trăm.
Xiềng xích cuối cùng của Cha Giêrôme được tháo bỏ là khi ngài lâm bệnh vì chăm sóc bệnh nhân. Ngài từ trần năm 1537 hưởng thọ 56 tuổi.
 
Ngài được phong Thánh năm 1767, và năm 1928, Ðức Piô XI đặt ngài làm quan thầy các trẻ mồ côi và các em bị bỏ rơi.
 
Lời Bàn
Trong cuộc đời chúng ta, nhiều khi phải tự "giam hãm" mình để thoát khỏi xiềng xích của cái tôi. Khi chúng ta bị "kẹt" trong những trường hợp mà mình không muốn, lúc đó chúng ta mới nhận ra sức mạnh giải thoát của một Ðấng khác. Và chỉ lúc ấy chúng ta mới có thể trở nên một người khác cho những "kẻ tù đầy" và các em "cô nhi" chung quanh chúng ta.
 
Lời Trích
"'Cha của các em cô nhi và người bảo vệ các bà goá là Thiên Chúa trong sự hiện diện thánh thiêng của Ngài. 'Thiên Chúa ban nơi trú ngụ cho những kẻ bị bỏ rơi; Ngài dẫn các tù nhân đến chỗ thành công; chỉ kẻ phản loạn mới phải ở trong phần đất khô khan' (TV 68). Chúng ta không thể quên đi số người ngày càng gia tăng vì bị gia đình và cộng đồng bỏ rơi: đó là người già, trẻ cô nhi, người đau yếu và những người bị tẩy chay. Chúng ta phải chuẩn bị để lãnh nhận nhiệm vụ mới và chức năng mới trong mọi sinh hoạt của con người, và nhất là trong tổ chức xã hội, nếu thực sự muốn thể hiện sự công bằng. Trên tất cả, hành động của chúng ta phải nhắm đến những người và những quốc gia mà, vì những hình thức đàn áp và vì yếu tính của xã hội, họ không có tiếng nói và là nạn nhân của sự bất công" (Sự Công Bằng Trong Thế Giới, Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới 1971).


http://www.sudiepchuaden.com/2018/02/thanh-gierome-emiliani.html 
và Người Tín Hữu (mầu nâu)

THÁNH JOSÉPHINE BAKHITA

Có một cô bé người dân tộc Châu Phi đang sống an vui hạnh phúc với gia đình ở một miền rừng thì bị bọn buôn người từ miền xuôi đến bắt cóc. Lúc đó em mới mười tuổi thôi. Em nói một thứ tiếng mà bọn buôn người không thể hiểu được nên chúng tự tiện đặt tên em là Duyên May (Bakhita), ra chiều em sa vào tay bọn chúng là một may mắn cho em vì em được theo chúng về thành phố sống. Chúng hành hạ em đủ trò, từ tinh thần đến thể chất. Lúc nào chúng cũng lấy xích sắt tròng vào cổ em. Sau khi chán chê, chúng mang em ra chợ, bán em làm con ở cho một tay nhà giầu. Tay này, sau khi lấy được cái gì hắn có thể, cũng chán em nốt và sang em lại cho một tay khác.

Sau cùng, may mắn cũng đến với em vì em được một người công giáo tử tế bỏ tiền ra mua, mang em về nhà sống chung với gia đình ông một thời gian. Sau đó ông này dọn nhà đi về quê và muốn trả tự do cho em. Nhưng nay em tứ cố vô thân, còn biết đi đây nữa, nên em xin ông mang em theo. Quê ông là một xứ công giáo, mọi người đều tốt với em, em được sống hạnh phúc.

Đúng thế, khi vị lãnh sự trở về Ý vì lý do chính trị thì Bakhita cũng xin tháp tùng gia đình ông. Mặc dù sau đó cô tiếp tục làm công cho một gia đình khác, cuộc đời Bakhita ở Ý là một cuộc đời hạnh phúc. Cô được đối xử tử tế và được tôn trọng.

Cô cũng làm quen với các nữ tu dòng Bác Ái Canossa ở Venice; chính họ là những người đã nói với cô về Thiên Chúa là Ðấng mà tự nhiên cô bị thu hút đến với Người. Sau nhiều tháng học hỏi, cô được tháp nhập vào Giáo Hội qua các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Rước Lễ. Cô lấy tên mới là Josephine để đánh dấu một cuộc đời mới trong Ðức Kitô.

 

Vài năm sau Josephine gia nhập tu viện Bác Ái Canossa ở Venice. Trong 50 năm tiếp đó, cô là một nữ tu nổi tiếng về đạo đức và công việc bác ái. Trong suốt cuộc đời tu trì, sơ Josephine đảm trách các công việc rất tầm thường nhưng cần thiết cho nhà dòng - nấu ăn, may vá, giữ cửa tu viện ở Schio, gần Padua. Thái độ hiền lành, hòa nhã và giọng nói êm ả của sơ là sự an ủi cho những người nghèo và người đau khổ thường đến với nhà dòng xin giúp đỡ.
 
Mặc dù tuổi tác đem lại sức khỏe yếu kém, sơ Josephine vẫn là một nhân chứng của hy vọng và thiện tâm. Trong những giờ phút cuối đời, dường như sơ sống lại những ngày kinh hoàng của đời nô lệ. Người ta nghe sơ rên rỉ nói người y tá rằng "Làm ơn nới lỏng cái xích sắt ấy một chút... nó nặng quá!"
 
Sơ được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1992. Vào năm kế đó, khi Ðức Thánh Cha thực hiện cuộc tông du sang Phi Châu, mẹ bề trên dòng Canossa đã dâng lên ngài các di tích của Chân Phước Josephine. Trong bài giảng, Đức giáo hoàng nói: "Hãy vui lên, hỡi tất cả Phi Châu! Bakhita đã trở lại với ngươi: ngài là con gái của Sudan, bị bán làm nô lệ như một món hàng, tuy thế ngài vẫn tự do: tự do của các thánh".
 
Vào tháng Mười 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài.
 
Lời Trích
"Khi nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú, tôi tự nhủ: 'Ai có thể là Chủ Nhân của những vật mỹ miều ấy?' Tôi vô cùng khát khao để thấy Người, để biết Người và để thần phục Người" (Chân Phước Josephine Bakhita).
 

 

Người Tín Hữu / Theo Vết Chân Người và http://giaophanvinhlong.net/thanh-bakhita-josephine.html


 

 

 

Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 11, 29-32; 12, 19

"Israel lìa bỏ nhà Ðavít".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Khi ấy, Giêroboam từ Giêrusalem đi ra, thì tiên tri Ahia, người Silô mặc áo choàng mới, gặp ông dọc đường. Lúc đó chỉ có hai người ở ngoài đồng. Ahia cầm lấy áo choàng mới ông đang mặc, xé ra làm mười hai phần và nói với Giêroboam rằng: "Ông hãy cầm lấy mười phần cho ông, vì Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này: 'Ðây, Ta sẽ phân chia vương quốc từ tay Salomon, và Ta sẽ cho ngươi mười chi tộc. Vì Ðavít tôi tớ Ta, và vì thành Giêrusalem mà Ta đã lựa chọn trong mọi chi tộc Israel, Ta sẽ dành cho Salomon một chi tộc' ". Như thế, Israel lìa bỏ nhà Ðavít cho đến ngày nay.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 80, 10-11ab. 12-13. 14-15

Ðáp: Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, ngươi hãy nghe Ta răn bảo (c. 11a & 9a).

Xướng: 1) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập. - Ðáp.

2) Nhưng dân tộc của Ta chẳng có nghe lời Ta, Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.

3) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở: thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay! - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin dạy bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 31-37

"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.

Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.

Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.

Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng.

Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.

Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn.

Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Ðó là Lời Chúa.





 

 

Suy nghiệm Lời Chúa




Phải, trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Thường Niện Hậu Giáng Sinh, đề tài "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho thời điểm phụng niên này vẫn được tỏ hiện ở câu cuối cùng được Thánh ký Marco ghi nhận như sau: "Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: 'Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được'".

 

Đúng thế, "ân sủng và chân lý" nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha" là Chúa Giêsu Kitô này được dịp tỏ hiện ra ở những nỗi khốn cùng và bất lực của con người đáng thương, nhưng qua nhân tính của Người, một nhân tính đã được ngôi hiệp (hypostatic union) với thân tính để trở thành dấu chỉ hiện diện thần linh của Thiên Chúa, thành phương tiện tỏ mình ra của Thần Tính Chúa Kitô và thành bí tích thông ban sự sống của Thánh Linh là Đấng ban sự sống.

Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco đã ghi nhận từng cử chỉ Chúa Giêsu thực hiện trong việc chữa lành cho một nam nạn nhân bị điếc, những cử chỉ được diễn tiến theo một tiến trình có vẻ phức tạp làm sao ấy, không đơn giản như trường hợp Người chẳng cần gặp mặt nạn nhân thì nạn nhân cũng được chữa lành hay được trừ quỉ, như trường hợp đứa con gái bị quỉ ám của người đàn bà dân ngoại xứ Sidon trong bài Phúc Âm hôm qua.

Trong trường hợp chữa lành cho một nạn nhân chỉ bị điếc này, một tật nguyền không trầm trọng bằng bại liệt hay bị quỉ ám, thế mà Chúa Giêsu đã phải làm 5 cử chỉ liền, theo đúng thứ tự thủ tục Người cố ý làm, như được thuật lại như sau: "Người đem anh ta ra khỏi đám đông (1), đặt ngón tay vào tai anh (2) và bôi nước miếng vào lưỡi anh (3). Ðoạn ngước mắt lên trời (4), Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra' (5), tức thì tai anh được sõi sàng".

Chi tiết đầu tiên cần lưu ý ở đây là nạn nhân bị điếc này có thể bị từ bẩm sinh, nên cũng chẳng nói được, vì không nghe được từ khi mới sinh. Phải chăng vì thế mà trong nghi thức chữa lành cho nam nạn nhân bị câm điếc này, Chúa Giêsu mới kèm thêm cả cử chỉ "bôi nước miếng vào lưỡi anh", và sau khi nạn nhân được Chúa Giêsu chữa lành, thì Thánh ký Marco đã sử dụng động từ hợp với nạn nhân bị tật câm hơn bị tật điếc: "tức thì tai anh được sõi sàng" theo bản dịch Việt ngữ chúng ta trích dẫn ở đây. Nghĩa là nạn nhân có thể mở miệng ra nói một cách "sõi sàng", chứ Việt ngữ đâu bao giờ nói "tai anh được sõi sàng", một giác quan liên quan đến thính giác được chữa lành đúng ra phải nói "tai anh nghe được rõ ràng".

Không biết bản dịch Việt ngữ này dịch theo nguồn nào, nhưng theo bản dịch Anh ngữ của The New American Bible được chuyển dịch từ nguyên ngữ Thánh Kinh và được phát hành từ năm 1970, theo chiều hướng canh tân phụng vụ sau Công Đồng Chung Vaticanô II (1962-1965), thì nguyên văn của câu "tức thì tai anh được sõi sàng" ở Việt ngữ bên Anh ngữ dài dòng hơn và rõ ràng hợp lý hơn như thế này: "At once, the man's ears were opened, he was freed from the impediment and began to speak plainly", nghĩa là: "tức thì tai của người này được mở ra, anh được thoát khỏi trở ngại và bắt đầu nói năng sõi sàng" (những chữ được cố ý gạch dưới cho thấy chúng giống như ở câu dịch quá vắn gọn trong bài Phúc Âm hôm nay).


Về thể lý và phương diện tự nhiên, tật nguyền câm điếc chỉ là một tật nguyền tương đối nhẹ, so với các tật nguyền khác như phong cùi, bại liệt, quỉ ám v.v., nhưng về mặt siêu nhiên thì lại là một tật nguyền rất ư là trầm trọng, liên quan chẳng những đến đức tin cứu độ (tai nghe) mà còn đến sứ vụ rao giảng (miệng nói) làm chứng cho đức tin nữa, như vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã khẳng định: "'Hết mọi người kêu danh Chúa đều được cứu độ'. Vậy làm sao họ có thể kêu lên Đấng mà họ không tin tưởng được chứ? Mà họ làm sao có thể tin vào Đấng mà họ không hề nghe nói đến? Và làm sao họ có thể nghe nói đến mà lại không có ai rao giảng? Rồi làm sao con người rao giảng nếu không được sai đi?" (Roma 10:13-15).

Đó là lý do, tiến trình thực hiện việc chữa lành cho nam nạn nhân câm điếc này Chúa Giêsu đã bao gồm những cử chỉ thiết yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly như sau:

1- "Người đem anh ta ra khỏi đám đông":
vì đức tin là một cảm nghiệm thần linh cá biệt giữa bản thân của từng con người với Đấng muốn mạc khải tỏ mình ra cho họ, Đấng chỉ muốn mạc khải cho từng người những gì Ngài thấy thật là thích hợp với hoàn cảnh, thân phận và ơn gọi của những ai Ngài thấy cần và đến thời điểm của Ngài - "những gì các con nghe một cách âm thầm thì hãy rao giảng trên mái nhà" (Mathêu 10:27).

2-3. "Đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh": "Ngón tay"
(Luca 11:20) được Chúa Giêsu cố ý sử dụng để chữa lành trong trường hợp nạn nhân câm điếc này đây ám chỉ "Thánh Linh" (Mathêu 12:28), Đấng mà không có Ngài thì dù con người có tai đó cũng chẳng nghe thấy gì và chẳng hiểu gì lời Chúa (xem Mathêu 13:13-14), và có miệng lưỡi đó cũng chẳng thể làm chứng cho Phúc Âm, nhất là khi bị điệu ra trước quyến lực bách hại của trần gian (xem Mathêu 10:19-20).

4-5. "Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra', tức thì tai anh được sõi sàng":
Tác động Chúa Giêsu "ngước mắt lên trời" đây cho thấy Người hướng về Cha của Người (xem Mathêu 11:25-27) mà than lên cùng Cha của Người ("emitted a groan" theo bản dịch Anh ngữ, hơn là "thở dài" theo bản dịch Việt ngữ có vẻ chán nản làm sao ấy), để Người nhân danh Cha mà chữa lành cho nạn nhân câm điếc ấy bằng việc mạc khải về Cha cho nạn nhân qua chính bản thân của Người: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha... không biết Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho".

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, sự kiện "tiên tri Ahia" gặp "Giêroboam từ Giêrusalem đi ra" ở "dọc đường" và "ở ngoài đồng", để rồi "chỉ có hai người", vì sự kiện này liên quan đến một biến cố lịch sử trọng đại của dân Do Thái không ai ngờ, thì bấy giờ "Ahia cầm lấy áo choàng mới ông đang mặc, xé ra làm mười hai phần và nói với Giêroboam rằng: 'Ông hãy cầm lấy mười phần cho ông, vì Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này: Ðây, Ta sẽ phân chia vương quốc từ tay Salomon, và Ta sẽ cho ngươi mười chi tộc. Vì Ðavít tôi tớ Ta, và vì thành Giêrusalem mà Ta đã lựa chọn trong mọi chi tộc Israel, Ta sẽ dành cho Salomon một chi tộc'. Như thế, Israel lìa bỏ nhà Ðavít cho đến ngày nay".

Sở dĩ xẩy ra "sự cố" bất ngờ và tai hại này trong lịch sử của Dân Do Thái là vì hậu quả của triều đại Vua Salomon, như đã được chính Chúa là Đấng đã ban cho vị vua này giầu sang phú quí và khôn ngoan hơn ai hết trên trần gian này nhưng chính vua lại trở thành cuồng dại đến độ Chúa đã phải cảnh báo vua 2 lần trước khi Ngài dứt khoát quyết định thực hiện những gì Ngài phán cùng vua như được ghi lại trong Bài Đọc I hôm qua như thế này: "Bởi ngươi đã ăn ở như thế, và đã không tuân giữ giao ước và lề luật mà Ta đã truyền cho ngươi, Ta sẽ phân chia vương quốc của ngươi, và trao cho tôi tớ ngươi".

Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay đã âm vang tiếng của Thiên Chúa khuyên dạy con người nói chung, "hãy nghe Ta răn bảo", nhất là những ai cứng lòng như Vua Salomon, có tai mà như điếc, đến độ trở thành câm, không dám lên tiếng ngăn cấm tà thần ngẫu tượng của cả ngàn thê thiếp vua chấp nhận theo xác thịt, một con người câm điếc, có thể nói tiêu biểu nhất cho dân Chúa, một dân tộc bị câm điếc trầm trọng, cần phải được chữa lành như nam nạn nhân câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay, một dân tộc dù sao vẫn được Ngài yêu thương và liên lỉ nhắc nhở và kêu gọi họ qua các vị tiên tri, hay qua chính Thánh Vịnh ở Bài Đáp Ca hôm nay:


1) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập.

2) Nhưng dân tộc của Ta chẳng có nghe lời Ta, Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích.

3) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở: thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay!

 


 

 

 

Thứ Bảy

 

 

(Hôm nay là ngày 10/3/2024, trùng vào Ngày Mùng 1 Tết Nguyên Đán âm lịch,

nên Giáo Hội ở Việt Nam và các cộng đồng Công Giáo Vn Hải ngoại dâng Lễ Đầu Năm,

như ở sau phần PVLC cho Thứ Bảy này cũng như sau phần về Thánh Scholastica ngày 10/2 cùng ngày Tết VN)

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 12, 26-32; 13, 33-34

"Giêroboam đúc hai con bò vàng".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Giêroboam nói trong lòng rằng: "Giờ đây vương quốc sẽ trở về với nhà Ðavít; nếu dân này lên Giêrusalem để tế lễ trong nhà Chúa, thì lòng dân này sẽ quy thuận với chủ mình là Roboam, vua xứ Giuđa; họ sẽ giết ta và trở về với Roboam". Bấy giờ, ông triệu tập hội nghị và đúc hai con bò vàng, ông nói với dân chúng rằng: "Các ngươi không cần phải lên Giêrusalem nữa. Hỡi Israel, đây những vị thần minh đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Ông đặt một con bò vàng ở Bêthel và một con ở Ðan. Việc đó là dịp tội cho dân Israel, vì dân chúng lên tận Ðan để thờ con bò vàng. Ông còn xây chùa miếu trên những nơi cao, đặt các người trong dân làm tư tế, họ không phải là con cháu Lêvi. Ông chọn ngày rằm tháng tám là ngày lễ trọng, giống như lễ trọng thường cử hành trong xứ Giuđa. Ông lên bàn thờ để tế những tượng bò mà ông đã đúc, ông làm như thế ở Bêthel; cũng tại Bêthel, ông đã thiết lập hàng tư tế trong các chùa miếu mà ông đã xây cất trên những nơi cao.

Sau các sự việc đó, Giêroboam chẳng những không dứt bỏ đàng tội lỗi, mà trái lại ông còn tiếp tục đặt ở những nơi cao hàng tư tế chọn trong dân chúng. Do đó, nhà Giêroboam phạm tội, bị lật đổ và xoá khỏi mặt đất.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 6-7a. 19-20. 21-22.

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).

Xướng: 1) Chúng tôi đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng tôi, chúng tôi đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng tôi, khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa. - Ðáp.

2) Dân chúng đã đúc con bò tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.

3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv. 94, 8ab

Alleluia, alleluia - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8,1-10

"Họ ăn no nê".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến".

Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".

Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?"

Các ông thưa: "Có bảy chiếc".

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.

Các ông chia cho dân chúng.

Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.

Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.

Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.

Số người ăn độ chừng bốn ngàn.

Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.

Ðó là Lời Chúa.

 

Related image

 

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

ĐỨC KITÔ - HÓA BÁNH RA NHIỀU

 

Theo bộ Phúc Âm Nhất Lãm thì Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa ra nhiều 2 lần. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Chính việc Người hóa bánh ra nhiều bởi lòng thương xót của Người với dân chúng cũng chứng thực Ngưòi thực sự là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", hợp với chủ đề cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh mà hôm nay là Thứ Bảy trong Tuần Thứ V.

 

Đúng thế, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này không phải chỉ tỏ mình ra qua việc Người "đầy ân sủng" ở chỗ chữa lành bệnh tật và khu trừ ma quỉ cho dân chúng, mà còn "đầy chân lý" ở chỗ giảng dạy chung dân chúng với tất cả quyền uy và thế giá của mình, cũng như ở chỗ soi lòng mở trí cho thành phần trí thức và quyền hành trong dân, như nhóm biệt phái và luật sĩ, kỳ lão và tư tế, mỗi khi họ theo dõi Người để đặt vấn đề với Người và để bắt bẻ Người.

 

Qua bài Phúc Âm hôm nay, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" ấy còn tỏ ra mình "đầy ân sủng" ở chỗ Người quan tâm đến cả nhu cầu ăn uống căn bản bất khả thiếu của dân chúng bằng việc hóa bánh ra nhiều nữa; trong khi đó, các môn đệ của Người hầu như chẳng ai để ý gì hết, hay có để ý đi nữa cũng không biết làm sao có thể đáp ứng nhu cầu của dân chúng; nếu các vị thật s quan tâm thì tại sao các vị không tự động đến thân thưa cùng Thày mình, như trường hợp Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana: "Họ hết rượu rồi" (Gioan 2:3)?

 

Chúa Giêsu tự biết Người phải làm gì, nhưng Người muốn bao gồm cả phần của những ai theo Người nữa, thành phần đã được Người tuyển chọn để thay thế Người chăm sóc đoàn chiên của Người sau này. Trước hết bằng việc tỏ cho họ thấy mối quan tâm thương cảm dân chúng của Người: "Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: 'Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến'".

 

Sau nữa, Người muốn chính các môn đệ của Người phải cộng tác với Người, bằng việc đóng góp một chút gì đó họ có, để chính Người biến một chút đóng góp của các vị ấy tăng lên gấp bội, đủ để đáp ứng nhu cầu của dân chúng bấy giờ: "Các môn đệ thưa: 'Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no'. Và người hỏi các ông: 'Các con có bao nhiêu bánh?' Các ông thưa: 'Có bảy chiếc'.... Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ". Theo tự nhiên thì "bảy chiếc bánh" và "mấy con cá nhỏ" của các môn đệ chẳng thấm thía vào đâu với con "số người ăn độ chừng bốn ngàn". Thế nhưng, cho đến bấy giờ các vị vẫn chưa nghĩ được rằng Thày của các vị chỉ cần một chút ấy thôi vẫn có thể làm no thỏa số dân chúng ấy.

 

Sau hết, Người chẳng những muốn các môn đệ đóng góp vào việc Người làm, bằng tất cả những gì họ có, dù chỉ một chút xíu, dù chẳng là bao nhiêu, miễn là có thế thôi, mà còn làm thừa tác viên ban phát "ân sủng" của Người cho dân chúng nữa, vì sau này các vị chính là thừa tác viên ban phát mầu nhiệm thánh qua các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Đó là lý do Phúc Âm cho thấy, sau khi "Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra" thì chính Người không đích thân đi phân phát, mà "trao cho các môn đệ phân phát". Cả "mấy con cá nhỏ" cũng thế: "Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát". Kết quả tốt đẹp đó là: "Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng".

 

Chi tiết "người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng" càng cho thấy "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Đấng ban ân sủng cho con người còn hơn cả mức độ họ cần, vì Người là "mục tử nhân lành đến cho chiên (chẳng những) được sự sống (mà còn là) một sự sống viên mãn" nữa (Gioan 10:10). Khi con người mới được Thiên Chúa tạo dựng nên, còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, chưa biết đến tội lỗi là gì, bấy giờ họ mới có "sự sống" nhưng vẫn chưa phải là "sự sống viên mãn", cho tới khi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).

 

Nếu không có "sự sống" và là "sự sống viên mãn" thì, như các Bài Đọc I cho ngày Thứ Tư và Thứ Sáu Tuần II Thường Niên ghi nhận, dù là Thánh Vương Đavít, một con người đầy lòng tin tưởng vào Chúa (điển hình là trận đấu với viên tướng vô đối thủ Goliat người Philitinh) và bác ái với địch thù của mình (điển hình là Vua Saolê tìm sát hại chàng nhưng chàng vẫn tha chết cho 2 lần), cũng có lúc sa ngã nặng nề với tội ngoại tình kèm theo cả tội sát nhân, như Bài Đọc I Thứ Sáu Tuần III Thường Niên cho thấy, hay tệ hơn nữa là Salomon, một vị vua, như Bài Đọc I cho Thứ Tư và Thứ Năm tuần này cho thầy, khôn ngoan đệ nhất thiên hạ nhưng vẫn bị tà thần ngẫu tượng của dân ngoại làm mê hoặc đến cố chấp ruồng bỏ Thiên Chúa.

 

Thậm chí càng tệ hơn nữa, hơn ai hết và hơn bao giờ hết, là nhân vật Giêroboam trong Bài Đọc I hôm nay, một con người được Thiên Chúa nhưng không bất ngờ chọn làm vua 10 chi tộc Israel, như Bài Đọc I hôm qua cho thấy, mà vẫn chẳng những tỏ ra vô ơn bội nghĩa với Chúa lại còn âm mưu phản lại Ngài một cách trắng trợn, như thể ông ta là chúa tể chứ không phải là Đấng đã chọn ông, chỉ vì ông ta muốn "sự sống dồi dào" một cách chủ quan và vị kỷ, nhưng lại là những gì hủy diệt chính bản thân ông cùng với tất cả triều đại của ông. Ở chỗ, như Bài Đọc I hôm nay rõ ràng ghi thuật:

 

"Trong những ngày ấy, Giêroboam nói trong lòng rằng: 'Giờ đây vương quốc sẽ trở về với nhà Ðavít; nếu dân này lên Giêrusalem để tế lễ trong nhà Chúa, thì lòng dân này sẽ quy thuận với chủ mình là Roboam, vua xứ Giuđa; họ sẽ giết ta và trở về với Roboam'. Bấy giờ, ông triệu tập hội nghị và đúc hai con bò vàng, ông nói với dân chúng rằng: 'Các ngươi không cần phải lên Giêrusalem nữa. Hỡi Israel, đây những vị thần minh đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập'. Ông đặt một con bò vàng ở Bêthel và một con ở Ðan. Việc đó là dịp tội cho dân Israel, vì dân chúng lên tận Ðan để thờ con bò vàng. Ông còn xây chùa miếu trên những nơi cao, đặt các người trong dân làm tư tế, họ không phải là con cháu Lêvi. Ông chọn ngày rằm tháng tám là ngày lễ trọng, giống như lễ trọng thường cử hành trong xứ Giuđa. Ông lên bàn thờ để tế những tượng bò mà ông đã đúc, ông làm như thế ở Bêthel; cũng tại Bêthel, ông đã thiết lập hàng tư tế trong các chùa miếu mà ông đã xây cất trên những nơi cao. Sau các sự việc đó, Giêroboam chẳng những không dứt bỏ đàng tội lỗi, mà trái lại ông còn tiếp tục đặt ở những nơi cao hàng tư tế chọn trong dân chúng. Do đó, nhà Giêroboam phạm tội, bị lật đổ và xoá khỏi mặt đất".

 

Tuy nhiên, như tình trạng đói khổ về phần xác của dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay còn được Chúa Giêsu động lòng thương đáp ứng cho họ no thỏa thế nào thì tình trạng khốn nạn phần hồn của dân Chúa, thành phần liên tục vô ơn bội nghĩa với Chúa và phản bội bất trung với Chúa, như một Giêroboam tiêu biểu trong Bài Đọc I hôm nay, vẫn đáng được Chúa thương khi họ nhận ra lầm lỗi của mình mà van xin Ngài: "Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài", với tất cả ý thức được gói gọn trong Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Chúng tôi đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng tôi, chúng tôi đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng tôi, khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.

2) Dân chúng đã đúc con bò tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ.

3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.

 

Ngày 10 tháng 2

Thánh Cô-lát-ti-ca, trinh nữ

lễ nhớ bắt buộc

Thánh nữ là em của thánh Biển-đức, nhà lập luật cho các đan sĩ Tây phương. Thánh nữ chào đời ở Nuốc-xi-a, I-ta-li-a, quãng năm 480. Thánh nữ sống đời thánh hiến ở chân núi Cát-xi-nô, nơi thánh Biển-đức đã lập ra một đan viện nổi tiếng. Thánh nữ qua đời không bao lâu trước anh người (+ năm 547). Chính vì thế, các nữ đan sĩ Biển-đức tôn kính thánh nữ Cô-lát-ti-ca như người mẹ tinh thần của mình.



Tay trinh nữ cầm đèn sáng chói,
Nàng bước vào tiệc cưới thiên thu,
Chính là hôn lễ Đức Vua,
Nước Trời hoan hỷ tung hô chúc mừng.

Nàng dự yến trong cung danh dự,
Sánh duyên cùng Thiên Tử quang vinh,
Chữ trinh xe kết chữ tình,
Nết na đức hạnh công trình bao năm.

Xin chỉ dạy cách ăn thói ở,
Lấy hồng ân che chở phù trì,
Mưu thù cho dẫu tinh vi,
Quyết tâm chống lại, gian nguy chẳng sờn.

Xin Đức Mẹ là gương trinh thục
Hằng cầu thay nguyện giúp chúng nhân,
Ơn thiêng Thánh Tử tuôn tràn,
Tha hương lãnh nhận muôn vàn đỡ nâng.

Lời vinh tụng, quỳ dâng lên Chúa
Đã ban cho trinh nữ thành công,
Triều thần thiên quốc một lòng,
Nghìn thu ca ngợi hát mừng Thánh Danh.

 

Người yêu mến hơn thì mạnh thế hơn

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 10/2 - Bài đọc 2

Trích sách Đối thoại của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng.

Cô-lát-ti-ca là em ruột của thánh Biển-đức ; bà đã sống tận hiến cho Chúa toàn năng từ thời thơ ấu. Bà quen đến thăm anh, mỗi năm một lần. Người của Thiên Chúa đi xuống gặp em ở bên ngoài cổng cách một quãng không xa trong phần đất thuộc đan viện.

Một ngày kia, theo thông lệ, bà đến và người anh khả kính cùng với các môn đệ đi xuống gặp bà. Cả ngày họ cùng nhau ca tụng Thiên Chúa và nói chuyện đạo đức. Khi màn đêm buông xuống, họ dùng bữa với nhau.

Đang lúc còn mải mê nói chuyện đạo đức mà trời mỗi lúc một khuya, thì nữ đan sĩ xin với anh rằng : “Em xin anh đừng bỏ em đêm nay ; chúng ta hãy trao đổi với nhau cho đến sáng về những niềm vui của đời sống trên trời.” Người anh trả lời : “Em ơi, em nói gì vậy ? Anh đâu có thể ở lại ngoài tu phòng.”

Nghe anh từ chối, nữ đan sĩ đặt hai bàn tay lên bàn, các ngón đan vào nhau, rồi gục đầu xuống trên hai tay cầu xin Chúa toàn năng. Khi bà ngẩng đầu lên thì sấm chớp ầm ầm nổi dậy và một cơn mưa như trút nước đổ xuống, khiến cả cha Biển-đức khả kính lẫn các anh em tháp tùng người không sao nhấc chân ra khỏi ngưỡng cửa nơi họ đang đứng.

Bấy giờ người của Thiên Chúa buồn bã bắt đầu than trách rằng : “Em ơi, xin Thiên Chúa toàn năng tha thứ cho em, em đã làm gì vậy ?” Bà trả lời : “Này, em đã xin anh mà anh không chịu nghe, thì em đã xin Thiên Chúa của em và Người đã nghe. Bây giờ nếu anh đi được thì cứ đi, cứ để em lại đây mà về đan viện.”

Như thế là người đã không tự ý ở lại, nhưng bị cầm chân tại chỗ ngoài ý muốn, và cả hai thức suốt đêm, tha hồ trao đổi với nhau những chuyện về đời sống thiêng liêng.

Nếu thánh nữ mạnh thế hơn ông anh, thì đó không phải là chuyện lạ, vì như lời thánh Gio-an đã nói : Thiên Chúa là Tình Yêu. Bà mạnh thế hơn vì yêu mến nhiều hơn, thì đó quả là điều chí lý.

Ba ngày sau, khi người của Thiên Chúa đang ở trong tu phòng, ngước mắt lên thì thấy linh hồn em gái mình lìa khỏi xác vào thiên cung dưới hình chim bồ câu. Vui mừng vì em được vinh quang như thế, người hát thánh vịnh thánh ca tạ ơn Thiên Chúa toàn năng, rồi sai anh em đưa xác bà về đan viện đặt trong ngôi mộ người đã chuẩn bị cho chính mình.

Thế là nấm mồ cũng không thể ngăn cách được thân xác của những người vẫn một lòng một ý với nhau trong Thiên Chúa.

Xướng đápTv 132 (133),1

XKhi bà đan sĩ nài van Thiên Chúa đừng để cho anh bà lìa xa bà, thì

Đvì lòng yêu mến của bà, Chúa ban cho bà hơn cả điều bà đã mong ước.

XNgọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau !

Đvì lòng yêu mến của bà, Chúa ban cho bà hơn cả điều bà đã mong ước.

Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh nữ Cô-lát-ti-ca, xin cho chúng con theo gương người để lại là hết lòng mến yêu phụng thờ Chúa và cảm nghiệm tình thương Chúa ngọt ngào. Chúng con cầu xin




Thánh Scholastica và Thánh Bênêđictô (Anh em sinh đôi)
Ðọc sách Khởi Nguyên trong bộ Thánh Kinh Cựu Ước, ít ra người ta thấy hai trường hợp anh em sinh đôi được diễn tả thật rõ ràng: Ngay từ thai nhi, hai anh em đã "lục ục" tranh giành với nhau. 

Trường hợp hai đứa con sinh đôi của bà Thamar: cậu anh vừa đưa tay ra ngoài và được bà đỡ cột sợi chỉ điều vào tay để đánh dấu đứa nào ra trước, liền bị thằng em " sinh sự" giằng co trong dạ mẹ; cậu anh đành phải rút tay vào, "đi chỗ khác chơi" có trật tự, "nhường lối" cho em ra ngắm ánh mặt trời trước! Tình cảnh đó có lẽ không khỏi gây đau lòng cho bà Thamar. Thật là " gươm con" thâu "lòng mẹ"!  

 

Trường hợp Esau và Giacóp mới "lủng củng" hơn nữa! Hai anh em thường xuyên "chí chóe" với nhau trong bụng mẹ, đến nỗi mặc dầu hiếm con, bà Rêbecca cũng phải than rên đau khổ và xin Ðấng Gia-vê can thiệp! Tới khi Esau vừa lọt lòng mẹ thì bị cậu em Giacóp nắm chặt gót chân.  Cũng may mà Esau đã được nhìn ánh mặt trời trước! Nhưng chưa hết, về sau, Esau phải bán quyền trưởng nam cho Giacóp chỉ vì một bát cháo đậu; rồi bị Giacóp cướp mất chúc lành của cha.  Sự kiện đã khiến Esau nổi cơn lôi đình, quyết tìm dịp giết em.  Trong khi đó, Giacóp phải cao bay xa chạy để trốn mặt anh.  Trước tình cảnh đó, bà Rebecca phải đau lòng xiết bao! Hai anh em sinh đôi Esau-Giacóp đã trở nên " gươm hai lưỡi" đâm thâu lòng bà Rêbecca! 

          

Thế nhưng, lịch sử cho thấy có những trường hợp trái ngược: Hai anh em thương nhau "ra rít" như bóng với hình, thậm chí còn có cùng một ý hướng, một mong ước, cùng dìu dắt nhau tiến tới trên đường thánh đức. Hai anh em thánh Beneđictô và Scholastica là một thí dụ điển hình.

           

Bênêđictô là anh, còn Scholastica là em gái.  Hai anh em sinh đôi năm 480 trong một gia đình đạo hạnh và giầu sang tại thành Nursia, nước Ý. Ngay từ nhỏ cô cậu đã được hưởng một nền giáo dục đạo đời thật chu đáo.  Tình huynh đệ giữa hai anh em ngày càng phát triển sâu xa. Họ thương nhau tha thiết, đồng thời biết thúc giục và giúp đỡ nhau tập tành các nhân đức Công Giáo.  Tuổi hoa niên của Bênêđictô và Scholastica nơi gia đình trôi êm như một giấc mộng đẹp.

           

Về sau, Bênêđictô được gửi học tại Rôma.  Trí thức cũng như nhân đức của chàng tiến không ngừng.  Trong khi đó Scholastica nhan sắc và đức hạnh lưu lại gia đình, đành tạm rời xa anh một thời gian.  Nàng chuyên chăm các việc trong nhà, thích thú cầu nguyện, và ưa đời trầm lặng, mặc dầu nàng sẵn có tâm hồn tươi vui và hoạt bát.

            

Danh tiếng nhân đức và nhan sắc của Scholastica được loan truyền mau lẹ tới các miền lân cận.  Nhiều chàng công tử giầu sang đã ngấp nghé muốn hỏi nàng làm vợ.  Nhưng Scholastica đã quyết dâng hiến đời mình cho Chúa.  Trong khi đó, Bênêđictô chuyên chăm việc học tại Rôma. chàng nghe thấy tiếng Chúa âm thầm gọi chàng cách mầu nhiệm... Cuối cùng chàng đã đáp  lại tiếng Ngài, bằng cách trốn vào hoang địa Subiacô cách Rôma khoảng 40 dặm để sống đời tịch liêu thân mật với Thiên Chúa. 

         

Sau nhiều năm sống khổ hạnh nơi hang Subiacô, tiếng thơm nhân đức của Bênêđictô truyền tụng khắp nơi.  Nhiều người tuốn đến xin làm môn đệ.  Bênêđictô giảng dạy,  làm phép lạ và lập nhiều tu viện.  Tu viện chính được xây cất tại núi Cassinô, cách Rôma 80 dặm. 

          

Trước tấm gương xa lìa vinh hoa phú quí để theo Chúa sống đời khổ hạnh của anh. Scholastica ước ao mãnh liệt được theo gương anh.  Nàng phân chia của cải cho người nghèo, rồi cùng với một tớ nữ tiến về núi Cassinô để xin Bênêđictô hướng dẫn trên đường  nhân đức.  Bênêđictô rất hài lòng về dự tính của em, và xây cho nàng một tu phòng không xa tu viện Cassinô là bao, đồng thời tự tay soạn luật cho em.          

 

Tiếng tăm nhân đức của Scholastica ngày càng lan rộng. Nhiều trinh nữ giã từ xa hoa trần thế, tụ họp quanh nàng để xin cùng chung lý tưởng hiến dâng cuộc đời phụng sự Chúa.  Ðể dung nạp những tâm hồn thiện chí này, Bênêđictô đã khỡi công xây dựng một đan viện cho các chị dòng Biển Ðức tương lai. 

          

Scholastica đương nhiên được coi như vị sáng lập, và là nữ đan viện trưởng  đầu tiên của chị em Biển Ðức; trong khi Bênêđictô vị sáng lập và là tu viện trưởng đầu tiên của dòng anh em Biển Ðức.  Hai anh em sinh đôi đã có cùng một ước mơ, một chí hướng, và một lý tưởng phụng sự Chúa trong đời tu trì trầm lặng và khổ hạnh.                   

Thật vậy, Thánh Scholastica là em gái thánh Bênêđictô, tổ phụ của những người sống đời khổ tu bên Tây phương. Chúng ta biết được chút ít về đời sống của thánh nữ là do cuốn Dialogue, tập hai, của thánh Grêgôriô cả, cuốn sách ghi lại đời sống thánh Bênêđictô và các phép lạ của ngài. Như anh của ngài, thánh nữ Scholastica đã sinh ra tại quận Sabina miền Nursia.

Khi thánh Bênêđictô thiết lập tu viện tại Montê Cassinô, Scholastica cùng với các trinh nữ quây quần bên ngài đã đến ở bên núi, lập thành tu viện Palumbariola, ngài đặt mình dưới sự hướng dẫn của anh, vì ngài biết rằng: không có ai có thể hướng dẫn các linh hồn về trời cách chắc chắn hơn.

Nhưng ngài không hề làm rộn anh mình và chỉ gặp anh mỗi năm một lần vào trước mùa chay, trong một trang trại của tu viện ở miền núi. Một nguyện đường đã được dựng nên tại đây để ghi nhớ những giây phút khôn tả, mà thánh Bênêđictô thông cho em mình ánh sáng thần linh ngài thụ lãnh được và dạy dỗ em mình đường trọn lành của tu sĩ trong thống hối và yêu thương.

Kể từ đó, hai anh em mỗi năm chỉ gặp nhau có một lần tại căn nhà ngoài nội vi tu viện, trước sự chứng kiến của các thầy đồng hành với Bênêđictô.  Thực ra, những lần gặp gỡ này là chỉ để đàm thoại về Chúa và những sự siêu nhiên.

        

Lần cuối cùng hai anh em được gặp nhau xẩy ra ba ngày  trước khi Scholastica giã từ cõi thế.  Hôm đó, sau khi đã đàm thoại lâu giờ... họ đã trải qua một ngày để khen ngợi Chúa và cầu xin hạnh phúc trên trời, bên ngoài khí trời tươi mát vì đã vào xuân, bầu trời trong sáng lạ thường, thánh Scholastica say sưa cảm nếm hương vị của câu chuyện đàm thoại trong khi màn đêm buông dần xuống... lúc đó thánh Scholastica nói với thánh Bênêđictô: - Anh ơi trời khuya rồi, làm sao anh về được. Thôi mình tiếp tục nói chuyện tới sáng về niềm vui cuộc sống trên trời đi.         

Thánh Bênêdictô trả lời: - Em nói chi, anh không thể nhận lời em được. Anh không thể qua đêm ở ngoài nhà dòng được đâu. Tới đây chúng ta đã biết được câu chuyện kết thúc ra sao theo những gì được Thánh Giáo Hoàng Gêgôriô thuật lại trong cuốn Đối Thoại của ngài (mà chúng ta nghe hay đọc trên đây trong phần phụng vụ giờ kinh sách ngày 10/2 hôm nay)     

Anh em giã biệt nhau được ba ngày thì Scholastica từ trần, hưởng thọ 60 tuổi.  Lúc đó, đang cầu nguyện trong phòng, Bênêđictô trông thấy linh hồn em xinh đẹp như chim bồ câu nhẹ nhàng bay về thiên quốc.  Sau khi dâng lời ca tụng Chúa, Bênêđictô liền sai các thầy rước xác Scholastica về tu viện Cassinô và táng trong chính ngôi mộ Bênêđictô đã chuẩn bị cho mình.   

        

Sau cái chết của em, Bênêđictô còn sống thêm 7 năm trong chay tịnh, hy sinh  và hãm mình... Sáu ngày trước khi chết, Ngài ra lệnh mở sẵn cửa mồ. Ngày cuối đời, sau khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa như của ăn đàng, Bênêđictô được các thầy giúp đứng dậy, Ngài giơ cao đôi tay lên trời cầu nguyện. Và trong tư thế đó, Ngài thở hơi cuối cùng.  Ngày hôm ấy hai tu sĩ Biển Ðức, Một ở cùng tu viện với ngài, một đang ở xa, được thị kiến cùng một điềm lạ như nhau: họ trông thấy một đường sáng thật huy hoàng trải dài từ tu viện lên bầu trời về phía đông.  Bên cạnh con đường sáng đó có một người dáng vẻ đạo mạo, y phục lộng lẫy.  Người này hỏi hai thầy rằng họ đang chiêm ngắm con đường của ai đó.  Sau khi họ thú thật không biết, người lạ trả lời: - Ðó là con đường mà Bênêđictô, bạn yêu quí của Chúa, đã lên trời.        

           

Bênêđictô qua đời năm 547, hưởng thọ 67 tuổi. 

          

Hai đứa con sinh đôi của bà Thamar đã khởi sự tranh  giành nhau từ trong lòng mẹ.  Hai anh em sinh đôi Esau và Giacóp không  những " chí chóe" với nhau trong bụng mẹ, lại còn "kèn cựa" hiềm thù nhau nhiều năm trời! Nhưng trái lại, hai anh em sinh đôi Bênêđictô và Scholastica thương nhau từ tuổi ấu thơ, cùng dìu nhau về thiên quốc.  Chẳng những mang cùng một tâm tư, thân xác họ còn được chôn trong cùng một tấm mồ.  Tình huynh đệ thắm thiết từ khi lọt lòng mẹ, trải qua suốt cuộc sống, kéo dài tới lúc chết, và còn tồn tại mãi mãi trên trời. 

         

Hiện tại di hài của thánh nữ Scholastica và thánh Bênêđictô được yên nghỉ dưới bàn thờ trong tu viện ở Mont-Cassin. Từ cuối thế kỷ thứ VIII, lịch Phụng Vụ của Mont-Cassin định ngày kỷ niệm Scholastica vào ngày 10 tháng 02. Việc tôn kính thánh nữ được lan rộng, nhất là trong các Đan viện từ thế kỷ thứ IX.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp 

 

 

 

Thánh Lễ Đầu Năm Âm Lịch


Thánh Lễ Tất Niên


Phúc Âm: Lc 1, 39-55

"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần. Bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Người, thực từ đây thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi có phước, vì Ðấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng, và Danh Người là thánh. Ðức từ bi Người tự đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Người đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Người lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ; người đói khát, Người cho no đầy thiện hảo, bọn giàu sang, Người đuổi về tay không. Người đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Người, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người, như Người đã phán cùng tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Lc 17,11-19

"Người ấy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi ngang qua biên giới Samaria và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi".

Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế".

Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.

Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

B. Thánh Lễ Giao Thừa

 

Phúc Âm: Mt 5,1-10

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.

Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.

Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.

Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.

Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.

Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Mt 7,7-11

"Ai xin thì sẽ được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được; ai tìm thì sẽ gặp; ai gõ cửa sẽ mở cho. Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người?"

Ðó là lời Chúa.

 

C. Thánh Lễ Minh Niên

(Cầu bình an cho Năm Mới)

 

Bài Ðọc I: Gen 1,14-18

"Những vật sáng hãy trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm. Và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy tốt đẹp.

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - -

Hoặc: Num 6,22-27

"Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Bài trích sách Dân Số.

Chúa phán cùng Môisen rằng: "Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế nầy: Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con, xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 48, 2-3. 6-7. 8-10. 11. 17-18

Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. (Mt 5, 3)

Hoặc Ðáp: Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. (Mt 6, 33a)

Xướng: 1) Hỡi các dân, xin nghe lấy chuyện nầy, xin hãy lắng tai, hết thảy những ai cư ngụ địa cầu, người phận nhỏ cũng như người quyền thế, kẻ giàu sang cũng như kẻ cơ bần! - Ðáp.

2) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai họa, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người nầy tin cậy vào tài sản, chúng tự hào bì có bạc vạn tiền muôn? - Ðáp.

3) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền chuộc mạng. Giá chuộc mạng quá đắt, không bao giờ người ta có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết. - Ðáp.

4) Bởi lẽ người ta thấy chết cả những người khôn, đứa dại đứa ngu cũng đều phải chết, để lại cho người khác tài sản của mình. - Ðáp.

5) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng; bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ. - Ðáp.

- - - - - - - - - - - -

Hoặc: Tv 89, 2. 3-4. 5-6. 12-13. 14. 16

Ðáp: Lạy Chúa, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng tôi làm ra. (17c)

Xướng 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở nầy qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

5) Xin cho chúng tôi sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng tôi mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng tôi. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1Cor 7,29-31

"Bộ mặt thế gian nầy đang qua đi".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Corintô.

Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều nầy là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy như không có: những ai than khóc, hãy ăn ở như không khóc; những ai hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những ai mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời nầy, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian nầy đang qua đi.

Ðó là lời Chúa

- - - - - - - - - - -

Hoặc: Jac 4,13b-15

"Anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao".

Bài trích thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, bây giờ anh em nói: "Hôm nay hoặc ngày mai chúng tôi sẽ đến một thành nọ, rồi ở lại đó một năm mà buôn bán kiếm lời". Nhưng anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi vì đời sống anh em là cái gì? Là một chút hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi biến đi. Lẽ ra anh em phải nói rằng: "Nếu Chúa muốn, và nếu chúng tôi còn sống, chúng tôi sẽ làm điều nầy điều kia".

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia và Câu Xướng Trước Phúc Âm: Chron 29, 10. 11b

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel tổ phụ chúng tôi, Chúa đáng chúc tụng; mọi tạo vật trên trời dưới đất đều là của Chúa. - Alleluia.

Hoặc đọc: 

Alleluia, alleluia! - Trải qua mọi ngày, chúng tôi chúc tụng Chúa; và chúng tôi ca ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 25-30

"Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho. Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Ga 14, 23-27

"Thầy ban bình an của Thầy cho các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Ga 20,19-23

"Bình an cho các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Mt 6,25-34

"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?" Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Ðó là lời Chúa.

Tân Niên - Lời Chúc Xuân lợi hại nhất

 

Phi Thuyền bay vào Cõi Vĩnh Hằng

 

Mùa Xuân Muôn Thuở Maria

 

LeDauNamAmLich.mp3