PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

 

TUẦN VII THƯỜNG NIÊN

Chúa Nhật (Năm B) & Trong Tuần (Năm Chẵn)

 

 

 

 

Chúa Nhật Thánh Thần Hiện Xuống

 

 

 

Chúa Nhật

 

 

(Nếu năm nào không bị Lễ Hiện Xuống át đi như năm 2024 này

thì Giáo hội vẫn cử hành Chúa Nhật VII Thường Niên Năm B tiếp theo Chúa Nhật VI trước Mùa Chay)

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Is 43, 18-19. 21-22. 24b-25

"Vì Ta, Ta sẽ xoá bỏ sự gian ác của ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây lời Chúa phán: Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta. Hỡi nhà Giacóp, ngươi đã chẳng kêu cầu Ta; hỡi nhà Israel, ngươi cũng không chịu khó nhọc vì Ta. Nhưng ngươi đã làm khổ Ta vì tội lỗi của ngươi, và ngươi đã làm cực Ta vì sự gian ác của ngươi. Chính Ta đây, chính vì Ta mà Ta xoá bỏ sự gian ác của ngươi, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của ngươi nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 40, 2-3. 4-5. 13-14.

Ðáp: Xin Chúa chữa khỏi hồn con, vì con đã phạm tội phản nghịch Ngài (c. 5b).

Xướng: 1) Phúc đức ai quan tâm đến kẻ cơ bần: ngày tai hoạ, Chúa sẽ giải thoát cho. Chúa sẽ gìn giữ cho người được sống, cho người được hạnh phúc ở trần gian, và không trao nạp người cho ác tâm quân thù. - Ðáp.

2) Chúa sẽ nâng đỡ người trên giường nằm đau khổ, và chữa khỏi mọi tàn tật lúc ốm đau. Phần tôi đã nói: Lạy Chúa, nguyện xót thương con, chữa khỏi hồn con, vì con đã phạm tội phản nghịch Ngài. - Ðáp.

3) Phần con khi được lành mạnh xin Chúa nâng đỡ, và cho tới khi đứng trước thiên nhan tới muôn đời. Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, tự thuở này tới thuở kia. Amen. Amen. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Cr 1, 18-22

"Ðức Giêsu không phải vừa 'có' lại vừa 'không', nhưng nơi Người chỉ là 'có' mà thôi".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, xin Thiên Chúa là Ðấng trung tín, chứng giám cho rằng lời nói của chúng tôi đối với anh em không phải là vừa "Có" lại vừa "Không". Quả thế, Con Thiên Chúa là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng mà tôi, Silvanô và Timôthêu đã rao giảng nơi anh em, Người không phải vừa "Có" lại vừa "Không", trái lại nơi Người chỉ là "Có" mà thôi. Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên Chúa đã thành "Có" ở nơi Người. Vì thế, nhờ Người mà chúng tôi hô lên lời "Amen" tôn vinh Thiên Chúa. Vậy Ðấng đã làm cho chúng tôi và anh em được đứng vững trong Ðức Kitô, và đã xức dầu cho chúng ta, chính là Thiên Chúa, Người đã ghi dấu trên mình chúng ta, và đã ban Thánh Thần vào lòng chúng ta làm bảo chứng.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 2, 1-12

"Con Người có quyền tha tội dưới đất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum. Nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn tới đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ. Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, tội lỗi con được tha". Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: "Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa". Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: "Tại sao lòng các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: 'Tội lỗi con được tha' hay nói: 'Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi', đằng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất". Người nói với kẻ bất toại: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà". Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ".

Ðó là lời Chúa.

 

My Reflections...: Reflection for January 15, Friday of the First Week: Mark  2:1-12

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Phụng vụ Lời Chúa được Giáo Hội soạn dọn cho Chúa Nhật Tuần VII Thường niên hôm nay, có thể sau Mùa Giáng Sinh và trước Mùa Chay (như năm 2023) và cũng có thể sau Mùa Phục Sinh (như năm 2024). Bởi thế, việc suy niệm cần phải theo chiều hướng mùa phụng vụ của Tuần thứ 7 này. Tuy nhiên, nói chung thì Phụng vụ Lời Chúa cho bất cứ Mùa Phụng vụ nào cũng chỉ là để cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Vậy, vì thời điểm cho Tuần 7 Thường Niên này thường rơi và lúc giao mùa phụng vụ, sau Mùa Giáng Sinh và sau Mùa Phục Sinh, nên chúng ta có thể tùy nghi suy niệm và suy diễn nội dung của Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật tuần 7 Thường Niên giao mùa phụng vụ này theo ý nghĩa tổng quan của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai cứu thế, Đấng Cứu Chuộc nhân trần.

 

Từ đó, chúng ta thấy được rằng Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế trong bài Phúc Âm hôm nay đã tỏ mình ra ở cả quyền năng tha tội về phần hồn lẫn quyền lực chữa lành về phần xác, nghĩa là Người đến để cứu toàn bộ bản tính bao gồm cả hồn lẫn xác của con người tạo vật vô cùng hèn mọn bất lực và tội lỗi đáng thương. Đặc biệt là những ai tin vào Người, như trường hợp của nạn nhân bất toại trong Bài Phúc Âm hôm nay, được thân nhân hay/và thân hữu của mình khiêng đến với Người và làm hết cách để nạn nhân có thể đến gần Người, nhờ đó Người có thể chữa lành cho nạn nhân. Tuy nhiên, về phần mình, Chúa Giêsu chẳng những cứu nạn nhân bất toại đáng thương về phần xác này, mà Người còn lợi dụng nạn nhân để cứu cả thành phần trí thức luật sĩ đang chứng kiến bấy giờ nữa.

 

Thật vậy, theo đường lối thần linh, Thiên Chúa thường tỏ mình ra qua phương tiện trung gian và nhờ phương tiện trung gian để Người càng tỏ hiện hơn nữa. Ở sự kiện Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế chữa lành cho nạn nhân bất toại trong bài Phúc Âm hôm nay, trước hết Người đã tỏ mình ra qua trung gian của 4 người khênh nạn nhân bất toại đến với Người, bằng không, Người bất toại sẽ không bao giờ được chữa lành; thế rồi Người lại tiếp tục biến nạn nhân bất toại được Người chữa lành trở thành phương tiện để Người càng được tỏ hiện hơn nữa trước mắt chung dân chúng, nhất là trước mắt thành phần luật sĩ tại hiện trường bấy giờ.

 

Người thậm chí đã đi bước trước, ở chỗ, bằng một cách nào đó, Người đã tác động tâm trí của 4 người khênh nạn nhân bất toại để một người nào đó trong họ chợt có tư tưởng khênh nạn nhân bất toại đến với Chúa Giêsu, một ý nghĩa đầy bác ái yêu thương đã đánh động lòng người nên họ đã đồng lòng khênh nạn nhân đáng thương tới với Người để Người nhờ đó càng hiển linh hơn nữa nơi nạn nhân bất toại đã được khiêng tới với Người cho bằng được, bất chấp trở ngại khi họ tới được đích điểm của mình là Đấng cứu nhân độ thế, nếu không  tìm cách đốt giai đoạn short cut là leo lên mái nhà và thả nạn nhân từ đó xuống, để họ vừa giúp nạn nhân được mau chóng đến gần với Người vừa chứng tỏ đức tin của họ cho Người, Đấng không thể không đáp ứng những ai tin tưởng vào Người.

 

Thành phần trí thức luật sĩ trong dân Do Thái tại hiện trường bấy giờ cũng được Người thương cứu, thành phần bị tật nguyền về tâm linh đáng thương hơn nạn nhân bất toại về thể lý nữa, và Người thương cứu họ bằng cách, vì biết được có họ trong đám đông bấy giờ Người đã cố ý nói với nạn nhân bất toại rằng "tội lỗi của con đã được tha", một lời nói Người biết trước chắc chắn sẽ gây cho thành phần luật sĩ chói tai không thể nào chấp nhận: "Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa", để rồi chính Người đã tỏ mình ra cho họ thấy Người quả là một Vị Thiên Chúa nhập thể làm người, một nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, có quyền cứu con người khỏi cả tội lỗi lẫn hậu quả của tội lỗi do tội của họ gây ra khiến họ trở thành nạn nhân khốn khổ của chính bản thân mình như nạn nhân bất toại, vì thế ngay sau khi nói thẳng với thành phần luật sĩ rằng: "để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất", Người nói với kẻ bất toại rằng: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà".

 

Chúng ta không biết tất cả hay một ai đó trong các vị luật sĩ này, sau khi được Chúa Kitô tỏ mình ra như thế, đến nỗi đã làm cho chung dân chúng bấy giờ "ai nấy đều sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: 'Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ'", có cảm thấy luồng gió Thánh Linh biến đổi bản thân mình hay chăng, Đấng được Thánh Phaolô trong Bài đọc 2 hôm nay cảm nhận rằng: "Thiên Chúa, Người đã ghi dấu trên mình chúng ta, và đã ban Thánh Thần vào lòng chúng ta làm bảo chứng", nhờ đó, họ có thể âm vang trong tận thâm tâm của họ câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay: "Xin Chúa chữa khỏi hồn con, vì con đã phạm tội phản nghịch Ngài".

 

Đối với Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, Đấng đã tự động cứu nhân loại tạo vật tội nhân chúng ta qua Vị Thiên Sai Cứu Thế Con Ngài, thí con người không thể nào không phạm tội, thậm chí nhờ tội lỗi của họ mà Ngài càng được dịp tỏ mình ra hơn nữa, càng được hiển vinh nơi những ai nhận biết và tôn vinh LTXC vô biên bất tận của Ngài, như chính Ngài đã phán qua tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta."

 

 

 

 

Thứ Hai

 

 

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Lễ nhớ bắt buộc - Thứ Hai sau Đại Lễ Hiện Xuống


Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết định : “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.”


Sắc Lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2018, Toà thánh đã công bố Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích - ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức - về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.

Sau đây là bản dịch Việt ngữ toàn văn Sắc lệnh, cùng bản văn phụng vụ với các bài đọc, và bài đọc II Giờ Kinh Sách của lễ này; bản dịch tiếng Việt của Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

* * *

Trong Hội Thánh hiện nay, việc hân hoan dâng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa, dưới ánh sáng của những suy tư về mầu nhiệm Chúa Kitô và về bản tính của chính Hội Thánh, luôn phải nhắc đến hình ảnh của một người nữ (x. Gl 4,4): Ðức Trinh nữ Maria, Ðấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là Mẹ của Hội Thánh.

Ðiều này đã được khơi lên trong suy tư của Hội Thánh từ những gợi ý của thánh Augustinô và thánh Lêô Cả. Theo thánh Augustinô, Ðức Maria là mẹ của các chi thể Chúa Kitô, vì Mẹ đã yêu thương cộng tác vào việc tái sinh các tín hữu trong Hội Thánh; theo thánh Lêô, khi Ðầu được sinh ra thì toàn thân thể cũng được sinh ra, vì thế Ðức Maria vừa là mẹ của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là mẹ của các chi thể trong nhiệm thể Người chính là Hội Thánh. Ðây là những khẳng định liên quan đến tư cách Thánh Mẫu của Ðức Maria và sự kết hợp mật thiết của Mẹ với công trình của Ðấng Cứu thế, đạt đến cao điểm trong giờ hy tế thập giá.

Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Ðức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu.

Như một người hướng dẫn tận tâm của Hội Thánh vừa được thiết lập, Ðức Maria bắt đầu sứ mạng làm mẹ khi hiện diện với các Tông đồ nơi phòng Tiệc ly, cùng cầu nguyện đợi chờ Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong tâm tình đó, suốt bao thế kỷ, nền đạo đức Kitô giáo đã tôn vinh Ðức Maria với những tước hiệu khác nhau, mang ý nghĩa tương tự nhau, chẳng hạn Mẹ các môn đệ, Mẹ các giáo hữu, Mẹ các tín hữu, Mẹ của tất cả những kẻ được tái sinh trong Chúa Kitô, và "Mẹ của Hội Thánh", tước hiệu này đã xuất hiện trong những tác phẩm của các tác giả tu đức cũng như trong các văn kiện Huấn quyền của Ðức Bênêđictô XIV và Lêô XIII.

Vào ngày 21 tháng 9 năm 1964, khi bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II, Ðức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã dựa vào những yếu tố nói trên như cơ sở nền tảng để công bố Ðức Trinh Nữ Maria là "Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là Mẹ của toàn thể các Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân ái", và Ðức Giáo hoàng xác lập việc "toàn thể đoàn dân Kitô giáo từ nay phải luôn gia tăng lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa dưới tước hiệu vô cùng dịu ngọt ấy".

Trong Năm Thánh Hòa giải 1975, Tòa Thánh đã biên soạn và đưa vào Sách Lễ Rôma bản văn lễ ngoại lịch kính Ðức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội Thánh; tước hiệu này cũng được thêm vào Kinh cầu Ðức Mẹ (1980), một số bản văn khác cũng được phổ biến trong tập sách các lễ kính Ðức Trinh Nữ Maria (1986). Theo ý thỉnh nguyện, lễ này đã được phép ghi vào lịch riêng của một số quốc gia, giáo phận và hội dòng.

Ðức Giáo hoàng Phanxicô, sau khi thận trọng cân nhắc hiệu quả của việc sùng kính này có thể giúp nâng cao cảm thức làm mẹ của Hội Thánh, đồng thời cũng gia tăng lòng tôn kính Ðức Mẹ nơi các mục tử, tu sĩ và các tín hữu, đã quyết định đưa vào lịch chung của Hội Thánh Rôma, lễ nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện xuống.

Việc cử hành lễ này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng, sự tăng trưởng của đời sống Kitô hữu phải luôn gắn kết với mầu nhiệm Thánh Giá, với hy tế của Chúa Kitô nơi bàn tiệc Thánh Thể cũng như với tâm tình hiến dâng của Ðức Trinh Nữ, Mẹ của Ðấng Cứu thế và của những người được cứu chuộc.

Lễ nhớ này phải được ghi trong lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ Giờ kinh. Bản văn phụng vụ liên quan được phổ biến cùng với sắc lệnh này, và các bản dịch sẽ được công bố sau khi đã được các Hội Ðồng Giám Mục phê duyệt và Bộ Phụng Tự chuẩn nhận.

Tại những nơi đã được phép đặc biệt để cử hành lễ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, vào một ngày khác và với bậc lễ cao hơn, vẫn có thể tiếp tục cử hành như thế.

Bất chấp mọi điều trái nghịch.

Ban hành từ trụ sở Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích, ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức.

 

Hồng y Robert Sarah

Tổng trưởng

Tổng Giám mục Arthur Roche

Thư ký



Phụng Vụ Lời Chúa

Bài đọc I St 3,9-15.20

"Mẹ của toàn thể chúng sinh"

Bài trích sách Sáng thế

Sau khi Ađam ăn trái cấm,

9 Chúa là Thiên Chúa đã gọi ông

và nói cùng ông rằng: "Ngươi ở đâu vậy?"

10 Ông thưa: "Con nghe tiếng Ngài trong vườn, nhưng con sợ hãi,

vì con trần truồng và con ẩn núp".

11 Chúa hỏi ông: "Ai đã cho ngươi biết ngươi đang trần truồng?

Có phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi ăn không?"

12 Ađam thưa: "Người phụ nữ mà Ngài đã cho làm bạn với con,

chính bà ấy đã cho con trái cây và con đã ăn".

13 Chúa là Thiên Chúa nói cùng người phụ nữ rằng:

"Tại sao ngươi làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối con, và con đã ăn".

14 Chúa là Thiên Chúa phán cùng con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó,

mi là thứ bị chúc dữ giữa mọi súc vật và thú hoang!

Mi sẽ bò bằng bụng và sẽ ăn bụi đất suốt đời mi.

15 Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ,

giữa miêu duệ mi và miêu duệ Bà,

người miêu duệ này sẽ đạp đầu mi, còn mi sẽ cắn gót chân người".

20 Rồi Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh.

Ðó là Lời Chúa.

 

Hoặc: Cv 1,12-14

"Các Tông đồ đồng tâm kiên trì cầu nguyện cùng với Ðức Maria, mẹ của Chúa Giêsu"

Bài trích sách Công vụ Tông đồ

12 Sau khi Chúa Giêsu lên trời,

các Tông đồ rời núi Cây Dầu trở về Giêrusalem,

núi này ở gần Giêrusalem,

chỉ cách một quãng đường được đi trong ngày sabbat.

13 Sau khi trở về thành, các ông lên phòng trên lầu.

Hiện diện tại đây có các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê,

Philipphê, Tôma, Bartôlômêô, Matthêu, Giacôbê con ông Alphê,

Simon nhiệt thành, và Giuđa con ông Giacôbê.

14 Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện,

cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu,

và các anh em Người.

Ðó là Lời Chúa.

 

Thánh vịnh đáp ca Tv 86 (87) 1-2.3 và 5.6-7

Ðáp: Hỡi thành đô của Thiên Chúa,

mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành.

 

1 Nền móng Sion được đặt trên núi thánh,

2 Chúa yêu chuộng cửa thành

hơn mọi nơi cư ngụ của nhà Giacob.

3 Hỡi thành đô của Thiên Chúa.

Mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành. - Ð.

 

5 Nói đến Sion, thiên hạ bảo:

"Tại đó, người người đã sinh ra,

chính Ðấng Tối Cao củng cố thành". - Ð.

 

6 Thiên Chúa ghi vào sổ bộ các dân:

"Kẻ này người nọ đã sinh ra tại đó",

7 và họ múa nhảy hát ca:

"Mọi nguồn mạch của tôi ở nơi thành". - Ð.

 

Alleluia

Kính chào Ðức Trinh Nữ diễm phúc, Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu.

Kính chào Mẹ Hội Thánh, Mẹ là Ðấng giữ gìn trong chúng con

Thần Khí của Thánh Tử Giêsu Kitô

 

Tin Mừng Ga 19, 25-27

Này là Con Bà. Này là Mẹ con.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan

Khi ấy, 25 đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người,

cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.

26 Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu,

Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà".

27 Rồi Người nói với môn đệ: "Này là Mẹ con".

Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.

Ðó là Lời Chúa. 

 

Đức Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2

 

Trích diễn từ của Đức Phao-lô VI, dịp kết thúc khoá III Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 21-11-1964.

 

Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng : Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn nguyện.

Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác. Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể.

Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lẽ Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.

Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn, cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu độ cho mọi người.

Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.

Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng. Vì thế, khi quãng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, khi chịu đóng đinh trên thập giá, Con Một Chúa đã muốn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, thân mẫu Người, làm Mẹ chúng con ; xin cho Hội Thánh Chúa đang ngày một thêm đông, nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, được vui mừng vì đoàn con thánh thiện và vì lôi cuốn muôn dân về với mình. Chúng con cầu xin

 

 

Thứ Hai

 

(Nếu năm nào không bị Lễ Mẹ Giáo Hội át đi như năm 2024)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 3, 13-18

"Nếu anh em có lòng thích cãi vã, thì đừng lên mặt".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, ai là kẻ khôn ngoan và từng trải trong anh em? Người ấy hãy lấy đời sống tốt lành mà bày tỏ công việc của mình thấm nhuần sự hiền từ khôn ngoan. Còn nếu anh em có lòng ganh tị chua cay và thích cãi vã, anh em đừng lên mặt và nói dối nghịch cùng sự thật. Vì thứ khôn ngoan đó không phải từ trời xuống, mà là thứ khôn ngoan phàm trần, mang nặng thú tính và là của ma quỷ. Bởi chưng ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan. Nhưng sự khôn ngoan từ trời xuống, thì trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15

Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Ðáp.

4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Ðá Tảng, là Ðấng Cứu chuộc con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 13-28

"Lạy Thầy, tôi tin, xin Thầy trợ giúp đức tin hèn kém của tôi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu (từ trên núi xuống) và đến cùng các môn đệ, Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông.

Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người. Và Người hỏi họ rằng: "Các ngươi tranh luận gì với nhau đó?" Một người trong đám đông trả lời rằng: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực". Người đáp lại: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta". Và người ta đem nó đến.

Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất. Chúa Giêsu hỏi cha nó rằng: "Nó bị như thế từ bao giờ?" Ông ta đáp: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được". Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: "Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi". Chúa Giêsu thấy đám đông tuôn đến, Người nạt thần ô uế rằng: "Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa". Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: "Nó chết rồi". Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên.

Khi Chúa vào trong nhà, các môn đệ hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?" Người đáp: "Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Suy Niệm:

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco thuật lại sự việc Chúa Giêsu chữa lành cho một đứa con trai cho khỏi bị quỉ câm ám. Sự việc chữa lành này xẩy ra sau biến cố Người biến hình trên núi (xem Marco 9:1-13), lúc Người cùng ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan xuống núi để đến với các môn đệ khác đang chờ Người ở dưới núi, và cũng chính là lúc "Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông".

 

Thánh ký Marco không thuật lại cho chúng ta biết chi tiết về vấn đề tranh luận giữa 9 môn đệ của Chúa Giêsu với các luật sĩ thông luật hơn các vị, thế nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán rằng về vấn đề trừ quỉ, một vấn đề sau đó đã được chính các vị đặt ra hỏi Chúa Giêsu, và cũng là vấn đề thành phần luật sĩ này đã có lần trước đó xuyên tạc rằng Người lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con (xem Marco 3:22).

 

Cũng có thể là bấy giờ các môn đệ ở dưới chân núi chờ Người thì đã cùng nhau và thay nhau trừ quỉ, nhưng không được, nên bị nhóm luật sĩ có mặt bấy giờ châm biếm mỉa mai theo kiểu trần gian như chúng ta có thể tượng tượng được như thế này: "Thày của các người đâu rồi. Các người làm gì mà trừ quỉ được, làm gì bằng sư phụ của các người, một tay phù thủy chuyên môn lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con. Thứ tà thuật che mắt trẻ con chứ làm gì qua mặt bọn này được..."

 

Tất nhiên, nghe thấy thế, tự ái đoàn thể của các vị không thể nào không nổi lên, và vì thế các môn đệ có thể đã nhào vô bênh vực Thày và bảo vệ danh dự cho cả nhóm, chẳng hạn bằng cách chống đỡ như: "Các ông đừng có mà nói bậy. Thày của chúng tôi là một Đấng quyền năng xuất chúng chứ không phải tầm thường như các ông... Người mà có ở đây thì các ông cứ mở mắt ra mà xem... như lần trước..."

 

Chắc có thể lúc các môn đệ vừa nói đến đây thì Chúa Giêsu cũng vừa xuất hiện. Bởi thế, ngay mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco đã cho thấy phản ứng của dân chúng bấy giờ như sau: "Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người...". Tại sao đám đông "kinh ngạc" - Phải chăng vừa nói đến Người thì Người liền xuất hiện!?

 

Tại sao họ lại có một phản ứng tương phản cùng một lúc: "sợ hãi" và "chạy đến chào Người"?? Đáng lẽ "sợ" Người thì theo phản ứng tự nhiên thì phải tránh Người chứ sao lại "chạy đến chào Người" là làm sao??? Phản ứng trái ngược lại xẩy ra cùng một lúc chỉ có thể hiểu là có một số thì cảm thấy "sợ hãi", chẳng hạn như thành phần luật sĩ, còn những người khác thì vui mừng "chạy đến chào Người" như họ gặp được vị cứu tinh của họ.

 

Trong những người vui mừng ấy chắc chắn là có các vị tông đồ, nhất là người cha của em trai nạn nhân bị quỉ câm ám. Bởi vì, con ông bị quỉ ám hành hạ, trong khi đó không ai có thể trừ quỉ được, thậm chí cả thành phần môn đệ của Chúa Giêsu, như ông đã thành thật mô tả cho Chúa Giêsu biết: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực".

 

Chắc bấy giờ thành phần luật sĩ, cho dù vẫn ngờ vực quyền năng trừ quỉ của Chúa Giêsu, cũng vẫn tò mò theo dõi xem Người có thật trừ được quỉ hay chăng và trừ quỉ như thế nào. Và ngay trước mắt của họ bấy giờ, như Thánh ký Marco thuật lại, họ chứng kiến thấy rằng: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất". Nghĩa là cái oai phong và quyền năng của Chúa Giêsu ở ngay sự hiện diện của Người, chứ chưa nói đến việc Người ra tay hay đến lúc Người ra tay.

 

Tuy nhiên, Chúa Giêsu không ra tay trừ quỉ ngay, cho dù thấy hiện tượng em trai nạn nhân bị quỉ ám hành hạ như thế. Không biết có phải Người muốn cho thành phần luật sĩ này tin vào Người hơn qua việc Người ra tay trừ quỉ ám, khi Người lên tiếng hỏi người bố một câu hỏi có vẻ dư thừa không cần thiết cho lắm, nhưng Người cố ý như vậy để người bố nói ra cho thành phần luật sĩ ngờ vực này biết tình trạng em trai nạn nhân bị quỉ ám này khốn khổ là chừng nào bao lâu còn bị quỉ ám và ma quỉ dữ dội ác độc đến đâu, để một khi em trai nạn nhân được thoát quỉ ám thì họ biết được quyền năng của Người không phải là những gì bùa phép tà thuật.

 

Người bố đã thuật lại cho riêng Chúa Giêsu và mọi người chung quanh bấy giờ đều nghe thấy rằng: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó". Người bố còn thêm ngay sau đó rằng: "Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". "Chúng tôi" đây bao gồm gia đình của ông: cả đứa con nạn nhân và bố mẹ của cháu, vì cha mẹ cùng ông bà và anh chị em trong cùng một gia đình làm sao chịu được khi thấy một người thân yêu của mình bị quỉ ám khốn nạn kéo dài như vậy.

 

Nghe thấy thế Chúa Giêsu vẫn chưa chịu ra tay ngay. Người vẫn như chần chờ làm sao ấy. Bởi thế, trước khi ra tay, Người còn nhắc nhở người bố một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để Người ra tay, nhờ đó thành phần luật sĩ duy luật chỉ cậy vào việc mình làm mới thấy rằng duy đức tin mới là yếu tố cứu độ chính yếu, và câu Người bảo ông bố như ngầm giục ông hãy tuyên xưng đức tin đi thì mọi sự sẽ được như ý: "'Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được'. Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: 'Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi'".

 

Làm gì thì làm, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng mọi sự để mưu ích chẳng những cho người nhận ơn mà còn cho những người khác nữa. Chẳng hạn, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người chờ cho tới khi, như Thánh ký Marco ghi lại, "thấy đám đông tuôn đến", Người mới ra tay để "trợ giúp lòng tin yếu kém của (người bố)" cũng như làm cho chính đám đông nói chung và thành phần luật sĩ nói riêng tin vào Người. Quả thật, sau đó Người không còn chần chờ gì nữa và đã chính thức công khai ra tay như thế này:

 

"Người nạt thần ô uế rằng: 'Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa'. Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: 'Nó chết rồi'. Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên".

 

Sự kiện sở dĩ chỉ có Chúa Giêsu mới trừ được quí ám trong trường hợp này, trong khi môn đệ của Người thì không, chẳng những vì tự mình Người là Đấng quyền năng, mà còn vì hai lý do chính yếu sau đây:

 

Trước hết, trong khi về phía người bố thì yếu đức tin, đúng như sự thật được Chúa Giêsu vạch trần ra ngay từ đầu: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta", như thể để Người làm cho các người thấy mà tin, thì về phía người trừ là các môn đệ của Người lại không hội đủ điều kiện, như trong câu Người trả lời riêng cho vấn nạn bất khả trừ quỉ của các vị sau đó: "'Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?' Người đáp: 'Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay'".

 

Cảm Nghiệm:

 

Thật ra, khi chịu chết trên cây thập giá, như con rắn đồng được Moisen treo lên cột cao trong sa mạc để cứu những ai bị rắn cắn nhìn lên đó (xem Gioan 3:14-15), Chúa Kitô cũng đã trừ quỉ cho nhân loại rồi: "Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Thành phần lãnh nhận Phép Rửa, tức là được thông phần vào cái chết của Người (xem Roma 6:3), thật sự đã được trừ quỉ ám, nghĩa là được Người giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỉ, khỏi quyền thống trị của chúng, gây ra bởi nguyên tội mà họ dù không phạm cũng bị vướng mắc.

 

Tuy nhiên, cho dù nhờ Phép Rửa, Kitô hữu được thanh tẩy, được trừ khỏi bị quỉ ám, nhưng thực tế cho thấy mầm mống nguyên tội vẫn còn nguyên nơi bản thân họ, bởi thế, đam mê nhục dục và tính mê nết xấu vẫn là nội công của ma quỉ nơi họ, khiến họ vẫn bị ma quỉ tiếp tục ám một cách nào đó.

 

Thế nhưng, mỗi lần Kitô hữu bị quỉ ám hành hạ, đến độ lúc nào cũng chỉ muốn giết chết họ bằng tội trọng, như chúng đã đầy đứa bé trong bài Phúc Âm hôm nay "xô vào lửa, vào nước để giết nó", thì Kitô hữu lại cần phải trừ quỉ một lần nữa, và thường xuyên nhiều lần như vậy, bằng Bí Tích Hòa Giải!

 

Còn ai mong muốn sát hại tận diệt linh hồn con người bằng ma quỉ được gọi là tử thần này, và vì là tử thần nên hắn luôn "xô" đẩy linh hồn con người vào chỗ chết như vào "lửa" hận thù ghen ghét ("lửa" đây ám chỉ "hồ lửa" cũng là "cái chết lần hai" trong Khải Huyền 20:14-15), cũng như vào "nước" đam mê nhục dục ("nước" đây ám chỉ trận lụt hồng thủy thời Noe đã nhận chìm hết con người bấy giờ toàn là xác thịt dâm loạn - xem Khởi Nguyên 6:1-6).

 

Thật vậy, nơi Bí Tích Hòa Giải chất chứa quyền năng trừ quỉ của Chúa Kitô, Đấng giải thoát những ai tin vào Người, những ai thành tâm thống hối chạy đến với lòng thương xót bao la bất tận của Người mỗi khi thấy mình sa ngã phạm tội mất lòng Người.

 

Thành phần môn đệ của Chúa Kitô không thể nào trừ được quỉ ám nơi "các linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn" nếu chính họ cũng bị quỉ ám như ai, tức là họ sống không sạch tội, một tình trạng thiêng thiêng cho thấy, họ thực sự "không cầu nguyện và chay tịnh": "không cầu nguyện" ở chỗ không sống nội tâm với Chúa, và "không chay tịnh" ở chỗ không chịu cẩn thận khổ chế giác quan và bản tính tự nhiên, nên khó tránh dịp tội và phạm tội.

 

Vậy "cầu nguyện và chay tịnh" là việc làm khôn ngoan để nhờ đó có thể tự vệ trước quyền lực tối tăm khôn lường gian trá, nhờ có ơn khôn ngoan và thâm hiểu của Thánh Thần, và có khả năng trừ quỉ nơi tha nhân nữa, bằng ơn trí thức và huấn dụ của Chúa Thánh Thần để giúp họ tránh khỏi cạm bẫy của thần dối trá, đúng như lời Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Sự khôn ngoan từ trời xuống, thì trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình".

 

 

 

 

Thứ Ba sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 4, 1-10

"Anh em xin mà không nhận được là vì anh em xin không đúng".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ. Anh em không có, là tại anh em không xin. Anh em xin mà không nhận được, là vì anh em xin không đúng, cứ mơ tưởng thoả mãn các đam mê của anh em. Hỡi những kẻ ngoại tình, anh em không biết rằng thân thiết với thế gian là thù địch với Thiên Chúa đó sao? Vậy kẻ nào muốn thân thiết với thế gian này, thì đặt mình làm thù địch với Thiên Chúa. Hay anh em tưởng Kinh Thánh nói cách vô lý rằng: "Chúa quyến luyến thần trí mà Người đặt trong anh em, đến nỗi ghen lên". Vả Người ban ơn bội hậu. Bởi đó có lời rằng: "Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn phúc cho người khiêm nhường!" Vậy anh em hãy phục tùng Thiên Chúa, hãy chống trả ma quỷ, và nó sẽ trốn xa anh em. Hãy đến gần Thiên Chúa, và Người sẽ đến gần anh em. Hỡi những kẻ tội lỗi, anh em hãy rửa tay cho sạch. Hỡi những kẻ hai lòng, hãy thanh luyện tâm hồn đi. Anh em hãy buồn sầu, than van và kêu khóc. Hãy đổi tiếng cười ra tiếng khóc, và đổi niềm vui ra nỗi buồn. Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ nâng anh em lên.

Ðó là lời Chúa

 

Ðáp Ca: Tv 54, 7-8. 9-10a. 10b-11a. 23

Ðáp: Hãy trút nhẹ gánh lo âu cho Chúa để chính Người nâng đỡ thân ngươi (c. 23a).

Xướng: 1) Tôi tự nhủ: ước chi tôi có cánh như bồ cầu, tôi sẽ bay đi và tìm nơi an nghỉ. Này đây tôi sẽ rời tới cõi xa xăm, tôi sẽ ở lại chỗ sơn lâm hoang vắng. - Ðáp.

2) Tôi tìm chỗ dung thân cấp tốc vội vàng, đi ngược dòng phong ba và gió lốc. Lạy Chúa, xin đập tan, xin chia rẽ ngôn từ của chúng. - Ðáp.

3) Vì tôi thấy có bạo lực và tranh chấp trong thành trì. Ngày đêm, trên mặt tường chúng đi dạo. - Ðáp.

4) Hãy trút nhẹ gánh nặng cho Chúa, để chính Người nâng đỡ thân ngươi: Người không để người hiền lương muôn đời xiêu té. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 29-36

"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.

Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.

Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Không bé nhỏ không thể chấp nhận và theo được Chúa Kitô

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Tuy nhiên cả 2 bài Phúc Âm đều được Giáo Hội, chứ không phải chính Thánh ký Marco, sử dụng cùng một câu Phúc Âm 9:9 "Khi ấy Chúa Giêu từ trên núi xuống", để mở đầu từng bài Phúc Âm, một bài được bắt đầu ở câu 13 (hôm qua) và một bài được bắt đầu ở câu 29. Như thể Giáo Hội muốn ghép biến cố đã xẩy ra trên núi trước đó với 2 biến cố liền ngay sau đó ở bài Phúc Âm hôm qua: trừ quỉ câm, và hôm nay: báo trước cuộc vượt qua lần 2.

 

Thật vậy, sau khi biến hình trên núi trước mặt 3 môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan, một sự kiện biến hình cho các vị thấy trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người, Chúa Giêsu đã trừ quỉ câm, như ám chỉ rằng Người sẽ trừ quỉ cho nhân loại bằng cuộc phục sinh của Người, hoàn toàn tiêu diệt tội lỗi và sự chết do ma quỉ gây ra cho con người, và tội lỗi cùng sự chết chỉ bị tiêu diệt nơi nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người mà thôi, như Người báo trước cho các môn đệ lần thứ hai trong bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

 

Tuy nhiên, các vị môn đệ thân cận của Người và với Người, cho dù đã sống bên Người từ đầu, thấy được các việc quyền năng đầy lạ lùng Người làm, và nghe được những lời khôn ngoan đầy khắc phục Người nói, vẫn như Thánh ký Marco thuật lại: "các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người", cho dù về ngôn từ những gì Người nói chẳng có gì là cao siêu huyền diệu hay có tính cách triết lý thần học khó hiểu.

 

Một trong những lý do các vị không hiểu, hay không thể hiểu, hoặc chưa thể hiểu, chẳng những vì những gì Chúa Kitô tiết lộ về bản thân của Người, về thân phận vô cùng khổ nạn của Người, cho dù bằng ngôn từ minh bạch nhất và bình dân nhất, vẫn là một mầu nhiệm siêu việt, hoàn toàn vượt trên tầm mức kiến thức tự nhiên của con người, nhất là ngược hẳn với lòng trông đợi của các môn đệ về Người, mà còn, bởi thế, vì chính bản chất trần tục thấp hèn của các môn đệ nữa. Mầu nhiệm về Thày đã cao siêu trong khi bản chất của môn đệ lại thấp hèn thì làm sao có thể hòa hợp được.

 

Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, khi thấy các môn đệ của mình "dọc đàng tranh luận" với nhau "xem ai là người lớn nhất", chứng tỏ các vị chẳng hiểu Người gì hết, và cũng chẳng biết các vị là ai, đang đi theo một Đấng như thế nào, trái lại, cứ tưởng Người là một Moisen "tái xuất giang hồ" để đóng vai trò Cứu Tinh dân tộc Do Thái đang bị đế quốc Roma bấy giờ, như ông đã từng đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập mà về Đất Hứa ngày xưa vậy, Chúa Giêsu mới dạy cho các vị tinh thần ngược đời của Người là: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".

 

Nếu các vị có tinh thần ngược đời này như Người dạy thì hẳn các vị đã cảm thấu được những gì Người nói trước về thân phận cứu thế của Người như một Vị Thiên Sai thực sự xuất phát từ dân Do Thái, một vị Thiên Sai được Thiên Chúa sai đến để cứu chẳng những dân Do Thái mà còn cả nhân loại nữa cho khỏi tội lỗi và sự chết, hơn là cho khỏi quyền lực chính trị, một quyền lực chính trị đang thống trị họ chỉ là tiêu biểu cho quyền lực của thần dữ, đang làm chủ thế gian ngay từ đầu lịch sử của nhân loại mà thôi.

 

Đúng thế, với tinh thần phàm tục của mình, chỉ thích tính toán như người lớn, chỉ muốn tranh giành như người lớn, hoàn toàn ngược lại với tinh thần của Chúa Kitô như thế, mà các vị, tuy thực tế vẫn theo Người đấy, nhưng tinh thần và ý thức của các vị vẫn còn quá non nớt và mềm yếu trong việc chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người như Người tiết lộ cho các vị đến 2 lần, Người đã phải thực hiện một hành động hơi lạ, được Thánh ký Marco ghi lại ở cuối bài Phúc Âm hôm nay như sau:

 

"Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy'".

 

"Em bé" nào đó được diễm phúc được Người "đem đặt giữa các ông", chắc chắn không phải từ người ta đã có lần sau đó mang đến với Người (xem Marco 10:13), mà do chính Người chọn lựa, một là ở ngay trong nhà Thày trò đang ở bấy giờ, hay ở đâu đó gần nhà này. Vấn đề ở đây là tại sao Người phải làm thế, chẳng những tìm chọn cho bằng được một em nhỏ, mà còn tỏ ra rất thương mến em ấy nữa: "rồi ôm nó". Chưa hết, Người còn tự đồng hóa với em nữa: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy".

 

Phải chăng ở đây, qua cử chỉ kèm theo lời nói của mình liên quan đến em bé bấy giờ, lúc mà Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ của Người còn đầy tinh thần phàm tục một đường lối ngược đời là "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người", Người đã muốn kín đáo nhắn nhủ các vị rằng, nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), vì Cha của Người chỉ tỏ những điều cao siêu mầu nhiệm, mà kẻ khôn ngoan thông thái lớn lao trên trần gian này không hề biết và chẳng thể biết, cho thành phần bé nhỏ mà thôi (xem Luca 10:21).

 

Em bé nào đó được Chúa Giêsu "đem đặt giữa" các tông đồ, thành phần theo Chúa và phụng sự Người bằng chứng từ của mình, quả thật là một mẫu gương cao cả đáng noi theo cho khuynh hướng phàm tục ham danh vọng của các tông đồ, những con người nên lắng nghe huấn dụ của Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay nhắc nhở như sau: "Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ nâng anh em lên". Bởi vậy, đừng tự cao tự đại tự mãn, trái lại, hãy tin tưởng vào Chúa như câu thưa của bài Đáp Ca hôm nay: "Hãy trút nhẹ gánh lo âu cho Chúa để chính Người nâng đỡ thân ngươi".

 

 

 

 

Thứ Tư sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 4, 13b-18

"Ðời sống anh em là cái gì? Lẽ ra anh em phải nói rằng: 'Nếu Chúa muốn'".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, bây giờ anh em nói: "Hôm nay hoặc ngày mai chúng tôi sẽ đến một thành nọ, rồi ở lại đó một năm mà buôn bán kiếm lời". Nhưng anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi vì đời sống anh em là cái gì? Là một chút hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi biến đi. Lẽ ra anh em phải nói rằng: "Nếu Chúa muốn, và nếu chúng tôi còn sống, chúng tôi sẽ làm điều này điều kia". Nhưng này đây, anh em huênh hoang với những lời khoác loác. Mọi kiểu, huênh hoang như thế đều xấu xa. Vậy ai biết điều lành mà không làm, thì mắc tội.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 48, 2-3. 6-7. 8-10.11

Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3).

Xướng: 1) Hỡi các dân, xin nghe lấy chuyện này; xin hãy lắng tai, hết thảy những ai cư ngụ địa cầu, người phận nhỏ cũng như người quyền thế, kẻ giàu sang cũng như kẻ cơ bần! - Ðáp.

2) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai hoạ, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người này tin cậy vào tài sản, chúng tự hào vì có bạc vạn tiền muôn? - Ðáp.

3) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền chuộc mạng. Giá chuộc mạng quá đắt, không bao giờ người ta có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết. - Ðáp.

4) Bởi lẽ người ta thấy cái chết cả những người khôn, kẻ dại kẻ ngu cũng đều phải chết, để lại cho người khác tài sản của mình. - Ðáp.

 

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 37-39

"Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con" 

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, vừa tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua về văn tự (trong cùng một đoạn và tiếp tục các câu ngay sau các câu của bài Phúc Âm trước) vừa tiếp tục về tinh thần phàm tục của các tông đồ nữa.

 

Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm hôm qua các vị đã bày tỏ tinh thần phàm tục của mình qua việc tranh giành nhau về ngôi thứ trong nội bộ của các vị, thì trong bài Phúc Âm hôm nay các vị tiếp tục tinh thần tranh giành nhau về quyền lực cùng uy thế với bất cứ ai không thuộc về nhóm của các vị, như chúng ta thấy nơi chính lời trình tâu có vẻ hung hăng kỳ thị của vị tông đồ vốn tự nhận mình là "người môn đệ được Chúa Kitô yêu" (Gioan 19:26, 20:2, 21:7,20):  "Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y'".

 

Ở đây, trong trường hợp này, qua lời của tông đồ Gioan, chúng ta không biết 2 điều cần: thứ nhất đó là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" đây là ai? thuộc loại người nào?? - Có phải là một người biệt phái hay luật sĩ là những người vốn cảm thấy mình đầy uy lực và thế giá trước mặt dân chúng nhưng lại là thành phần hầu như đa số có khuynh hướng thù địch với chung nhóm tông đồ, nhất là với riêng bản thân Chúa Giêsu là Thày của các vị hay chăng?

 

Điều thứ hai chúng ta không biết được nơi câu trình của tông đồ Gioan đó là nhân vật "nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy có thành công hay chăng? Nghĩa là có thực sự trừ được quỉ hay chăng?? Như Thày của các vị??? Và nếu quả thực "kẻ" ấy trừ được quỉ như Thày của các vị, trong khi chính các vị, vào lúc Thày của các vị ở trên núi biến hình thì ở dưới núi các vị đã không trừ được quỉ, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này cho thấy, thì chẳng có gì là khó hiểu khi Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các vị, như chúng ta đọc thấy thái độ dường như chất chứa lòng ghen tị của các tông đồ qua câu tông đồ Gioan nói.

 

Hai chi tiết được suy diễn trên đây có thể đúng: "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" là một người biệt phái hay luật sĩ và họ có thể đã thực sự trừ được quỉ. Bởi vì, có thể nói thế nhờ căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với chung các tông đồ, chứ không phải chỉ nói riêng với tông đồ Gioan, vì Người biết được tinh thần phàm tục nơi chung thành phần môn đệ của Người, chứ không phải chỉ có một môn đệ nào thôi, và cũng có thể là Người đã biết rằng các môn đệ đã xì xèo với nhau về sự kiện lạ thường xẩy ra ngoài nhóm của các vị nên các vị đã cử tông đồ Gioan dễ thương đại diện trình cho Người biết.

 

Lời của Chúa Giêsu nói ở đây được Thánh ký Marco ghi lại nguyên văn như sau: "Nhưng Chúa Giêsu phán: 'Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con'".

 

Trong câu nói này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đối tượng được Chúa Giêsu nói tới "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" có thể là một nhân vật thuộc phe biệt phái hay luật sĩ, thành phần hầu như đa số thường ác cảm với Người, chống đối Người, bắt bẻ Người từng li từng tí, tìm cách gài bẫy Người, thậm chí chụp mũ xuyên tạc Người nữa, cho Người lấy quỉ tướng trừ quỉ con v.v., vì Người nói đến chi tiết liên quan đến khuynh hướng và thái độ của thành phần này như sau: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy".

 

Cũng căn cứ vào câu nói này của Chúa Giêsu thì có thể là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy, cho dù là ai chăng nữa, như một nhân vật biệt phái hay luật sĩ nào đó, vẫn có thể thực sự trừ được quỉ, vẫn có thể "làm phép lạ". Bởi vì, theo nguyên tắc, họ chỉ là phương tiện chứ không phải nguyên lý của chính việc (trừ quỉ hay phép lạ) họ làm.

 

Đúng thế, nguyên lý chính yếu trong việc trừ quỉ hay làm phép lạ, những tác động hoàn toàn vượt khỏi tầm tay hữu hạn bất lực của con người, những việc làm thuộc về thế giới thần linh, chỉ xuất phát từ thần linh, từ quyền lực bởi trời, từ uy quyền của duy "danh Thày" mà thôi. Ma quỉ là loài vốn có quyền năng hơn loài người, nó không thể bị loài người khu trừ, ngoại trừ loài người được ban cho một quyền lực cao tay hơn nó, như từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tên quỉ câm đã từng ám bé trai từ lâu, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này thuật lại: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất".

 

Bởi vì Thiên Chúa mới là chính, còn tất cả mọi sự khác chỉ là những gì phụ thuộc, bao gồm mọi tác nhân, dù thuộc thành phần nào, dù là biệt phái hay luật sĩ hoặc tông đồ, thậm chí dù xấu đến đâu chăng nữa, (như trường hợp vị linh mục thừa tác viên thánh vừa phạm tội trọng xong, cho dù có ban các bí tích thánh ngay sau đó thì bí tích ngài ban ấy vẫn thành), cũng đều là phương tiện được Chúa sử dụng để thực hiện ý định vô cùng khôn ngoan, toàn năng và yêu thương của Ngài trong việc tỏ mình Ngài ra qua họ và cho chính họ, mà tất cả đều bình đẳng trước mặt Chúa, đều không được nghi kỵ chống đối hay tranh giành nhau, như chính Chúa Giêsu đã minh định và xác quyết với các môn đệ của Người trong câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con". Nghĩa là ai cũng phải làm sao để có thể sống vì Chúa và cho Chúa dù ý thức hay vô thức.

 

Cảm Nghiệm

 

Trong đời sống đạo của chúng ta cũng thế, nhất là trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ, chúng ta, thành phần mang danh là môn đệ của Chúa Kitô, thành phần đạo đức tốt lành, thậm chí còn hăng say phục vụ cộng đồng dân Chúa để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô trong tầm tay và hoàn cảnh của mình, thường vẫn còn mang nặng tâm thức bè phái và cạnh tranh.

 

Bởi thế, chúng ta hay có ý nghĩ hay lời nói khinh thường những ai ngoại đạo, hay đồng đạo mà sống bê tha tội lỗi. Hội đoàn hay đoàn thể của chúng ta phải nổi hơn các tổ chức khác, hay chỉ có phong trào của chúng ta mới làm được việc này việc kia. Nhất là không có cá nhân của chúng ta trong hội đoàn hay phong trào, hoặc trong giáo xứ hay cộng đoàn, thì những cơ cấu tổ chức ấy không phát triển được. Không ai có thể làm thay chúng ta hay hơn chúng ta trong tổ chức được chúng ta cộng tác hay lãnh đạo. Bởi thế khi có người nổi hơn chúng ta hay được dân Chúa mộ mến hơn chúng ta, chúng ta tỏ ra những lời nói và thái độ khinh thường, chỉ trích, chê bai, chụp mũ, xuyên tạc v.v. làm sao cho họ bị hạ bệ... không bằng chúng ta, không như chúng ta!

 

Vì chúng ta coi mình không phải chỉ là những gì phụ thuộc, trái lại lấy mình là chính yếu trong hết mọi sự như thế, chứ không phải Thiên Chúa và thay cho Thiên Chúa, chiếm chỗ của Thiên Chúa, mà chúng ta, như kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chúng ta hay có nhiều kẻ thù, và gặp nhiều trục trặc rắc rối trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ của mình. Thậm chí đến độ bỏ cuộc hay phá ngang vì bất mãn và hận thù ghen ghét!

 

Tinh thần yêu thương đoàn kết trong Chúa là Chủ Tể mọi sự và là cùng đích của mọi sự là những gì khôn ngoan rất đúng với dự án thần linh và ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, bao gồm từng cá nhân cũng như chung tập thể loài người, và loài người có được Ngài sử dụng hay được ban cho hơn ai khác thì họ cũng chỉ là phương tiện của Ngài, và cần phải chia sẻ những gì Ngài ký thác cho họ, như những nén bạc ân sủng cần phải sinh lợi theo ý chủ là Ngài.

 

Thật vậy, nếu chia rẽ thì chết và tiêu biểu cho sự chết, ngược lại đoàn kết thì sống và tiêu biểu cho sự sống, thì quả thực chỉ có sống vì Chúa và trong Chúa mới sống thực sự hiệp thông, một sự sống hiệp thông phổ quát bao gồm tất cả mọi người. Đó là ý nghĩa của những gì Thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên dạy thành phần Kitô hữu "huênh hoang với những lời khoác lác", tự cao tự đại tự đắc đối với những ai không thuộc về mình hay theo bè phái của mình trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi vì đời sống anh em là cái gì? Là một chút hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi biến đi. Lẽ ra anh em phải nói rằng: 'Nếu Chúa muốn, và nếu chúng tôi còn sống, chúng tôi sẽ làm điều này điều kia'", nghĩa là một sự sống của thành phần nghèo hèn bé mọn trước mặt Thiên Chúa, chỉ biết tìm kiếm Chúa và sống trọn ý Chúa, nhưng lại là thành phần có phúc, đúng như câu đáp của Bài Đáp Ca hôm nay thâm tín và cảm nhận: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".

 


Thánh Rita Cascia 22/5

Thánh Rita Cascia - Tủ Sách Công Giáo

 

Thánh nữ Rita (1387 - 1457) - Hồ Đắc Hóa - Hoa Xương Rồng

 

 

Thánh Rita Cascia - Memaria.net

 

 

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 5, 1-6

"Tiền công của những người làm công mà các ngươi đã gian lận đang kêu gào, và tiếng gào ấy đã lọt thấu tai Chúa".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét, và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi, và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết.

Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào, và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 48, 14-15ab. 15cd-16. 17-18. 19-20

Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3).

Xướng: 1) Ðó là đường lối của những người tự tín ngu si, chung cục của những ai thoả mãn về số phận. Chúng như đoàn chiên bị dẫn xuống âm ty, tử thần chăn nuôi và người hiền lương cai trị chúng. - Ðáp.

2) Trong giây phút chúng thay đổi hình dung, và địa ngục sẽ là gia cư của chúng. Nhưng Chúa sẽ cứu hồn tôi thoát nơi địa ngục, bởi lẽ rằng Người sẽ tiếp nhận tôi. - Ðáp.

3) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng: bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ. - Ðáp.

4) Dầu khi còn sống họ ca tụng mình rằng: "Thiên hạ sẽ khen ngươi, vì ngươi biết khôn ngoan tự liệu", họ sẽ tìm đến nơi đoàn tụ của tổ tiên, những người muôn thuở không được nhìn xem sự sáng. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 40-49 (Hl 41-50)

"Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa.

"Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Thiên đàng toàn là thành phần bị tàn tật

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, như bài Phúc Âm hôm qua, cũng tiếp tục bài Phúc Âm của ngày hôm trước. Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay đáng lẽ phải được đọc cùng với bài Phúc Âm hôm qua mới đúng. Bởi Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ của Người chưa xong thì bị Giáo Hội cắt ngang, không cho đọc nữa, để những lời Chúa Giêsu đang muốn nói ấy sang bài Phúc Âm cho ngày hôm nay.

 

Thật vậy, lời Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm qua là "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con", và Người chưa nói hết những gì Người đang muốn nói bấy giờ là "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu...", thì câu này, cùng với các câu sau đó, được chuyển sang câu đầu của bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, không phải là vô lý mà Giáo Hội dám cắt ngang Lời Chúa của mình như thế. Bởi có lẽ Giáo Hội thấy rằng những gì Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay là một vấn đề khác, hoàn toàn khác, nhưng được chuyển tiếp bằng câu đầu tiên vừa được trích dẫn trên đây. Thế nhưng, nếu lưu ý, chúng ta sẽ thấy vấn đề trong bài Phúc Âm hôm qua và vấn đề trong bài Phúc Âm hôm nay vẫn có tính cách liên tục và liên hệ với nhau làm sao ấy, một cách nào đó.

 

Đúng thế, trong khi vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lời minh định của Chúa Giêsu về thành phần làm việc lành thay Người cho anh chị em mình: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy", thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến một loại người hoàn toàn ngược lại, đó là loại người tác hại đến phần rỗi của anh chị em mình, bằng gương mù gương xấu họ gây ra, những hành động đáng bị trừng phạt xứng đáng: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn".

 

Vẫn biết ai phạm tội thì phải chịu hình phạt tương xứng với tội phạm của mình, chứ không phải mình phạm rồi người khác chịu phạt thay mình, như chúng ta có khuynh hướng đổ tội cho nhau, như thể chúng ta vấp phạm là do người khác, nên mình vẫn đáng thông cảm tha thứ, còn người làm cớ cho mình sa ngã mới đáng bị phạt hơn là mình và thay vì mình.

 

Tuy nhiên lời Chúa Giêsu vừa quả quyết trên đây về thành phần gây dịp vấp ngã cho người khác, tuy họ phải gánh chịu trách nhiệm về việc làm xấu gây tác hại thiêng liêng của họ như vậy, nhưng ai phạm tội theo gương mù gương xấu của họ vẫn phải chịu trách nhiệm về tội phạm của mình, chứ không phải họ cần phải hay buộc phải chịu tội thay cho mình.

 

Dầu sao thành phần gây ra gương mù gương xấu trên thế gian này, trong xã hội loài người, trong đời sống chung, một hiện tượng gương mù gương xấu không thể nào không có, không thể nào không xẩy ra (xem Mathêu 18:7), vì con người trần gian chúng ta ai cũng mang một bản chất bất toàn, luôn sống với một bản tính đã bị hư đi bởi nguyên tội, đầy những đam mê nhục dục, luôn xu hướng về tội và có thể liên lỉ phạm tội nếu không có ơn Chúa.

 

Thành phần gây ra gương mù gương xấu chẳng những phải chịu trách nhiệm nặng nề về những gì mình gây ra, như thể bị "buộc thớt cối xay vào cổ", mà còn phải bị "xô xuống biển" nữa, tức bị thế gian là nơi đầy những biến động như biển khơi vùi lấp đi, như Tiên Tri Giona bị đám thủy thủ trên con tầu ông đang muốn lợi dụng để tẩu thoát lệnh truyền của Thiên Chúa sai ông, con tầu đang bị bão tố biển khơi tấn công như thể sắp sửa bị lật nhào mất tích, bất đắc dĩ ném ông xuống biển để cứu bao nhiêu là sinh mạng vô tội bị chết bởi tội ông gây ra (xem Giona 1:13-15).

 

Nếu Tiên Tri Giona nhờ tai nạn "bị xô xuống biển" này để cứu bao nhiêu sinh mạng khác, đáng lẽ bị chết đi bởi tội lỗi của ông được Thiên Chúa cứu sau đó, nhờ một con cá nuốt vào bụng nó thế nào, và nhờ đó ông đã được vào bờ an toàn, thì thành phần gây ra gương mù gương xấu cũng có thể được cứu độ như thế, một khi biết ăn năn thống hối nhận ra lầm lỗi của mình. Đó là phần của những ai gây ra dịp tội cho người khác, phải gánh chịu hậu quả những gì mình gây ra làm thiệt hại đến phần rỗi của người khác, nhưng người khác bị hư đi thì lại do chính đương sự nạn nhân chứ không phải chính tác nhân gương mù.

 

Bởi vậy mà Chúa Giêsu còn cảnh giác cả thành phần đương sự nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay nữa. Không phải hay sao, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi nói về thành phần tác nhân gương mù Người đã nói ngay đến thành phần đương sự chủ thể. Theo giáo huấn của Người trong bài Phúc Âm hôm nay thì dịp tội ở ngay bản thân của đương sự chủ thể, chứ không phải ở tác nhân gương mù. Một đàng ở bên ngoài đương sự chủ thể - đó là gương mù, có tính cách khách quan, một đàng ở tại bản thân đương sự chủ thể - đó là dịp tội, có tính cách chủ quan.

 

Nghĩa là, cho dù thế gian có đầy những gương mù gương xấu không thể nào không xẩy ra, nhưng đương sự chủ thể vẫn không vì thế mà sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, người con gái ăn mặc thời trang có vẻ sexy thời đại một cách ngây thơ vô tội, nhưng lại gây gợi cảm kích dục nơi nam nhân, nhất là nơi những con mắt vốn thèm thuồng xác thịt, nhưng vẫn không thể nào, hay khó lòng, mà trở thành dịp tội cho bất cứ nam nhân nào biết cẩn thẩn khổ chế ngũ quan hay sống đức tin chân chính.

 

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".

 

Ở đây, qua câu Phúc Âm này, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến chẳng những dịp tội ở nơi chính chủ thể, nhất là ở 3 cơ quan đặc biệt là tay, chân và mắt trên thân thể của con người, mà còn sâu xa nói đến tiến trình phạm tội của con người nữa, một tiến trình từ ngoài vào trong, liên quan đến 3 cơ quan được Người nhắc đến. Tại sao Người không nhắc đến miệng hay tai cũng là các cơ quan dễ phạm tội nhất như mắt, mà chỉ nói đến tay, chân và mắt. Theo người viết thì "tay" là tiêu biểu cho việc làm sai trái của con người, nhưng việc làm sai trái bề ngoài đó là do quyết định bên trong của con người, một tác động nhất định làm theo ý mình có thể nói được tiêu biểu nơi "chân" bước đi của con người, và con người thường chỉ quyết định sai trái lầm lạc theo phán đoán mù tối hay theo lòng tham vọng của con người, những tác động phán đoán hay tham vọng tâm linh có thể nói được tiêu biểu nơi con "mắt" của họ. 

 

Như thế, có thể nói một cách loại suy và tếu táo rằng nếu "thà con mất một tay mà được vào cõi sống... (và) thà con mất một chân mà được vào cõi sống" thì ở trên Thiên Đàng toàn là những người bị tàn tật, mù lòa và què cụt, bởi khi còn ở trên thế gian này họ đã hy sinh tất cả những phần thể ấy của họ để được rỗi, "còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục... còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục", bởi vậy khi chết đi ai mà còn lành mạnh cả thân thể thì số phận đời đời của họ chẳng còn ở đâu khác ngoài hỏa ngục.... Thật ra thì hoàn toàn ngược lại, một khi thân xác của người lành được phục sinh trong ngày sau hết thì nên giống thân thể vinh quang của Chúa Kitô (xem Philiphe 3:21), trong khi thân xác của thành phần bị "chết lần thứ hai" (Khải Huyền 20:14) cũng sống lại nhưng "bị quăng vào hồ lửa" (Khải Huyền 20:14), phản ảnh tất cả những gì là khốn cực, hư hoại và chết chóc.

 

Bởi chính dịp tội ở ngay bản thân con người chứ không phải ở ngoài con người như gương mù gương xấu thế gian mà con người cần phải giữ mình nói chung, cần phải khổ chế giác quan và tình cảm nói riêng, để khỏi bị sa ngã phạm tội, để khỏi bị ảnh hưởng tai hại hay chiều theo gương mù gương xấu thế gian, mà ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vừa cảnh giác vừa kín đáo dạy cho các môn đệ của Người cách thức khôn khéo như sau:

 

"Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa":  bởi "mọi người" không trừ ai ở trên đời này tự mình mà không sa ngã phạm tội làm những gì trái với lương tâm nên bị lương tâm nung nấu cắn rứt như bị "ướp bằng lửa", thứ lửa trần gian còn được thanh tẩy, hơn là thứ lửa hỏa ngục trừng phạt muôn kiếp đời sau.

 

 "Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được?": "muối" đây trước hết ám chỉ tính chất khổ chế cần phải có nơi đời sống thiêng liêng để ướp cho bản thân con người vốn yếu đuối đầy những mầm mống tội lỗi chết chóc khỏi sa ngã phạm tội mà bị hư đi như những thứ cá ươn thối.

 

"Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau": "muối" ở đây, sau nữa, còn ám chỉ tính chất nhẫn nhịn nhau trong đời sống bác ái yêu thương tha nhân, nhờ đó con người ướp cho nhau khỏi bị ươn thối gây ra bởi những thái độ và phản ứng gương mù gương xấu của mình.

 

Cảm Nghiệm

 

Chúng ta dù có xưng tội thường xuyên, nhưng nếu không biết mình, không nhận lỗi, thì việc xưng tội của chúng ta nên xét lại, bởi chúng ta chẳng những không thật lòng ăn năn thống hối mà còn chẳng biết mình xưng tội ra sao nữa. Có những tội thật chúng ta lại cho rằng không phải là tội. Chúng ta còn cho rằng chúng ta vấp phạm là do ngoại cảnh chứ chúng ta không tự mình phạm tội, không cố ý phạm tội, nếu không có dịp tội, nếu không thấy người con gái duyên dáng hấp dẫn ấy v.v.

 

Mà nếu không biết mình, không nhận lỗi thì làm sao có thể sửa lỗi và cải thiện được. Nhất là làm sao có thể ăn năn thống hối về tội mình phạm trước khi xưng tội. Bởi thế, chúng ta vẫn tiếp tục sống trong dịp tội và chiều theo dịp tội, mà cứ tưởng mình có tội gì đâu mà xưng v.v. Và nếu có thói quen xưng tội hằng tháng chăng nữa, cũng cứ tưởng mình công chính hơn người khác. Những con người không tránh dịp tội ở ngay nơi bản thân của mình, thì mọi sự, dù tự bản chất nó tốt, nó vẫn có thể trở thành cớ ("gương mù") gây ra hành động phạm tội của họ.

 

Đó là lý do Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay mới khuyên thành phần bất khôn không thể nào không gây ra gương mù gương xấu hay tránh được gương mù gương xấu những lời lẽ rất chân thật và hữu ích đầy cảnh giác sau đây:

 

"Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét, và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi, và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết".

 

Theo chiều hướng đó, Bài Đáp Ca hôm nay cũng mới cảnh báo nguy cơ liên quan đến "đường lối của những người tự tín ngu si... Chúng như đoàn chiên bị dẫn xuống âm ty" (câu 1) và "địa ngục sẽ là gia cư của chúng" (câu 2), "lúc lâm chung, chúng chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng cùng chúng chui xuống nấm mồ" (câu 3)

 

 

 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 5, 9-12

"Kìa quan toà đã đứng trước cửa".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị lên án. Kìa quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa. Ðây chúng ta gọi những người đã kiên nhẫn đau khổ là có phúc. Anh em đã nghe nói đến sự kiên nhẫn của Gióp và đã thấy kết cuộc Chúa dành để cho ông, vì Chúa đầy lòng thương xót và lân mẫn.

Anh em thân mến, trước hết, anh em đừng (có) thề, dầu viện trời, dầu viện đất hay viện một hình (vật gì) khác. Lời nói anh em phải là: Có rằng có, không rằng không, để anh em khỏi bị toà án luận phạt.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8-9. 11-12.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.

4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng ta. - Ðáp.

 

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 1-12

"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ. Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?"

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế?

 

Suy Niệm

 

Vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn khác với các vấn đề của các bài Phúc Âm trước đây trong tuần. Tuy nhiên, ở một nghĩa nào đó, có thể nói vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay một phần nào liên hệ với vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua. Nếu vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua về vấn đề gương mù gương xấu trong thế gian và dịp tội nơi chủ thể phạm nhân thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội) và về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân).

 

Trước hết, về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội): "Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: 'Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?'". Sở dĩ vấn đề ly dị ở đây, dù có được phép chăng nữa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị", nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần bộ mặt bất chính của nó như sau: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó".

 

Sau nữa, về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân): "Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

 

Ở đây chính Chúa Giêsu đã trả lại cho ý nghĩa đích thực và giá trị cao cả của hôn nhân theo dự án thần linh từ nguyên thủy của Thiên Chúa Hóa Công. Chưa hết, để bổ túc thêm cho phần tích cực của hôn nhân liên quan đến ý nghĩa và giá trị của nó theo dự án thần linh, trong câu trả lời cho riêng các môn đệ của mình sau đó, Chúa Giêsu còn bồi thêm phần tiêu cực liên quan đền thành phần ly dị nữa, như sau: "Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: 'Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình'".

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế? Tại vì "ngoại tình", dù là "ngoại tình" kín đáo trong tâm tưởng (xem Mathêu 5:28), tự nó bao giờ cũng là hành động "ly dị" lén lút, "ly dị" tạm thời, bởi lòng của người vợ hay người chồng "ngoại tình" ấy đã thật sự bất trung với lời thề hứa thủy chung của mình cho tới cùng với con người được chính Thiên Chúa đã Đấng đã xe duyên kết nghĩa vợ chồng cho mình. Và chính vì hành động ngoại tình, cho dù chưa thật sự có liên hệ xác thịt với một người không phải là vợ hay chồng chính thức của mình, cũng là một trọng tội, chứ không phải là một tội nhẹ, bởi hành động "ngoại tình" này hoàn toàn phản lại với bản chất của hôn nhân theo ý Chúa. 

 

Nếu "sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ" thì người phối ngẫu của mình chính là người được Thiên Chúa chọn cho mình, được Ngài mang đến cho mình, một cách nào đó và vào một lúc nào đó, và lòng mình cảm nhận được con người thiên duyên ấy, và tự nhiên yêu thương quyến luyến với con người như thuộc về mình từ bao giờ ấy, đến độ sống không thể thiếu được người ấy, và đến độ con người ấy trở thành như thể chính bản thân mình, chính lẽ sống của mình, không thể nào không trở nên một xác thịt trong đời sống hôn nhân gia đình.

 

Thật vậy, "từ lúc khởi đầu sáng tạo", con người duy nhất bấy giờ (là Adong) được Thiên Chúa mang nàng Evà đến cho chàng, chứ không phải chàng tự đi tìm kiếm, hay nói đúng hơn, chàng hằng thiết tha khao khát một người nội trợ xứng hợp với mình, một niềm khát vọng ở tận thâm tâm của chàng, được biểu hiệu qua một giấc ngủ say (xem Khởi Nguyên 2:21), để rồi khi thức dậy sau một giấc ngủ thật say, như thể nội tâm của chàng đã cảm nghiệm được chính bản thân của chàng, thì phản ứng đầu tiên ngay tức khắc và duy nhất của chàng bấy giờ là nhận biết và chấp nhận những gì từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa: "Cuối cùng nàng đây mới là xương bởi xương của tôi, thịt bởi thịt của tôi" (Khởi Nguyên 2:21-24), rồi đáp ứng bằng cách "lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể" (Khởi Nguyên 2:24).

 

Chữ "cuối cùng" trong câu nói công khai đầu tiên của con người về bản thân mình cho thấy lòng khát vọng tìm được "một người nội trợ xứng hợp với mình" (Khởi Nguyên 2:20), một con người vượt trên mọi loài muông thú đã được chàng nhận biết rõ ràng và đặt tên cho từng con (xem Khởi Nguyên 2:19), nhưng chúng vẫn không hợp với chàng, nên chàng đành phải tiếp tục sống lẻ loi cô độc là một tình trạng không hợp với chàng và "không tốt" (Khởi Nguyên 2:18), nghĩa là không trọn vẹn đối với chàng là một con người chẳng những được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ duy nhất, mà còn được dựng nên tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ hiệp thông, cho đến khi "cuối cùng" chàng đã được toại nguyện, ở chỗ có đôi: "Thiên Chúa đã dựng nên họ có nam có nữ" (Khởi Nguyên 1:27).

 

Sau này, cho dù có nghe theo vợ mình là Evà mà anh chồng Adong đã trở thành đồng phạm ăn trái cấm với nàng và vì thế đã trắng trợn phạm đến Thiên Chúa tối cao là Đấng đã tạo dựng nên mình, nhưng trong câu đáp lời Thiên Chúa hạch hỏi: "Ai đã bảo ngươi rằng ngươi trần truồng...?", chàng vẫn công nhận nàng chứ không bao giờ chối bỏ nàng hay ruồng bỏ vợ của chàng: "Người nữ mà Ngài đã cho ở với con đây..." (Khởi Nguyên 3:12), câu thứ hai con người thân thưa cùng Vị Thiên Chúa Hóa Công của mình.

 

Nghĩa là Adong vẫn công nhận Evà thuộc về chàng và nàng được chính Thiên Chúa cho ở với chàng, bằng không, nếu chàng bỏ nàng là chàng, trước hết và trên hết, bỏ Chúa, là chàng "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết ràng buộc" chàng với nàng. Ngay từ ban đầu không có như vậy, không có vấn đề hay tình trạng ly dị, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, ngày nay, theo chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, con người tôn thờ nhân quyền theo cá nhân chủ nghĩa, họ chủ trương "pro choice" trong cả hôn nhân (chứ không phải chỉ trong việc phá thai), ở chỗ, tôi có quyền lấy người này thì tôi cũng có quyền bỏ họ mà lấy người khác tùy tôi; người phối ngẫu của tôi là do chính tôi chọn lựa theo ý thích, ý nghĩ và ý muốn chủ quan và tự do của tôi, chứ không phải Thiên Chúa chọn cho tôi nên tôi phải chấp nhận họ, và không bao giờ được bỏ họ khi tôi không còn thích họ nữa.

 

Cảm Nghiệm

 

Hôn nhân, theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay và mạc khải Thánh Kinh, là do Thiên Chúa thiết lập và xe duyên kết nghĩa cho từng cặp, vì con người được Ngài dựng nên "có nam có nữ", nhờ đó họ có khả năng hiệp thông như Ngài bằng yêu thương, một yếu tố bất khả thiếu khiến họ nhận biết nhau và hiệp nhất nên một với nhau như vợ chồng.

 

Chính mối hiệp nhất nên một xác thịt này giữa con người nam nữ phối ngẫu với nhau là thực tại đòi tình yêu phối ngẫu phải là một tình yêu vĩnh viễn, tình yêu trọn đời, bất chấp tất cả những gì khác biệt nơi nhau (như sở thích hay văn hóa hoặc tôn giáo), tất cả những gì nghịch lại với nhau (như tính nết hay chủ trương hoặc chọn lựa), thậm chí bất chấp tất cả những gì xúc phạm đến nhau (như khinh bỉ nhau hay nguyền rủa nhau hoặc phản bội nhau).

 

Thế nhưng, sống với bản tính đã bị hư đi theo nguyên tội, ơn gọi và đời sống hôn nhân không dễ dàng bền vững cho đến cùng, nhất là trong thế giới đang tôn thờ cái tôi, chỉ biết quyền làm người hơn tình người, thì động một tí là họ có thể bỏ nhau, có thể "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết".

 

Kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chính lúc con người sống đời vợ chồng có thể chứng tỏ tình yêu thương nhau một cách chân thực nhất và hoàn hảo nhất thì họ lại ly dị nhau, đó là khi họ xúc phạm đến nhau, khi họ chịu đau khổ bởi nhau. Và sở dĩ họ bỏ nhau là vì họ yêu nhau tự nhiên, trần tục, thường là theo sắc dục và lợi lộc hơn là trong Chúa là Đấng đã xe duyên kết nghĩa cho họ. Cho dù ngay từ đầu tình yêu của họ là một tình yêu đầy ý thức và có tính cách siêu nhiên, nhưng khi va chạm với những gian nan khốn khó và thử thách tình yêu chân thành ấy để nó trở thành tình yêu trọn hảo như tình yêu của Thiên Chúa, thì họ lại không thể tiếp tục chấp nhận nhau được nữa, không thể sống với nhau được nữa, bất chấp lợi ích của con cái v.v.

 

Đó là lý do vấn đề chọn lựa bạn hữu nói chung và nhất là người bạn tình muôn thuở sống đời với mình nói riêng là những gì rất quan trọng ngay từ ban đầu, cần phải thực hiện bằng lý trí hơn là chỉ duy bằng tình cảm, một tác động lý trí bất khả thiếu để khôn ngoan sáng suốt chọn lựa trong cầu nguyện và được tác động bởi đức tin. Một khi đã chọn lựa và chấp nhận nhau thật sự bằng đức tin ngay từ ban đầu thì chắc chắn sẽ trung thành với nhau đến cùng, bất chấp giá nào, đúng như nhận định của Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến chính sự chân thật và lòng trung thực, đặc biệt trong đời sống hôn nhân gia đình: "Lời anh em nói thì phải có là có, không là không, nhờ đó anh em mới khỏi bị toà án luận phạt".

 

Tuy nhiên, muốn trung thành với nhau hay thủy chung với nhau trong đời sống hôn nhân vợ chồng, một đời sống mà thế giới càng văn minh, càng nhân bản và nhân quyền thì càng ngày càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, đến độ đã có nhiều người cảm thấy hoàn toàn bất khả, ở một tỷ lệ li dị trên 50% nơi thế giới Tây phương tân tiến vốn được gọi là thế giới Kitô giáo, Thánh Giacôbê ở Bài Đọc 1 còn cống hiến một lời khuyên hết sức chí lý và hiệu nghiệm nhất là đối với đời sống hôn nhân vợ chồng, đó là: "Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa". Tại sao thế? Tại vì các vị tiên tri là thành phần chỉ nói và làm những gì Chúa muốn chứ không phải ý của mình, bất chấp mọi gian khổ. Vậy thì vợ chồng sống với nhau, biết chấp nhận Chúa trong nhau, hay biết yêu nhau vì Chúa, thì không thể bỏ nhau, dù có chịu khổ bởi nhau cách nào!

 

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 5, 13-20

"Lời cầu nguyện của người công chính rất linh nghiệm".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, ai trong anh em buồn sầu, người đó hãy cầu nguyện. Còn ai hân hoan, người đó hãy ca hát thánh vịnh. Ai trong anh em ốm đau ư? Hãy mời các trưởng lão giáo hội đến, để các ngài cầu nguyện và nhân danh Chúa xức dầu cho người đó. Lời cầu nguyện phát xuất tự lòng tin sẽ cứu được bệnh nhân và Chúa sẽ cho người đó được bình phục; và nếu người đó mắc tội, thì sẽ được tha. Vậy anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được cứu độ, vì lời cầu nguyện của người công chính rất linh nghiệm. Elia là con người đau khổ giống như chúng ta, thế mà ông kiên tâm cầu nguyện để trời đừng có mưa, và trời đã không mưa trong ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu nguyện, và trời đổ mưa, đất trổ sinh hoa quả.

Anh em thân mến, nếu ai trong anh em lạc đường chân lý, và có kẻ làm cho người đó trở lại, thì người ấy hãy biết rằng: kẻ làm cho người tội lỗi bỏ đường lầm lạc mà trở lại, sẽ cứu linh hồn người tội lỗi khỏi chết, và che lấp được nhiều tội lỗi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 140, 1-2. 3 và 8

Ðáp: Xin cho lời con nguyện bay lên Chúa như hương trầm (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con kêu lên Chúa, xin mau chóng phù trợ con, nguyện nghe tiếng con, lúc con kêu cầu Chúa. Xin cho lời con nguyện bay lên Chúa như hương trầm, tay con giơ lên thành như của lễ lúc chiều hôm. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin đặt quân gìn giữ miệng và lính canh gác gần cửa môi con. Ôi lạy Chúa, con mắt con hướng nhìn về Chúa, con tìm nương tựa nơi Ngài, xin đừng huỷ mạng sống con. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 13-16

"Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Linh đạo Kitô giáo không phải ở chỗ trưởng thành lớn lên mà là trở nên ngây thơ nhỏ bé

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy, đó là cảnh tượng "người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu". Sở dĩ nói rằng đây là một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy là vì thường dân chúng chỉ mang các bệnh nhân đến với Chúa Giêsu để được Người chữa lành thôi, hay dân chúng kéo đến với Người để nghe Người giảng dạy.

 

Hôm nay, trong bài Phúc Âm này, cho dù các em nhỏ chẳng có bệnh tật gì và chẳng hiểu Người nói gì, cũng được người lớn mang đến với Người, với mục đích được Thánh ký Marco tiết lộ là "để Người đặt tay trên chúng", thế thôi. Ở sự kiện này chúng ta thấy một sự lạ khác là trong khi những người mang các em nhỏ đến với Chúa Giêsu thì họ lại gặp phải một phản ứng bất lợi, đó là: "các môn đệ khiển trách họ".

 

Qua cuộc đụng độ bất ngờ này, một cuộc đụng độ ngoài dự tưởng của những người mang trẻ nhỏ tới với Chúa Giêsu, vì họ chỉ nhắm tới Chúa Giêsu thôi, chứ không để ý gì tới các môn đệ của Người. Không biết có ai trong họ cự lại các tông đồ hay chăng: "Ủa, chúng tôi mang con trẻ nhỏ ngây thơ vô tội đến với Thày của các ông là Đấng đầy yêu thương từng người mà tại sao các ông lại ngăn cản chúng tôi chứ?"

 

Chắc không có chuyện giả tưởng này, nhưng dầu sao cũng cho thấy hai tâm thức khác nhau, giữa dân chúng không sống gần Chúa Giêsu bằng các môn đệ của Người, song lại hiểu Người hơn các vị, thành phần như người con lớn trong dụ ngôn người cha nhân hậu, dù liên lỉ ở với cha, mà chẳng hiểu cha bằng người em hoang đàng của hắn.

 

Câu Chúa Giêsu can thiệp vào vụ đụng độ bất ngờ trước mặt Người bấy giờ đã cho thấy rõ ai hơn ai đối với Người liên quan tới tinh thần của Người: "Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: 'Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó'. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng".

 

Đúng thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô là thành phần người lớn, với đầy những hướng chiều và tham muốn phàm tục trong việc tranh chấp ngôi vị, như Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này cho thấy. Các vị coi Thầy của các vị là một Đấng uy nghi cao cả, chỉ có các vị hay thành phần giáo quyền hoặc thành phần biệt phái cùng luật sĩ hay các tư tế mới có tư cách gặp Người, hoặc những ai chính Người muốn gặp gỡ họ thôi, chứ không phải ai cũng được phép gặp Người, chẳng hạn như đám trẻ em được thành phần phụ nữ quê mùa tầm thường dẫn tới như vậy.

 

Các vị vẫn chưa hiểu được giáo huấn của Thày mình. Mới cách đó không lâu, chính Chúa Giêsu đã đích thân tìm một em bé, rồi "đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy'", thế mà các vị vẫn chưa lĩnh hội hết ý muốn của Người, nên hôm nay, trong bài Phúc Âm này, Người lại phải lợi dụng dịp này để nhắc nhở các vị.

 

Trong câu Người nói với các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm Thứ Ba tuần này: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy" nghĩa là, như đã chia sẻ hôm Thứ Ba, "nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải 'hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ' (Mathêu 18:3)", thì "Nước Thiên Chúa" được Người nói trong bài Phúc Âm hôm nay chính là bản thân Người.

 

Thật vậy, hình ảnh và tác động "Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng" trong bài Phúc Âm hôm nay, không phải hay sao, đã chứng thực Người chính là "Nước Thiên Chúa" , một thực tại thần linh "là của những người giống như chúng", tức của những ai để cho Người "ôm", hoàn toàn tin tưởng vào Người, chấp nhận tất cả những gì Người tỏ ra cho họ, bằng không, một khi coi mình là người lớn, xấu hổ không để cho Người "ôm" thì họ sẽ không thể nào có thể ở trong Người và Người ở trong họ: "Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó"

 

Cảm Nghiệm

 

Linh đạo của Kitô giáo không phải là một tiến trình tiến đức lớn lên mà là nhỏ lại. Ở chỗ, Thiên Chúa càng làm chủ linh hồn thì linh hồn càng tràn đầy Chúa, khi Chúa tỏ mình ra cho họ và qua họ cho thế gian, nhờ đó thế gian nhận biết Ngài qua họ và nhờ họ.

 

Kinh nghiệm tu đức cho thấy, trong đời sống thiêng liêng của Kiô hữu, Thiên Chúa bao giờ cũng muốn làm cho linh hồn nhận biết Người, nghĩa là Ngài luôn tỏ mình ra cho họ, cho đến khi họ có thể đạt tới tầm vóc vẹn toàn của Chúa Kitô là đầu (xem Epheso 4:13,15).

 

Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng chủ động; con người chỉ làm sao đón nhận và đáp ứng. Kitô hữu trưởng thành (hay "lớn lên") trong đời sống thiêng liêng nhờ Thiên Chúa càng ngày càng sống trong họ, nơi ý nghĩ lòng muốn của họ, qua lời nói phát ngôn của họ và ở hành vi cử chỉ cùng phản ứng có tính cách thần linh của họ.

 

Thế nhưng, bởi nguyên tội, con người vốn xu hướng về "trái cấm", nghĩa là luôn xu hướng về tất cả những gì trái với ý muốn của Thiên Chúa, bởi thế, để được thừa hưởng Nước Trời, con người cần phải "hoán cải và trở nên như những trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), và để cứu độ con người mù quáng, chính Thiên Chúa cũng phải "ra tay uy quyền đánh tan người kiêu ngạo", cũng phải "hạ người quyền hạnh xuống khỏi vị cao" và cũng phải "để người giầu có trở về tay không" (Luca 1:51-53), nghĩa là Ngài làm cho họ phải nhỏ bé lại và làm sao biết kính sợ Ngài, như lòng thương xót Ngài đối với họ.

 

Con người dù có hèn hạ xấu xa tội lỗi đến đâu đi nữa, Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót vẫn không thể nào bỏ họ, trái lại, Ngài sẽ làm hết cách để cứu họ, một loài tạo vật đã được Ngài tạo dựng nên" chẳng những "theo hình ảnh của Chúa" mà còn nhờ đó có được những khả năng để nhận biết Ngài và sống xứng đáng với thân phận làm người cao cả của họ, đến độ nếu chính bản thân họ không thể tự cứu được họ thì Ngài có thể sử dụng một thừa tác nhân nào đó để cứu họ, như Thánh Giacôbê trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy: "Anh em hãy cầu nguyện cho nhau để anh em được cứu độ, vì lời cầu nguyện của người công chính rất linh nghiệm. Elia là con người đau khổ giống như chúng ta, thế mà ông kiên tâm cầu nguyện để trời đừng có mưa, và trời đã không mưa trong ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu nguyện, và trời đổ mưa, đất trổ sinh hoa quả".

 

 

3 Vị Thánh cùng Ngày 25/5


Thánh BÊ-ĐA Đáng Kính


Linh mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (673 - 735)

 

Venerable Bede High Resolution Stock Photography and Images - Alamy

 

 

Thánh Bede với Một Âu Châu Kitô Giáo

 

Chính thánh Beđa kể cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài câu thêm vào cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên Bêđa theo từ ngữ Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu nên người ta thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy tuổi Ngài bị mồ côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop săn sóc giáo dục. Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay 703 tức là lúc 29 tuổi Ngài được thụ phong linh mục.

Cuộc sống của Ngài trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy bằng chính lời Ngài: - "Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và trong khi tuân thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại nhà thờ, tôi sung sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách".

Đây quả là tổng hợp chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà dòng. Chúng ta chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi thu tập tài liệu về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến viếng Farne Islanol để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một lần khác, Ngài đến York để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường học nổi tiếng ở đó.

Dạy học, thánh Bêna tỏ ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao ước được nổi bật. Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình rồi truyền thông không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về giá trị của điều đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy nhiên chúng ta không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết đều là kiểu mẫu trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn thận và điều độ và gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có thế giá. Các tác phẩm của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về thần học của Ngài chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy phần lớn dựa trên các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong cách trình bày, nhưng những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện tốt đẹp nhất để hiểu về các giáo phụ.

Các tác phẩm về khoa học của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các hiện tượng tự nhiên, một phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương. Cách tính niên lịch của Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo Tây phương chấp nhận rộng rãi hơn cả.

Các tác phẩm về lịch sử của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết. Cuốn "Lịch sử Giáo hội của dân Anh" là một trong những tác phẩm quan trọng nhất về lịch sử về thời đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê phán cách quân bình, dựa trên những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài cũng viết một tiểu sữ về các tu viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh Cuthbert.

Kể từ năm 679, Ngài ở hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận thuộc đời sống tu trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối cuốn "Lịch sử Giáo hội" trình bày lý tưởng của Ngài: - "Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn ngoan của Chúa thì xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan Chúa".

Đương thời, không ai nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm một phép lạ, không được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ nào. Mùa hè năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh suyễn. Dầu vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký hoàn tất cuốn sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường bệnh. Đúng ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.


https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm


Thánh GRÊGORIÔ VII
 Giáo Hoàng (1028 - 1085)

 

Thánh GRÊGORIÔ VII Giáo Hoàng (1028-1085)

Thánh Gregoriô hay là Hildebrand theo tên rửa tội, sinh khoảng năm 1028. Gia đình Ngài không thuộc dòng tộc quí phái và có thuộc gốc Do thái. Thấy con mình thông minh lại hiếu học, thân phụ thánh nhân gởi Ngài tới thụ huấn với người chú là Tu viện trưởng Đức Bà Maria ở Aventin, Hildebrand đã trở thành một tu sĩ dòng Bênêdictô.

Tuy nhiên khả năng đặc biệt của Ngài đã sớm kéo Ngài ra khỏi hàng rào tu viện để phục vụ tại giáo triều. Khi đắc cử giáo hoàng, trên đường về nhận chức, Đức Leo IX ghé qua Cluny và dẫn theo thày dòng trẻ tuổi Hildebrand để làm cố vấn cho mình. Đức giáo hoàng đã trao cho Ngài điều khiển tu viện thánh Phaolô và đặt làm hồng y. Đức giáo hoàng Leo IX là vị tiên khởi trong cuộc cải cách Grêgoriô, danh hiệu dựa vào khuôn mặt sáng giá nhất cuộc cải cách này, nhưng chính đức Leo là người khởi xướng.

Kể từ việc đề cử của Đức Leo IX Hildebrand đã có ảnh hưởng lớn lao trong nhiều triều đại liên tiếp. Khi được cử làm đặc sứ tại Pháp Đức Hồng y Hildebrand, đã chống lại nhiều tập tục xấu. Trong hội đồng họp ở Tour, Ngài đã buộc Berenger từ bỏ những lầm lạc của mình. Thế là chính Ngài đã giữ phần quyết định trong cuộc tranh luận về bí tích Thánh Thể giữa Lanfranc và Berenger. Ngài ủng hộ giáo thuyết về sự biến thể của Lanfranc nhưng cũng giảm bớt sức đối kháng để trình bày cách mầu nhiệm hơn.

Dưới ảnh hưởng của Đức hồng y Hildebrand, chức giáo hoàng ngày càng nghịch với hoàng đế hơn. Một liên minh hình thành với nhiều nhà cai trị ở miền nam nước Ý chống lại các Hoàng đế nhà Hohenstanen. Đức giáo hoàng nâng đỡ phong trào quần chúng chống lại hoàng đế ở Milanô nhưng tâm điểm đường lối chính trị của tòa thánh được diễn tả trong việc chọn lựa Đức Giáo hoàng, dành riêng cho hồng y đoàn. Nói cách khác, ảnh hưởng của hoàng để bị rút lại, nếu không nói là bị hủy bỏ. Năm 1073 dưới ảnh hưởng đã trở nên lớn mạnh, Đức Hồng y Hildebrand đắc cử giáo hoàng với hiệu Gregoriô VII.

Tình hình Giáo hội lúc này thật đáng buồn với nhiều thảm trạng đang diễn ra. Đích thân giáo hoàng thấy rõ những điều đó, sống khắc khổ như một thày dòng, Ngài đã sáng ngời như mặt trời chiếu dãi vào ngôi nhà Giáo hội. Đầy uy quyền trong lời nói và việc làm, Ngài đã nỗ lực tái lập kỷ lục truyền bá đức tin, diệt trừ các lỗi lầm. Nhất là Ngài được chống lại hoàng đế Henri IV nước Đức. Ông hoàng này ham mê khoái lạc và tham lam, đã dám bán quyền giám mục và các chức vụ trong Giáo hội cho những người bất xứng.

Năm 1075, Đức Gregoriô VII đã tuyên bố phạt mọi người ở bất cứ địa vị nào dám dùng tiền để mua bán chức thánh. Với tình phụ tử, Ngài cảnh cáo hoàng đế Henri IV và các lạm quyền của ông. Tức giận ông bắt cóc Đức Giáo hoàng đang khi Ngài làm lễ và giam ngục. Nhưng rồi dưới áp lực của dân Roma, ông phải thả Ngài ra. Đức giáo hoàng đã tha thứ cho ông. Tuy nhiên nhà vua vẫn ngoan cố. Năm 1076, ông triệu tập một số giám mục rồi đặt Gnibert de Ravenna làm giáo hoàng. Đức Gregoriô VII liền ra vạ tuyệt thông Henri IV. Hối hận và sợ các quan bất phục, Henri IV lo giữ ngôi bằng cách đến Canossa làm việc đền tội.

Ngày 28 tháng giêng năm 1077, Đức giáo hoàng giải vạ cho ông.

Một thời gian sau Henri IV lại trở mặt, ông cầm quân sang Roma để bắt Đức Giáo hoàng. Nhưng Đức Gregoriô đã kịp thời rút lui về Sôlerna và qua đời tại đây năm 1085. Trước khi qua đời Ngài đã nói: - Ta yêu mến điều công chính và chê ghét sự gian tà nên mới phải chết ở chốn lưu đày này.

Người ta đã nói tới cuộc cải cách thời Gregoriô. Phải nhận đinh rằng ý tưởng của Ngài rất cao thượng, Ngài quan niệm hàng giáo sĩ được đặt ra ngoài mọi người khác bởi phép truyền chức thánh làm thành một cộng đoàn siêu nhiên ấn định bởi quyền ban bí tích và được cai quản bởi đấng kế vị thánh Phêrô. Họ phải sống xứng đáng với phận vụ thiêng liêng, Ngài nhiệt hành ủng hộ luật độc thân của giáo sĩ và chống lại mọi thứ buôn thần bán thánh.

Ngài cũng nỗ lực diệt trừ mọi can thiệp vào việc chọn giám mục, nhất là sự can thiệp của hoàng đế. Dầu không thành công trong việc này, nhưng chắc chắn đã làm thay đổi thái độ của mọi người đối với Giáo hội.

Sau khi đã từ trần, lý tưởng canh tân Giáo hội của Ngài mới rõ rệt hơn, sắc bén hơn và tiến gần tới hiện thực hơn.


https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm



Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
(1566 - 1607)

 

S. Maria Maddalena de' Pazzi - S. Maria Maddalena de' Pazzi

Thánh Maria Madalena Pazzi sinh năm 1566 tại Florence. Khi rửa tội Ngài được đặt tên là Catarina. Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành. Muốn cho Ngài vui thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.

Lên 7 tuổi lòng thương người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo. Có dịp về miền quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy giáo lý cho chúng. Một lần kia, khi mới bắt dầu dạy đạo cho một em bé con một nông dân, thì Ngài phải báo cho biết là phải trở về Florence. Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm được nước mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy cho xong.

Thánh nữ có lòng sùng kính phép Thánh thể một cách đặc biệt. Lên 10 tuổi, tức là năm 1576, Ngài được rước lễ lầ đầu. Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Năm 13 tuổi Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.

Đến 16 tuổi, Catarina đã ao ước được gia nhập dòng Carmêlô. Sau một thời gian luỡng lự, cuối cùng cha mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm 1582 và ngay 30 tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria Madalena. Cuộc đời Ngài là một phép lạ liên tục. Một cơn bệnh xâu xé Ngài. Có nữ tu hỏi thánh nữ xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào cây thánh giá Ngài trả lời: - Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi. Những ai nhớ tới những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.

Đau đớn vì bệnh hoạn, thánh nữ lại hay xuất thần. Những yếu tố ấy đều góp phần xây dựng đời sống thánh thiện của Ngài. Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm 1585, Ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy sự dữ đang diễn ra trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các giám mục gây nên. Các tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài trình lên Đức gíao hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân. Sự nghi ngờ của họ trở thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng khiếp này, là thấy mình bị Thiên Chúa bỏ rơi. Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ trở nên kiêu căng thất vọng.

Dầu vậy, ý chí của Ngài bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: - Tôi không hiểu mình có còn trí khôn nữa không. Tôi không thấy mình còn có gì đáng kể ngoài một chút thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.

Nhưng nhìn lên thánh giá Ngài thêm phấn khởi: - Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau khổ mãi.

Bị cám dỗ quá, Ngài gieo mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và thường mặc áo nhặm.

Năm năm bão tố trôi qua nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ ơn, Maria Madalena đã bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: - Bão tố qua rồi, xin hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.

Từ đây Ngài chỉ còn ước muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa. Thánh Thần đọc cho Ngài những ý tưởng thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được các người nhân đức và thông thái ở Ý chuẩn nhận.

Với nhiệt tình, Ngài đã nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa. Khi làm phó bề trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh hướng tìm cách an ủi, nhưng Ngài nói: - Không, đó không phải là thứ an ủi con tìm kiếm. Con chỉ ước mong được đau khổ đến lúc cuối đời. Khi sắp từ trần thánh nữ nói:

- Tôi sắp từ giã mà không hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống lại Chúa tạo thành được.

Với các nữ tu vây quanh, Ngài nói những lời sau cùng: - Tôi sắp từ giã các chị để đi vào vĩnh cửu, tôi xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một mình Chúa, đăt trọn niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.

Thánh nữ từ trần ngày 25 tháng 5 năm 1607. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới ngày nay.


https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm