SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 4
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sb 36, 14-16. 19-23
"Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc".
Trích sách Sử Biên Niên quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem.
Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị; như thế ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường.
Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: "Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).
Xướng: 1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi. - Ðáp.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!". - Ðáp.
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. - Ðáp.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 2, 4-10
"Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô? Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Ðức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 3, 16
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời.
Phúc Âm: Ga 3, 14-21
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm B hôm nay được phản ánh
nơi cảm nhận đầy xác tín của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại trong bài đọc 2
(Êphêsô 2:4-10) sau đây:
"Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu
thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm
cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi;
Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời
trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn
Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô".
Đúng thể, hai yếu tố Thiên Chúa nhân từ và con người tội lỗi đã gặp nhau ở phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm B này, nhưng tình thương bao la của Thiên Chúa đã thắng vượt tội lỗi và cứu chuộc nhân loại. Như trong bài đọc 1 (2Niên Ký 36:14-16,19-23) đã nhận định về tình trạng càng ngày càng tội lỗi của dân Chúa đến độ họ bị đi đầy sang Babylon, nhưng Chúa vẫn thương mang họ về lại đất hứa sau thời gian 70 năm đúng như lời Ngài đã phán qua tiên tri Giêrêmia.
"Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem... Cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người... Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị.."
"Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: 'Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên'".
Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan (3:14-21) càng cho thấy rõ Thiên Chúa yêu thương
nhân loại biết là dường nào. Ở chỗ:
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt".
Thật vậy, Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian là để cứu thế gian chứ
không phải để luận phạt thế gian. Thế nhưng, để được cứu, hay để lãnh nhận ơn
cứu độ con người phải tin vào Con của Ngài, phải chấp nhận Con của Ngài, phải
nhận biết Con của Ngài. Đó là lý do Thánh Phaolô, cũng trong bài đọc hai đã
khẳng định nguyên tắc cứu độ như sau:
"Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do
anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được
tự phụ".
Đối với thành phần không tin Con của Ngài, không chấp nhận và nhận biết Con của
Ngài thì tự họ luận phạt họ, như Chúa Kitô khẳng định trong bài Phúc Âm như sau:
"Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa;
và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự
sáng, vì hành động của họ xấu xa".
Theo tiến trình phụng vụ Lời Chúa từ Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay cho tới nay thì
nếu Chúa Nhật tuần thứ 1 về một Chúa Kitô chay tịnh 40 đêm ngày trong
hoang địa và bị ma quỉ cám dỗ, ám chỉ Người sẽ đạp nát đầu rắn quỉ (xem Khởi
Nguyên 3:15) bằng cuộc tử giá của Người, Chúa Nhật tuần thứ 2 về một Chúa Kitô
biến hình, ám chỉ cuộc phục sinh vinh hiển của Người, hoàn toàn chiến thắng tội
lỗi và sự chết, và Chúa Nhật thứ 3 về một Chúa Kitô như một đền thờ của Thiên
Chúa bị bàn tay con người phá hủy bằng cách sát hại nhưng Người đã dựng lại nội
trong 3 ngày, ám chỉ đến mầu nhiệm vượt qua từ sự chết (bị phá hủy) đến sự sống
(dựng lại) của Người, thì Chúa Nhật thứ 4 cũng chất chứa mầu nhiệm vượt qua như
vậy, ở chỗ:
"Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào (để chữa lành cho những ai bị rắn cắn mà nhìn lên nó - xem Dân Số 21:4-9, và loài người cũng bị rắn quỉ cắn trong địa đường nên cũng phải nhìn lên Đấng bị tử giá), thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy (khổ nạn và tử giá), để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời (phục sinh)".
Vấn đề được đặt ra ở đây là chẳng lẽ con rắn là loài độc hại lại ám chỉ Chúa Kitô cứu độ hay sao? Nếu đọc kỹ chúng ta thấy Lời Chúa Giêsu chỉ so sánh hình ảnh "treo lên" mà thôi, của con rắn và của Người. Con rắn bị "treo lên" ở một cây cột thẳng đứng (pole), còn Chúa Giêsu bị treo lên ở cây thập tự giá (cross), hoàn toàn khác nhau giữa cây cột và cây thập giá. Chỉ có hình ảnh "treo lên" là giống nhau thôi. Thế nhưng, hình ảnh "treo lên" của con rắn ám chỉ hình ảnh "treo lên" của Đấng đến "để tiêu diệt công việc của ma quỉ" (1Gioan 3:8) là tội lỗi và sự chết do hắn gây ra cho chính mình (xem Khải Huyền 12:1-9) cũng như cho con người ngay từ ban đầu (xem Khởi Nguyên 3:1-7), bởi thế hình ảnh "treo lên" của con rắn ám chỉ nó bị tiêu diệt bởi sự kiện "treo lên" của Chúa Cứu Thế.
Tóm lại, qua phụng vụ lời Chúa trong Mùa Chay nói chung và Chúa Nhật IV nói
riêng, Giáo Hội muốn tỏ cho con cái của mình chẳng những một Chúa Kitô
vượt qua để thấy được Đấng đã sai Người là Cha trên trời vô cùng yêu thương nhân
loại, đến độ lợi dụng chính tội lỗi của con người để tỏ lòng thương
con người,
mà còn nhờ đó cảm nghiệm được tình thương bao la vô cùng bất tận của Thiên Chúa
và tin vào Con của Ngài là tất cả mạc khải thần linh của Ngài và về Ngài, là
hiện thân sống động cho tình thương của Ngài đối với nhân loại tội lỗi
không thể tự độ hay cứu mình và vô cùng hèn
hạ khốn nạn bất xứng chỉ đáng bị trừng phạt đời đời mà thôi!
1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!".
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả.
“Cha xót thương theo đuổi các tội nhân dọc suốt con đường họ đi, và Trái Tim Cha hoan hỉ khi họ trở về với Cha…
Cha luôn luôn chờ đợi họ, chú ý lắng nghe tiếng đập của con tim họ..., xem khi nào nó sẽ đập nhịp sống cho Cha?
Cha đang nói với họ qua nỗi ray rứt của lương tâm họ,
qua những thất bại và khổ đau của họ,
qua những giông tố bão bùng,
qua tiếng nói của Giáo Hội"
Bài Ðọc I: Is 65, 17-21
"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không
còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các
ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo,
vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân
hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn
nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu,
không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là
chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất
nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b
Ðáp: Lạy
Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân
thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài
đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài.
Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài
vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng
vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu
giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa
là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi
phạm đến trời và đến cha.
Phúc Âm: Ga 4, 43-54
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị
tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân
chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở
Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có
một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin
Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống
chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những
phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức
trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa
Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói
và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con
ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ
cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông
mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai
Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống tỏ mình
Thứ Ba
Bài Ðọc I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì
tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy
dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn
nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi
qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và
đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng đông, tay
cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới mắt
cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu
gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang
lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi không
thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được,
nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn
ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi
trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi:
"Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa,
rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả
những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất
nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự
sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của
nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có
trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức
ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Chúa
thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu
giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ
xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng
Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh
sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các
ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên
vũ trụ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm
vui ơn cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại
Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa,
chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người
đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người
nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết
anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa:
"Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết
tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy
vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi.
Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi
bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta
trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi:
"Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không
biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được
lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói
cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong
ngày Sabbat.
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Sự Sống tươi mát
Thứ Tư
Bài Ðọc I: Is 49, 8-15
"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày cứu
độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước
của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để
ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với những kẻ ở trong
tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo
đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa,
gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người
hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi
của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này
đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những
người từ miền nam lên.
Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì Chúa
đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.
Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể
quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù
người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18
Ðáp: Chúa
là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).
Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm
với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc
Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng
đứng thẳng lên. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm.
Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 17-30
"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con
cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta
cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì
không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là
Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ
rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình
làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng
làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết
mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi
các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống
lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống
là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con
trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng
Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã
sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng
đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết
mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay
bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống.
Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa
Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử,
vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi
kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành
thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử.
Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì
công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống thông ban
Thứ Năm
Bài
Ðọc I: Xh 32, 7-14
"Xin Chúa tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà
ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã
chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng
đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa
ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy
rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ
với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một
dân tộc vĩ đại".
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi
cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra
khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: "Người đã khéo
dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất". Xin Chúa
nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ
đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng:
"Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ
ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi
sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều
dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng.
Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng
đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và
những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa
chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt
họ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 5, 31-47
"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về
Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta,
và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi
Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của
loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan
là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời
gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha
đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm
chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính
Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng
Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng
giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra
cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn
đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu
đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có
lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không
chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ
đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm
vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các
ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các
ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin
Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta.
Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi
tin lời Ta được?"
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Sự Sống chứng
thực
Thứ Năm trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa bề ngoài có vẻ liên quan đến hiện tượng hay khuynh hướng ngẫu tượng nơi dân Do Thái, cả Cựu Ước lẫn vào thời Chúa Kitô, nhưng sâu xa liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại là một mạc khải thần linh bị chính dân Người chống đối và trù dập.
Ở ngay đầu đoạn cuối của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã công khai và thẳng thắn cho chung dân Do Thái đang tụ tập lại nghe Người bấy giờ biết chính vì cái khuynh hướng trần tục của họ đã trở thành lý do tại sao họ không thể nào có thể chấp nhận được chứng từ chân thực của Người về Người:
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22
"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".
Trích sách Khôn Ngoan.
Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ
công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng
ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự
hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo
những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy
bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó
thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa
lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó
tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật
hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem
chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh
vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục
mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy
kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu
nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho
chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên
cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh
dự của những tâm hồn thánh thiện.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23
Ðáp: Chúa
gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).
Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần
ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu
lo. - Ðáp.
2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương
dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải
thoát. - Ðáp.
3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa
cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài,
người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ
Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của
người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi,
nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết
sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà
chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta
biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết
Người bởi đâu".
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói
rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta
mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng
Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm
cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Sự Sống tương phản
Ngày 15: Thánh Nữ Louise de Marillac,
vị thánh của gia đình
Chúng ta cùng nhau chiêm ngắm chân dung một vị Thánh của gia đình và của xã
hội: Thánh Nữ Louise de Marillac, lễ kính vào ngày 15 tháng 3 hàng năm.
Các thánh nhân của Giáo Hội Công Giáo là những con người thánh thiện nhưng
lại rất nhân bản. Các ngài đã sống những cuộc đời phi thường. Mỗi một vị
thánh mà Giáo Hội tôn kính đều đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa mà phát
huy hết các đặc sủng mà Ngài đã ban cho từng vị. Thiên Chúa cũng mời gọi
từng người một trong chúng ta trở thành một vị thánh với những hồng ân mà
Chúa đã ban cho mỗi người.
Louise sinh tại Meux, nước Pháp. Cô mồ côi mẹ khi còn rất bé. Ðến năm cô 15
tuổi, người cha yêu dấu của cô cũng qua đời. Khao khát của cô muốn đi tu bị
cha giải tội của cô bác bỏ. Người ta sắp đặt một cuộc hôn nhân cho cô. Cô
sinh được một đứa con trai. Nhưng chẳng mấy chốc cuộc hôn nhân đó chỉ còn là
việc bổn phận chăm sóc người chồng bị đau lâu ốm dài cho tới khi chàng ta
mất.
Louise may mắn tìm được hai cha giải tội khôn ngoan và thông cảm với cô, một
người về sau cũng được phong Thánh: Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-di-ô, người kia
là bạn của ngài, Ðức Giám Mục Giáo Phận Belley, Pháp. Có điều cả hai vị này
chỉ có thể gặp Louise theo định kỳ thôi. Nhưng trong lòng Louise được ơn soi
sáng cho biết rằng cô sẽ đón nhận một công cuộc lớn lao dưới sự hướng dẫn
của một người mà cô chưa hề gặp: Cha Thánh Vinh-sơn Phao-lô (St. Vincent de
Paul).
Khi cô gặp được cha Vinh-sơn ngài rất miễn cưỡng trở thành cha giải tội cho
cô vì ngài rất là bận rộn với Hội Ðoàn Bác Ái do ngài sáng lập. Ðây là nơi
quy tụ các mệnh phụ phu nhân quý tộc làm việc từ thiện hỗ trợ ngài chăm sóc
người nghèo và trẻ em bị bỏ rơi, một nhu cầu nhức nhối vào thời đó. Có điều
các quý bà này còn bề bộn với bao việc gia đình và bổn phận khác. Công việc
của ngài lại cần đến nhiều người cộng tác khác có thể dành toàn thời gian
cho người nghèo, đặc biệt là các thôn nữ vì họ dễ dàng gần gũi và chinh phục
cảm tình của những người nghèo. Ngài còn cần có ai đó tổ chức và dạy dỗ đám
thôn nữ.
Phải mất một thời gian dài, sau khi cha Vinh-sơn biết đến Louise nhiều hơn,
ngài mới nhận ra Louise chính là người Thiên Chúa gởi đến để đáp lại lời cầu
nguyện của cha. Louise thông minh, quảng đại, cứng cáp, kiên trì trái ngược
với chứng đau ốm dai dẳng của cô. Công việc cha giao cho cô làm đã có kết
qủa là có bốn cô quê mùa gia nhập nhóm. Cha Vinh-sơn thuê một căn nhà ở
Paris để làm trung tâm huấn luyện cho những người mới gia nhập trong việc
chăm sóc người đau yếu và người nghèo. Công việc nhanh chóng phát triển và
đã đến lúc phải đề ra nội quy. Chính Louise, dưới sự hướng dẫn của cha
Vinh-sơn, đã soạn ra bản hiến pháp cho Các Nữ Tu Bác Ái Vinh-sơn Phao-lô.
Riêng cha Vinh-sơn chỉ thích gọi Tu Hội bằng một cái tên đơn sơ hơn: Nữ Tử
Bác Ái (Daughters of Charity - Filles de la Charité).
Cha Vinh-sơn luôn ngần ngại và cẩn trọng trong quan hệ với Louise và Tu Hội.
Cha nói rằng cha không hề bao giờ mảy may có một ý tưởng là sẽ lập nên một
cộng đoàn mới, chính Chúa mới là Ðấng làm nên mọi sự. Cha nói với nhóm chị
em: "Nhà của người đau ốm sẽ là Tu Viện của chúng con. Một căn phòng thuê
tạm bợ vá víu sẽ là phòng của chúng con. Nhà Thờ của chúng con sẽ là nhà Thờ
của Giáo Xứ. Các hang cùng ngõ hẻm của đường phố, các phòng bệnh trong bệnh
viện sẽ là lối đi của Tu Viện."
Ban đầu tu phục của các cô chỉ là y phục thường ngày của các cô gái thôn dã.
Phải qua nhiều năm sau, cha Vinh-sơn Phao-lô rốt cuộc mới cho phép bốn cô
gái có những lời khấn từng năm một về Khó Nghèo, Trinh Khiết và Vâng Phục.
Và phải chờ đợi nhiều năm nữa Tu Hội mới được Rô-ma chính thức châu phê và
đặt dưới sự hướng dẫn của Tu Hội Các Linh Mục của cha Vinh-sơn (Dòng
Lazariste).
Nhiều thiếu nữ trẻ không được đi học cho nên Tu Hội non trẻ rất ngần ngại
khi nhận nhiệm vụ chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi. Louise luôn luôn có mặt ở mọi
nơi cần đến bàn tay của cô dù cho sức khoẻ cô luôn bết bát. Cô đi khắp nước
Pháp và thiết lập các cộng đoàn các nữ tu tại các bệnh viện, các nhà mồ côi
và ở các nơi cần đến họ. Vào ngày cô qua đời, 15.3.1660, Tu Hội đã có 40
Cộng Ðoàn trong nước Pháp. Sáu tháng sau, cha Vinh-sơn Phao-lô cũng qua đời
ngày 27.9.1660.
Louise de Marillac được phong Thánh năm 1934 và thánh nhân được đặt làm Quan
Thầy những người làm công tác bác ái từ thiện năm 1960.
Vào thời của Louise, việc giúp đỡ người nghèo là một việc xa xỉ mà chỉ có
các quý bà giầu sang quý tộc có khả năng làm vào những lúc vô công rỗi nghề.
Louise hết sức ngưỡng mộ Thánh Vinh-sơn Phao-lô đã khôn ngoan nhận ra rằng
các thiếu nữ quê mùa nghèo khổ mới dễ dàng phục vụ người nghèo hữu hiệu hơn,
các Nữ Tu Bác Ái đã được khai sinh dưới sự lãnh đạo của Louise. Cho đến ngày
hôm nay, Tu Hội vẫn tiếp tục sứ mạng chăm sóc người đau ốm, già nua, mang
đến chỗ nương tựa cho các em mồ côi. Có nhiều hội viên của Tu Hội làm công
tác từ thiện bác ái dưới sự bảo trợ của Thánh Louise de Marillac. Tất cả mọi
người chúng ta phải học nơi chị thánh sự quan tâm ưu ái với những người bất
hạnh.
Theo Bách Khoa Tự Ðiển Encarta của hãng Microsoft, một tự điển hoàn toàn có
tích cách thế tục, hai Thánh Vinh-sơn Phao-lô và Louise de Marillac, qua các
việc bác ái từ thiện, đã có công đầu tại Pháp vào thế kỷ 17 trong việc chặn
đứng phong trào ly giáo.
(Because of the Wars of Religion in France, the Counter Reformation did not
pick up momentum there until the 17th century. Devotion to the poor, as
exemplified by St. Vincent de Paul and St. Louise de Marillac, especially
characterized the French experience. Considerable attention was given there,
as it was in Italy, to popular missions among the peasantry. Meanwhile, St.
Francis of Sales, bishop of Geneva, published his Introduction to the Devout
Life (1608), among the most popular of all works of Christian spirituality.
"Counter Reformation", Microsoft � Encarta � Encyclopedia
2000. � 1993
- 1999 Microsoft Corporation. All rights reserved.)
Ðất nước Việt Nam chúng ta mang ơn các Nữ Tử Bác Ái rất nhiều. Ða số công
việc phục vụ của các chị đều âm thầm vô danh tuy một số được nhiều người
biết đến như thiết lập và điều hành các trại phong Bến Sắn, Di Linh, Phước
Tân, và mới đây là Trung tâm Mai Hòa chăm sóc bệnh nhân AIDS trong những
ngày sau cùng. Ðặc điểm nổi bật nhất của các chị là luôn phục vụ người nghèo
và trong yêu thương và khiêm tốn với tư cách người đầy tớ theo lời căn dặn
của cha Thánh Vinh-sơn: "Khi các con cho người nghèo bánh ăn, các con còn
phải xin lỗi họ."
Ngày 15.3.2003, một Thánh Lễ mừng 70 năm khấn dòng của chị Jean Gabriel Ðặng
Thị Cúc; 60 năm của chị Aimée Nguyễn Thị Nữ; và 25 năm của 11 chị khác. Trên
tấm thiệp báo đơn sơ ta chỉ đọc được vỏn vẹn hàng chữ đơn sơ: "Tất cả là
Hồng Ân".
Xét cho cùng không có Hồng Ân nào to lớn hơn là được sai đi phục vụ Chúa
Giê-su nơi người nghèo.
Hoàng Thiên Ân
(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003)
Ngày 15: 2.
Thánh Clemente Maria Hofbauer, linh mục dòng Chúa Cứu Thế
Clemente Hofbauer sinh ngày 26.12.1752 tại đất nước Áo, vừa đúng 30 năm sau
khi Thánh An Phong sáng lập DCCT. Có một chi tiết hết sức dễ thương trong
tuổi thơ ấu của cậu bé Clemente Hofbauer. Năm cậu vừa lên 7 thì người cha
qua đời. Bà mẹ dắt cậu đến dưới chân Thánh Giá, chỉ lên tượng Chúa Giê-su
chịu đóng đinh và bảo: "Con ơi, kể từ nay, người này sẽ là cha của con" Tất
cả như là một hạt giống ban đầu của Ơn Gọi Thiên Chúa muốn gieo vào lòng cậu
bé Clemente. Có thể nói, chính lời dặn dò nhắn nhủ của bà mẹ đã xác định cho
Clemente rằng: kể từ nay chỉ có Chúa Giê-su mới là Ðấng duy nhất mà cậu sẽ
phải tuân phục và tận hiến cuộc đời cho Ngài.
Năm 1769, khi vừa tròn 24 tuổi, chàng thanh niên Clemente quyết định xin vào
tu trong Ðan Viện Tivoli, để rồi 2 năm sau đó, thầy tình nguyện xin vào sa
mạc để ẩn tu. Trong 3 năm liền cầu nguyện chiêm niệm, thầy lại khám phá ra ý
định Thiên Chúa muốn thầy không dừng lại ở nếp sống ẩn tu, nhưng quả cảm dấn
thân cho Ơn Gọi hoạt động truyền giáo. Thế là thầy lại khẳng khái trình với
Bề Trên để xin chia tay ra đi. Suốt trong 4 năm ròng, thầy Clemente đã rong
ruổi vượt đường xa hành hương về Rô-ma không dưới 5 lần để chọn một Dòng Tu
hoạt động.
Và thế là lại thêm một chi tiết lý thú ghi dấu trong đời thánh nhân. Tháng 9
năm 1784, một lần nữa lại đến Rô-ma, băn khoăn không biết chọn Dòng nào giữa
quá nhiều Dòng Tu, thầy nảy ra ý rủ một thầy bạn, một buổi sớm mai, hễ tiếng
chuông của Nhà Nguyện Tu Viện nào ở Rô-ma rung lên những tiếng chuông đầu
tiên thì hai người sẽ tìm đến để xin nhập Dòng. Hai người thao thức cả đêm,
đến khi vừa mới chợp mắt thì tiếng chuông một Tu Viện DCCT ở Rô-ma đã vang
lên trước nhất, cả hai trỗi dậy vội vã lên đường tìm đến Nhà Dòng và đã được
đón nhận. Ngày 24.10.1784, thầy Clemente mặc áo Dòng, và một năm sau, ngày
19.3.1785, đúng lễ kính Thánh Giu-se, ngài tuyên khấn và nhận sứ vụ Linh Mục
trong DCCT, một Linh Mục DCCT đầu tiên không phải là người Ý, nhưng là người
Áo.
Cuộc đời mục vụ của cha Clemente khởi đi từ cộng đoàn Saint-Bennon tại thành
phố Varsovie. Cha đặc biệt quan tâm phục vụ trẻ em bị bỏ rơi, những thanh
niên mù chữ, những cô gái điếm bất đắc dĩ, những người già bị hất hủi, và cả
đến những bệnh nhân tâm thần. Cha và cộng đoàn DCCT ở đây cũng không quên tổ
chức những tuần Ðại Phúc, hay phải nói cho đúng, ngài đã biến mỗi ngày trong
tuần thành một phiên Ðại Phúc với kinh nguyện, Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể,
giảng thuyết bằng nhiều thứ tiếng cho từng đối tượng người Ðức hay người
Ba-lan, và nhất là miệt mài ngồi tòa Giải Tội cho hàng đoàn người sám hối từ
khắp nơi tuôn về...
Rồi đây, xuyên qua các biến cố lịch sử chiến tranh và bạo động, trải qua
những chống đối và bách hại, những ngộ nhận và ngăn trở của chính quyền lẫn
giáo quyền, cha Clemente sẽ nghiệm chứng trong cuộc đời mình Lời Chúa trong
Tin Mừng Lu-ca: "Anh em hãy ra đi, này Thầy sai anh em đi như chiên con đi
vào giữa bầy sói..." (Lc 10, 3) bởi cha không thể dừng chân mãi tại
Saint-Bennon cho dẫu nhu cầu mục vụ ở đây ngày một đòi hỏi bức thiết.
Cha Clemente không bao giờ quên sự thúc bách của Tin Mừng, của "lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt lại ít..." (Lc 10, 2) để tiếp tục lên đường, "không mang
theo túi tiền, bao bị, giày dép..." (Lc 10, 4), cha chỉ một lòng thực hiện
Thánh Ý Thiên Chúa để đưa DCCT vượt ra khỏi dãy núi Alpes của vương quốc
Napoli để đến các nước miền Âu Châu như Ba Lan, Tiệp Khắc, rồi qua Áo, Thụy
Sĩ..., và cứ thế mà lan tỏa đi khắp thế giới, đến miền Bắc Mỹ để rồi từ
Canada, DCCT sẽ đặt chân đến Việt Nam năm 1925 mà có được Tỉnh DCCT Việt Nam
như ngày nay.
Chia sẻ đến đây, tự nhiên chúng tôi nhớ đến một lời kinh nguyện hằng ngày
của anh em DCCT Việt Nam đã được phổ thành bài hát: "Lạy Chúa, ngay giữa
lòng Hội Thánh, Chúa đã cho khai sinh gia đình Dòng chúng con mang tên Chúa
Cứu Thế sáng danh Vua Trời. Như là một cây nho Chúa thương vun trồng và chăm
sóc, mang đến những chùm nho, Ơn Cứu Thế bình an, chan chứa khắp trần
gian..."
Thư Thánh Phao-lô Tông Ðồ gửi cộng đoàn Cô-rin-tô có khẳng định: Phao-lô
trồng, A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng
hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới
đáng kể (x. 1 Cr 3, 6 - 7).
Trong tâm tình khiêm tốn của Linh Mục và Tu Sĩ Dòng Chúa Cứu Thế khám phá ra
chính Thánh Ý Chúa đã chọn để cho Thánh An-phong gieo hạt giống đầu tiên mà
mọc lên thành một cây nho sinh hoa kết quả tốt tươi, trong đó có công sức
vun tưới của Thánh Clemente Hofbauer, thế nhưng trên hết, chúng ta vẫn phải
chung nhau một lời tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Ðức Giê-su, Ðấng mà Nhà Dòng đã
xin được mang tên là Chúa Cứu Thế. Chính Ngài chứ không phải ai khác, đã
chọn Thánh An-phong làm người sáng lập Dòng, đã sai Thánh Clemente đưa Dòng
lan tỏa vươn nhánh ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có quê hương Việt Nam
chúng ta.
Cha Clemente Maria Hofbauer được Chúa gọi về ngày 15.3.1820. Mọi ngộ nhận và
ngăn trở từ mọi phía không còn nữa, ngược lại, đám tang của ngài trở thành
một cuộc khải hoàn của Tình Yêu Thiên Chúa Quan Phòng. Những ước mơ và công
trình dở dang của ngài rồi sẽ được nối tiếp, hoàn tất và phát triển rực rỡ.
Người ta tuôn về bên mộ ngài để cầu nguyện xin ơn chữa lành cả thể xác lẫn
tâm hồn, các anh em DCCT cũng như nhiều tu sĩ các Dòng tìm đến, cúi đầu mặc
niệm và tĩnh tâm để như thể tìm nơi ngài một nghị lực lên đường cho sứ vụ
truyền giáo. Năm 1909, cha được Ðức Giáo Hoàng Pi-ô 10 nâng lên hàng Hiển
Thánh. Mãi mãi, DCCT đề cao ngài như vị Thánh Tổ thứ hai, sau Thánh
An-phong.
Ðể kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau chú ý đến một câu, một chi tiết trong
bài Tin Mừng Thánh Lễ mừng kính Thánh Clemente ngày 15 tháng 3: "Khi ấy, Ðức
Giê-su chỉ định 72 người và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào
tất cả các thành, các nơi mà chính Ðức Giê-su cũng sẽ đến..." (Lc 10, 1).
Hóa ra các môn đệ được sai đi trước để dọn đường, để vỡ đất khai hoang trồng
trọt. Còn chính Ðức Giê-su, Ngài sẽ làm cho cánh đồng Tin Mừng trổ sinh bao
thóc lúa bội thu.
Vì thế, chúng ta xác tín rằng: DCCT, Dòng của Chúa Giê-su, tức là đã được
đặt nền móng trên chính Ðức Ki-tô. Và rồi, Thánh Clemente, đến các thế hệ
anh em tu sĩ DCCT đã được sai đi mở đường để rồi chính Ðức Giê-su Ngài sẽ
đến, để qua anh em Tu Sĩ Linh Mục, qua cả những anh chị em Giáo Dân đang
cộng tác nhiệt thành với chúng tôi, Ngài tuôn tràn Ơn Ðức Ðộ cho mọi người,
nhất là những người nghèo đói bất hạnh về vật chất lẫn tinh thần, để mọi
người cùng nhận ra: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần" (Lc 10, 9).
Xin tạ ơn Thiên Chúa, xin biết ơn Thánh Clemente. Amen.
Lm. Lê Quang Uy, DCCT
(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003)
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gr 11, 18-20
"Con như chiên con hiền lành bị đem đi giết".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những
mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con
đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: "Chúng ta hãy bỏ cây vào
bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không
còn nhớ đến tên nó nữa".
Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ
gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 7, 2-3. 9bc-10. 11-12
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con
khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như
sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. - Ðáp.
2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi
con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người
hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. - Ðáp.
3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên
Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời
đời".
Phúc Âm: Ga 7, 40-53
"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng
nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng
Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh
Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem,
quê hương của Ðavit?" Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người.
Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt
Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông
này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành
thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy". Các người biệt phái trả lời
rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và
các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết
gì lề luật". Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người
trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai
mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời
rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy
rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống Ẩn Hiện
Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần IV Mùa Chay, bài Phúc Âm hôm nay
không hề có sự hiện diện chính thức của Chúa Giêsu một tí nào. Thế nhưng dù
không có lời nào Người phán hay việc nào Người làm, mà Người lại nổi bật hơn
bao giờ hết, giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng nơi cả dân chúng cũng như
thành phần lãnh đạo, và giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa
hành. Đó là chứng cớ cho thấy tầm ảnh hưởng quá ấn tượng của Người.
Trước hết, thành phần dân chúng đã chia rẽ nhau về Người như sau: "Khi
ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói
rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'.
Người khác nữa lại nói: 'Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh
chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê
hương của Ðavit?' Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người".
Sau nữa, giữa
thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành: "Trong
số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy
khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ
rằng: 'Tại sao các ngươi không điệu nó tới?' Các người thừa hành thưa rằng:
'Chẳng hề có ai nói như người ấy'. Các người biệt phái trả lời rằng: 'Chớ
thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người
biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề
luật'".
Sau hết, giữa chính nội bộ lãnh đạo với nhau: "Nicôđêmô
là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với
họ rằng: 'Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc
không biết rõ họ làm gì không?' Nhưng họ trả lời rằng: 'Hay ông cũng là
người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào
phát xuất từ Galilêa' Sau đó ai về nhà nấy".
Tình trạng chia rẽ này, cho dù giữa dân chúng với nhau hay giữa nội bộ
lãnh đạo với nhau, đều giống nhau và qui tụ lại ở chỗ cả hai thành phần này
cùng căn cứ vào xuất xứ của nhân vật Giêsu Nazarét là từ Galilêa chứ không
phải từ Giuđêa để suy diễn và quyết đoán về Người có thực sự là tiên tri hay
chăng, hoặc là đấng thiên sai hay chăng?
Dân chúng: "Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói:
Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của
Ðavit?"; Lãnh đạo: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh
Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa".
Đó là về phía thành phần không chấp nhận Người. Còn về thành phần chấp nhận
Người thì họ lại căn cứ vào cảm nhận tự nhiên của họ, đúng hơn, căn cứ vào
chính những gì Người nói mà họ cảm nhận được Người là ai, đúng như Người
chứng thực về Người, rất đáng khả tín, rất đáng chấp nhận.
Trong khi chung dân chúng: "sau khi nghe Chúa
Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật là
tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'", thì thành
phần thừa hành của các vị trong giáo quyền cũng cảm thấy có một cái gì đó
đặc biệt nơi Người: "Chẳng hề có ai nói như
người ấy".
Đến đây và ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay chúng ta mới thấy thật
sự và hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên tri của tư tế Simeon là vị đã ẵm hài nhi
Giêsu trên tay lúc bé mới được 40 ngày mà nói: "Con Trẻ này sẽ trở thành
cớ cho nhiều người trong Israel vấp ngã hay chỗi dậy, trở thành một dấu hiệu
đối chọi" (Luca 2:34).
Chính Chúa Kitô cũng cho dân Do Thái biết bản thân Người là cả một mầu nhiệm
vô cùng cao cả và thần linh, tự mình họ không thể nào thấu biết, cho dù
Người không giấu diếm họ một chút nào, trái lại đã nhiều lần và nhiều
cách tỏ mình ra cho họ biết tất cả sự thật về Người, theo kiểu cách loài
người, đến độ, cả thành phần môn đệ thân tín của Người cũng thế, cũng không
hơn gì dân chúng và thành phần lãnh đạo dân chúng, như chính Người đã quả
quyết với các vị như đã quả quyết với chung dân Do Thái rằng:
"Các con ơi, Thày không còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm
kiếm Thày, nhưng này Thày nói với các con những gì Thày đã từng nói với
người Do Thái đó là 'nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được'" (Gioan
13:33; 7:33-34).
Thậm chí, Người còn báo trước cho chung dân Do Thái và riêng thành phần
lãnh đạo của họ biết rằng: "Quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong
tội lỗi của quí vị" (Gioan 8:21), và quả thực đã xẩy ra hoàn toàn đúng
như vậy, trong Tuần Thánh. Ở chỗ, chẳng những cả một Hội Đồng Đầu Mục Do
Thái đã đồng thanh lên án tử cho Người ngay khi Người chân nhận mình là Đấng
Thiên Sai như họ nhân danh Thiên Chúa hỏi Người, mà còn cả một tông đồ đoàn
bỏ chạy, một tông đồ Giuđa phản nộp Thày mình và nhất là một
lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô chối bỏ Thày mình ...
Tuy nhiên, không phải vì thế, không phải thấy trước một tương lai đen tối
như thế mà Người, Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa cảm thấy sợ hãi và
toan tính bỏ chạy. Trái lại, biết vai trò chủ chiên của mình, một "chủ
chiên nhân lành thí mạng sống mình vì chiên... cho chiên được sự sống và là
sự sống viên mãn" (Gioan 10:11,10) mà Người đã tuyên bố và tiên báo: "Tôi
tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17).
Qua miệng tiên tri Giêrêmia ở Bài Đọc 1 hôm nay, chính Người đã chấp nhận
thân phận thiên sai cứu thế đầy bất hạnh và vô cùng khốn nạn của mình một
cách ngoan ngoãn như con chiên bị đem đi giết như sau:
"Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con
những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi
giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: 'Chúng ta hãy
bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người
ta không còn nhớ đến tên nó nữa'".
Thế nhưng, mục đích Người "tự ý bỏ sự sống mình đi" là "để lấy lại",
chứ không phải để bị hủy diệt đời đời. Bởi thế, cũng qua miệng tiên tri
Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, Người đã an tâm chấp nhận mọi sự
theo ý Đấng đã sai Người: "Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công
minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã
phó thác việc con cho Chúa",
Đúng thế, cách "báo thù" của Thiên Chúa bao
giờ cũng là lấy lành mà thắng dữ, lấy thiện mà báo ác, hay đúng hơn biến ác
thành lành, một đường lối siêu việt đến độ thế gian không thể nào hiểu được,
chứ đừng nói làm được, mà chỉ bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy chính mưu đồ đầy
gian ác, hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do của mình lại trở thành phương
tiện và cơ hội để Thiên Chúa thực hiện tất cả những gì Ngài muốn, theo đúng
dự án thần linh của Ngài: "Viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở thành
viên đá gốc" (Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42; Tông Vụ 4:11).
Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 cùng ngày, chất
chứa tâm tình của một con người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Vị Thiên
Chúa của mình, để Ngài muốn làm gì thì làm nơi mình cho ý muốn tối thượng
của Ngài được nên trọn:
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi mọi
người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư tử chộp
bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ.
2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi
con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người
hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh.
3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên
Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày.
Nếu theo dõi kỹ, kể từ Thứ Tư Tuần 4 Mùa Chay, chúng ta thấy Chúa Giêsu càng tỏ
mình ra càng bị dân Do Thái nói chung và thành phần có thẩm quyền nói
riêng chống đối, hay nói ngược lại, dân Do Thái càng tìm biết Người, thì Người
càng được dịp tỏ mình ra cho họ, nhưng lại càng khiến họ bị chói lòa đến mù
quáng đến độ sát hại Người.
|
Ý định của người Do Thái |
Chúa tỏ mình cho người Do Thái |
Phản ứng của người Do Thái |
Thứ 4 |
muốn giết Người vì Người lộng ngôn - là người mà cho mình ngang hàng với
Thiên Chúa |
Nhưng Chúa Giêsu lợi dụng dịp này để tỏ
cho họ thấy được rõ ràng mối liên hệ mật thiết giữa Người
và Cha |
|
Thứ 5 |
muốn biết về Người nên dựa vào thế giá của Tiền Hô
Gioan và tìm tòi Thánh Kinh |
Nhưng cả hai điều ấy đều chứng thực về Người, nhất là ở chính các việc
NgườI làm theo ý
Đấng sai Người |
|
Thứ 6 |
tưởng rằng biết được nguồn gốc xuất thân của Người căn cứ vào nhận định
trần gian của họ |
Nhưng Chúa Giêsu đã cho họ biết
Người xuất thân từ trời, từ
trên cao, tức từ Cha là Đấng đã sai Người. |
“Họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai dám đụng tới Người, vì chưa
tới giờ Người” |
Thứ 7 |
|
“sau khi nghe Chúa Giêsu giảng”
(về những gì cần chứng thực về Người là Đấng Thiên Sai như những sự trên
đây) |
“dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người”, nhất là phe thẩm quyền
không chấp nhận Người vì Người xuất thân từ Galilêa. “Sau đó ai về nhà
nấy”. |