SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 5
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 31, 31-34
"Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: "Ðây tới ngày Ta ký kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng". Chúa phán: "Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta". Chúa phán: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: "Ngươi hãy nhìn biết Chúa", vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 14-15
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
3) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 5, 7-9
"Người đã học vâng phục và đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".
Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 12, 26
Chúa phán: "Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó".
Phúc Âm: Ga 12, 20-33
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
Ðó là lời Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật V
Mùa Chay tiếp tục hướng về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô theo dự án
cứu độ đầy yêu thương của Cha trên trời.
Thật vậy, nếu như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B, Chúa Giêsu ví
mình là đền thờ bị phá nhưng được Người dựng lại nội trong ba ngày, ám chỉ Mầu
Nhiệm Vượt Qua, và trong bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B, Chúa Giêsu ví
Người như Đấng bị treo lên để ai tin Người sẽ được sự sống, cũng ám chỉ Mầu
Nhiệm Vượt Qua, thì trong bài Phúc Âm Chúa Nhật V Mùa Chay tuần này (Gioan
12:20-33) cũng ám chỉ Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi Chúa Giêsu ngấm ngầm ví mình như "hạt
lúa mì rơi xuống đất...
thối đi" bị mục nát đi để nhờ đó "sinh nhiều bông hạt".
Chúa Giêsu quả thưc là "hạt lúa miến rơi xuống đất" nơi mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh của Người, và Người cũng đúng là "hạt lúa miến bị mục nát đi" nơi Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Tử Giá của Người, rồi Người còn là hạt lúa miến "sinh nhiều bông hạt" nơi Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người. Mầu Nhiệm Vượt Qua này đã được chính Chúa Kitô xác nhận và khẳng định ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta".
Mầu Nhiệm Vượt Qua này của Chúa Kitô đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cảm nhận và tuyên xưng trong thư gởi tín hữu Do Thái (5:7-9) như sau: "Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người".
Nhờ cuộc phục sinh của Người mà loài người tội lỗi nói chung và dân Chúa nói riêng mới chẳng những được cứu khỏi tội lỗi và sự chết mà còn được sự sống và là sự sống viên mãn nữa, nhờ Thánh Thần được Chúa Kitô thông ban cho các tông đồ từ thân xác phục sinh của Người sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết.
Đó là lý do, trong bài đọc 1, trích từ Sách Tiên Tri Giêrêmia (31:31-34), "Chúa phán: 'Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta'", một thứ giao ước mới tràn đầy sự sống và Thần Linh: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: 'Ngươi hãy nhìn biết Chúa', vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta", chứ không phải như giao ước cũ, giao ước "sau những ngày đó" - "giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng".
Đú
Thế nhưng, ơn cứu độ của Thiên Chúa thực hiện theo nguyên tắc cho chung tất cả mọi người nhưng trên thực tế chỉ "cho tất cả những kẻ tùng phục Người" mà thôi. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu mới nói với dân chúng về tiếng Cha của Người vang ra từ trời rằng: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta", nghĩa là làm cho "mọi người" nhận biết Người để được cứu độ, đúng như Thánh Phaolô xác tín và tuyên bố trong bài đọc 2: "Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người", tức là không cho những "ai yêu sự sống mình" mà là những "ai ghét sự sống mình ở đời này", như Chúa Giêsu khẳng định và cảnh báo trong bài Phúc Âm hôm nay.
Bởi thế mà bài đáp ca, được trích từ Thánh Vịnh 50, Thánh Vịnh Thống Hối (3-4,12-13,14-15), mới vang lên ở câu đáp như là chính tâm nguyện mà Kitô hữu chúng ta cần dâng lên Chúa trong Chúa Nhật Thư 5 Mùa Chay là: "Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch", nhờ đó, Chúa sẽ không "loại con khỏi thiên nhan Chúa" và "thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con" để "ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ".
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
3) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
Thứ Hai
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17.
19-30. 33-62 (Bài
dài)
"Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới
bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ
Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ
luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông,
các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn
mọi người khác.
Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về
những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm
phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng
lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các
ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ
trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong
vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa
mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và
hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn,
vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang
ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu
và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".
Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần
bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta
đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và
hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng
nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ
ra khỏi vườn".
Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động
như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng
không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không
làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên
hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở
cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa
để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy
tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà
Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà
Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố
cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các
người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người
ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng.
Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà
Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi
Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn,
bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi
đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà
và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác,
chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi
không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên
đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi
chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết.
Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì
hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình
cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu
biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian
hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu
khống cho con".
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa
trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà
này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa
gì?" Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các
ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà
lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã
làm chứng dối hại bà".
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em
hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em
danh dự của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách
biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ
lão cho".
Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão
già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã
xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có
lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu
ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây
gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói
dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui
ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống
Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình
dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các
thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ
Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi
biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời:
"Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho
nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát
những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel
đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông
đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông,
và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ðn
13, 41c-62 từ chỗ "
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Dù
bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con
(c. 5ab).
Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh
rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng
dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người.
(Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì
Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
- Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu
con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống;
và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. -
Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b
Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 8, 1-11
"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm Năm A
Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần V Mùa Chay (cho những năm mà Chúa Nhật hôm trước không phải là Năm C). Nếu để ý về bố cục của các bài Phúc Âm cho ngày thường trong cả 2 tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay, tuần 4 và tuần 5, chúng ta thấy Giáo Hội cố ý sắp xếp các bài Phúc Âm như thế này:
1- Toàn là bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, và hầu hết là các bài Phúc Âm cho thấy cuộc đụng độ càng ngày càng gay go quyết liệt giữa Chúa Giêsu và thành phần dân chúng nói chung nhất là thành phần trí thức và lãnh đạo Do Thái giáo nói riêng;
2- Các bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày thường ở 2 tuần cuối Mùa Chay bao gồm 2 yếu tố chính yếu làm nên Thánh Kinh và việc linh ứng Thánh Linh, đó là mạc khải thần linh (nơi Chúa Kitô) và đức tin cứu rỗi (nơi dân Do Thái);
3- Qua các bài Phúc Âm của Thánh Gioan ở 2 tuần cuối Mùa Chay này, chúng ta thấy tình trạng đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai về chính căn tính của Người, với đức tin của thành phần Do Thái giáo vốn tin có một Thiên Chúa chân thật duy nhất trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ;
4- Cuộc đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai tỏ cho đức tin truyền thống của Do Thái giáo gay go kinh hoàng đến độ họ đã chẳng những không thể nào chấp nhận Người, mà còn ném đá Người và tìm cách sát hại Người;
5- Và đó là lý do tột đỉnh của cuộc đụng độ sống còn giữa mạc khải thần linh (được tỏ ra nơi Con Thiên Chúa làm người) và đức tin tuân phục nơi con người (mà dân Do Thái đại diện) là ở Tuần Thánh, được mở ra với Chúa Nhật Lễ Lá, và kết thúc với Tam Nhật Thánh cũng gọi là Tam Nhật Vượt Qua của Chúa Kitô, Đấng khổ nạn tử giá và Phục Sinh vinh quang.
Nếu theo dõi kỹ hơn nữa, chúng ta còn thấy Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho 2 tuần cuối Mùa Chay ở ngày thường như thế này nữa, đó là bài Phúc Âm ở đầu mỗi tuần, bài Phúc Âm ở giữa mỗi tuần và bài Phúc Âm ở mỗi cuối tuần trong 2 tuần này.
Nếu bài Phúc Âm ở mỗi đầu tuần (Thứ Hai và Thứ Ba - tuần 4; Thứ Hai - tuần 5) trong 2 tuần cuối này là một câu truyện (đều về ơn cứu độ, cả với dân ngoại vô thần lẫn Do Thái tật nguyền - tuần 4; và với tội nhân - tuần 5), liên quan đến các nhân vật bày tỏ đức tin trước mạc khải thần linh (về lòng thương xót) được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét tỏ ra cho họ, bằng việc Người cụ thể làm cho họ (phép lạ về phần xác - tuần 4; và giải cứu về phần hồn - tuần 5),
Thì bài Phúc Âm giữa mỗi tuần trong 2 tuần này toàn là chính lời Người nói về chính bản thân Người, về căn tính của Người, về nguồn gốc của Người, để rồi bài Phúc Âm ở cuối mỗi tuần (Thứ Bảy) cho thấy thành quả hay tác dụng của tất cả những gì Người đã mạc khải trong tuần (tình trạng chia rẽ chẳng những trong dân chúng mà còn cả hội đồng đầu mục Do Thái - tuần 4; chia rẽ chính nội bộ hội đồng đầu mục Do Thái, để đi đến quyết định tiên tri của vị thượng tế là một người chết thay cho toàn dân, một quyết định cuối cùng ngay trước khi tiến vào Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua).
Riêng bài Phúc Âm cho Thứ Hai đầu tuần 5 Mùa Chay hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta thấy trường hợp của 2 người phụ nữ liên quan đến tội ngoại tình:
Trước hết là người phụ nữ ở trong Sách Tiên Tri Đaniên ở Bài Đọc 1, đó là một người vợ đẹp Suzanna, hoàn toàn bị oan ức, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự đã giải thoát cho nàng khỏi bị chết oan, nhờ đó, qua chàng tiên tri thiếu niên Đaniên, Ngài đã tỏ mình ra cho những ai tham dự vào vụ án bị cho là ngoại tình này nói chung, đặc biệt cho hai tay quan án bất lương gian dâm âm mưu hãm hiếp nàng bất thành nên vu oan cho nàng để giữ lấy danh dự và uy tín của mình, để họ tin vào Ngài hơn.
Sau nữa là người phụ nữ ở trong bài Phúc Âm, người phụ nữ quả thực phạm tội ngoại tình và đã bị bắt quả tang. Nếu chị vô tội mà thành phần luật sĩ và biệt phái dám mang đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng thấu suốt mọi sự thì Người đã chẳng khuyên riêng chị ở cuối bài Phúc Âm rằng "Chị hãy về và từ đây đừng phạm tội nữa". Tuy nhiên, trong khi họ gài bẫy bắt Người bằng con mồi phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình ấy, thì Người lại sử dụng chính gậy ông đập lưng ông.
Ở chỗ, Người chẳng những không sa lưới của họ mà còn cứu họ, và ở chỗ Người chẳng những cứu cả hồn lẫn xác của nữ tội nhân ngoại tình mà còn cứu cả thành phần công chính tố cáo chị với Người nữa. Thật vậy, Người đã không bất đồng hay đồng tình ném đá chị trước vấn đề được họ đặt ra: đồng ý ném đá thì Người tác hành phản lại với lòng thương xót hằng có nơi Người và vẫn được Người tỏ ra qua các phép lạ Người làm; ngược lại Người cũng chẳng bảo đừng ném đá chị, bằng không Người đã xui họ làm một điều hoàn toàn trái với luật Moisen, như thể Người dung dưỡng tội nhân và chấp nhận tội lỗi. Đằng này, Người dùng chính tội lỗi của chị để mở mắt cho thành phần luật sĩ và biệt phái vốn tự hào mình công chính.
Qua ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được Lòng Thương Xót Chúa vô cùng tuyệt vời, qua việc Chúa Kitô giải quyết vấn đề người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết. Vẫn biết bài Đáp Ca hôm nay am hợp với trường hợp của người vợ duyên sắc được Chúa cứu cho khỏi bị chết vì oan ức ở Bài Đọc 1 hôm nay, nhưng, ý nghĩa và tâm tình của những câu Thánh Vịnh 22 được Giáo Hội chọn đọc hôm nay, vẫn có thể áp dụng và rất thích đáng cho cả trường hợp của chị phụ nữ tội nhân đáng bị ném đá chết lẫn thành phần công chính biệt phái cùng luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay.
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Phúc Âm: Ga 8, 12-20
"Ta là sự sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng
thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban
sự sống".
Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông
không xác thực".
Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta
cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông,
các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông
đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có
đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có
mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của
các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta,
và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta,
cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy
trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm Năm C
nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến
thì Người
không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân
loại
Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo
đều chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người
tự mình chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi.
Nếu tuần trước Người nói Người không tự làm chứng về mình thì
tuần này Người không thể không tự làm chứng về Người bởi không
ai biết Người bằng chính Người.
19 tháng 3
THÁNH GIU-SE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MA-RI-A
lễ trọng
Thiên cung hoan hỷ tán dương ngài,
Giáo Hội tưng bừng khắp đó đây,
Lạy thánh Giu-se, ngài xứng đáng
Làm bạn Nữ Hoàng, hạnh phúc thay !
Thấy người thai nghén mà bỡ ngỡ,
Lo lắng hoài nghi rộn tâm tình,
Thiên sứ bảo rằng : thai nhi đó
Chính là do bởi Chúa Thánh Linh.
Bế bồng ấp ủ Chúa còn thơ,
Rồi ẵm sang Ai, trốn quân thù,
Lạc ở Sa-lem, tìm lại thấy,
Vui buồn sướng khổ mấy mươi thu !
Chư thánh chỉ trông phúc thiên đàng
Một khi lìa khỏi chốn dương gian.
Nhưng phần Thánh Cả được hồng phúc
Sống ở thế này cạnh Thánh Nhan.
Cậy nhờ công đức thánh Giu-se,
Nguyện Chúa Ba Ngôi khấng phù trì.
Dẫn dắt đoàn con lên cõi thọ,
Muôn đời ca tụng Chúa từ bi.
Thánh Giu-se trung thành dưỡng nuôi và gìn giữ Chúa Giê-su
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đi-nô Xi-ê-na, linh mục.
Đây là đường lối thông thường của Chúa khi Người ban những ơn riêng cho một thụ tạo có trí khôn : Chúa thương tuyển chọn và ban cho ai một ơn đặc biệt hay một địa vị cao trọng nào, thì Người cũng ban mọi đặc sủng cần thiết cho kẻ được tuyển chọn ấy cũng như cho nhiệm vụ của họ. Những đặc sủng này còn tô điểm thêm cho bản thân họ rất nhiều.
Điều này được chứng thực cách tuyệt hảo nơi thánh cả Giu-se. Thánh nhân được coi là cha của Chúa Giê-su Ki-tô và thật sự là bạn trăm năm của Đức Ma-ri-a, nữ hoàng trần thế và nữ vương các thiên thần. Chúa Cha hằng hữu đã chọn thánh Giu-se để thánh nhân trung thành dưỡng nuôi và gìn giữ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, và Đức Ma-ri-a hiền thê của thánh nhân. Đây là hai kho tàng quý giá nhất của Người. Thánh nhân đã chu toàn nhiệm vụ ấy một cách rất trung thành. Vì thế, Chúa đã nói với thánh nhân : Hỡi người tôi tớ tài giỏi và trung thành, hãy vào hưởng niềm vui của chủ.
Nếu bạn muốn nói đến vị thế của thánh Giu-se trong Hội Thánh Đức Ki-tô, thì không phải thế này sao : thánh nhân chính là con người được tuyển chọn, con người đặc biệt. Nhờ có thánh nhân đứng bảo lãnh mà Đức Ki-tô đã vào trần gian một cách hợp pháp và đàng hoàng ? Vậy nếu toàn thể Hội Thánh mắc nợ Đức Mẹ Đồng Trinh, vì nhờ Mẹ mà Hội Thánh được đón nhận Đức Ki-tô, thì sau Đức Mẹ, thánh Giu-se phải được Hội Thánh biết ơn và tôn sùng hơn hết.
Thánh nhân chính là điểm kết của Cựu Ước. Nơi thánh nhân, các tổ phụ và ngôn sứ đón nhận được hoa trái Thiên Chúa hứa ban. Điều mà Thiên Chúa đã rủ tình hứa ban cho các vị ấy, nay trở thành một con người bằng xương bằng thịt, và một mình thánh Giu-se được tiếp đón.
Suốt cuộc đời dương thế, Đức Ki-tô đã sống thân tình với thánh Giu-se, đã quý trọng và tôn kính thánh nhân như người con đối với cha mình, thì hẳn không thể nghi ngờ gì nữa : nay trên trời, chẳng những Đức Ki-tô không chấm dứt, mà còn gia tăng và kiện toàn những tâm tình ấy.
Bởi đó, thật thích đáng khi Chúa nói thêm : Hãy vào hưởng niềm vui của chủ. Đúng ra, niềm vui thấm nhập cõi lòng khi con người được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng Chúa vẫn thích nói thế này hơn : Hãy vào hưởng niềm vui... Chúa muốn ta hiểu sâu xa rằng : Không những niềm vui thấm nhập vào lòng người, nhưng nó còn bao trùm, cuốn hút, và, như một vực thẳm mênh mông vô tận, nó tràn ngập con người.
Lạy thánh Giu-se, xin nhớ đến chúng con và cầu thay nguyện giúp cho chúng con bên toà Đức Ki-tô là Dưỡng Tử của ngài. Xin kêu cầu bạn trăm năm của ngài là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh rủ lòng thương xót chúng con. Người là Thân Mẫu Đức Ki-tô, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Đây bậc Thánh cả thiên đàng hãnh diện,
Niềm cậy trông và cột trụ trần gian,
Chúng con dâng lời tán tụng đôi hàng,
Xin hiền phụ Giu-se thương nhận lãnh.
Dòng Đa-vít, Chúa tạo thành se định
Được kết duyên cùng Trinh Nữ ngọc ngà,
Con Chúa Trời âu yếm gọi là “Cha”,
Ngài cộng tác vào công trình cứu độ.
Ngài lặng lẽ ngắm nhìn Ngôi Thiên Tử,
Giờ sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn,
Đấng bao đời ngôn sứ đã ngợi khen,
Ngài thờ lạy đầu tiên cùng Đức Mẹ.
Đây Chúa Tể càn khôn, đây Thượng Đế,
Một dấu tay là địa ngục hãi hùng,
Cả thiên đình đều phụng mệnh khiêm cung
Mà không quản vâng ý ngài trọn vẹn.
Lời vinh tụng, dâng Ba Ngôi trìu mến
Đã ban cho ngài chức trọng quyền cao,
Được ngài thương hằng nâng đỡ nguyện cầu,
Đoàn chúng tử sẽ thông phần vinh phước.
Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giê-su cho thánh cả Giu-se, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giê-su, để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
"Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ phụ Người".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Miêu duệ người tồn tại đến muôn đời (c. 37).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 4, 13. 16-18. 22
"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng ông đã tin, Ðấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 83, 5
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 16. 18-21. 24a
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Lc 2, 41-51a
"Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.
Ðó là lời Chúa.
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Giuse trong buổi triều kiến chung 19/3/2003
1. Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng kính Thánh Giuse, vị hôn phu của Mẹ Maria (x Mt 1:24; Lk 1:27). Phụng vụ diễn tả Ngài là “cha” của Chúa Giêsu (x Lk 2:27,33,41,43,48), sẵn lòng thực thi các dự án thần linh, ngay cả khi những dự án này vượt quá tầm mức hiểu biết loài người. Nơi “người con Vua Đavít” (Mt 1:20; Lk 1:27) này, Sách Thánh được nên trọn và Lời Hằng Sống đã làm người, bởi quyền năng Thánh Linh, trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse được Phúc Âm diễn tả như là “một con người công chính” (Mt 1:19), và Ngài là mẫu gương sống đức tin cho tất cả mọi tín hữu.
2. Chữ “công chính” nói lên tính cách cương trực về luân lý của Ngài, việc Ngài chân thành gắn bó với việc thực hành lề luật cũng như thái độ hoàn toàn cởi mở trước ý muốn của Cha trên trời. Ngay cả trong những lúc khó khăn, vào những lúc thảm cảnh, người thợ mộc khiêm hạ thành Nazarét này cũng không bao giờ chiếm cho mình thứ quyền thách đố dự án của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi tiếng gọi từ trên cao và âm thầm tôn kính mầu nhiệm ấy, bằng cách để cho Chúa hướng dẫn. Một khi lãnh nhận công việc, Ngài thi hành với tất cả trách nhiệm thành tín: Ngài chuyên chú lắng nghe thiên thần khi được yêu cầu nhận Trinh Nữ Nazarét làm hiền thể của Ngài (x Mt 1:18-25), trong cuộc trốn sang Ai Cập (x Mt 2:13-15) cũng như trong cuộc trở về Do Thái (x Ibid 2:19-23). Qua một số giòng chữ, tuy ít nhưng quan trọng, các vị thánh ký đã cho thấy Ngài như là một vị bảo quản ân cần của Chúa Giêsu, một phu quân lưu tâm và trung tín, vị thi hành quyền bính của mình trong gia đình bằng một thái độ phục vụ liên lỉ. Sách Thánh không nói cho chúng ta biết hơn nữa về Ngài, nhưng trong cái câm nín này đã gói ghém chính kiểu cách sứ vụ của Ngài, đó là một cuộc hiện hữu được sống động trong âm thầm của cuộc sống hằng ngày, nhưng bằng một đức tin vững chắc vào Đấng Quan Phòng.
3. Hằng ngày Thánh Giuse phải cung ứng các nhu cầu của gia đình bằng việc làm chân tay khó nhọc của Ngài. Vì lý do này, Giáo Hội đã có lý để đặt Ngài là quan thày của thành phần lao động.
Bởi thế, lễ trọng hôm này cũng là một cơ hội rất thuận lợi để suy nghĩ về tầm quan trọng của việc làm trong đời sống con người, nơi gia đình cũng như ngoài cộng đồng.
Con người là chủ thể và là vai chính của việc làm, và theo chiều hướng của sự thật này, người ta có thể dễ dàng nhận thức được cái liên hệ trọng yếu hiện hữu giữa con người, việc làm và xã hội. Hoạt động của con người, theo Công Đồng Chung Vaticanô II, được phát xuất từ con người và qui hướng về con người. Theo ấn định và ý muốn của Thiên Chúa, nó phải phục vụ thiện ích thực sự của nhân loại và giúp cho “con người, là một cá nhân cũng như là một phần tử của xã hội, có thể vun trồng và thực thi ơn gọi toàn diện của mình” (x Vui Mừng Và Hy Vọng, 35).
Để làm trọn công việc này, cần phải vun trồng “một linh đạo thực sự của việc làm nhân bản” được sâu xa bắt nguồn từ “Phúc Âm làm việc”, và là một linh đạo các tín hữu được kêu gọi để loan truyền và làm chứng cho ý nghĩa việc làm theo Kitô Giáo trong các hoạt động nghề nghiệp khác nhau của họ (x Thông Điệp Laborens Exercens, 26).
4. Chớ gì Thánh Giuse, một vị thánh cao cả và khiêm hạ, trở thành một mẫu gương khiến thành phần lao động Kitô hữu noi theo bắt chước, kêu cầu Ngài trong hết mọi hoàn cảnh. Hôm nay đây, Tôi xin ký thác cho vị bảo quản ân cần Thánh Gia Nazarét này giới trẻ, thành phần đang sửa soạn cho một tương lai nghề nghiệp, thành phần thất nghiệp và những ai đang phải chịu khốn khó vì thiếu nghề nghiệp, các gia đình và toàn thế giới của việc làm cùng với những mong đợi và thách đố, những trục trặc và chiều kích của nó.
Xin Thánh Giuse, quan thầy chung của Giáo Hội, trông coi toàn thể cộng đồng giáo hội, và như một con người thực sự của hòa bình, cầu cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người đang bị đe dọa trong thời gian chiến tranh này đây, tặng ân thái hòa và bình an cao quí.
Anh Chị Em thân mến,
Thánh Giuse là vị chúng ta long trọng mừng lễ hôm nay đây, là gương mẫu sống đức tin. Là vị bảo vệ Thánh Gia, “con người công chính” (Mt 1:19) này là một con người lao động khiêm tốn, và là một phu quân và thân phụ trung thành. Đời sống của Ngài cho chúng ta thấy một lòng tin tưởng bất khả chuyên thay vào Đấng Quan Phòng thần linh.
Thánh Giuse sẵn sàng thực hiện dự án của Thiên Chúa giành cho Ngài cũng như cho Mẹ Maria, ngay cả khi dự án này dường như vượt trên mức độ hiểu biết của loài người.
Giáo Hội cũng cử hành mừng Thánh Giuse là Quan Thày của Thành Phần Lao Động nữa. Trong một thế giới toàn cầu hóa hôm nay đây chúng ta cần phải nhắc nhở mình là phẩm vị của con người phải đóng vai trò quan trọng chính yếu nơi tất cả mọi thứ phát triển về xã hội cũng như kinh tế. Là một con người của hòa bình, chúng ta hãy cầu với Thánh Giuse cho những ai đang bị de dọa bởi chiến tranh và chúng ta kêu cầu tặng ân thái hòa cao quí cho toàn thể gia đình nhân loại.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/3/2003.
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay về Thánh Giuse 19/3/2006
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse, nhưng vì trùng với Chúa Nhật III Mùa Chay nên phụng vụ được dời vào ngày mai. Tuy nhiên, khung cảnh Thánh Mẫu của buổi nguyện Kinh Truyền Tin kêu mời chúng ta hãy kính can suy niệm về hình ảnh vị hôn phu của Trinh Nữ Maria Rất Thánh, quan thày của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi muốn nhắc lại là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta cũng rất sùng kính Thánh Giuse, vị được ngài giành hẳn một bức tông thư ‘Redemptoris Custos’, Vị Bảo Hộ Của Đấng Cứu Chuộc, và là giáo hoàng chắc chắn đã cảm thấy được sự hỗ trợ của thánh nhân trong giờ lâm tử.
Hình ảnh của vị đại thánh này, cho dù vẫn âm thầm kín ẩn, có một tầm vóc quan trọng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Trước hết, vì thuộc về chi tộc Giuđa, thánh nhân đã có liên hệ với Chúa Giêsu theo giòng dõi vua Đavít, bởi đó, khi hiện thực những lời hứa về Đấng Thiên Sai, người con của Trinh Nữ Maria mới thực sự được gọi là ‘con vua Đavít’.
Phúc Âm Thánh Mathêu nhấn mạnh một cách đặc biệt đến những lời tiên tri về đấng thiên sai được nên trọn nơi vai trò của Thánh Giuse: nơi việc Chúa Giêsu được hạ sinh (2:13-15); tên gọi ‘Nazarene’ (2:22-23). Trong tất cả những điều này, thánh nhân đã cho thấy bản thân của ngài, như vị hôn thê Maria của mình, là giòng dõi đích thực của đức tin Abraham: niềm tin nơi Thiên Chúa đã hướng dẫn các biến cố lịch sử theo dự án cứu độ thần linh của Ngài. Sự cao cả của thánh nhân, như Mẹ Maria, còn trổi vượt hơn nữa, vì sứ vụ của thánh nhân được thực hiện trong khiêm hạ cũng như trong sự khuất kín ở nhà Nazarét. Hơn nữa, chính Thiên Chúa, nơi bản thân Người Con nhập thể của Ngài, đã chọn đường lối cùng lối sống ấy trên cuộc đời trần gian.
Từ gương mẫu của Thánh Giuse, tất cả chúng ta lãnh nhận một lời mời mmạnh mẽ trong việc trung thành, đơn sơ và khiêm hạ công việc được Thiên Chúa quan phòng ấn định cho chúng ta. Trước hết tôi đang nghĩ đến những người làm cha làm mẹ, và tôi nguyện cầu để họ luôn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của một đời sống giản dị và cần cù, chuyên chú vun trồng mối liên hệ vợ chồng và nhiệt thành làm trọn sứ vụ giáo dục cao cả nhưng không dễ dàng gì.
Xin Thánh Giuse cầu cho các vị linh mục là thành phần thực thi vai trò làm cha đối với cộng đồng giáo hội biết yêu mến Giáo Hội một cách thiết tha và hoàn toàn dấn thân phục vụ, và nâng đỡ thành phần tu trì tận hiến biệt hân hoan và trung thành tuân giữ các lời khuyên của Phúc Âm sống khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục. Xin thánh nhân bảo vệ thành phần lao động trên thế giới để họ góp phần bằng các nghề nghiệp khác nhau của họ cho sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, và xin thánh nhân giúp cho hết mọi Kitô hữu nhận biết ý muốn của Thiên Chúa một cách tin tưởng và mến yêu, nhờ đó cộng tác vào việc làm trọn công cuộc cứu độ.
Khi Đức Thánh Cha vừa nói hết câu đầu tiên của bài huấn từ truyền tin trên đây, câu “Anh Chị Em thân mến. Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse”, liên được đoàn hành hương cả 50 ngàn người vỗ tay vang rền khu Quảng Trường Thánh Phêrô. Có một số người cầm biểu ngữ với những chữ như “Auguri, Joseph!” (Chúc Mừng Giuse). Đức Thánh Cha đã mỉm cười và nói cám ơn mấy lần.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/3/2006
Thứ Ba
(Nếu hôm nay không bị trùng và át đi bởi lễ trọng kính Thánh Giuse hôm nay như năm 2024)
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9
"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về
phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản
chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi
Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống,
chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này".
Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và
thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch
Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn
cắn". Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc
một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn
đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ
nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên
tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn.
Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu
sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong
vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê
lời họ kêu van.- Ðáp.
3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo
sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao
Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải
thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm: Ga 8, 21-30
"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ
tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể
tới được".
Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi
Ta đi các ông không thể tới được"?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các
ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã
nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các
ông sẽ chết trong tội của các ông".
Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói
với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng
Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây,
chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".
Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi
nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không
tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã
sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm
điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống nhìn lên
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 3, 14-20. 91-92. 95
"Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: "Hỡi Sidrach, Misach và
Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng
ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn,
tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải
sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ
lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ
cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với
vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua
về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi
lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không
muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của
vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên".
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach,
Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và
truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và
Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần
rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?" Các ông trả
lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có". Vua nói: "Ðây ta thấy có bốn người
không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư
giống như Con Thiên Chúa". Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của
Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát
các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà
hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa
của họ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng,
đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang
Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn
vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh
muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh,
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. -
Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời
đời".
Phúc Âm: Ga 8, 31-42
"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu
các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được
biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng
tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại
nói "Các ngươi sẽ được tự do"?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả
thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ
không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con
giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi
là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm
nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các
ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại:
"Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con
cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang
tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên
Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các
ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi
chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các
ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự
mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống về nguồn
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I: St 17, 3-9
"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".
Trích sách Sáng Thế.
Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng:
"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên
hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt
ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ
đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta
sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế
hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi
ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho
ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ
sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tới
muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan
Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và
những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ
được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của
Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới
muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề
với Isaac. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14
Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và
Chúa sẽ ở cùng các ngươi.
Phúc Âm: Ga 8, 51-59
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo
các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người
Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã
chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không
bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao?
Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ
không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi
xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta,
Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các
ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã
hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy
Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các
ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống nguyên ủy
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13
"Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố
khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu
tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó
và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì
thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng,
chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.
Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm
can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã
tỏ bày công việc con cho Chúa.
Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người
bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7
Ðáp: Trong
cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c.
7).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá,
chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn,
là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa,
và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi.
Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. -
Ðáp.
4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của
tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai
Ngài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 10, 31-42
"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng:
"Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà
các ngươi muốn ném đá Ta?"
Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành,
nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là
Thiên Chúa".
Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu
này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được
nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao
các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian
rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không
làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những
việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó,
để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua
bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó.
Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào.
Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống thần linh
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ed 37, 21-28
"Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân
tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng
về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất
của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không
còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa.
Chúng sẽ không còn dơ nhớp vì thần tượng, vì các điều ghê tởm và mọi tội lỗi
của chúng. Ta sẽ cứu thoát chúng khỏi mọi nơi tội lỗi. Ta sẽ thanh tẩy
chúng; chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ðavit tôi tớ Ta
sẽ là vua của chúng, chúng sẽ chỉ có một chủ chăn mà thôi. Chúng sẽ tuân giữ
và thực thi các giới răn của Ta. Chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho
Giacóp tôi tớ Ta, và là đất tổ phụ chúng đã cư ngụ; chúng và con cái cùng
cháu chắt của chúng sẽ cư ngụ ở đó đến muôn đời. Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là
vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó
sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho
chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn
đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân
Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập
nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13
Ðáp: Chúa
sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các
đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ
gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu
thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh
phúc của Người. - Ðáp.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ
già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan,
sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 11, 45-56
"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có
nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt
phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt
phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm
nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ
tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người
trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không
hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn
là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh
nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết
thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái
Thiên Chúa đang tản mát về một mối.
Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn
công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến
thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ
Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước
lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán
với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và
biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống muôn dân
"Quyết định giết Người" này của giáo quyền Do Thái, một quyết định xẩy ra vào thời điểm sắp tới Lễ Vượt Qua, một quyết định gắt gao tới nỗi, như cuối bài Phúc Âm cho thấy: "các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người". Lý do hoàn toàn nhuộm mầu sắc lo sợ về chính trị: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta".
Như
thế, giáo quyền Do Thái, cho dù công nhận "người
này làm nhiều phép lạ", mà
họ là một dân tộc ưa thích điềm lạ (xem 1Corinto 1:22), cái gì
cũng đòi điềm lạ (xem Gioan 2:18), mà chỉ là điềm lạ theo ý của họ muốn
thôi, chứ những điềm lạ như việc Người trừ quỉ hay chữa lành bệnh tật
v.v. không ai làm được như Người, kể cả việc Người làm cho Lazarô hồi
sinh từ một tử thi đã xông mùi mà họ vừa được tường trình cho biết (xem
Gioan 11:43-44,46), cũng chẳng hợp với ý muốn của họ, vẫn không phải
là điềm lạ họ đòi hỏi để tin, nên chẳng lạ gì họ vẫn tìm cách triệt hạ
Người cho bằng được, không phải bởi lo sợ cho toàn dân hơn là, đúng như
vị tổng trấn của đế quốc Rôma là Philatô đã
nhận định: "vì ghen
tương mà họ đã nộp Người cho ông" (Marco
15:10).
Chúng ta có thể tóm gọn tổng lược tiến trình tỏ mình ra của Chúa Kitô và phản ứng của người Do Thái trước mạc khải thần linh là Chúa Kitô trong Tuần Lễ 5 Mùa Chay như sau:
Tuần 5 Mùa
Chay |
Ý đồ người Do Thái |
Chúa Giêsu tỏ mình cho
người Do Thái |
Phản ứng của người do
Thái |
Gioan 8:21-30 |
|
"Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được"… "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. |
"Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại
nói ‘Nơi Ta đi các ông không thể tới được?’"
"Ông là ai?" “Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người” |
Thứ 4 Gioan 8:31-42 |
|
"Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông."… “Hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội… nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” |
“Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham.
Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ”… "Chúng tôi đâu phải là con hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!" |
Gioan 8:51-59 |
|
“Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ
không phải chết"… “Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi” |
"Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông
bị quỷ ám… Ông cho mình là ai?” “Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ”. |
Thứ 6 Gioan 10:31-42 |
|
"Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc
tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá
Ta?" “Dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc của Cha Ta, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha" |
"Chúng
tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời
lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên
Chúa". “Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ… Có nhiều kẻ đến cùng Người. .. Và có nhiều kẻ tin Người" |
Thứ 7 Gioan 11:45-56 |
(Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hồi sinh Lazarô)
“có kẻ đi gặp người biệt phái và
thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm”. “Từ ngày đó, họ quyết định giết Người”. |
“Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ”. |
“Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của
người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước
lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ
và bàn tán với nhau: ‘Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?’" "Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người". |
Thật
ra, thái độ cứng lòng và mù quáng của chung người Do Thái và riêng thành
phần giáo quyền lãnh đạo
Do Thái tỏ ra
trước Chúa Giêsu Kitô, dữ dội đến độ Người càng tỏ mình ra họ lại càng muốn
tiêu diệt Người đi, cũng
vẫn có thể thông cảm được. Bởi vì, chính thành phần tông đồ được Người
tuyển chọn ở với Người để có thể nhận biết Người nhờ đó trở thành những
chứng nhân tiên khởi cho Người sau này mà còn bán nộp Người và trắng
trợn chối bỏ Người huống chi là họ.
Cái lạ lùng quái quẩn ở đây nữa là thậm chí các tông đồ đã thực sự nhận
biết và tuyên
xưng
Người một
cách chính xác đúng như căn tính của Người rằng: "Thày là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ấy thế mà một người là
Giuđa Íchca trong họ vẫn
phản nộp Người và chính
vị lãnh đạo tông đồ đoàn của họ lại trắng trợn chối
bỏ Người, và
"tất cả đều bỏ Người mà tẩu
thoát" (Marco 14:50) khi Người
bị bắt trong Vườn Cây Dầu vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh.
Đó là lý do cả thành phần môn đệ yêu
dấu thân cận nhất của
Người, chung dân Do Thái và cách riêng thành phần lãnh đạo dân Do Thái,
kể cả thành phần
dân ngoại thuôc đế quốc Rôma lên án tử cho Người và hành hạ Người một
cách vô cùng dã man vô nhân đạo, đều được
bao gồm trong lời đầu tiên của Chúa Giêsu trên thập tự giá: "Lạy Cha,
xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết việc họ làm" (Luca 23:34).
Đúng như câu đáp chính yếu của bài Đáp Ca hôm nay (Giêrêmia
31:10,11-12ab,13), Người
quả là "mục tử chăn dắt đoàn chiên mình", một đoàn chiên bao gồm toàn
thể loài người, bởi Người đã mặc lấy nhân tính của chung loài người, chứ
không phải bản tính riêng của người Do Thái, nhưng lại mang chính giòng
máu Do Thái, với tư cách là Đấng Thiên Sai của họ, nhờ đó mới là Đấng
Cứu Thế xuất thân từ Do Thái, đúng như giao ước và lời hứa của Thiên
Chúa Cha Người đã tự động ký kết với cha ông tổ phụ của họ và thực hiện
trong lịch sử cứu độ của họ, bất chấp họ có trung thành với giao ước của
Ngài hay chăng, cho đến khi Ngài hoàn tất hết mọi sự nơi Con của Ngài
"khi đến thời điểm
viên trọn" (Galata 4:4).
Bởi thế, cho dù bài phúc âm hôm nay đượm mầu sắc và bầu khí đầy
những ảm đạm cùng buồn thảm, nhưng trong bài đọc một lại hiện lên cả một
chân trời sáng lánh rạng ngời theo dự án thần linh cứu độ của Vị Thiên
Chúa chân thật
duy nhất vô cùng yêu thương nhân hậu đã tỏ mình ra nơi Con của Ngài, một
dự án thần linh cũng được le lói ngay trong bài phúc âm hôm nay, qua lời
chú giải của vị thánh ký đóng vai tiên tri, đó là tông đồ Gioan, vị
tông đồ tiên tri có thể nói duy
nhất của Tân Ước, vì
ngài còn là tác giả của Sách Khải Huyền liên quan đến "trời
mới đất mới" (Khải
Huyền 21:1), đến "một tân đô Giêrusalem" (Khải Huyền 21:2), đến "mọi sự
mới" (Khải
Huyền 21:5).
Đúng vậy, trong bài phúc âm hôm nay, ngay sau khi ghi lại lời của Thượng Tế Caipha liên quan đến mưu đồ sát hại Chúa Giêsu: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt", vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu này đã chú giải "không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".
Vị tông đồ tiên tri này dường như đã chú giải theo chiều hướng của dự án thần linh đã được Tiên Tri Êzêkiên loan báo trong Cựu Ước, trong đó bao gồm chẳng những vai trò "chỉ có một chủ chăn mà thôi" của chính Chúa Kitô Thiên Sai, qua nhân vật biểu tượng Đavít là cha ông của Người và Người là dòng dõi theo huyết tộc, mà còn bao gồm cả "một giao ước vĩnh cửu" mà Người sẽ thiết lập bằng máu của Người, như Người đã long trọng tuyên bố trong Bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể (xem Luca 22:20), với các tông đồ là nền tảng của một Giáo Hội được Người thiết lập như là một "nơi thánh", một "Nhà Tạm... đến muôn đời":
"Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".
Phải chăng những lời tiên tri này của Cựu Ước đã được ứng nghiệm ngay từ
Chúa Nhật Lễ Lá (ngày mai), thời điểm Giáo Hội long trọng cử hành biến cố
Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem như một Đứa Vua và được
hoan hô chúc tụng là “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mathêu 21:9) hay “chúc tụng
vương quốc Đavít cha ông của chúng ta đã đến” (Marcô 11:10).
Sự kiện Chúa Giêsu vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem ấy là câu trả
lời hùng hồn nhất cho thắc mắc của những người đã có mặt ở Giêrusalem bấy
giờ, như bài phúc âm hôm nay thuật lại: “Có
nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm
Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: ‘Anh em nghĩ sao?
Người có đến hay không?’"
Phải, Người phải đến, phải xuất hiện, vì “đã đến giờ Con Người được vinh
hiển” (Gioan 12:23), không phải là vinh hiển khi Người tiến vào Thành Thánh
Giêrusalem, được các môn đệ và đa số dân chúng đông đảo hoan hô chúc tụng
nghênh đón, cho bằng cái vinh hiển của Người trên Sọ Trường (Golgotha)
Canvê, với triều thiên là mạo gai, ngai tòa là Thánh Giá và vệ quân là hai
tên tử tội trộm cướp, với tấm bảng được gắn ở cây thập tự giá: “Giêsu
Nazarét – Vua Dân Do Thái” (Gioan 19:19).
Trong Mùa Chay, từ tuần lễ Thứ Tư trở đi, Giáo Hội đã cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan về tiến trình tỏ mình ra của Chúa Kitô Thiên Sai với dân Do Thái, trong đó bao gồm cả những thái độ cùng phản ứng ngược chiều của thành phần dân tuyển chọn này, cho đến khi dự án cứu độ thần linh vô cùng huyền diệu của Thiên Chúa được hiện thực một cách hoàn toàn ứng nghiệm nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô khổ nạn, tử giá và phục sinh, một biến cố tột đỉnh của tất cả Lòng Thương Xót Chúa cũng như của Phụng Niên, được cử hành trong Tuần Thánh, nhất là Tam Nhật Vượt Qua, bắt đầu từ ngày mai, Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thương Khó được kết thúc vào Chúa Nhật Phục Sinh.
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Turibio Alfonso de Mongrovejo, được sinh ra tại vùng Léon xứ Tây Ban Nha vào khoảng năm 1538; học luật tại Salamanca trước khi trở thành tỉnh trưởng Grenada. Dù được phong thánh từ năm 1726, nhưng việc nhớ đến ngài cũng mới đây thôi.
Thánh Turibio là vị Tông Đồ vĩ đại của Pêru và những vùng Châu Mỹ La Tinh. Đất nước này bị Pizarro chinh phục theo lệnh nhà vua Tây Ban Nha, được vua Philippe II thiết đặt một Tổng Giáo Phận mới tại Lima và Turibio được gọi làm tổng giám mục vào năm 1580, khi ngài còn là giáo dân. Lima được nâng lên thành tòa giám mục vào năm 1541 và thẩm quyền của ngài vươn dài trên tất cả các nước nằm giữa Panama và Rio de La Plata. Địa phận mà ngài lãnh nhận từ năm 1581, trải dài 520 km dọc Thái Bình Dương: đi từ Nicaragua của Paraguay đến Argentina. Từ lúc khởi đầu sứ vụ, thánh Turibio cố gắng triệu tập nhiều Công Đồng và Công Nghị để tạo dựng hàng giáo sĩ và nâng cao nền luân lý của dân chúng, đặc biệt của người Indiens. Ngài những nơi cư trú của dân nghèo địa phương để củng cố họ. Ngài qua đời ngày 23.03.1606 trong một cộng đoàn người Indiens, vào cuối cuộc hành trình mục vụ. Đó là ngày thứ Năm Tuần Thánh. Ngài ao ước trong những giây phút cuối đời, người ta hát cho ngài nghe Thánh Vịnh 115 và 30, có đệm đàn, trong khi người ta giơ Thánh Giá cho ngài. Di hài của ngài được chuyển về Lima vào năm 1607.
2. Thông điệp và tính thời sự
Phụng Vụ gợi lên “những hoạt động Tông Đồ” của thánh Turibio và “tình yêu của ngài đối với chân lý”, đã làm cho Hội Thánh phát triển. Với một lòng can đảm, vị Tân Tổng Giám Mục Lima đảm nhiệm công tác Phúc Âm hóa và canh tân, đối mặt với các gương xấu làm cho sứ vụ của ngài hóa ra khó khăn, cũng như đối mặt với sự kháng cự của chính quyền thực dân và của một số Dòng tu chống lại sự nhiệt tình của ngài. Đối lại với những người kết án ngài cứ theo phong tục, ngài luôn nhắc lại lời của Tertullien: “Đức Giêsu không nói “Tôi là phong tục”, nhưng Người nói “Tôi là chân lý”.
Thánh Turibio rất được người Indiens yêu mến vì ngài nói chuyện với họ bằng ngôn ngữ của họ. Ngài đã thăm viếng mục vụ 3 lần trong địa phận mênh mông. Ngài thành công tái lập lại kỷ luật khi triệu tập 13 công nghị địa phận và công bố các sắc lệnh của Công Đồng miền; trong đó có Công Đồng Lima vào năm 1582-1583, có thể so sánh với Công Đồng Tridentinô đối với Châu Mỹ La Tinh. Ngài cho thấy mức độ tình yêu của mình trong lúc dịch tả hoành hành đến độ dám hy sinh mạng sống mình vì ơn cứu độ cho đoàn chiên.
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV đã so sánh thánh Turibio với thánh Charles Borromêô. Thật vậy, sự quảng đại của ngài đã làm cho dân Chúa được lớn dậy trong “một đức tin và một sự thánh thiện luôn tiến triển”, đã làm cho ngài trở thành một mẫu người truyền giáo. Bản văn được trích dẫn trong Phụng Vụ Giờ Kinh, rút từ các Sắc Lệnh của Công Đồng Vaticanô II (Trách nhiệm mục vụ của các giám mục), khuyến khích các giám mục trình bày giáo lý Kitô giáo có sự hoà hợp và luôn phải bảo vệ. Cũng thế, như tài liệu dạy, “trong việc chuyển đạt, các ngài phải xác tín sự lo lắng của Mẹ Hội Thánh đối với mọi người ...Các ngài phải đặc biệt lo cho người nghèo và người bần khổ”. Các điều này đã được thánh Turibio thực hiện cách tuyệt vời, qua việc mình sống cho mọi người, để canh tân Hội Thánh của Pêru. Trong lo lắng để mang đến cho mọi người ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, thánh Turibio đã trở thành hình ảnh của Người Mục Tử nhân lành, hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ngài nói: “Thiên Chúa sẽ bảo tôi tường trình mọi hoạt động của tôi, nhất là trong việc thực hành sứ vụ. Ích gì khi tôi cứu được nhiều người, mà lại bỏ sót một người vì lỗi của tôi.”
Enzo Lodi (Nguồn:tgpHaNoi)
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/23-03-thanh-turibio-mongrovegio-giam-muc-le-nho-tuy-chon/
3- Tiểu sử:
Có những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm
kiếm. Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga
nước Tây Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận
dữ. Bà này mất một vật mà không mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích
cho bà rằng: đừng nên làm như vậy bởi vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa.
Đứa trẻ tốt lành và tế nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh chúa
Mongrôvejô.
Ở trường Valladolid rồi ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người
nghèo, Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc
phải bỏ những hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là người sẽ thành một tông
đồ bởi Ngài đã biết sống đúng đắn.
Khi đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được
vua Philippê II đặt làm chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống
ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định là một giám mục lại
là Turibinô một giáo dân. Nghe tin này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới
chân thánh giá viết thư cho nhà vua, trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù
tồi tệ của vua vì những bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay
chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi giám mục và nhậm địa phận năm
1581.
Địa phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chặn Ngài
lại nếu Ngài không phải là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm,
gồm nhiều thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.
Người Tây Ban Nha khai phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn
cải hóa bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ
thông cho dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ,
Turibiô không thể cầm được nước mắt Ngài quở trách những người chinh phục vì
những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo rằng: những cớ vấp phạm ấy phải
dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị.
Vị mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao
tuyết phủ, thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người
Tây ban Nha quyền thế trở thành phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những
báo cáo sai lầm đã trách cứ Ngài. Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó
đã không làm cho Ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng: Chính Chúa Kitô chứ không
phải thế gian sẽ phán xét Ngài.
Turibiô học ngôn ngữ dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân
từ. Lòng bác ái nhân từ của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới
một làng hẻo lánh, dân chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi
những người đau yếu và không chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết
chết lành. Khi phân phát tình yêu Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình.
Dần dần các thành phố và cả những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông
đảo. Thánh Turibiô thiết lập các chủng viện, các viện cứu tế.
Trong hai mươi lăm năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã
của mình ba lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi
sáng. Người ta nói rằng: khi cầu nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia
sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn
chay thêm nữa. Khi có ôn dịch trong giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu
nguyện hãm mình, Ngài cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính Ngài
rơi lệ uớt cả thánh giá cầm trong tay.
Trong khi bắt dầu cuộc kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ
biết lập lại lời thánh Phaolô: “Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của
thể xác để kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô”.
Gần chết Ngài xin những người chung quanh hát lời thánh vịnh: - Tôi vui mừng
khi nghe nói cùng tôi: chúng ta đi về nhà Thiên Chúa
Thế là cái chết của Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài
là lời chính chúa Kitô: - Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay
Chúa. Ngài tự đi tới thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết
hiệp với Thánh Thể, Ngài qua đời năm 1606.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-03-thanh-turibio-mogrovejo-giam-muc-1536-1606-53750
LIMA. Trong sứ điệp gửi các GM toàn nước Peru, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các
giáo phận tại đây hăng say truyền giảng Tin Mừng, theo gương thánh Toribio.
Sứ điệp của ĐTC được gửi tới các GM Peru, công
bố ngày 24-4-2006 tại Vatican, nhân dịp mừng kỷ niệm 400 năm qua đời của
thánh Toribio de Mogrovejo, TGM giáo phận Lima, bổn mạng hàng GM Mỹ châu la
tinh. Các buổi lễ kỷ niệm đã được gửi sự hôm 22-1 năm nay với thánh lễ đồng
tế trọng thể của tất cả các GM Peru tại Nhà thờ chính tòa Lima.
ĐTC cũng đã cử ĐHY Nicholas de Jesus Lopez
Rodriguez, TGM giáo phận Santo Domingo, làm Đặc Sứ của ngài, chủ sự các lễ
nghi kỷ niệm kết thúc, tiến hành từ ngày hôm qua, 24-4, đến 29-4-2006 tại
Lima. Đặc biệt có một hội nghị quốc tế tiến hành từ ngày 24 đến 28-4 này về
đề tài: ”Thánh Toribio de Mogrovejo: mục tử, thánh nhân và ngôn sứ”.
Thánh Toribio sinh năm 1538 tại tỉnh Leon bên
Tây Ban Nha, và tuy là một giáo dân, ngài được vua Filipo II bổ nhiệm làm
chánh án pháp tòa điều tra (Inquisition) tại thành phố Granada. 8 năm sau
đó, ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Lima, Peru. Ngài thụ phong trước
khi lên đường sang nhận giáo phận.
Trong sứ điệp gửi các GM Peru, ĐTC đề cao tấm
gương của thánh Toribio xả thân và tận tụy xây dựng và củng cố các cộng đoàn
Giáo Hội. Thánh nhân đã triệu tập Công nghị thứ 3 của giáo tỉnh Lima
(1582-1583), soạn thảo sách giáo lý, và thành lập Đại chủng viện Lima vẫn
còn hoạt động cho đến nay. ĐTC cầu mong chủng viện này tiếp tục mang lại
những hoa trái phong phú, trong một thời đại đang cần cấp thiết thăng tiếng
ở gọi LM và tu sĩ, để đáp ứng trách vụ kiến tạo các cộng đoàn Kitô..
ĐTC nhắc lại rằng: ”Tinh thần truyền giáo sâu xa
của thánh Toribio đã thúc đẩy Người cố gắng học nhiều ngôn ngữ khác nhau để
đích thân rao giảng cho mọi người được ủy thác cho sự săn sóc mục vụ của
Thánh Nhân. Đồng thời Thánh Toribio cũng chứng tỏ lòng tôn trọng phẩm giá
của mọi người, dù họ thuộc giai tầng nào trong xã hội; Người luôn nỗ lực
hoạt động để họ cảm thấy mình thực sự là con cái Thiên Chúa” (SD 24-4-2006)
G. Trần Đức Anh OP
5- “Thánh Turibiô: tấm gương của người mục tử châu Mỹ Latinh”
Bước sang ngày cuối cùng, 21-01, trong chuyến tông du Chilê và Pêru, vào buổi sáng, lúc 10g30, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các giám mục Pêru tại Tòa Tổng giám mục Lima.Tại cuộc gặp, Đức Thánh Cha chia sẻ với các giám mục Pêru những suy tư về Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục giáo phận Pêru và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương về một mục tử hết lòng vì đoàn chiên, chuyên chăm “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh” và không ngừng suy tư, sáng tạo những phương cách truyền giáo mang lại hiệu quả cao nhất. Sau đây là toàn văn huấn từ của Đức Thánh Cha.
Đề tài chuyến tông du này là hiệp nhất và hy vọng. Đề tài này là cả một chương trình tuy đầy thách đố nhưng lại thôi thúc chúng ta, khiến chúng ta nhớ đến những thành tựu đầy quả cảm của Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục của giáo phận này và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh”, như Thánh Gioan Phaolô II, vị tiền nhiệm của tôi, đã nói về ngài trong chuyến tông du đầu tiên của ngài đến đất nước này.[1]
Đặc biệt, vị thánh giám mục này vẫn được mô tả là một “Môsê mới”. Như anh em biết, tại Vatican có bức họa Thánh Turibiô băng qua một con sông lớn, nước rẽ ra trước mặt ngài như trong biến cố Biển Đỏ, nhờ đó ngài sang được bờ bên kia, nơi có đông đảo sắc dân bản địa đang đợi ngài. Đằng sau Thánh Turibiô là cả một đoàn người đông đảo, tượng trưng cho đoàn dân trung tín bước theo vị mục tử thực thi sứ mạng Phúc âm hóa.[2] Hình ảnh này có thể dùng làm điểm tựa cho suy tư tôi muốn chia sẻ với anh em. Thánh Turibiô, một con người muốn tới được bờ bên kia.
Chúng ta gặp ngài từ lúc ngài nhận bài sai đến những vùng đất này với sứ mạng làm một người cha và vị mục tử. Ngài rời bỏ sự an toàn của khung cảnh cuộc sống quen thuộc để bước vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ, chưa từng biết đến và đầy thử thách. Ngài lên đường đến vùng đất hứa dưới sự hướng dẫn của đức Tin “một bảo đảm cho những niềm hy vọng” (Dt 11, 1). Đức Tin và sự tín thác vào Chúa đã thôi thúc ngài, khi ấy và suốt quãng đời còn lại, để sang tới bờ bên kia, nơi chính Chúa đang đợi ngài giữa cả một đoàn người đông đảo.
1. Thánh nhân muốn sang bờ bên kia để tìm người xa lạ và kẻ lạc lối. Như vậy, ngài phải bỏ lại đằng sau cuộc sống tiện nghi ở tòa giám mục và ngược xuôi khắp lãnh thổ được trao phó cho mình trong những chuyến đi thăm mục vụ; ngài cố gắng đến thăm và ở lại bất cứ nơi nào đang cần đến ngài! Ngài đi ra gặp gỡ mọi người men theo những con đường, theo lời kể của cha bí thư, dê rừng nhiều hơn người. Turibiô phải đương đầu với khí hậu thất thường và địa hình đủ loại, “trong 21 năm làm giám mục, thì 18 năm sống bên ngoài thành phố, ba lần rảo khắp giáo phận”.[3] Ngài biết đây là cách duy nhất để làm một chủ chăn: sống gần gũi đoàn chiên của mình, ban các bí tích, và không ngừng khuyến khích các linh mục của mình cũng làm như vậy. Ngài không chỉ dùng lời nói, mà còn qua chứng từ, bằng cách đi đầu trong công cuộc Phúc âm hóa. Ngày nay chúng ta có thể gọi ngài là giám mục “đường phố”. Một giám mục mang đôi giày cũ sờn vì cuốc bộ, di chuyển không ngừng, bước ra ngoài để “rao giảng Tin Mừng cho mọi người: ở mọi nơi, trong mọi dịp, không chút chần chừ, miễn cưỡng và sợ hãi. Niềm vui Tin Mừng thì dành cho mọi người: không thể gạt ai ra ngoài”.[4] Thánh Turibiô thấu hiểu điều đó biết bao! Không chút sợ hãi và chần chừ, ngài để mình chìm vào lục địa của chúng ta để loan báo Tin Mừng.
2. Ngài muốn sang tới bờ bên kia không chỉ về mặt địa lý mà còn về phương diện văn hóa. Vì thế, ngài làm nhiều cách để Phúc âm hóa bằng ngôn ngữ của người bản địa. Với Công nghị Lima lần thứ ba, ngài soạn sách dạy giáo lý và dịch sang tiếng Quechua và Aymara. Ngài khuyến khích hàng giáo sĩ học ngôn ngữ của đoàn chiên mình coi sóc để ban các bí tích cho họ cách nào họ hiểu được. Tuy thường thăm viếng và sống với đoàn chiên, nhưng ngài thấy thế vẫn chưa đủ, vì mới chỉ hiện diện bằng thể xác, mà còn phải học ngôn ngữ của mọi người, vì chỉ bằng cách này, họ mới hiểu Tin Mừng và để Tin Mừng chạm vào cõi lòng họ. Đường hướng này cần thiết cho chúng ta biết bao, những mục tử của thế kỷ hai mươi mốt! Bởi vì chúng ta đang phải học những ngôn ngữ hoàn toàn mới, chẳng hạn, ngôn ngữ kỹ thuật số của thời đại chúng ta. Học để biết ngôn ngữ hiện nay của giới trẻ, của các gia đình, của con cái chúng ta… Như Thánh Turibiô, không những phải hiểu rõ, hiện diện và chiếm lĩnh không gian, mà còn phải có khả năng xây dựng phương pháp tiếp cận cuộc sống con người, để đức Tin có thể bén rễ và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Để làm điều đó, chúng ta phải nói được ngôn ngữ của họ. Chúng ta phải đến được những nơi có những câu chuyện và những loại hình mới đang sinh sôi nảy nở, để mang lời Chúa Giêsu đến tận trái tim các thành phố và người dân chúng ta.[5] Việc Phúc âm hóa nền văn hóa đòi hỏi chúng ta phải bước vào tận thâm sâu của nền văn hóa đó, khai sáng nó tận bên trong bằng Tin Mừng.
3. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia của đức ái. Đối với vị thánh bổn mạng của chúng ta, không thể Phúc âm hóa mà không có đức ái. Ngài hiểu rằng hình thức cao nhất của Phúc âm hóa là cuộc sống chúng ta phải noi theo gương Chúa Giêsu tự hiến mình vì yêu thương mọi người nam nữ. Bằng cách này sẽ nhận ra được con cái Thiên Chúa và con cái sự dữ: tất cả những ai không thực hành sự công chính đều không xuất phát từ Thiên Chúa, và những ai không yêu thương anh em, chị em mình, thì cũng vậy (x. 1 Ga 3, 10). Trong những chuyến thăm viếng mục vụ, ngài thấy những lạm dụng và hà khắc mà người bản địa phải gánh chịu, nên vào năm 1585, ngài đã không chùn tay ra vạ tuyệt thông cho viên Corregidor (quan Án sát) ở Catajambo, tự đặt mình vào thế chống lại toàn bộ hệ thống tham quan nhũng lại và cả một mạng lưới lạm quyền, chính vì thế “ngài lãnh đủ sự thù hằn của nhiều người”, trong đó có viên Phó vương.[6]Chúng ta thấy, người mục tử là thế đó, là người hiểu rằng không bao giờ điều tốt đẹp phần hồn lại tách khỏi điều tốt đẹp phần xác, hơn nữa, khi danh dự và phẩm giá con người bị đe dọa. Tinh thần ngôn sứ của vị giám mục là: không sợ tố cáo những lạm dụng và sự hà khắc đối với dân mình. Qua đó, Thánh Turibiô lưu ý toàn thể xã hội và từng cộng đồng rằng đức ái bao giờ cũng đi đôi với công bình. Đồng thời không thể thật sự Phúc âm hóa nếu không vạch trần và lên án mọi tội lỗi chống lại sự sống của anh chị em mình, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất.
4. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia trong việc đào tạo hàng linh mục của mình. Ngài thành lập chủng viện đầu tiên theo tinh thần hậu công đồng Triđentinô tại phần đất này của thế giới, nhờ đó đã khuyến khích việc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ngài nhận thấy việc đi thăm khắp nơi và nói cùng một ngôn ngữ thì không đủ: Giáo hội cần gầy dựng các mục tử người địa phương của mình và từ đó trở thành người mẹ sinh nhiều con cái. Để đạt mục tiêu này, ngài bảo vệ việc truyền chức linh mục cho các mestizos (thổ dân lai da trắng) – một vấn đề gây tranh cãi hồi đó – và tìm cách cho mọi người thấy rằng: nếu hàng giáo sĩ cần phải trổi vượt trong bất cứ lĩnh vực nào, thì vì sống thánh thiện chứ không phải do nguồn gốc chủng tộc.[7] Việc đào tạo này không giới hạn trong việc học hành ở chủng viện, mà còn được tiếp tục qua những cuộc thăm viếng mục vụ không ngừng của ngài. Tại những nơi đến thăm, ngài có thể thấy tận mắt “tình trạng các linh mục của mình” và nói cho họ biết những lưu ý của mình. Người ta thuật lại câu chuyện vào đêm Vọng Giáng sinh, người chị gái tặng ngài một chiếc áo mặc trong các dịp lễ. Ngay hôm đó, ngài đi thăm một linh mục, và thấy hoàn cảnh sống của vị linh mục này, ngài đã lấy chiếc áo vừa được tặng đem biếu vị linh mục.[8] Từng làm cha sở, nên ngài hiểu các linh mục của mình. Vị mục tử cố gắng đi thăm các linh mục, đồng hành, khích lệ và góp ý với các ngài. Ngài nhắc các linh mục nhớ mình là mục tử chứ không phải người trông coi cửa hàng, vì vậy phải chăm sóc và bảo vệ đoàn chiên indios như con mình.[9] Ngài không ngồi bàn giấy mà thực hiện điều đó, nên biết rõ đoàn chiên của mình và đoàn chiên nhận ra tiếng ngài, đó là tiếng của người mục tử nhân lành.
5. Ngài muốn sang tới bờ bên kia của sự hiệp nhất. Với một cách thức đáng khâm phục và mang tính tiên tri, ngài thực hiện việc mở ra các khả năng cho những thành phần khác nhau trong cộng đoàn dân Chúa được hiệp thông với nhau và tham gia vào việc chung. Thánh Gioan Phaolô II đề cập đến việc này khi nói chuyện với các giám mục Pêru; ngài lưu ý: “Công nghị Lima lần thứ ba chính là kết quả của nỗ lực đó, được thánh Turibiô hướng dẫn, khích lệ và chỉ đạo; công nghị mang lại hoa trái dồi dào là sự hiệp nhất trong đức Tin, những chuẩn mực mục vụ và tổ chức, và quan điểm thiết thực về việc hội nhập châu Mỹ Latinh như từng mong ước”[10] Chúng ta biết rất rõ sự hiệp nhất và đồng thuận này đạt được từ một bối cảnh căng thẳng với những xung đột gay gắt. Chúng ta không thể phủ nhận những căng thẳng và khác biệt; cuộc sống không thể không có sự xung khắc. Tuy nhiên chúng đòi hỏi chúng ta, là con người và là Kitô hữu, phải đương đầu và đối phó với chúng. Nhưng để đối phó với chúng trong tinh thần hiệp nhất, trung thực và đối thoại chân thành, mặt đối mặt, thì phải lưu ý đừng rơi vào cám dỗ lãng quên quá khứ, hoặc cứ bị giam cầm trong quá khứ, thiếu tầm nhìn để xem xét những con đường dẫn đến hiệp nhất và hòa bình. Công nghị đó là nguồn mang lại sự khích lệ trong cuộc hành trình của Hội đồng Giám mục chúng ta, để biết rằng sự hiệp nhất luôn chiếm ưu thế so với xung đột.[11] Anh em hãy lưu tâm xây dựng sự hiệp nhất. Đừng giam mình mãi trong những chia rẽ phát sinh bè phái và ngăn cản ơn gọi của chúng ta là trở nên bí tích hiệp thông. Anh em hãy nhớ: sức thu hút của Giáo hội tiên khởi là nhờ các tín hữu yêu thương nhau. Đó chính là – hiện tại và mai sau vẫn là – cách tốt nhất để Phúc âm hóa.
6. Đã đến lúc Thánh Turibiô tới bến bờ cuối cùng, tới miền đất ngài đã nếm trước tại mỗi bờ bến ngài để lại sau lưng. Nhưng lần này, ngài không một mình rời bến. Như trong bức họa tôi đã nhắc đến trên đây, ngài đi gặp các thánh được cả một đoàn người đông đảo vây quanh. Ngài là vị mục tử chất vào “túi xách của mình” các tên tuổi và những gương mặt. Họ là giấy thông hành đưa ngài về trời. Tôi không muốn bỏ qua giai điệu cuối cùng này, giây phút vị mục tử trao linh hồn mình cho Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện điều đó giữa dân mình, rồi một thổ dân tấu lên khúc sáo chirimíagiúp linh hồn ngài được thư thái bình an. Thưa anh em, mong sao lúc chúng ta bước vào cuộc hành trình cuối cùng này, chúng ta cũng được như vậy. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hồng phúc ấy.[12]