SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Bài Ðọc I: Gr 23, 1-6
"Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta, và cho chúng có những chủ chăn".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: "Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta. Vì thế, Chúa là Thiên Chúa Israel phán cùng các mục tử chăn dắt dân Ta rằng: "Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta". Chúa lại phán: "Vậy Ta sẽ xét xử những hành động gian ác của các ngươi. Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta từ khắp các xứ mà Ta đã phân tán chúng, Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số. Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn để họ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng, và chúng không còn thiếu thốn gì nữa".
Chúa còn phán rằng: "Này đây, đã tới những ngày Ta gây cho Ðavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước. Những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel sẽ được an cư, và chúng sẽ gọi tên Người là "Chúa công bình của chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 2, 13-18
"Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xưa kia anh em là những kẻ ở xa, thì nay trong Ðức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người, tức là bãi bỏ lề luật cũ với những thể lệ để kiến tạo cả hai nên một người mới, đem lại bình an, dùng thập giá giải hoà hai dân tộc trong một thân thể với Thiên Chúa. Nơi Người, mối thù nghịch đã bị tiêu diệt, và Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 30-34
"Họ như đàn chiên không người chăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.
Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Ðó là lời Chúa.
"Anh em thân mến, xưa kia anh em là những kẻ ở xa, thì nay trong Đức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người, tức là bãi bỏ lề luật cũ với những thể lệ để kiến tạo cả hai nên một người mới, đem lại bình an, dùng thập giá giải hoà hai dân tộc trong một thân thể với Thiên Chúa. Nơi Người, mối thù nghịch đã bị tiêu diệt, và Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí".
Được chăn dắt bởi chính Vị Chủ Chiên là Con Thiên Chúa, Đấng đã "đến cho chiên được sống và được sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), mà từng con chiên và cả đoàn chiên của Người mới có những cảm nghiệm thần linh được diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Ngày 22 tháng 7
THÁNH NỮ MA-RI-A MA-ĐA-LÊ-NA
lễ kính
Bà khao khát tìm gặp Đức Ki-tô
mà bà tưởng người ta đã đem đi mất
Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về bài Tin Mừng.
Khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đến mộ và không thấy xác Chúa ở đó, bà tưởng người ta đã đem đi mất, nên đi báo tin cho các môn đệ. Các ông đã đến, đã thấy và tin như người phụ nữ đã nói. Rồi sau đó Kinh Thánh lại viết về các ông rằng : Các môn đệ trở về nhà và tiếp theo ngay : Bà Ma-ri-a đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc.
Vì thế, cần phải suy nghĩ xem sức mạnh của lòng yêu mến đã đốt cháy tâm trí của người phụ nữ này như thế nào. Dù các môn đệ bỏ mộ Chúa ra về, bà vẫn không chịu bỏ về. Bà cố tìm Đấng bà không gặp, vừa khóc vừa tìm, và vì lửa yêu mến bùng lên, bà khao khát tìm gặp Đấng bà tưởng người ta đã đem đi mất. Vì bà ở lại để tìm, cho nên bà là người duy nhất được gặp thấy Chúa, bởi vì sự kiên trì là sức mạnh không nhỏ của bất cứ việc lành nào. Đấng là chân lý đã nói : Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Vậy trước hết bà đã tìm mà chẳng gặp ; bà cứ kiên trì tìm kiếm và rốt cuộc bà đã gặp. Sự thể là ao ước mà không được mãn nguyện, thì càng ao ước hơn ; khi lòng ao ước tăng lên, thì nó sẽ chiếm hữu điều nó tìm được. Quả thật, lòng ao ước thánh thiện càng bị trì hoãn thì càng tăng. Còn nếu lòng ao ước vì bị trì hoãn mà suy giảm thì không phải là ao ước thật. Bất cứ ai muốn đạt tới chân lý, thì phải cháy lên ngọn lửa tình yêu này. Như vua Đa-vít đã nói : Linh hồn con khao khát Chúa Trời là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan ?, và Hội Thánh còn nói trong sách Diễm ca : Trái tim tôi đã bị thương tích vì tình yêu rồi thêm : Tâm hồn tôi tan chảy.
Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ? Bà được hỏi vì sao bà đau buồn là để cho lòng ao ước của bà tăng thêm ; vì khi bà nhắc đến Đấng bà đang tìm, thì lòng bà càng cháy lửa yêu mến Người hơn nữa.
Đức Giê-su gọi bà : Ma-ri-a ! Sau khi Người đã gọi bà theo cách nói chung và bà không nhận ra, thì Người gọi bà đích danh. Dường như Người muốn nói với bà : “Chị hãy nhận ra Đấng đã nhận chị. Thầy không biết chị như biết bất cứ ai, Thầy biết rõ chị.” Vậy bà Ma-ri-a vì đã được gọi đích danh, nên bà đã nhận ra Đấng tác thành, và bà liền kêu lên : Ráp-bu-ni, nghĩa là lạy Thầy. Bởi chính Đấng bà đôn đáo tìm kiếm, thì cũng đang dạy dỗ trong tâm hồn bà để bà tìm kiếm Người.
XRời khỏi mồ Chúa, bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na trở về loan báo cho các môn đệ rằng : “Tôi đã thấy Chúa.”
ĐHạnh phúc thay người được vinh dự là sứ giả đầu tiên đem tin mừng Chúa sống lại.
XĐấng từ lâu bà hằng yêu mến, từng khóc thương và đã kiếm tìm, thì nay bà được thấy, và khi thấy rồi liền vội vã đưa tin.
ĐHạnh phúc thay người được vinh dự là sứ giả đầu tiên đem tin mừng Chúa sống lại.
Cùng toàn thể các thánh nữ, chúng ta hãy xưng tụng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Thế, và chúng ta hãy cầu xin Người :
Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến.
Chúa đã tha thứ cho người đàn bà tội lỗi, vì bà đã yêu mến hết tình, - xin tha thứ cho chúng con là những kẻ tội lỗi.
Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến.
Xưa có nhiều phụ nữ đã đi theo phục vụ Chúa, - xin cho chúng con cũng theo Chúa đến cùng.
Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến.
Xưa cô Ma-ri-a đã chăm chú nghe lời Chúa dạy, còn cô Mác-ta hết tình phục vụ Chúa, - xin cho chúng con hằng tin yêu phục vụ Chúa luôn mãi.
Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến.
Những ai thi hành thánh ý Chúa, Chúa đã coi như là mẹ và anh chị em ruột thịt, - xin cho chúng con biết ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa trong lời nói cũng như việc làm.
Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến.
Lạy Chúa Cha hằng hữu, thánh nữ Ma-ri-a Ma-đa-lê-na là người thứ nhất được Con Một Chúa giao cho sứ mạng loan Tin Mừng Phục Sinh. Nhờ lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con cũng biết noi gương người mà rao giảng mầu nhiệm Chúa Ki-tô phục sinh, để mai sau được vào Nước Trời chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Dc 3, 1-4a
"Tôi đã gặp người tôi yêu".
Trích sách Diễm Ca.
Suốt đêm trên giường ngủ, tôi đã tìm kiếm người tôi yêu: Tôi đã tìm kiếm chàng, nhưng tôi không gặp được chàng. Tôi chỗi dậy, và đi quanh thành phố, đi qua các phố xá và công trường, tôi tìm kiếm người tôi yêu. Tôi đã tìm kiếm chàng, nhưng tôi không gặp được chàng. Các người lính canh gác thành phố gặp tôi và tôi hỏi họ: "Các anh có thấy người tôi yêu không?" Tôi vừa đi qua khỏi họ, thì gặp ngay người tôi yêu.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc: 2 Cr 5, 14-17
"Từ nay chúng ta không biết Ðức Kitô theo xác thịt nữa".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lòng mến của Ðức Kitô thúc bách chúng ta; chúng ta xác tín điều này là một người đã chết vì mọi người, vậy mọi người đều đã chết. Và Ðức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, thì không còn sống cho chính mình nữa, mà là sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì họ. Vì thế, từ nay chúng ta không còn biết ai theo xác thịt nữa. Mặc dù nếu chúng ta đã biết Ðức Kitô theo xác thịt, thì giờ đây chúng ta không còn biết như thế nữa. Vậy nếu ai đã trở nên một tạo vật mới trong Ðức Kitô, thì những gì cũ đã qua rồi, vì đây mọi sự đều được trở nên mới.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa (c. 2b).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước! - Ðáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống; miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thoả dường như mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. - Ðáp.
4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi biết bà đã thấy gì trên đường? -Tôi đã thấy mộ của Ðức Kitô hằng sống và vinh quang của Ðấng sống lại. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 1. 11-18
"Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy ở đâu".)
Bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni", nghĩa là "Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
Ðó là lời Chúa.
Một Chút Chia Sẻ
Ngày 10/6/2016, ĐTC Phanxicô, qua sắc lệnh của Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Các Bí Tích, "Apostolorum Apostola / Apostle of the Apostles", Chị Thánh Maria Mai-Đệ-Liên đã được tặng cho danh hiệu "Tông Đồ của Các Tông Đồ", và lễ của chị trong phụng niên hằng năm của Giáo Hội vào ngày 22/7, đã được nâng lên từ bậc lễ nhớ (memorial) lên bậc lễ kính (feast), ngang bậc lễ với 12 vị tông đồ.
Quả thực chị là vị nữ thánh rất đặc biệt, nếu so với người Chị Matta của mình, người chị cũng được Giáo Hội liệt vào sổ bộ các thánh, nhưng chỉ ở bậc lễ nhớ ngày 29/7, lễ sau lễ của em mình 1 tuần 22/7, đồng thời cũng là lễ bao gồm cả 3 chị em của chị, chứ không phải 1 mình chị. Và chúng ta thường hiểu danh xưng "Tông Đồ của Các Tông Đồ" ở chỗ rất rõ ràng hiển nhiên, đó là, theo Phúc Âm Thánh Gioan, chị là người được Chúa Kitô Phục Sinh sai đi loan báo tin mừng phục sinh cho chính các tông đồ - mà được sai đi tức là đóng vai trò "tông đồ" rồi vậy, lại được sai đến với và loan truyền cho chính các Tông Đồ nữa, nên đáng được gọi "Tông Đồ của Các Tông Đồ"!
Tuy nhiên, nếu phân tích về điều kiện tối yếu và ắt có và đủ, căn cứ vào trường hợp 12 tông đồ được tuyển chọn trong số đông đảo các môn đệ, để có thể mang danh "tông đồ", và xứng đáng thực hiện sứ vụ "tông đồ", một danh xưng chỉ giành cho nam nhân, thì Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên có hợp với danh xưng "tông đồ" này hay chăng? Tất nhiên, trước hết và trên hết, khi Đức Thánh Cha, qua Tòa Thánh, đã công nhận và tuyên bố vấn đề này thì không thể vô lý và sai lầm, dù không liên quan đến đức tin và luân lý, là 2 lãnh vực liên quan trực tiếp đến ơn vô ngộ của Giáo Hoàng. Dầu sao, nhờ tìm hiểu thêm, chúng ta, tự mình, sẽ càng thấy hợp tình hợp lý, một cách hết sức lý thú hơn bao giờ hết.
Trước hết, về điều kiện tông đồ, liên quan đến những yếu tố chính yếu để một con người được chọn làm tông đồ. Căn cứ vào trường hợp của 12 tông đồ, thì trong số các môn đệ của Chúa Kitô, muốn được trở nên "tông đồ" của Người, cần phải hội đủ 3 điều kiện: 1- Được Người chọn gọi; 2- Được Người tỏ mình; 3- Được Người sai đi. Cả 12 tông đồ, tất nhiên, đều hội đủ 3 điều kiện tối yếu này. Riêng Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại là vị tông đồ "sinh non" (1Corinto 15:8), cũng hội đủ 3 điều kiện bất khả thiếu này, ở chỗ cũng được chính Chúa Kitô chọn gọi, tỏ mình và sai đi, ngay trong biến cố trở lại của ngài (xem Tông Vụ 22:7-8,21). Vậy trường hợp của Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên thì sao?
Chị Thánh Maria Mai-Đệ-Liên quả thực cũng đã được Chúa Giêsu chọn gọi, tỏ mình và sai đi, ngay trong biến cố được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: 1- Chị là người nữ môn đệ duy nhất đã được chính Chúa Kitô gọi: "Maria"; 2- đã đích thân tỏ mình ra cho chị là Người đã sống lại: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta", và 3- Chính Người cũng đã sai chị đi: "báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: 'Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con'". Có thể nói, nếu Chúa Kitô đã chọn 12 tông đồ trước cuộc Vượt Qua của mình, thì Người cũng chọn thêm 2 tông đồ sau cuộc Vượt Qua của Người, đó là Thánh Nam Phaolô và Thánh Nữ Maria Mai-Đệ-Liên. Như các bí tích cũng vậy, một số được Người lập trước Vượt Qua (Thánh Thể và Thánh Chức - Luca 22:19), một số sau Vượt Qua (Giải Tội - Gioan 20:22, và Rửa Tội - Mathêu 28:19).
Sau nữa, về tư cách tông đồ, liên quan đến phẩm tính cần phải có để xứng đáng làm tông đồ, và làm tông đồ một cách xứng đáng, nghĩa là, vì người tông đồ là người được sai đi làm chứng, thì bản thân của họ cần phải làm sao thực sự cảm nhận được chính Đấng đã sai mình, hầu có thể làm chứng một cách trung thực sống động về Đấng ấy và loan truyền Đấng ấy, bằng việc gắn bó với Đấng ấy. Về yếu tố gắn bó với Chúa Kitô là Đấng đã chọn gọn, tỏ mình và sai đi đối với vị "Tông Đồ của Các Tông Đồ" là Maria Mai-Đệ-Liên này, có thể nói, đã là yếu tố làm nên chính bản thân của chị, từ khi chị trở về cùng Chúa (xem Luca 7:36-38 + Gioan 11:2; Luca 8:2 + Marco 16:9), sống thân tình với Chúa (xem Luca 10:38-42 + Gioan 12:1-3), theo Chúa cho đến cùng (xem Gioan 19:25), kể cả sau khi Người được an táng trong mộ, như những gì liên quan đến chị được bài Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay thuật lại.
Có thể nói, chị còn theo Chúa và gắn bó với Chúa Giêsu hơn chính các tông đồ nữa, như khi chị được đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu với Mẹ Maria, cùng với Tông Đồ Gioan (xem Gioan 19:25), và chị là người duy nhất, trong các phụ nữ, bao gồm cả các vị tông đồ, hết sức quan tâm đến thi thể của Người Thày chí thánh đã bị tử giá, chẳng những là người nữ đầu tiên ra mồ từ khi trời còn tối (xem Gioan 20:1), trước các bà khác khi trời vừa rạng sáng (xem Mathêu 28:1), lại còn cứ quanh quẩn bên ngôi mộ trống của Người, vẫn tìm kiếm Người, dù chỉ là một thi thể, nhưng lại là một kỷ vật vô giá bất khả thiếu của chị, cho đến khi chị được Người đích thân hiện ra với riêng mình chị, dưới hình dạng, qua mắt của chị bấy giờ, như một người canh vườn.
Trong số tất cả các môn đệ, nam và nữ, bao gồm cả các tông đồ, thì Chị Thánh Maria Mai-Đệ-Liên là người môn đệ xông xáo nhất và tha thiết nhất với Chúa Kitô. Nếu bảo rằng các môn đệ và tông đồ là nam nhân, nên sợ người Do Thái, không thể làm như chị là phụ nữ. Tuy nhiên, tại sao sau khi nghe chị về báo lần đầu tiên, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở ngay câu đầu, sau đó 2 tông đồ Phêrô và Gioan đã chạy ra mồ, (những chi tiết ngay sau đó nhưng không cần nhắc lại trong bài Phúc Âm cùng ngày - xem Gioan 20:3-10, bài Phúc Âm chỉ liên quan đến chị), không còn sợ gì nữa? Thật ra, xét cho cùng, nếu các tông đồ gắn bó với Thày mình thật, thì bất chấp mọi nguy hiểm, như chính Tông Đồ Phêrô đã khẳng định trong Bữa Tiệc Ly: "Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng." (Luca 22:33).
Tuy nhiên, so với Tông Đồ Gioan, người môn đệ duy nhất trong số 12 tông đồ đã trung thành và theo Thày cho đến cùng, cho đến khi cùng với Mẹ Maria đứng kề bên Thánh Giá Chúa Giêsu (xem Gioan 19:25), vị tông đồ đóng vai trò đại diện cho Giáo Hội bấy giờ, thì vị nữ môn đệ gắn bó với Chúa Kitô, chẳng những đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô như Tông Đồ Gioan, mà còn cả sau khi Người ở trong mồ, bề ngoài, như phân tích trên đây, có vẻ hơn Tông Đồ Gioan về tính cách gắn bó, bất chấp mọi sự, nhưng thật ra, về đức tin, vẫn chưa bằng "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" ấy. Ở chỗ, vị tông đồ này cho dù chưa thấy Chúa Kitô phục sinh, như Người hiện ra riêng với chị, được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, mà chỉ cần thấy dấu hiệu của Người, thì đã tin rằng Người sống lại rồi (xem Gioan 20:8): "Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin".
Đến đây, chúng ta thấy được hai điểm then chốt trong trình thuật của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm then chốt thứ nhất, đó là, cho dù Chị Maria Mai Đệ Liên đã gắn bó với Chúa Kitô như thế, vậy mà, cho dù có nhìn thấy Người, lại tưởng là viên canh vườn! Tại sao thế? Xin thưa, tại vì chị bị tiềm thức, đúng hơn, bị tiền thức chi phối. Ở chỗ nào? Nếu không phải ở chỗ chị, cũng như người chị Matta của chị, đã bày tỏ niềm tin vào sự phục sinh của con người ở ngày tận thế mà thôi (xem Gioan 11:24), chứ không phải vào chính thời điểm Chúa Kitô muốn chứng thực "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25).
Chính vì bị chi phối bởi tiền thức về sự sống lại không phải ngay thời của Chúa Giêsu, mà chị đã chạy vội về báo tin cho các tông đồ lần thứ nhất, một tin buồn, khác hẳn với lần thứ hai là một tin vui, một sứ điệp phục sinh thật sự từ Chúa và của Chúa, chứ không phải một sứ điệp xuất phát từ cảm nhận loài người của chị: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." (Gioan 20:2). Tuy nhiên, chính vì chị vẫn tiếp tục "tìm người sống nơi kẻ chết" (Luca 24:5), mà chị bất ngờ và quả thực đã tìm được Đấng "đã sống lại rồi, Người không còn ở đây" (Luca 24:6). Chính việc chị nỗ lực tìm kiếm thi thể của Thày mình cho thấy một niềm hy vọng nào đó, và nhất là muốn chứng tỏ chị vẫn tiếp tục gắn bó với Chúa, dù Chúa không còn trên trần gian này nữa, theo tiền thức đã chi phối chị.
Chính vì niềm hy vọng và nỗi gắn bó hết sức thiết tha của chị như thế, mà chị khác với hai môn đệ về Emmau, đi cả một quảng đường dài với Đấng Phục Sinh, nghe Người giảng giải Kinh Thánh, thế mà vẫn không nhận ra giọng của Người, tiếng của Người (xem Luca 24:25-27), thậm chí hơn cả các tông đồ, cho dù thấy Người hiện ra, và nghe thấy tiếng của Người vào tối ngày thứ nhất trong tuần, mà mãi mới chịu tin (xem Luca 24:36-43), trong khi đó, vừa nghe thấy tiếng của Thày, lại là một tiếng gọi đích danh tên của mình nữa, chị liền nhận ra ngay, và lập tức tin tưởng, bằng lời tuyên xưng: "Rabboni - Lạy Thày" (Gioan 20:16).
Thế rồi, ngay sau đó, chị nghe thấy Chúa Kitô Phục Sinh phán với chị, như bài Phúc Âm hôm nay được Thánh Gioan ghi nhận rằng: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta". Câu này có nghĩa là gì, nếu không phải Người ngăn chị đang muốn nhào đến ôm chân của Người, tỏ lòng mừng rỡ và gắn bó với Người, không bao giờ muốn mất Người nữa, như được Thánh Ký Mathêu thuật lại (28:9). Cử chỉ "tiến lại gần, ôm chân Người mà bái lạy" quả thực là cử chỉ riêng của chị, theo thói quen kính mến của chị, như khi Người còn sống, mà chị đã 2 lần được xức thơm chân Người (xem Luca 7:38; Gioan 12:3).
Trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh 2020 ngày 11/4, giữa mùa đại dịch covid-19 bị phong tỏa toàn cầu, bao gồm cả Tòa Thánh Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dẫn giải về bàn chân được chị thánh muốn ôm lấy như sau: "một đôi chân đã từng đi rất xa để gặp gỡ chúng ta, cho đến độ đã tiến vào mồ mả và chỗi dậy từ mồ mả. Các chị đã ôm lấy đôi bàn chân đã chà đạp chết chóc và đã mở đường hy vọng. Hôm nay đây, là những con người lữ hành đi tìm kiếm hy vọng, chúng con xin bám lấy Chúa, lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúng con quay lưng lại với chết chóc, và mở lòng của chúng con ra cho Chúa, vì Chúa là chính Sự Sống".
Đến đây, chúng ta thấy được vị nữ thánh này xứng với danh xưng "Tông Đồ của các Tông Đồ", và vì thế, lễ của chị, từ Năm Thánh Thương Xót 2016, đã được nâng lên từ bậc lễ nhớ (memorial), như Thánh Matta chị của chị, tới bậc lễ kính (feast), như chính các vị tông đồ. Bởi chị chẳng những đã hội đủ 3 điều kiện thiết yếu để trở thành tông đồ, mà còn là một người môn đệ gắn bó với Thày mình hơn ai hết, nhờ đó chị mới có thể làm chứng về Người, với chính thành phần là tông đồ, là những chứng nhân tiên khởi của Người.
Dù chị được Thánh Mathêu thuật lại ở trong nhóm mấy phụ nữ ra mộ sớm, nhưng, theo Phúc Âm Thánh Gioan, như đã nhận định trên đây, thì chị là nữ nhân vật chính ra mồ sớm nhất, "lúc trời còn tối" (Gioan 20:1), trước cả các phụ nữ ra mồ khi "vừa ló rạng" (Mathêu 28:1). Có thể khi từ mộ Chúa trở về lần thứ 2, sau khi chị được Chúa hiện ra riêng với chị rồi, và chị được Người sai về với các tông đồ, để vừa "báo tin" (Gioan 20:17) vừa làm chứng bằng chứng từ của chính bản thân chị: "'Tôi đã thấy Chúa' và kể lại những điều Người đã nói với mình" (Gioan 20:18), thì chị đã gặp các phụ nữ khác bấy giờ mới ra mộ, để rồi cả chị lẫn họ, đều cùng nhau về "báo tin" (Mathêu 28:8) cho các tông đồ, với tính cách thông tin cho các vị, hơn là chứng từ tỏ cho các vị, như câu được Chị Thánh Maria Mai-Đệ-Liên tuyên bố trên đây, nên sứ điệp của 3 người phụ nữ này chỉ mang tính cách là một tin nhắn, được 3 chị phụ nữ này truyền đạt cho các tông đồ theo lời thiên thần, (chứ không phải lời của chính Chúa Kitô Phục Sinh), đó là: "Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người" (Mathêu 28:7).
Xin Chị Thánh Mai Đệ Liên giúp cho thành phần môn đệ Chúa Kitô thời đại chúng em được như chị, biết "chọn phần tốt hơn" (Luca 10:48), đó là liên lỉ sống gắn bó với Chúa Kitô, để nhờ đó, chúng em mới có thể cùng xứng đáng trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người như chị.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.
Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên
Thứ Hai sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm
(PVLC Thứ Hai này vẫn cử hành nếu không bị trùng với Lễ Thánh Mai Đệ Liên ở bậc lễ kính cùng ngày hôm nay)
Bài Ðọc I: (Năm II) Mk 6, 1-4. 6-8
"Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi".
Trích sách Tiên tri Mikha.
Các ngươi hãy nghe Chúa phán: "Ngươi hãy đứng lên, hãy trình bày lời tố cáo của ngươi trước núi non, và các đồi hãy nghe tiếng của ngươi. Hỡi các núi và nền tảng kiên cố của địa cầu, hãy nghe Chúa tố cáo dân Người và biện luận với Israel.
"Hỡi dân Ta, Ta đã làm gì cho ngươi? Hay là Ta đã làm khổ ngươi điều gì? Hãy trả lời cho Ta biết. Chính Ta dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập, đã giải thoát ngươi khỏi nhà nô lệ, và sai Môsê, Aaron và Maria đi trước mặt ngươi?"
Tôi sẽ hiến dâng vật gì lên Thiên Chúa cho xứng đáng? Hay là tôi sấp mình trước Thiên Chúa Tối Cao? Tôi sẽ dâng lên Người của lễ toàn thiêu và con bê một tuổi chăng? Chúa có hài lòng với hằng ngàn chiên đực, hoặc hằng muôn vàn dê đực béo tốt chăng? Tôi sẽ dâng con đầu lòng để đền tội ác của tôi, và dâng con cái tôi để đền chính tội tôi chăng?
Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 5-6. 8-9. 16bc-17. 21 và 23
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) "Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ". Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Ngài, vì chính Ðức Thiên Chúa, Ngài là thẩm phán. - Ðáp.
2) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò con, cũng không nhận từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
3) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng. - Ðáp.
4) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta cũng giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 38-42
"Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". Người trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".
Ðó là lời Chúa.
Một điềm thiêng dấu lạ cả thể nhất không như lòng mong ước của dân Do Thái
Suy Niệm
Theo thói quen cũng là khuynh hướng chung của dân tộc Do Thái là dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn cách riêng trong tất cả mọi dân nước trên thế giới, thì họ là một dân tộc thích điềm thiêng dấu lạ, đến độ, có thể nói, điềm thiêng dấu lạ được coi là nền tảng đức tin của họ, ở chỗ, phải có điềm thiêng dấu lạ mới đáng tin.
Nếu Á Châu, nơi có dân tộc Do Thái ở Trung Đông, là châu lục xuất phát ra tất cả mọi tôn giáo và thiên về thần linh trên thế giới thì Âu Châu, nơi có một nền văn minh Hy La (Hy Lạp và La Tinh) là châu lục thiên về lý trí lẫn khoa học. Nếu người Do Thái, tiêu biểu cho Á Châu, thiên về thần linh, ở những dấu lạ, yếu tố để tin tưởng, thì Người Hy Lạp, tiêu biểu cho Âu Châu, thiên về lý trí, ở lý lẽ lập luận triết học khôn ngoan, có lý mới đáng tin. Đó là nhận định của chính Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô: Người Do Thái thì tìm các thứ dấu lạ còn người Hy Lạp lại tìm kiếm sự khôn ngoan (xem 1Corinto 1:22).
Tuy nhiên, Kitô giáo, xuất phát từ Do Thái thuộc Á Châu và phát triển ở Âu Châu và từ Âu Châu, lại tìm kiếm đức tin siêu nhiên, một kiến thức thần linh vượt lên trên lý trí (hơn là ngược lại hay phản lại với lý trí) và là một cảm nghiệm thần linh sâu xa chân thật hơn những gì hữu hình lạ lùng bề ngoài. Thật vậy, các mầu nhiệm Nhập Thể, Vượt Qua và Thánh Thể của Chúa Giêsu Kitô là một mầu nhiệm, tự mình là những thực tại thần linh, hoàn toàn là những gì lạ lùng sâu nhiệm đối với con mắt trần gian, lý trí con người không thể với tới, nếu không chấp nhận bằng đức tin là một khả năng thần linh nơi những con người "được tái sinh bởi trên cao" (Gioan 3:3), một khả năng siêu nhiên tin trước hiểu sau như nếm trước nhìn sau "Taste and see that the Lord is sweet." (TV 33:9)
Khuynh hướng và thói quen đòi điềm thiêng dấu lạ này nơi dân Do Thái cũng dễ hiểu, bởi vì trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, họ luôn được chứng kiến thấy những điềm thiêng dấu lạ này, được chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ tỏ ra để làm cho họ tin vào Ngài, nhất là những lúc họ bị đô hộ hay đầy ải bởi ngoại bang.
Đó là lý do chúng
ta thấy Thánh Ký Mathêu trong bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XVI Thường
Niên có sự kiện được ngài ghi nhận rằng: "Khi
ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy,
chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ'".
Thật
ra, chính thành phần xin Chúa Giêsu xem thấy điềm
thiêng dấu lạ từ
Người và bởi Người để chứng minh Người quả thực là Đấng
Thiên Sai này đã
từng thấy Người làm phép lạ chữa lành hay trừ quỉ rồi, thế nhưng họ vẫn
chưa chịu, vẫn chưa công nhận Người, đến độ, họ còn phủ nhận Người và
xuyên tạc quyền phép vô địch của Người nữa, như có lần thấy Người trừ
quỉ xong họ
liền cho
rằng Người đã dùng quyền
của quỉ
cả mà khu trừ quỉ con (xem Mathêu 12:24).
Vậy
thì điềm thiêng dấu lạ mà họ muốn thấy nơi Chúa Giêsu Kitô đây là gì và
như thế nào? Phải chăng là việc Người có thể "xuống khỏi thập giá
thì chúng
ta tin"
(Mathêu
27:42). Nhưng Người lại không làm theo ý của họ, bởi vì làm như thế thì
Người, dù có thể, hoàn toàn không
phải là Đấng Thiên Sai của
Thiên Chúa, đến để
làm theo ý Cha chứ không phải theo ý của Người (xem Gioan 6:38), mà
chỉ là Đấng Thiên Sai của họ và đối với họ,
như
một vị cứu
tinh dân tộc theo chính
trị của họ như lòng họ mong muốn mà
thôi, chứ không phải là cứu cả họ lẫn các dân tộc trên
thế giới này khỏi
tội lỗi và sự chết đời đời.
Đó là lý do trong
bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chỉ hứa ban cho họ một dấu lạ duy nhất,
dấu lạ liên quan đến phần rỗi của chung loài người, trong đó bao gồm cả
dân do Thái, đó là "dấu
lạ tiên tri Giona", ám
chỉ
cuộc
Vượt Qua của Người: "cũng
như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con
Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy", một
cuộc Vượt Qua bao gồm cả cuộc khổ nạn lẫn tử giá vô cùng đau thương và
nhục nhã do chính họ gây ra cho Người, và cuộc phục sinh vinh hiển của
Người, chứng tỏ Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết của chung con
người mắc nguyên tội và của riêng thành phần đã nhúng tay vào cuộc khổ
giá của Người nói riêng.
Một khi công ơn cứu
chuộc được hoàn tất bởi cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thì không còn
một điềm thiêng dấu lạ nào vĩ đại hơn và quan trọng hơn để cho con người
tin mà được cứu độ: "ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu rỗi, còn
ai không tin thì bị luận phạt" (Marco 16:16), đúng như những gì Chúa
Giêsu cũng đã khẳng định
trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Tới
ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên
án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có
Đấng cao trọng hơn Giona. Đến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi
dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thùy trái
đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Đấng cao
trọng hơn Salomon".
Cảm Nghiệm
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu gọi thành phần "mấy luật sĩ và biệt phái" xin Người điềm lạ là "Thế hệ hung ác gian dâm", bởi vì họ không tôn thờ "Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24), mà là theo tinh thần thế gian và ý riêng mình, muốn Thiên Chúa phải theo họ chứ không phải họ theo Chúa, biến vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ thành ngẫu tượng do họ khuôn đúc nên, do họ nghĩ ra.
Bởi thế bất chấp những gì Thiên Chúa tỏ mình ra cho họ qua Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, nơi các phép lạ đầy quyền năng và lời giáo huấn vô cùng khôn ngoan, họ vẫn không cho đó là điềm lạ, cứ đòi hỏi điềm lạ theo ý của họ. Nhưng họ sẽ không được ban cho một điềm lạ nào ngoài điềm lạ tiên tri Giona là điềm lạ liên quan đến dân ngoại, đến chung loài người được cứu độ trước sự cứng lòng và mù tối của họ.
Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, chính Thiên Chúa, qua miệng tiên tri Isaia, đã dường như tỏ ra thắc mắc về chung dân tộc thích điềm lạ của họ như sau: "Hỡi dân Ta, Ta đã làm gì cho ngươi? Hay là Ta đã làm khổ ngươi điều gì? Hãy trả lời cho Ta biết. Chính Ta dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập, đã giải thoát ngươi khỏi nhà nô lệ, và sai Môsê, Aaron và Maria đi trước mặt ngươi?"
Chính vì họ chưa hoàn toàn nhận biết Thiên Chúa, đúng như Ngài là Thần Linh, là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, nên họ bối rối về việc tôn thờ Ngài, như chính tiên tri thuật lại tâm trạng của họ trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Tôi sẽ hiến dâng vật gì lên Thiên Chúa cho xứng đáng? Hay là tôi sấp mình trước Thiên Chúa Tối Cao? Tôi sẽ dâng lên Người của lễ toàn thiêu và con bê một tuổi chăng? Chúa có hài lòng với hằng ngàn chiên đực, hoặc hằng muôn vàn dê đực béo tốt chăng? Tôi sẽ dâng con đầu lòng để đền tội ác của tôi, và dâng con cái tôi để đền chính tội tôi chăng?"
Và chính Thiên Chúa đã trả lời cho họ biết qua cùng vị tiên tri Isaia về cách thức Ngài muốn và đẹp lòng Ngài nếu họ thực hiện đúng 3 điều chính yếu sau đây: "Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa ngươi".
Phải, nếu dân Chúa, dù Cựu Ước (Do Thái giáo) hay Tân Ước (Kitô giáo), "thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa" thì họ mới "đích thực tôn thờ Thiên Chúa là Thần Linh" (Gioan 4:24), chứ không phải là các thứ ngẫu tượng do họ tự tạo, và như thế họ sẽ không bao giờ cần điềm thiêng dấu lạ, mà chính họ trở thành điềm thiêng dấu lạ được Ngài sử dụng để tỏ mình ra cho, nhờ đó, như câu Đáp Ca cuối cùng hôm nay, Thiên Chúa sẽ nói về họ rằng "Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
Thứ Ba sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) Mk 7, 14-15. 18-20
"Chúa ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển".
Trích sách Tiên tri Mikha.
Lạy Chúa, với cây trượng của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của Chúa sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, tôi cho nó thấy những việc lạ lùng. Có Chúa nào giống như Chúa là Ðấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa, cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 2-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Lạy Chúa, xin cho chúng con được nhìn thấy tình thương của Chúa (c. 8a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Chúa đã phù trợ đất nước của Ngài, đã tài tình thay đổi số phận nhà Giacóp. Chúa đã tha thứ lỗi lầm của dân Ngài, và che đậy mọi điều tội ác của họ. Chúa đã cầm hãm tất cả sự bất bình, và tự nguôi đi lòng phẫn nộ. - Ðáp.
2) Lạy Chúa là Ðấng cứu độ, xin thương hồi phục chúng con, và từ bỏ lòng xung giận chúng con. Phải chăng Chúa giận chúng con muôn đời ngàn kiếp, hay là kéo dài lòng căm hận tới muôn đời? - Ðáp.
3) Há không phải chính Ngài cho chúng con hồi sinh, để dân tộc Ngài được hoan hỉ ở nơi Ngài? Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy tình thương của Chúa, và ban cho chúng con được ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 46-50
"Người giơ tay trên các môn đệ mà nói: Ðây là mẹ Ta và là anh em Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: "Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia". Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Ðây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy".
Ðó là lời Chúa.
Khả năng sinh sản thiêng liêng của Kitô hữu
Cảm
Nghiệm
Đúng thế, những tâm hồn thật sự là anh chị em, là mẹ của Chúa Kitô, với Chúa Kitô, thì đều phải có một tinh thần bác ái trọn hảo như Người. Chứ không thế nói rằng tôi kính mến Thiên Chúa mà lại khinh khi ghét bỏ tẩy chay anh chị em mình, nhất là những người hèn mọn đáng thương, về cả thể lý, tâm lý, luân lý và đạo lý, đặc biệt là với những người anh chị em họ không thích, hay ác cảm với họ, chống đối họ, tác hại họ v.v. Thánh Gioan Tông Đồ, trong Thư Thứ Nhất của ngài gọi những con người anh chị em giả tạo này của Người là thứ "nói dối" (xem 1Gioan 4:20). Như thế, chính đức ái trọn hảo đối với tha nhân là dấu hiệu cho thấy ai là anh chị em và là mẹ thật của Chúa Kitô. Mẹ ở chỗ có khả năng sinh ra Người, tức làm cho Người được tha nhân nhận biết mà được sự sống thần linh của Người, được cứu độ.
Bài Đọc 1 hôm nay, Tiên Tri Mica cũng nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa, mà ai là con cái của Ngài thật, tức là anh chị em ruột thịt thiêng liêng với Chúa Kitô Con Một của Ngài, cũng phải nên giống Ngài, như Ngài đã tỏ ra trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái: "Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa, cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa".
Bởi thế, chúng ta hãy cùng với Thánh Vịnh gia hướng về Chúa, bằng những lời của Thánh Vịnh 84 ở Bài Đáp Ca hôm nay, theo chiều hướng của câu đáp: "Lạy Chúa, xin cho chúng con được nhìn thấy tình thương của Chúa (c. 8a)":
1) Lạy Chúa, Chúa đã phù trợ đất nước của Ngài, đã tài tình thay đổi số phận nhà Giacóp. Chúa đã tha thứ lỗi lầm của dân Ngài, và che đậy mọi điều tội ác của họ. Chúa đã cầm hãm tất cả sự bất bình, và tự nguôi đi lòng phẫn nộ.
2) Lạy Chúa là Ðấng cứu độ, xin thương hồi phục chúng con, và từ bỏ lòng xung giận chúng con. Phải chăng Chúa giận chúng con muôn đời ngàn kiếp, hay là kéo dài lòng căm hận tới muôn đời?
3) Há không phải chính Ngài cho chúng con hồi sinh, để dân tộc Ngài được hoan hỉ ở nơi Ngài? Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy tình thương của Chúa, và ban cho chúng con được ơn Ngài cứu độ.
Ngày 23 tháng 7
- THÁNH BIRGITTA, NỮ TU
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ thánh BIRGITTA nữ tu một vị thánh sống xa chúng ta cả mấy trăm năm, thế nhưng cuộc sống thánh thiện của Ngài vẫn còn là một bài học thật sống động cho mọi người chúng ta
Ngày 27 tháng 10 năm 2010 trong buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã có bài chia sẻ về cuộc đời của thánh nữ Brigita người Thuỵ Điển rất hay sau đây: (bài hơi dài nhưng xin được đăng nguyên văn để tùy nghi sử dụng.)
Anh chị em thân mến,
Trong đêm canh thức hân hoan mừng Đại lễ Năm thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II, vị tôi tớ đáng kính của Thiên Chúa đã tuyên bố Thánh Brigitta của Thụy Điển là người đồng bảo trợ của toàn cõi châu Âu. Sáng hôm nay, tôi muốn giới thiệu khuôn mặt và thông điệp của thánh nữ đã truyền đạt, cùng lý do tại sao người phụ nữ thánh thiện này có rất nhiều điều giảng dạy mà cho đến hôm nay vẫn còn đáng để cho Giáo hội và cho thế giới học hỏi.
Chúng ta biết được những biến cố trong cuộc đời thánh nữ Brigita vì các cha linh hồn đã viết tiểu sử của bà hầu xúc tiến việc phong thánh ngay sau khi bà vừa mới qua đời vào năm 1373. Trước đó 70 năm, vào năm 1303, Brigita chào đời tại Finster Thuỵ Điển, một quốc gia miền Bắc Âu đã từ ba thế kỷ nhiệt thành đón nhận đức tin Công Giáo cũng như thánh nữ đã từng hấp thụ lòng đạo sốt sắng nơi cha mẹ mình, các ngài là những người rất ngoan đạo thuộc dòng quý tộc gần gũi với giới cầm quyền
Ta có thể phân biệt hai giai đoạn trong cuộc đời của vị thánh này:
+ Nét đặc biệt của giai đoạn đầu là đời sống hôn nhân hạnh phúc. Ulf là chồng bà, làm thống đốc một lãnh thổ quan trọng của Vương quốc Thụy Điển. Cuộc hôn nhân kéo dài hai mươi tám năm cho đến khi Ulf qua đời. Hai ông bà có với nhau tám người con, mà người con thứ chính là Karin (Catherine) được tôn vinh là một vị thánh. Đây là một bằng chứng hùng hồn về việc Brigita tận tuỵ giáo dục con cái. Đàng khác, cách dạy dỗ khôn khéo của bà chuẩn mực đến mức được nhà vua Thụy Điển, Magnus, đã triệu bà vào cung trong một thời gian nhằm giới thiệu nền văn hoá giáo dục Thuỵ Điển với nữ hoàng trẻ tuổi là Blanche de Namur.
Brigita đã được một tu sĩ uyên bác hướng dẫn tinh thần giúp bà nghiên cứu Kinh Thánh, vì vậy gia đình bà đã chịu ảnh hưởng rất lớn lao, trở nên như một «Hội Thánh tại gia». Cùng với chồng, bà gia nhập Dòng Ba thánh Phanxicô. Với lòng quảng đại, bà thực thi những việc bác ái giúp đỡ người nghèo khó: bà lập bệnh viện. Bên vợ mình, Ulf học biết cải thiện tính tình và thăng tiến trong đời sống Kitô hữu. Năm 1341, trở về sau chuyến hành hương dài ngày cùng những người trong gia đình đến Saint-Jacques de Compostelle, hai ông bà đã dự tính sống đời chay tịnh; nhưng ít lâu sau ông lui về sống trong một tu viện thanh bình, nơi đây ông giã từ cuộc đời trần thế.
Thời kỳ đầu tiên trong cuộc đời của Brigita giúp chúng ta nắm vững được những gì mà ngày nay ta có thể định nghĩa là một “tinh thần hôn nhân” đích thực: hai vợ chồng Kitô hữu có thể cùng nhau đi trên con đường thánh thiện, được hỗ trợ bởi bí tích hôn nhân. Thông thường, như trường hợp của Thánh Brigitta và Ulf, chính người phụ nữ, với sự cảm hoá do lòng đạo đức, với sự tinh tế và dịu dàng, đã thành công trong việc khiến chồng mình khám phá ra con đường đức tin để noi theo. Tôi nghĩ phải nhìn nhận rằng có rất nhiều phụ nữ, ngày ngày, vẫn chiếu sáng gia đình họ bằng sống đời chứng nhân Kitô hữu. Nguyện xin Thánh Linh Chúa cũng khơi dậy lòng thánh thiện của các cặp vợ chồng Kitô hữu ngày nay, để cho thế giới thấy vẻ đẹp của hôn nhân được sống theo các giá trị của Tin Mừng: tình yêu, sự dịu dàng, sự tương trợ, khả năng sinh sản và giáo dục con cái, cởi mở và liên đới với thế giới, tham gia vào đời sống của Giáo hội.
+ Trở thành góa phụ, Brigita bắt đầu giai đoạn thứ hai của cuộc đời. Cô đã quay sang với một cuộc hôn nhân khác để qua việc cầu nguyện mà thâm giao kết hiệp với Chúa, đền tội và thực thi các công việc bác ái. Từ đó, các góa phụ Kitô hữu có thể tìm thấy ở vị thánh này một gương mẫu để noi theo.
Trên thực tế, sau cái chết của chồng bà, Brigita, sau khi phân phát hết mọi của cải cho người nghèo, không ngoài ý định lựa chọn đời tận hiến cho Chúa, bà đã vào sống tại tu viện Dòng Thánh Biển Đức ở Alvastra. Chính nơi đây, bà bắt đầu nhận được những điều mặc khải thiêng liêng, lời Chúa mặc khải cùng bà trải dài suốt phần còn lại của cuộc đời. Những điều này đã được Brigita đọc cho các cha giải tội của bà làm thư ký ghi chép, các ngài đã dịch từ tiếng Thụy Điển sang tiếng Latinh và tập hợp lại trong một ấn bản gồm tám cuốn sách, mang tựa đề REVELATIONES (Những Lời Mặc Khải). Những cuốn sách này có kèm thêm một phụ bản bổ túc, chính xác với tiêu đề Lời Mặc Khải Đặc Biệt (những lời mặc khải bổ sung).
Những điều mặc khải của Thánh Brigitta có nội dung và văn phong rất đa dạng. Đôi khi sự mặc khải là một cuộc đối thoại giữa các thần thánh, Đức Trinh nữ, các thánh và cả quỷ dữ; sự mặc khải cũng thể hiện trong các cuộc đối thoại có Brigita tham dự. Ngoài ra có những lần khác kể về một thị kiến đặc biệt; và cũng có những lần kể lại việc Đức Trinh Nữ Maria tiết lộ cho bà về cuộc đời và những bí ẩn của Con Mẹ. Giá trị những điều mặc khải của Thánh Brigitta, đôi khi cũng bị phán đoán hồ nghi, nhưng đã được Đức Gioan Phaolô II đáng kính xác định trong Tông Thư Spes Aedificandi (Hy Vọng Xây Dựng) rằng: “Một khi đã nhìn nhận sự thánh thiện của Brigita, Giáo hội, không vì sự phán đoán nghi ngờ như thế mà công bố những mặc khải khác đi, nhưng Giáo Hội chấp nhận những trải nghiệm nội tâm của bà có tính xác thực hoàn toàn”(no.5).
Thực ra, đọc những điều mặc khải này, chúng ta buộc phải dừng lại lưu tâm đến những vấn đề quan trọng. Chẳng hạn, ta thường thấy bà mô tả, với những chi tiết rất thực tế, về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, mà bà hằng đặc biệt tôn sùng và từ đó chiêm niệm tình yêu vô hạn của Thiên Chúa dành cho con người. Bà mạnh dạn thuật lại những lời cảm động sau đây từ chính miệng Chúa nói ra: “Hỡi các bạn của tôi, tôi yêu những con chiên của tôi đến nỗi, nếu có thể, tôi thà chịu chết nhiều lần thay cho mỗi người trong số chúng để cứu chuộc chúng, hơn là phải chịu cách biệt chúng” (Những Lời Mặc Khải, Quyển I, câu 59). Lòng Mẹ Maria đau đớn, Mẹ trở thành Mẹ trung gian và Mẹ của lòng thương xót, cũng là một đề tài thường xuất hiện trong sách Những Lời Mặc Khải.
Hưởng những đặc sủng này, Brigita nhận ra mình đã được Chúa ban cho ân huệ lớn lao: “Bây giờ, con, ái nữ của Cha – chúng ta hãy đọc bộ sách Lời Mặc Khải, đọc cuốn đầu tiên – mà Cha đã chọn cho Cha […] hãy yêu Cha hết lòng […] nhưng yêu hơn hết mọi loài trên thế gian”(ch.1). Vả lại, Brigitta biết rõ, và bà tin chắc như thế, rằng mỗi đặc sủng Chúa ban là để xây dựng Giáo hội. Chính vì lẽ đó mà Chúa đã mặc khải nhiều điều, như là những nghiêm khắc cảnh báo các tín hữu thời ấy, gồm cả các người nắm quyền cai trị và tôn giáo, để họ kết hợp mật thiết với đời sống Kitô hữu của họ; nhưng bà luôn luôn thực thi lời mặc khải với thái độ tôn trọng và hoàn toàn trung thành với Huấn quyền của Giáo hội, đặc biệt là Người kế vị thánh tông đồ Phêrô.
Năm 1349, Brigitte quyết định rời Thụy Điển và đi hành hương đến La Mã. Ý định của bà không những chỉ dự Năm Thánh 1350, mà còn muốn được Đức Giáo hoàng chấp thuận Quy Luật của một Dòng tu bà dự định thành lập, tận hiến cho Đấng Cứu Thế, dòng sẽ gồm các tu sĩ nam nữ dưới quyền của một nữ tu viện trưởng. Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên: ngay từ thời Trung Cổ, đã có các tu viện tuy gồm hai chi nhánh nam và nữ, nhưng đều cùng áp dụng chung một Quy Luật của Dòng, và do một nữ tu viện trưởng trông nom săn sóc. Trên thực tế, hằng noi gương Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, truyền thống cao cả của Kitô giáo vẫn nhìn nhận phẩm giá của người phụ nữ, họ có một vị trí xứng đáng trong Giáo hội, tuy không mang chức tư tế được tấn phong, nhưng hoàn toàn không kém phần quan trọng cho sự phát triển tâm linh của Cộng đồng. Ngoài ra, Giáo Hội cũng luôn luôn tôn trọng ơn gọi đặc biệt của các nam nữ đã dâng mình cho Chúa, sự cộng tác của họ có tầm quan trọng rất lớn trong thế giới ngày nay.
Tại La Mã, cùng với cô con gái Karin, Brigita tận hiến cho cuộc sống tông đồ và cầu nguyện nhiệt thành. Và từ La Mã, bà đã đi hành hương đến nhiều đền thánh khác của Ý, đặc biệt là Assisi, quê hương của Thánh Phanxicô, đấng sáng lập dòng mà Brigita vẫn hoài bão được gia nhập. Cuối cùng, vào năm 1371, niềm khát vọng lớn nhất của bà được toại nguyện: hành hương đến Thánh địa, đi cùng với những đứa con tinh thần của mình, một nhóm mà Brigita gọi là “những người bạn của Chúa”.
Vào thời ấy, các Giáo hoàng đang ở Avignon, cách xa La Mã: Brigita ôm nỗi buồn bã lớn lao hướng về các ngài, những mong các ngài trở về ngai tòa Phêrô, trong thánh đô bất diệt.
Bà qua đời năm 1373, trước khi Giáo hoàng Gregory XI cuối cùng trở về La Mã. Bà đã được chôn cất tạm thời trong nhà thờ La Mã “San Lorenzo ở Panisperna”, nhưng vào năm 1374, hai con của bà, Birger và Karin đã đưa bà trở về quê hương, đến tu viện Vadstena, trụ sở của Dòng do Thánh Brigitta sáng lập, tu viện sau đó phát triển lạ thường. Năm 1391, Đức Giáo hoàng Boniface IX long trọng tôn vinh Bà lên bậc hiển thánh.
Phác hoạ chân dung tinh thần của Bà, tôi muốn nhắc lại ở đây sự thánh thiện của Bà, đặc trưng bởi vô số những thiên ân và trải nghiệm khiến bà trở thành một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử châu Âu. Là người gốc Scandinavia, Thánh Brigitta là chứng nhân cho hạt giống đức tin Kitô giáo đã thấm sâu vào cuộc sống của mọi dân tộc trên lục địa này. Khi tuyên bố Bà là người đồng bảo trợ của châu Âu, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ước mong rằng Thánh Brigitta – sống ở thế kỷ 14, khi mà Kitô Giáo phương Tây lúc đó chưa bị chia rẽ – có thể can thiệp hiệu quả với Thiên Chúa, để được Người ban ân sủng cho sự hiệp nhất trọn vẹn của mọi Kitô hữu, vốn mong đợi bấy lâu.
Anh chị em thân mến, chúng tôi muốn cầu nguyện với cùng một ý hướng ấy, điều này rất quan trọng đối với chúng tôi, để châu Âu luôn luôn có thể tự nuôi dưỡng nguồn gốc Kitô giáo của mình, đồng thời cầu khẩn sự can thiệp mạnh mẽ của thánh Brigitta Thụy Điển, môn đệ trung thành của Thiên Chúa và là đồng bảo trợ của Châu Âu.
Cảm ơn anh chị em đã lắng nghe. Amen.
(Ben. Đỗ Quang Vinh chuyển ngữ từ nguyên bản Pháp Văn.)
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-07-thanh-birgittanu-tu-36395
15 KINH NGUYỆN THÁNH BRIGITTA
Thứ Tư sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 1, 1. 4-10
"Ta đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc".
Khởi đầu sách Tiên tri Giêrêmia.
Lời của Giêrêmia, con trai của Helcia, thuộc gia tộc tư tế định cư ở Anathoth, thuộc lãnh thổ Bengiamin.
Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc". Và tôi đã thưa lại: "A, a, lạy Chúa là Thiên Chúa, con đâu có biết ăn nói, vì con còn con nít". Nhưng Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi đừng nói: Con là con nít, vì ngươi sẽ đi đến với những kẻ Ta sẽ sai ngươi đi; ngươi sẽ nói mọi điều Ta sẽ truyền dạy ngươi nói. Ngươi đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi". Chúa phán như thế. Và Chúa giơ tay sờ miệng tôi mà nói với tôi rằng: "Ðây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Ðây hôm nay Ta ban quyền cho ngươi trên các dân tộc và trên các vương quốc, để ngươi lật đổ và đập phá, phân tán và tiêu diệt, xây dựng và vun trồng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Ðáp: Lạy Chúa, miệng con sẽ kể ra ơn Ngài giúp đỡ (x. c. 15).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời. Theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu. - Ðáp.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến lũy vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá tảng, là chiến lũy của con. Lạy Chúa con, xin cứu con khỏi tay đứa ác. - Ðáp.
3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa; lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con. - Ðáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể những sự lạ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 1-9
"Nó sinh hoa kết quả gấp trăm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:
"Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt được sáu mươi, hạt ba mươi. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe".
Ðó là lời Chúa.
Thế
nhưng, nếu hạt giống của người gieo giống sắp hư thì tại sao khi
chúng được gieo vào đúng chỗ của nó là đất tốt thì lại sinh hoa
trái tùy theo tầm vóc của nó chứ: "Có những hạt lại rơi nhằm
đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu
chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe". Nếu hạt giống
được gieo không phải là thứ hạt giống rẻ tiền bị for sale mà
người gieo vẫn cứ gieo một cách bừa bãi như thế thì hạt giống dù
quí cũng được người gieo chủ nhân kể như cho không biếu không -
for free, bằng không những loại người không thuộc loại đất tốt
không thể nào có được, hoàn toàn không hợp với tấm lòng bao dung
"quẳng" đại của chủ nhân gieo giống.
Như thế, hạt giống được mang gieo đây toàn là hạt giống tốt,
nhưng không phải hễ là hạt giống tốt thì bất cứ chỗ nào nó cũng
mọc lên được đâu, mà phải ở những nơi đất tốt mà thôi. Đúng thế,
nếu sự sống ở nơi hạt giống, đúng hơn là ở nơi nhân của hạt
giống, thì để cho sự sống nơi hạt giống ấy nẩy mầm và phát triển
phải cần đến môi trường thích hợp cho nó là đất tốt, một môi
trường dù có tốt mấy chăng nữa nếu không có hạt giống cũng chẳng
sinh hoa kết trái gì, cũng chỉ là một mảnh đất mầu mở nhưng
hoang vu để rồi từ từ sẽ thành cằn cỗi.
Nếu hạt giồng cần phải được gieo đây tiêu biểu cho sự sống thì
có thể hiểu được một phần nào lý do tại sao hạt giống lại được
gieo cả vào những chỗ không thích hợp với nó. Bởi vì, nếu Thiên
Chúa dựng nên con người trên trái đất này là để "làm chủ cá
biển chim trời, gia súc, và tất cả mọi loài dã thú cùng tất cả
mọi loài bò sát trên mặt đất" (Khởi Nguyên 1:26) và "canh
tác và chăm sóc" (Khởi Nguyên 2:15) vườn địa đường, thì
có nghĩa là Ngài muốn cho trái đất này trở thành một nơi
tràn đầy sự sống.
Bởi thế, theo ý định tạo dựng của Ngài, càng những chỗ cằn cỗi
lại càng cần đến sự sống cho phì nhiêu xanh tươi,
như
Tiên Tri Isaia đã từng nói đến hình ảnh "sa mạc và đất khô
cằn trổ nhiều bông hoa" (35:1-2), "các suối
nước sẽ vọt lên trong sa mạc" (35:6), và
"các sa mạc của nó (Sion) Ngài sẽ biến
thành Địa Đường và đất hoang của nó thành ngôi vườn của Chúa"(51:3).
Cảm Nghiệm
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời. Theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến lũy vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá tảng, là chiến lũy của con. Lạy Chúa con, xin cứu con khỏi tay đứa ác.
3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa; lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể những sự lạ của Ngài.
Ngày 25 tháng 7
THÁNH GIA-CÔ-BÊ, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Được thông phần đau khổ của Đức Ki-tô
Bài đọc 2 (Phụng vụ Giờ Kinh Sách)
Trích bài giảng của thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục, về Tin Mừng theo thánh Mát-thêu.
Các con ông Dê-bê-đê đã nài nỉ Đức Ki-tô điều này : Xin Thầy truyền cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy. Vậy Người đã trả lời ra sao ? Người đã tỏ cho các ông thấy là điều các ông xin chẳng có gì do thần khí thúc đẩy, và nếu các ông hiểu điều mình xin, thì chắc chắn các ông đã không bao giờ xin như vậy. Người đã nói : Các anh chẳng biết các anh xin gì ! Vì điều xin ấy thật lớn lao, thật lạ lùng, còn trổi vượt mọi quyền thần trên trời biết mấy. Rồi Người nói thêm : Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, và chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không ? Người như muốn nói : “Các anh nói đến hưởng danh dự, triều thiên với Thầy ; còn Thầy, Thầy nói đến chiến đấu và mồ hôi. Vì bây giờ chưa phải là thời thưởng công, và bây giờ vinh quang của Thầy cũng chưa được tỏ hiện, nhưng cuộc sống hiện tại đầy chết chóc, chiến tranh và nguy hiểm.”
Bạn xem, Người đã dùng cách hỏi như thế nào để khuyến khích và lôi cuốn. Quả thật, Người không nói : “Các anh có thể chịu chết được chăng ? Các anh có thể đổ máu mình ra không ?” Nhưng Người hỏi thế nào ? Các anh có uống nổi chén không ? Rồi để lôi cuốn các ông, Người nói chén Thầy sắp uống, để nhờ được thông phần với Người mà các ông sẽ được can đảm hơn. Người còn gọi đó là một phép rửa, khi cho mọi người biết một cuộc thanh tẩy lớn lao sẽ xảy ra trên khắp địa cầu. Sau đó các ông trả lời Người : Thưa được. Vì lòng hăng say, các ông hứa tức khắc mà không biết mình nói gì, nhưng hy vọng rằng điều mình xin sẽ được nhận.
Vậy Người nói gì ? Chén Thầy uống, anh em cũng sẽ uống ; phép rửa Thầy chịu, anh em cũng sẽ chịu. Người đã báo trước cho các ông những hồng ân lớn lao, nghĩa là : “Anh em đáng được phúc tử đạo, sẽ chịu những đau khổ mà Thầy chịu, sẽ kết thúc cuộc đời bằng cái chết thảm thương ; và như thế anh em được thông phần đau khổ với Thầy.” Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã dọn sẵn cho ai thì kẻ ấy mới được. Sau khi nâng tâm hồn các ông dậy, Người đã làm cho các ông trở nên cao thượng hơn, và cho các ông thắng vượt nỗi buồn phiền, bấy giờ Người mới chữa lại lời xin của các ông.
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với hai anh em này. Bạn có thấy không ? Tất cả các ông đều bất toàn biết mấy, hai anh em thì tìm cách vượt lên trên mười ông kia, còn mười ông kia thì lại ganh tị với hai ông này. Nhưng, như tôi đã nói, sau đó bạn hãy cho tôi thấy các ông sẽ ra sao, và bạn sẽ thấy tất cả các ông đều không còn tình ý như thế nữa. Bạn hãy nghe, chính ông Gio-an là người bây giờ xin điều này, thì sẽ luôn nhường chỗ nhất cho ông Phê-rô, khi ông Phê-rô giảng và làm phép lạ như sách Công vụ Tông Đồ kể. Còn ông Gia-cô-bê thì sau đó không sống lâu lắm ; vì ngay từ buổi đầu Hội Thánh, ông đã đầy hăng say nhiệt thành, đã bỏ mọi sự đời này mà lên tới đỉnh cao khôn tả nên ông sớm được phúc tử đạo.
XKhi sống kiếp phàm nhân, các ngài đã chấp nhận đổ máu đào nhằm xây dựng Hội Thánh của Thiên Chúa ;
Đcác ngài đã uống cạn chén của Chúa Ki-tô, và trở thành bạn hữu của Thiên Chúa.
XTiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
Đcác ngài đã uống cạn chén của Chúa Ki-tô, và trở thành bạn hữu của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Gia-cô-bê vinh dự là Tông Đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ người cầu thay nguyện giúp mà được luôn nâng đỡ phù trì. Chúng con cầu xin
Tông Đồ Giacôbê Tiền
Anh Chị Em thân mến:
Chúng ta tiếp tục loạt hình ảnh về các vị tông đồ được Chúa Giêsu trực tiếp chọn lựa trong đời sống công khai của Người. Chúng ta đã nói về Thánh Phêrô và người an hem Anrê của ngài. Hôm nay chúng ta gặp hình ảnh về tông đồ Giacôbê. Các bản liệt kê theo Thánh Kinh đề cập tới hai vị cùng tên Giacôbê, đó là Giacôbê, con ông Giêbêđê, và Giacôbê, con ông Alphaê (x Mk 3:17,18; Mt 10:2-3), những vị được phân biệt một cách chung chung là Giacôbê Tiền và Giacôbê Hậu.
Những phân biệt này không phải là để so sánh về sự thánh thiện của các ngài, song chỉ để nói tới sự thích đáng khác nhau của các vị nơi các bản văn Tân Ước, nhất là trong khung cảnh đời sống trần gian của Chúa Giêsu. Hôm nay chúng ta chú trọng tới nhân vật đầu tiên trong hai vị có cùng tên gọi này.
Tên Giacôbê được dịch từ chữ ‘lákobos’, một tên được biến dạng bởi ảnh hưởng của tiếng Hy Lạp về tên vị tổ phụ nổi tiếng Giacóp. Vị tông đồ có tên gọi là là người an hem của thánh Gioan, và trong các bản liệt kê được đề cập tới thì vị này đứng thứ hai sau thánh Phêrô, như nơi thánh ký Marcô (3:17), hay đứng thứ ba sau thánh Phêrô và Anrê, như trong các Phúc Âm Thánh Mathêu (10:2) và Luca (6:14), trong khi đó, trong Sách Tông Vụ ngài lại đứng sau thánh Phêrô và Gioan (1:13). Cùng với thánh Phêrô và Gioan, tháng Giacôbê thuộc về nhóm 3 môn đệ đặc biệt được tham dự vào những giây phút quan trọng của cuộc sống Chúa Giêsu.
Vì hôm nay là ngày rất nóng bức, giờ đây tôi xin vắn tắt đề cập tới chỉ hai lần trong các trường hợp này mà thôi. Cùng với thánh Phêrô và Gioan, ngài đã tham dự vào giây phút thống khổ của Chúa Giêsu trong Vườn Nhiệt, cũng như trong lúc Chúa Giêsu biến hình. Bởi thế, đây là vấn đề của hai trường hợp rất khác nhau: một trường hợp thì thánh Giacôbê, cùng với hai môn đệ kia, cảm nghiệm được vinh quang của Chúa Kitô, thấy Người nói chuyện với Moisen và Êlia, thấy vinh quang thần linh rạng ngời nơi Chúa Giêsu; còn trường hợp kia thì ngài lại thấy khổ đau và nhục nhã; ngài tận mắt chứng kiến thấy Con Thiên Chúa hạ mình xuống biết là chừng nào, đến vâng lời cho đến chết.
Trường hợp thứ hai đối với ngài thực sự là một cơ hội để trưởng thành đức tin, để chỉnh lại ý nghĩ một chiều, vinh thắng nơi trường hợp thứ nhất, ở chỗ, ngài cần phải nhận thức Đấng Thiên Sai, vị được dân Do Thái đợi chờ như một con người hiển thắng, thực sự không phải chỉ đầy những vinh dự và vinh quang, mà còn bởi những khổ đau và yếu hèn ra sao nữa. Vinh quang của Chúa Kitô được hiện thực đích xác trên cây thập tự giá, khi Người tham phần vào các nỗi khổ đau của chúng ta.
Việc trưởng thành đức tin này được Thánh Linh hoàn trọn vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, nhờ đó khi đến giây phút tột đỉnh của việc làm chứng từ, thánh Giacôbê đã không lui bước. Vào đầu thập niên 40 thuộc thế kỷ thứ nhất, Vua Hêrôđê Agrippa, cháu của Hêrôđê Cả, như thánh Luca cho chúng ta biết: ‘đã dữ dội ra tay đối với những ai thuộc về Giáo Hội. Ông đã dùng gươm sát hại Giacôbê là người anh em của Gioan’ (12:1-2). Chi tiết ngắn ngủi thiếu kể lể này, một đàng cho thấy các Kitô hữu thường làm chứng cho Chúa Kitô bằng mạng sống của mình ra sao, đàng khác cho thấy thánh Giacôbê giữ một vị thế liên quan tới Giáo Hội ở Giêrusalem, một phần là vì vai trò này của ngài được thi hành trong cuộc sống trần gian của Chúa Giêsu.
Một truyền thống sau đó, một truyền thống trở về ít là với Isidore ở Seville, thuật lại rằng ngài ở Tây Ban Nha để truyền bá phúc âm hóa miền đất quan trọng này của Đế Quốc Rôma. Theo một truyền thống khác thì thân thể của ngài được đưa tới Tây Ban Nha, tới thành phố Santiago de Compostela. Như tất cả chúng ta đều biết nơi ấy đã trở thành một đối tượng rất được sùng kính, và cho tới ngày nay, là mục tiêu cho nhiều cuộc hành hương, chẳng những từ Âu Châu mà còn từ khắp thế giới nữa. Bởi thế mới hiểu được hình ảnh tiêu biểu về thánh Giacôbê được gắn liền với chiếc gậy của người hành hương, cũng như với truyện kể Phúc Âm, là những đặc tính của vị tông đồ lưu động, dấn thân loan báo ‘tin mừng’, đặc tính của cuộc hành trình nơi đời sống Kitô hữu.
Bởi thế chúng ta có thể học được nhiều điều nơi thánh Giacôbê, đó là sự mau mắn chấp nhận tiếng gọi của Chúa, cả khi Người xin chúng ta hãy rời bỏ ‘chiếc thuyền bè’ đầy an toàn theo con người của chúng ta; là lòng nhiệt thành theo Người trên những con đường được Người ấn định cho chúng ta đi vượt ra ngoài cả óc giả tưởng của chúng ta; là việc sẵn sàng làm chứng cho Người một cách can đảm, và nếu cần bằng việc tận tuyệt hy sinh mạng sống nữa. Vậy thánh Giacôbê Tiền cho chúng ta thấy một mẫu gương sống động về việc gắn bó thiết tha với Chúa Kitô. Ngài, vị thoạt tiên qua người mẹ của mình đã yêu cầu cho được cùng với người anh em của mình ngồi cạnh Thày trong vương quốc của Người, thực sự chính là người đầu tiên được uống chén khổ nạn trong cuộc chung phần tử đạo với các Vị Tông Đồ.
Sau hết, để tóm tắt mọi sự, chúng ta có thể nói rằng con đường của ngài, chẳng những bề ngoài song trên hết là bề trong, từ núi Biến Hình tới núi khổ nạn, là tiêu biểu cho cuộc hành trình của đời sống Kitô hữu, một cuộc hành trình diễn ra giữa các cuộc bắt bớ của thế gian và niềm an ủi của Thiên Chúa, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã nói. Theo Chúa Giêsu, như thánh Giacôbê, chúng ta biết rằng, ngay cả trong những nỗi khó khăn khốn khó, chúng ta vẫn đi trên đường ngay nẻo chính vậy.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch Bài Giáo Lý 12 về
Giáo Hội tông truyền của ĐTC Biển Đức theo tín liệu được Zenit
phổ biến ngày 21/6/2006
Thứ Năm sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm
(Ngày Thứ năm này năm 2024 bị Lễ Thánh Tông Đồ Giacôbê ở bậc lễ kính át đi)
Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 2, 1-3. 7-8. 12-13
"Họ đã bỏ Ta là nguồn nước hằng sống, để đào giếng rạn nứt".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi và hãy la vào tai Giêrusalem rằng: Ðây Chúa phán: Ta đã nhớ mối tình thanh xuân của ngươi, nhớ đến tình yêu thời đính hôn của ngươi, khi đó ngươi theo Ta trong sa mạc, trong phần đất chưa gieo trồng. Lúc ấy Israel đã được thánh hiến cho Chúa, và là hoa quả đầu mùa của Người; những ai động đến nó, phải đắc tội và phải chuốc lấy tai hoạ". Chúa phán như vậy.
"Ta đã dẫn dắt các ngươi vào đất phì nhiêu, để các ngươi hưởng dùng hoa quả của nó; nhưng vừa ở đó, các ngươi đã làm dơ bẩn đất của Ta và biến cơ nghiệp Ta thành nơi ghê tởm. Các tư tế không nói: 'Chúa ở đâu?'; (các kẻ) nắm giữ lề luật không nhìn biết Ta, còn các chủ chăn thì phản bội Ta, và các tiên tri lại nhân danh Baal mà nói tiên tri và chạy theo các bụt thần giả trá".
Chúa lại phán: "Hỡi tầng trời, hãy kinh ngạc về điều này, và hỡi các cửa trời, hãy ưu sầu thảm não! Vì chưng, dân Ta đã phạm hai tội xấu xa: Họ đã từ bỏ Ta là nguồn nước hằng sống, để đào những giếng rạn nứt không giữ nước được".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 35, 6-7ab. 8-9. 10-11
Ðáp: Lạy Chúa, nguồn sống là ở như nơi Chúa (c. 10a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, đức từ bi Ngài chạm tới trời cao; lòng trung tín của Ngài vươn tới ngàn mây. Ðức công minh của Ngài như núi non Thiên Chúa; sự phán quyết của Ngài như biển thẳm sâu. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài; con người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài. Họ được ăn no đồ bổ dưỡng nơi nhà Chúa, và Chúa cho họ uống bởi nguồn vui thú của Ngài. - Ðáp.
3) Bởi chưng nguồn sống là ở như nơi Chúa, và trong sự sáng của Ngài, chúng con nhìn xem sự sáng. Xin Chúa dành để tình thương cho những ai thờ Chúa, và đức công minh Ngài cho những kẻ lòng ngay. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 10-17
"Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành".
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Ðó là lời Chúa.
Môse là một "dụ ngôn" về
một Đức Kitô Thiên Sai
Suy Niệm
1) Lạy Chúa, đức từ bi Ngài chạm tới trời cao; lòng trung tín của Ngài vươn tới ngàn mây. Ðức công minh của Ngài như núi non Thiên Chúa; sự phán quyết của Ngài như biển thẳm sâu.
2) Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài; con người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài. Họ được ăn no đồ bổ dưỡng nơi nhà Chúa, và Chúa cho họ uống bởi nguồn vui thú của Ngài.
3) Bởi chưng nguồn sống là ở như nơi Chúa, và trong sự sáng của Ngài, chúng con nhìn xem sự sáng. Xin Chúa dành để tình thương cho những ai thờ Chúa, và đức công minh Ngài cho những kẻ lòng ngay.
Thứ Sáu sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 3, 14-17
"Ta sẽ ban cho các ngươi chủ chăn theo như ý Ta; và mọi dân tộc sẽ quy tụ tại Giêrusalem".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: "Hỡi con cái phản loạn, hãy hối cải, vì Ta là chủ các ngươi, Ta sẽ chọn trong các ngươi một người trong mỗi thành và hai người trong mỗi chi họ; Ta sẽ dẫn các ngươi lên Sion. Ta sẽ ban cho các ngươi những chủ chăn theo như ý Ta, để họ dùng lý trí và khôn ngoan chăn dắt các ngươi".
Chúa lại phán: "Trong những ngày ấy, khi các ngươi sinh sản ra nhiều trong xứ, thì người ta không còn nói đến Hòm Bia Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ không còn nghĩ tới, nhớ tới, hối tiếc và tạo lập hòm bia khác nữa.
"Lúc đó, người ta sẽ gọi Giêrusalem là ngai của Chúa, mọi dân tộc nhân danh Chúa mà quy tụ tại Giêrusalem, và họ không theo lòng gian ác độc dữ của mình nữa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13
Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 13
Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 18-23
"Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Vậy các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường. Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó: đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã. Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết ngạt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả, đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
Ðó là lời Chúa.
1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình".
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ.
Ngày 26 tháng 7
Thánh Gio-a-kim và thánh An-na, song thân Đức Ma-ri-a
lễ nhớ bắt buộc
Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai
Trích bài giảng của thánh Gio-an Đa-mát, linh mục.
Vì Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa sẽ phải do bà An-na sinh hạ, nên lẽ tự nhiên đâu dám qua mặt ân sủng mà trổ bông trước được. Do đó, theo lẽ tự nhiên, bà An-na vẫn son sẻ cho tới khi ân sủng làm cho bà mang thai. Sở dĩ thế là vì con trẻ sắp ra đời phải là trưởng nữ để (sau này) trở thành mẹ của Đấng là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, nơi Người tất cả đều tồn tại.
Lạy thánh Gio-a-kim và thánh An-na là đôi bạn thật diễm phúc ! Mọi thụ tạo đều mắc nợ các ngài. Quả thật, nhờ các ngài, giới tạo thành dâng lên Đấng Tạo Hoá của lễ cao trọng nhất, là Thánh Mẫu tinh tuyền, người duy nhất xứng đáng với Đấng Tạo Hoá.
Reo mừng lên, lạy thánh An-na, hỡi bà son sẻ, không sinh con ; hãy bật tiếng reo hò mừng vui, hỡi bà chưa một lần chuyển dạ. Hãy nhảy mừng, lạy thánh Gio-a-kim, vì từ ái nữ của ngài, một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta ; danh hiệu của Người là sứ giả thực hiện kế hoạch lớn lao, cứu độ toàn thế giới, là Thiên Chúa dũng mãnh. Quả thật, trẻ thơ ấy là Thiên Chúa.
Lạy thánh Gio-a-kim và thánh An-na là đôi bạn thật diễm phúc và rất thanh sạch ! Người ta nhận biết các ngài là nhờ hoa quả lòng dạ các ngài, như Chúa đã nói ở đâu đó : Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Các ngài đã sống cuộc đời đẹp lòng Thiên Chúa và xứng đáng với người con sinh ra từ các ngài. Các ngài đã đem lại một viên ngọc quý của đức trinh khiết nhờ nếp sống thánh thiện và trinh trong, đó là Đấng trinh khiết trước khi sinh con, trinh khiết trong khi sinh con và trinh khiết sau khi sinh con. Chỉ có Đức Trinh Nữ luôn luôn duy trì được đức trinh khiết cả trong tâm trí, cả trong linh hồn và cả nơi thân xác nữa.
Lạy thánh Gio-a-kim và thánh An-na là đôi bạn rất thanh sạch ! Khi giữ đức thanh sạch theo luật tự nhiên, các ngài được Thiên Chúa ban cho ân huệ vượt tính tự nhiên, đó là các ngài đã sinh ra cho thế gian một ái nữ không biết đến việc vợ chồng mà là Thánh Mẫu Thiên Chúa. Các ngài đã sống cuộc đời đạo hạnh thánh thiện theo bản tính loài người, thế mà các ngài đã sinh ra một ái nữ cao trọng hơn các thiên thần và nay là nữ vương các thiên thần. Ôi Mẹ Ma-ri-a, Trinh Nữ xinh đẹp dịu dàng biết bao ! Ôi ái nữ của A-đam và là Mẹ của Thiên Chúa ! Phúc thay lòng dạ đã cưu mang và đã sinh ra Mẹ ! Phúc thay đôi vòng tay đã bồng bế Mẹ ! Phúc thay hai khuôn mặt đã được Mẹ ôm hôn ! Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát ! Hãy cất tiếng reo hò, cất tiếng lên, đừng sợ !
XHai ông bà năng ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa,
Đlòng những mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Ít-ra-en.
XÔng bà nài van Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người.
Đlòng những mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Ít-ra-en.
Lạy Thiên Chúa là Đấng tổ phụ chúng con tôn thờ, Chúa đã ban cho thánh Gio-a-kim và thánh An-na được diễm phúc sinh hạ Đức Ma-ri-a là Thánh Mẫu của Đức Ki-tô, Con Chúa nhập thể. Xin nhậm lời hai thánh chuyển cầu mà cho chúng con được hưởng ơn cứu độ Chúa đã hứa ban cho dân riêng của Chúa. Chúng con cầu xin
Tên Gioakim được tạo bởi chữ YHWH (tiếng Do thái: יְהוֹיָקִים Yəhôyāqîm, tiếng Hy Lạp: Ἰωακείμ Iōākeím), nghĩa là “sự chuẩn bị của Gia-vê”.
Thánh Gioakim là Phu quân của Thánh Anna và là Thân phụ của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của Chúa Giêsu, theo truyền thống Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, và Anh giáo. Câu chuyện về Thánh Gioakim and Anne first appears in the apocryphal Phúc Âm theo Thánh Giacôbê. Thánh Gioakim và Thánh Anna không được nhắc tới trong Kinh Thánh.
Hai Ông Bà được Giáo hội kính nhớ vào ngày 26 tháng Bảy hằng năm. Đây là ngày lễ của những người đã làm ông bà (nội hay ngoại). Lễ này nhắc nhớ quý ông bà nội ngoại về trách nhiệm xây dựng các thế hệ tương lai, phải tạo truyền thống gia phong lễ giáo như phần di sản đạo đức làm của hồi môn cho cháu chắt. Tuy nhiên, lễ này cũng là lời nhắn nhủ dành cho thế hệ trẻ: Phải tôn kính người lớn hơn mình, nhất là những người già, phải biết trải nghiệm, đánh giá cao cuộc sống chứ không được coi nhẹ hoặc làm ngơ.
Gia phả của Chúa Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu và Luca không nói rõ tên cha mẹ của Đức Maria, nhưng có liệt kê tên các người cha của Đức Thánh Giuse, nhiều học giả trong nhóm của John ở Damascus (thế kỷ 8), và đặc biệt là các học giả Tin lành, tranh luận rằng gia phả trong Phúc Âm theo Thánh Luca mới đúng là phả hệ của Đức Mẹ, và Heli là cha. Để giải quyết vấn đề Đức Thánh Giuse có hai người cha – một thuộc dòng dõi Vua Salomom, hậu duệ của Nathan, con Vua Đa-vít, truyền thống từ thế kỷ 7 xác định rằng Heli là anh em họ đầu tiên của Thánh Gioakim.
Theo truyền thống, Bà Anna sinh tại Belem, kết hôn với Ông Gioakim người Nadaret, cả hai đều là dòng dõi Thánh vương Đa-vít. Trong Protoevanggelium of James, Thánh Gioakim được mô tả là người giàu có và đạo đức, thường giúp đỡ người nghèo và tới Đền thờ tại Sepporis. Truyền thống nói rằng cha mẹ của Đức Maria mới đầu sống ở Galilê, sau đó định cư ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Bà Anna là phụ nữ son sẻ, Ông Gioakim bị các thầy thượng tế sa thải và từ chối lễ vật hy sinh của ông, vì việc Bà Anna không có con được hiểu là việc không đẹp lòng Chúa. Ông Gioakim rút vào hoang địa để ăn chay và đền tội 40 ngày. Lúc đó các thiên thần hiện ra hứa với Ông Bà Gioakim và Anna là sẽ có con nối dõi. Sau đó, Ông Gioakim trở lại Giêrusalem và đón Bà Anna tại cổng thành. Có niềm tin cổ cho rằng đứa con sinh bởi người mẹ già là đã được tiền định về điều gì đó kỳ lạ. Trong Cựu ước có trường hợp của Bà Hannah, Thân mẫu của Ngôn sứ Samuel.
Truyền thuyết liên quan Ông Bà Gioakim và Anna có trong “Cổ Tích Vàng” (Golden Legend) và vẫn phổ biến trong nghệ thuật Kitô giáo cho tới khi Công đồng Trentô xác nhận đó là các sự kiện ngụy tạo.
Phụng vụ theo lịch Tridentine không có lễ Thánh Gioakim. Lễ này được thêm vào Công Lịch Rôma từ năm 1584, mừng vào ngày 20-3, ngay sau lễ Đức Thánh Giuse Phu quân Đức Mẹ. Năm 1738, lễ này được chuyển sang Chúa nhật sau tuần bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Với nỗ lực để Phụng vụ các Chúa nhật được ử hành, ĐGH Piô X đã chuyển lễ này sang ngày 16 tháng Tám, sau lễ Đức Mẹ Mông Triệu, để Thánh Gioakim được kính nhớ trong khi cử hành cuộc khải hoàn của Đức Mẹ. Trong lịch các thánh của Giáo hội Công giáo Rôma (năm 1969), lễ Thánh Gioakim được mừng chung với Thánh Anna vào ngày 26 tháng Bảy.
Giáo hội Chính thống Đông phương và Công giáo Hy Lạp kính nhớ Thánh Gioakim và Thánh Anna vào ngày 9 tháng Chín. Thánh Gioakim và Thánh Anna là thánh bổn mạng của các cha mẹ, các ông bà nội ngoại, những người kết hôn, những người đóng tủ và những người buôn vải. Có một số biểu tượng gắn liền với Thánh Gioakim: Cuốn sách hoặc cuộn giấy tượng trưng người dệt vải, chiếc gậy chăn chiên tượng trưng chữ nghĩa của Kitô giáo, và cái rổ đựng đôi chim bồ câu tượng trưng sự hòa bình. Thánh Gioakim thường có trang phục màu xanh lá cây, màu của niềm hy vọng.
Trong Kinh thánh, hai Thánh sử Matthêu và Luca cung cấp gia phả của Chúa Giêsu, cho thấy rằng Chúa Giêsu là đỉnh cao của Giao ước (những lời hứa). Chúng ta không biết gì nhiều, ngay cả Ông Bà Ngoại Gioakim và Anna cũng chỉ được nhắc tới sau khi Chúa Giêsu chịu chết được hơn 100 năm.
Đức tính anh hùng và sự thánh thiện của các ngài được suy ra từ bầu khí gia đình liên quan Đức Maria trong Kinh thánh. Dựa vào truyền thuyết thời thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ thông tin trong Kinh thánh, chúng ta thấy sự viên mãn của nhiều thế hệ của những con người cầu nguyện, chính Đức Mẹ đã say đắm cầu nguyện theo truyền thống tôn giáo.
Tính cách mạnh mẽ của Đức Maria thể hiện khi quyết định “xin vâng” (Lc 1:38), liên lỉ cầu nguyện, tuân thủ luật đức tin, sự vững vàng khi gặp khủng hoảng, và tận tụy với những người thân (Lc 1:39-45) – cho thấy gia đình gắn bó yêu thương, trông mong thế hệ kế tiếp duy trì những điều tốt đẹp nhất của quá khứ.
Ông Bà Gioakim và Anna biểu hiện các thế hệ khá lặng lẽ khi trung thành thực hiện trách nhiệm, sống đức tin và thiết lập môi trường tốt lành cho Đấng Thiên Sai tới.
Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con. Amen.
Ngày mồng 8 tháng 9, thánh nữ Anna hiểu rằng bà sắp sinh Người Con bà hằng ước nguyện. Bà sấp mình cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho con mình. Lúc đó, Mẹ Maria được Chúa cho xuất thần rất cao cả, không thấy được mình sinh vào trần gian như thế nào. Lúc ra khỏi cơn xuất thần ấy, Mẹ đã thấy mình đẹp đẽ nằm trên tay thân mẫu mình. Thánh nữ Anna được gìn giữ khỏi mọi đau đớn thông thường nơi các bà mẹ sinh con.
Sau đó, Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Người đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu MARIA và GIÊSU. Trong hai danh hiệu đó, Người được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Người phán: “Danh hiệu Maria phải đươc hiển vinh lạ thường. Những ai thành thức sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hỏa ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan” Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ.
Luật ghi trong chương 12 sách Lêvi buộc mọi người mẹ, 60 ngày sau khi sinh hạ một con gái, phải lên Đền Thờ Giêrusalem dâng một con chiên một tuổi và một con chim gáy hay một bồ câu nhỏ. Thánh nữ Anna sung sướng vì được dâng lên Thiên Chúa Người Con chí thánh Chúa đã ban cho bà, Người Con chính bà đang ẵm trên tay. Khi bà tới Đền Thờ, đại tư tế Simeon đã ra tiếp đón. Thánh nữ Anna dâng của lễ cách sốt sắng đến rơi lệ. Bà tuyên lại lời khấn sẽ hiến dâng Con gái mình vào Đền Thờ Thiên Chúa khi con tới tuổi thích hợp.
Khi các nghi lễ đã xong, hai mẹ con hoan hỉ trở về Nagiarét. Ở đây, Mẹ Maria được nuôi dưỡng y như các trẻ đương thời. Lương thực Mẹ dùng cũng là lương thực chung mọi người, nhưng Mẹ dùng rất ít. Mẹ ngủ đã ngắn giấc, mà còn phải ru phải dỗ mới ngủ được. Mẹ rất ngoan ngoãn, nhưng cũng rất đoan trang, ai đến gần cũng phải tôn kính. Mẹ cũng hay khóc và khóc nức nở, song chỉ là khóc để thương cho tội lỗi thế gian, và nài xin Đấng Cứu Chuộc đến. Nơi Mẹ, không bao giờ có chút gì là con nít, tuy vậy Mẹ cũng sẵn lòng để thánh nữ Anna chiều chuộng.
Mẹ liên lỉ cầu nguyện cùng Thiên Chúa, dù giấc ngủ cũng không gián đoạn việc cầu nguyện ấy, vì trí năng có thể hoạt động không cần giác quan giúp đỡ. Mẹ được hưởng đặc ân ấy cho tới khi ly trần. Không bao giờ Mẹ ngưng chuyện vãn với Chúa. Nhưng với loài người suốt 18 tháng đầu tiên đời Mẹ, Mẹ đã im lặng y như các trẻ thơ khác. Sau mười tám tháng, Mẹ mới bắt đầu nói. Chúa dạy Mẹ cầu nguyện mỗi ngày nhiều lần để Con Chúa mau Nhập Thể, và hãy khóc lóc vì tội lỗi loài người. Trong mười tám tháng tiếp đó, nghĩa là cho tới khi Mẹ lên ba tuổi, Mẹ nói rất ít.
Cha mẹ của Mẹ không giầu lắm, cũng không nghèo lắm. Ông bà có đủ của để may sắm cho Mẹ những bộ y phục đẹp đẽ nhưng rất đoan trang. Trong thời gian Mẹ chưa nói, Mẹ để mặc thánh nữ Anna sắm liệu cho Mẹ, không tỏ dấu gì cưỡng lại. Nhưng khi đã được Chúa ban lệnh nói năng, Mẹ xin thân mẫu may cho mình những y phục vải thô, nghèo nàn, đơn bạch, mầu tro xám và, nếu có thể, đã cũ, đồ thừa. Thánh nữ Anna rất kính nể và tôn trọng con mình như Bà Chủ, nhưng bà không đành lòng để cho con còn thơ dại yếu đuối phải mặc áo thô. Bà chỉ theo ý con về mầu áo và kiểu cắt may, tức mầu xám và kiểu áo của những trẻ nữ cha mẹ đã khấn hứa cho một điều nào đó.
Trong ba năm đầu đời Mẹ, Mẹ luôn thực hiện đức vâng lời hoàn thiện này. Mẹ thường đón trước ý của thánh nữ Anna mà làm.
Khi đã lên trọn hai tuổi, Mẹ bắt đầu thi hành đức ái đối với người nghèo. Mẹ đến xin thân mẫu của này vật nọ bố thí cho họ. Đôi lần Mẹ còn bớt cả phần ăn của mình để cho họ nữa. Mẹ cũng cầu nguyện cho linh hồn họ.
Mặc dầu Mẹ đầy tràn tri thức thiên phú về mọi sự vật thụ tạo, Mẹ cũng sẵn sàng được người ta dạy dỗ y như các trẻ khác, như là không biết gì. Mẹ hết sức ngoan ngoãn học hỏi nơi cha mẹ. Khi có ai chỉ dẫn thêm điều gì, hoặc khiển trách điều gì, Mẹ luôn luôn cúi đầu chấp nhận, không hề cãi trả.
Sáu tháng trước khi chẵn ba tuổi, Mẹ Maria đã nhắc cho thân mẫu lòng Mẹ ước ao được vào sống trong Đền Thờ. Để chuẩn bị tâm hồn thân mẫu cho ngày biệt ly, Mẹ nhắc lại những hồng ân Thiên Chúa ban cho cả hai mẹ con. Nghe con nói, thân mẫu Mẹ quyết định tùng phục thánh ý Chúa để chu toàn lời đã khấn.
Thánh Gioakim và thánh nữ Anna từ Nagiarét đưa Mẹ lên Đền Thờ Giêrusalem với mấy người thân thuộc đơn sơ. Khi tới Đền Thờ, ông bà cầm tay Con dẫn vào bên trong. Cả ba cùng sốt sắng cầu nguyện, rồi ông bà dâng hiến Mẹ cho Thiên Chúa. Mẹ cũng tự hiến dâng trọn vẹn trót mình dứt khoát cho Người. Sau khi cầu nguyện, thánh Gioakim và Anna dẫn Mẹ ra giới thiệu với một vị tư tế. Vị này chúc lành cho Mẹ. Rồi tất cả cùng đưa Mẹ tới khu nhà dành riêng cho việc giáo dục những thiếu nữ theo một kỷ luật đạo hạnh. Muốn tới khu nhà ấy, phải đi qua một cầu thang 15 bậc. Vị có nhiệm vụ hướng dẫn Mẹ là một tư tế phẩm trật thấp nhất. Ông đặt Mẹ lên bậc đầu cầu thang. Rồi quay về phía song thân, Mẹ quì gối xin phép lành, hôn kính tay cha mẹ và xin cha mẹ dâng hiến mình cho Thiên Chúa. Thánh Gioakim và Anna vừa bùi ngùi rơi lệ, vừa âu yếm chúc lành cho Con. Sau đó, một mình Mẹ quả quyết bước lên thang, không quay nhìn lại, không rơi một giọt lệ, không chút phàn nàn vì phải lìa cha mẹ.
http://www.thoidiemmaria.net/THANHMAU/Truyen%20Doi%20Me%20Maria/index.htm
Cha mẹ của Đức Trinh nữ Maria, tức ông bà ngoại của
Chúa Giêsu, đã không được nêu lên trong Tân Ước,
cũng không có trong bản gia phả của Phúc Âm thánh
Mátthêu, cũng như của Thánh Luca.
Danh tánh Gioakim và Anna được gặp thấy lần đầu tiên
trong một tác phẩm ngụy thư được viết để tôn kính
Đức Trinh nữ Maria vào khoảng năm 200. Danh tánh bà
Anna (Hanna) gợi cho chúng ta nhớ đến người mẹ của
tiên tri Samuen (x. 1Sm 1); bà được chồng yêu mến và
được Thiên Chúa chúc phúc.
Thánh Anna được Giáo Hội Đông Phương tôn kính từ thế kỷ thứ V; và hiện tại, người Hy Lạp hằng năm vẫn kính nhớ trong 3 ngày lễ. Lễ kính thánh Anna được phổ biến ở Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ X. Thánh Gioakim thì mãi đến thế kỷ XVI mới thấy xuất hiện. Dù vậy, có một sự lên xuống trong thánh lễ mừng kính hai vị thánh này:
- Đức
Thánh Cha Piô V (+ 1572) loại bỏ thánh lễ kính thánh
Anna;
- Đức
Thánh Cha Giêgôriô XIII (+1585) cho tái lập lại;
- Đức
Thánh Cha Giêgôriô XV (+ 1623) lại loại bỏ;
- Đức
Thánh Cha Lêô XIII (+ 1903) cho tái lập và nâng lên
bậc II;
Từ đó phụng vụ có:
- Ngày
26 tháng 7 mừng lễ thánh Anna.
- Ngày
16 tháng 8 mừng lễ thánh Gioakim.
Đức Thánh Cha Phaolô VI (+ 1978) canh tân phụng vụ, từ đó hai vị thánh được mừng chung vào ngày hôm nay: Ngày 26/07 hàng năm.
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh
Nguồn: TGP. Sài Gòn
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/ngay-26-07-thanh-gioakim-va-thanh-anna-32938Thứ Bảy sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 7, 1-11
"Nhà này là nơi phải khẩn cầu thánh danh Ta, đã trở thành hang trộm cướp rồi sao?"
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Lời Chúa phán cùng Giêrêmia rằng: Ngươi hãy đứng nơi cửa đền thờ Chúa, và rao giảng lời này rằng: Hỡi toàn thể Giuđa, là những người vào cửa này mà thờ lạy Chúa, hãy nghe lời Chúa. Ðây Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Israel phán: Các ngươi hãy cải thiện lối sống và hành động các ngươi, thì Ta sẽ ở với các ngươi tại chốn này. Các ngươi đừng tin theo lời dối trá này: Ðây có đền thờ Chúa, đền thờ Chúa, đền thờ Chúa! Vì nếu các ngươi cải thiện lối sống và hành động các ngươi, nếu các ngươi ăn ở ngay thẳng theo lề luật với những người trong nhà và những người thân cận, nếu các ngươi không áp bức ngoại kiều, trẻ mồ côi, và những người goá bụa, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội tại chốn này, nếu các ngươi không chạy theo các thần ngoại lai mà mang hoạ vào mình, thì Ta sẽ ở với các ngươi tại chốn này, tại lãnh thổ mà Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi từ đời này đến đời nọ.
Nhưng kìa, các ngươi tin tưởng vào những lời dối trá không sinh ích lợi gì cho các ngươi, như: trộm cướp, giết người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Baalim, chạy theo các thần ngoại lai mà các ngươi không biết; rồi các ngươi đến đứng trước mặt Ta trong đền thờ này là nơi kêu cầu thánh danh Ta, mà nói rằng: "Chúng tôi đã được bảo đảm để tiếp tục làm những việc ghê tởm đó". Vậy, dưới mắt các ngươi, nhà này là nơi khẩn cầu thánh danh Ta, đã trở thành hang trộm cướp rồi sao? Chúa lại phán: Còn Ta, Ta hiện diện và Ta đã thấy rõ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5-6a và 8a. 11
Ðáp: Ôi Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn con khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại Vương là Thiên Chúa của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người Chúa con nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái. - Ðáp.
4) Thực một ngày sống trong hành lang nhà Chúa đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 21
Alleluia, alleluia. - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời gieo trong lòng, lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 24-30
"Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất.
Khi lúa lớn lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lộ ra. Ðầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế". Ðầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ". Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".
Ðó là lời Chúa.
1) Linh hồn con khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại Vương là Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người Chúa con nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái.
4) Thực một ngày sống trong hành lang nhà Chúa đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân.