Chúa Nhật
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gs 5, 9a. 10-12
"Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng Lễ Vượt Qua".
Trích sách Giosuê.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: "Hôm nay, Ta đã cất sự
dơ nhớp của Ai-cập khỏi các ngươi!" Con cái Israel tạm trú tại Galgali
và mừng Lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh
đồng Giêricô. Ngày hôm sau Lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương,
bánh không men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa
phương, thì không có manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna
nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó của xứ Canaan.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Các
bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c.
9a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi
khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy
mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh
Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi
điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ
mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi
mọi điều tai nạn. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 17-21
"Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo
mới, những gì là cũ đã qua đi: này đây tất cả mọi sự đã trở thành mới.
Vì mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với
mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên Chúa
là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô, nên không
kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời
giao hoà. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như chính Chúa dùng
chúng tôi mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao
hoà với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân
tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên
Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã
lỗi phạm đến trời và đến cha.
Phúc Âm: Lc 15, 1-3. 11-32
"Em con đã chết nay sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để
nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm
rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với
chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Người kia có hai con
trai. Ðứa em thưa với cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài
thuộc về con". Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau,
người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ
phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn
trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho
một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn
những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó
hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn
uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với
cha tôi và thưa người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến
cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như
một người làm công của cha". Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó
còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy
ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu... Người con trai lúc đó thưa
rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng
được gọi là con cha nữa". Nhưng người cha bảo đầy tớ: "Mau mang áo đẹp
nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy
vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta
đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy". Và người ta bắt
đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát
và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ
nói: "Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy
về mạnh khoẻ". Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra
xin anh vào. Nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha,
không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con
một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau
khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha
lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó". Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con
luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và
vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Ðó là lời Chúa.

Suy niệm
Sự Sống hứa
hẹn
Hành trình Mùa Chay 40 ngày bắt đầu tiến
tới tuần lễ Thứ Tư, với Chúa
Nhật hôm nay đây. Và phụng vụ lời Chúa cho Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay
hôm nay dường như có tính cách hân hoan vui vẻ hẳn lên, không còn
những gì là âu sầu buồn bã theo chiều hướng của Mùa
Chay nữa.
Thật vậy, ngay trong Bài Đọc 1, luồng gió
tươi mát và nắng hồng của mùa xuân như thổi vào mùa đông và
làm ấm áp mùa đông hẳn lên. Ở chỗ, cuộc hành trình 40 năm vô cùng
cực khổ và quá dài trong sa mạc khô cằn đầy những gian nan thử thách
khôn lường cho một dân tộc đông cả trên 2 triệu con người (xem Xuất
Hành 12:37), sau khi ra khỏi Ai Cập và vượt qua Biển Đỏ cùng Sông
Jordan, dân Do Thái cuối cùng đã tiến tới đích điểm của mình
là chính mảnh Đất Hứa.
Mảnh đất tiền định này đã được Thiên Chúa
hứa với tổ phụ Abraham của dân Do Thái (xem Khởi Nguyên 15:18-21).
Ngài còn lập lại lời hứa này với con ông là Isaac (xem Khởi Nguyên
26:3) cũng như với cháu ông là Giacóp (xem Khởi Nguyên 28:13). Đất
Hứa này là nơi chính Thiên Chúa cũng đã dẫn vị tổ phụ đầu tiên này
của dân Do Thái đến đó ở trước (xem Khởi Nguyên 12:7 và 15:7), cho
tới khi nạn đói xẩy ra khắp vùng, khiến tổ phụ Giacóp cùng con cháu
tất cả là 70 người kéo nhau sang Ai Cập (xem Khởi Nguyên đoạn
46), ở đó suốt một thời gian 430
năm (xem Xuất Hành 12:40).
Khi vào được Đất Hứa, đối với dân Do Thái,
trước hết, là như vào được miền đất hoàn toàn tự do, miền đầt thuộc
về họ, miền đất do chính họ làm chủ, khác hẳn với miền đất Ai Cập mà
họ đã từng sống như nô lệ và thật sự là làm nô lệ trong thời điểm
trước khi ra đi 40 năm trước, bởi thế, ngay đầu Bài Đọc 1: "Chúa
phán cùng Giosuê rằng: 'Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai-cập
khỏi các ngươi!'"
Khi dân
Do Thái ra khỏi đất Ai Cập vào thời điểm làm nên chính Lễ
Vượt Qua đầu tiên của
họ thế
nào, ngày
14 Tháng Giêng theo niên lịch của dân tộc này, thì khi vào tới Đất
Hứa họ cũng ở vào thời điểm Lễ Vượt Qua ban đầu như vậy, một biến cố
quan trọng nhất trong lịch sử cứu độ của họ mà họ lần đầu tiên cử
hành tại chính Đất Hứa, như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại: "Con
cái Israel tạm trú tại Galgali và mừng Lễ Vượt Qua vào ban chiều
ngày mười bốn trong tháng, trên cánh đồng Giêricô".
Tuy đã
vào được Đất Hứa, nhưng dân Do Thái chỉ bắt đầu sinh sống tự lập như
một dân tộc ở địa phương mới
này sau Lễ Vượt Qua đầu tiên của họ mà thôi, ở chỗ họ
không
còn lệ thuộc vào manna từ trời xuống là lương thực hằng ngày đã
nuôi dưỡng họ
suốt 40 năm trường trong sa mạc, mà là nhờ các
thổ sản của chính Đất Hứa, như các chi tiết cuối cùng của Bài Đọc 1
cho biết:
"Ngày
hôm sau Lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không men và
lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, thì không
có manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna nữa, nhưng họ ăn
thổ sản năm đó của xứ Canaan".
Đó là lý do tâm
tình tri ân cảm tạ và ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa của Bài Đáp Ca
hôm nay cũng chính là của dân Do Thái lúc bấy giờ, ở vào thời điểm
lịch sử cứu độ tiến sang một kỷ nguyên mới, hoàn toàn mới, một kỷ
nguyên cho thấy họ thật sự chẳng những là một dân tộc mà còn là một
quốc gia nữa, có một quê hương xứ sở đất nước đàng hoàng làm nơi
cư trú về địa dư như tất
cả mọi dân
tộc khác trên
trái đất này:
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi
khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và
hãy mừng vui.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh
Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi
mọi điều lo sợ.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ
mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ
khỏi mọi điều tai nạn.
Nếu
ngay sau nguyên tội Thiên Chúa đã tự động hứa cứu chuộc loài người
(xem Khởi Nguyên 3:15) thì phải chăng Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế,
nơi nhân tính của Người cũng như nơi Giáo Hội Nhiệm Thể Người, là
chính Đất Hứa của / cho một dân tộc mới, mảnh "đất chảy sữa và
mật" (Khởi Nguyên 33:3; Xuất Hành 3:8), ám chỉ "đầy ân
sủng ("sữa") và
chân lý ("mật")",
xuất
phát từ "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, người Con
duy nhất đến từ Cha..." (Gioan
1:14).
Thật
vậy, nhờ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô nơi Phép
Rửa (xem Roma 6:1-7), Kitô hữu đã cùng với
Chúa Kitô "vượt
qua sự chết mà vào sự sống"
(Gioan 5:24), nghĩa là, đã được
vào Đất Hứa của Chúa Kitô, tức đã hiệp thông nên một với Chúa Kitô,
qua Nhiệm Thể Giáo Hội của Người, như Thánh
Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại đã diễn tả như
thế trong
Bài Đọc 2 hôm nay: "Nếu
ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo mới, những gì là
cũ đã qua đi: này đây tất cả mọi sự đã trở thành mới".
Nhờ Phép
Rửa con
người được biến đổi trong Đất Hứa của Chúa
Kitô là
Giáo Hội Nhiệm Thể Người thành
"một thụ tạo mới" và "tất cả mọi sự đã trở thành mới" đây
có thể nói đã được báo trước và ám chỉ nơi trường hợp của dân Do
Thái, một dân tộc đã sống một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong Đất
Hứa, bằng những con người mới, được sinh ra sau khi ra khỏi Ai Cập,
không còn một con người cũ nào từ Ai
Cập,
bao gồm cả Moisen, ngoại
trừ 2 con người duy nhất là Calep và Giodue thay
Moisen (xem Dân
Số 14:21-24,30; 20:12).
Hãy
tưởng tượng mà xem đoạn đường 40 năm sa mạc mà dân
Do Thái hành
trình từ Ai Cập, nhất là từ sau khi vượt qua Biển Đỏ về Đất Hứa đã
trở thành một nghĩa trang vĩ đại nhất
thế giới, nơi đã chôn xác của cả 2-3 triệu người Do Thái, một
vùng sa mạc có
thể nói là
quê hương của thế hệ Do Thái vượt
qua.
Như
dân Do Thái, nếu không nhờ Thiên Chúa, qua Moisen, giải thoát họ
khỏi Ai Cập, họ sẽ không bao giờ có thể vượt qua tình trạng nô lệ mà
vào sự sống tự do trong Đất
Hứa thế
nào, thì Kitô hữu cũng không thể nào được trở thành chi thể của Giáo
Hội, thuộc về Giáo Hội, sống trong Đất Hứa Giáo Hội, nếu không được
Thiên Chúa cứu chuộc nơi Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế Con
Ngài, đúng như Thánh Phaolô đã xác tín trong Bài Đọc 2 hôm nay liên
quan đến thừa tác vụ của Giáo Hội nơi thành phần thừa tác viên như
ngài:
"Vì
mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với
mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên
Chúa là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô,
nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng
chúng tôi lời giao hoà. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô,
như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi
van nài anh em hãy giao hoà với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội,
thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta
trở nên sự công chính của Thiên Chúa".
Đúng thế, trong việc cứu chuộc con người,
Thiên Chúa đóng vai chủ động chứ không phải là con người. Điển hình
là trường hợp của dân Cựu Ước Do Thái giáo trong việc giải thoát họ
khỏi thân phận làm tôi ở nước Ai Cập mà đưa họ vào miền Đất
Hứa tự do. Hay trường
hợp dân Tân Ước Kitô giáo, hầu hết làm nên bởi các dân ngoại, trong
việc giải thoát họ khỏi tội lỗi và sự chết bằng chính Chúa Giêsu
Kitô là Đấng
Thiên Sai Con Ngài.
Đó là lý do trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh
Phaolô đã nhận thức rất chính xác là "Thiên
Chúa là Ðấng giao hòa thế
gian với chính mình Người trong Ðức Kitô". Tại
sao con người
tội lỗi đã xúc phạm đến Thiên Chúa đáng lẽ phải tự động đến làm
hòa, đến xin lỗi Thiên Chúa mới phải, mới hợp lẽ công bằng, hợp hợp
tình hợp lý theo trần gian, đằng
này chính
Ngài lại đến làm hòa với loài người tội
nhân? Ôi,
lòng thương xót Chúa...
Chúng
con không thể nào hiểu được ở tầm mức loài người chúng con!
Thiên Chúa giao hòa với loài người phạm
nhân của Ngài, thậm chí, còn ở chỗ nếu con người mà hiểu được và cảm
thấu được
tất cả mầu nhiệm lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa chắc
không thể nào không điên lên, không mất trí, một
lòng thương xót,
như Thánh Phaolô, cũng trong Bài Đọc 2, đã
dám nói mà không sợ bị rối đạo và lạc đạo, đó là "Ðức
Kitô... Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa đã biến
thành tội
- who has no sin to become sin / who did not know sin to be sin - vì
chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên
Chúa".
Bởi thế, trước tình yêu vô cùng nhân hậu của Vị Thiên Chúa nạn
nhân đã bị loài người xúc phạm song đã tự động tìm cách làm hòa với
phạm nhân của mình, bằng cách biến Người Con vô cùng thánh hảo yêu
quí của mình trở thành tội lỗi, một sự dữ không thể nào có nơi Thiên
Chúa và không thể nào chấp nhận đối với Thiên Chúa,
nhưng Vị Thiên Chúa nạn nhân lại muốn chồng
chất tất cả lên nhân
tính được Người Con mặc lấy và vượt qua, như thể nhuộm đen cả nhân
tính vô tội và thánh hảo của Người, để nhờ Người biến hình sự dữ tội
lỗi của con người thành ân sủng của lòng thương xót Chúa, mà Thánh
Phaolô đã tha thiết kêu gọi Kitô hữu Giáo đoàn Corinto thời ấy, cũng
như mọi thời đại sau này, là "chúng tôi van nài anh em hãy giao
hoà với Thiên Chúa".
Bài Phúc Âm hôm nay, một
bài Phúc Âm đã được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Bảy Tuần 2 Mùa
Chay, Chia
sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 2 (21-27/2/2016), vì
nội dung của bài Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn cho thấy 2 điều
chính yếu: 1- Thiên
Chúa quả thực là Đấng đã hòa giải với tội nhân trước, và 2- chỉ
bao giờ ở
trong nhà
với Ngài
mới được
hạnh phúc như ở
trong Đất Hứa vậy.
Trước hết, dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay
cho thấy Thiên Chúa là Đấng đã giao hòa trước. Không phải hay sao,
người cha có hai người con trai trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm
nay đã
cho thấy rõ điều ấy.
Người
cha trong dụ ngôn đã không làm hòa trước là gì với người con
hoang đàng phung phá hay sao, ở chỗ, "Khi
nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông
chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu", trước
khi chính nó lên tiếng xin lỗi ông và xin ông tha thứ cho nó: "Người
con trai lúc đó thưa rằng: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và
đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa'".
Bởi
ông đã tha cho nó ngay khi nó có ý định xin ông chia gia tài cho nó
và ngay cả trước khi nó bỏ ông mà đi, vì ông không bao giờ chấp nhất
nó, thậm chí còn tìm dịp để tha cho nó, và thật là hớn
hở khi chộp được cơ hội ngọc ngà hiếm quý để tha thứ cho
nó, chỉ
muốn chứng tỏ cho nó càng ngày càng thấy được
ông yêu thương nó là chừng nào, một tình yêu thương vô cùng nhân hậu
nó không thể nào hiểu được. Việc
người con hoang đàng phung phá có thể làm hòa với cha của nó,
như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, chỉ
xẩy ra sau khi Người cha đã
bày tỏ
cử chỉ hân
hoan hớn hở được làm
hòa với nó trước.
Sau nữa,
trong cùng dụ
ngôn làm
hòa hay hòa giải tuyệt
vời này, người cha chẳng những tự động hòa
giải với người
con hoang đàng phung phá mà còn với cả người con không
bỏ ông
mà đi
như đứa con hoang đàng phung phá kia nữa,
người
con cho rằng "đã
bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào", thế
mà cuối
cùng những gì đã xẩy ra?
Vào chính lúc mọi người đang xum vầy trong
nhà cha, ăn mừng người con hoang đàng phung phá như "đã
chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy", thì
người con tự cho mình là ngoan ngoan trung thành của cha lại bỏ cha
mà đi, bằng cách, nhất định không chịu vào trong nhà với cha và em
của mình, trái lại, muốn
tách mình ra khỏi mối hiệp thông yêu thương, hiệp thông sự sống, đến độ,
"Cha
anh ra xin anh vào" hiệp
thông với chung gia đình.
Cử chỉ và hành vi "Cha anh ra xin anh
ta vào", không phải hay sao, là chính
tác động Thiên
Chúa tự đến làm
hòa với loài người,
tức là việc "Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được
cứu độ và nhận
biết chân lý"
(1Timotheu 2:4), muốn
mời gọi nhất là những con
người lầm lạc như
người con bề
ngoài ở
nhà với cha mà lại chẳng hiểu cha gì hết, chẳng biết rằng
"tất
cả mọi
sự của cha đều là của con", bởi
thế nên làm
gì cho cha cũng làm như một người đầy tớ "hầu
hạ cha", đòi được trả công
xứng đáng: "không
bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ", hơn
là một người con chỉ
làm vì cha muốn và cho cha được như ý, coi việc của cha và của cải
của cha là của mình.
Trong cả
hai trường hợp, của cả hai người con, một khi ở ngoài nhà của cha,
sẽ không bao giờ được hạnh phúc. Trường hợp của người con hoang đàng
phung phá cuối
cùng phải trở về nhà cha, trở về hiệp thông với cha, mới tìm được sự
sống chân thực và viên mãn. Còn người con không bỏ cha mà đi, tức
còn ở
nhà với
cha về
thể lý theo bề ngoài,
một khi không vào nhà của cha mình nữa cũng thế, nghĩa là muốn
hoàn toàn tách
mình ra khỏi cuộc hiệp thông với cha, đã trở thành một con chiên
lạc, lẻ loi cô độc một mình, rất dễ bị sói dữ ăn thịt mất xác.
Nhà Cha đây, mà Đất Hứa của dân Do Thái là
hình bóng tiên báo, trước hết và trên hết ám chỉ mối hiệp thông thần
linh với Thiên Chúa, sau nữa ám chỉ nhân tính Chúa Kitô nói chung và
thân xác của Người nói riêng, và sau hết ám chỉ Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa
Kitô là
bí tích và là dấu chỉ hiệp
thông với Thiên Chúa và hiệp nhất với loài người (xem Hiến Chế Tín
Lý về Giáo Hội Lumen Gentium Ánh Sáng Muôn Dân - 1).
Chính
vì Nhà Cha là đích điểm của cuộc sống trần gian của con người nói
chung và của cuộc hành trình đức tin Kitô hữu nói riêng,
là
khát vọng build-in - bẩm sinh sẵn có trong lòng con người, mà
người con hoang đàng phung phá trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm
nay, khi đã tới tận cùng khốn nạn của cuộc đời, đã thấy được tất cả
sự thật không thể chối cãi và không thể rời xa: "Biết
bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở
đây phải chết đói".
Bởi
thế và từ đó, người con đã dứt khoát tiến đến chỗ: "Tôi
muốn ra đi trở về với cha tôi".
Chẳng
những quyết định
trong lòng, người
con hoang đàng phung phá này còn
thực sự tỏ ra bằng hành động cụ thể bên ngoài nữa: "Vậy
nó ra đi và trở về với cha nó".
Nghĩa
là, nó muốn làm hòa cùng cha của nó, một hành động cho thấy nó chẳng
những nhận lỗi trong lòng sau khi nó cảm thấy hối hận vì đã bỏ cha
mà đi: "con
đã lỗi phạm đến trời và đến cha...", mà
còn xin lỗi ngoài miệng nữa sau khi nó lại được gặp mặt người cha vô
cùng nhân hậu của nó: "Thưa
cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là
con cha nữa".
Thế
nhưng, việc người con hoang đàng phung phá hòa giải với cha của nó
chỉ xẩy ra sau khi cha của nó hòa giải với nó, không
bao giờ chấp nhất nó, hằng tha thứ cho nó ngay cả trước khi nó xúc
phạm đến ông, thậm chí còn vui vẻ tìm dịp để tha thứ cho nó,
như được tỏ ra trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay: "Khi
nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông
chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu".
Cảnh
cha con trọng dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay hòa giải với nhau đã
xẩy ra đúng như những gì được Thánh
Phaolô đã
trải qua, cảm
nhận và vì
thế đã được ngài sử
dụng để khuyên Kitô hữu Giáo đoàn Corinto trong Bài Đọc 1 hôm nay:
1- Thiên Chúa nạn nhân hòa giải với con
người phạm nhân tội lỗi trước: "Vì
mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với
mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên
Chúa là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô,
nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng
chúng tôi lời giao hoà".
2- Loài
người phạm nhân nhờ đó và từ đó mới có thể hòa giải với Vị Thiên
Chúa nạn nhân của mình: "Nên
chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi
mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hoà
với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân
tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của
Thiên Chúa".
Thánh thi Kinh Phụng Vụ Ban Mai các
Chúa Nhật Mùa Chay (bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng
Vụ)
Nào phủ phục trước nhan thánh Chúa
Cho tấc lòng than thở nài van:
Chúa thương xét xử khoan nhân
Dừng cơn thịnh nộ, ân cần lắng tai.
Muôn lạy Chúa, này đây bao tội,
Lũ con hư phản bội ân tình
Ngửa trông lượng cả cao xanh
Thiên ân tràn xuống cho thanh thoát lòng.
Xin Ngài nhớ: dẫu mỏng manh phận
Ðoàn con đây cũng vẫn là con,
Nhậm lời chúng tử nỉ non
Danh Ngài nhân hậu tiếng đồn muôn năm.
Xin tha thứ lỗi lầm trót phạm
Giúp chúng con can đảm vững bền,
Vâng theo thánh ý ngày đêm
Bây giờ mãi mãi trọn niềm hiếu trung.
Muôn lạy Chúa vô song tuyệt mỹ
Là Ba Ngôi hiển trị thiên tòa,
Phúc lành tuôn đổ sớm trưa
Cho mùa trai tịnh thành mùa hồng ân.
Thứ Hai
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Is 65, 17-21
"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ
không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa.
Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các
việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân
tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ
đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ
không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người
chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi,
kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và
ăn trái nho".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b
Ðáp: Lạy
Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để
quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm
phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh
Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu
của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai
lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân
cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con,
lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. -
Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã
lỗi phạm đến trời và đến cha.
Phúc Âm: Ga 4, 43-54
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không
vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa,
dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm
ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy
giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau
liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và
xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông
không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không
tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước
khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh
rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết
con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc
bảy giờ cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo
ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó
là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
Ðó là lời Chúa.

Suy
niệm
Sự Sống tỏ
mình
Hôm nay, Thứ
Hai trong Tuần IV Mùa Chay,
phụng vụ lời Chúa bắt đầu có chiều hướng càng
sát nghĩa hơn bao giờ hết với chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống
mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) của chung Mùa Chay, bao
gồm cả Tuần Thánh. Bởi vì, từ hôm nay, dọc suốt 2 tuần liền của
thời điểm cuối cùng của Mùa Chay, Giáo Hội cố ý chọn đọc cho
các ngày thường trong tuần toàn là các bài
Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, không còn Phúc Âm của Thánh ký Mathêu,
Marco hay Luca như ba tuần trước đây nữa.
Tại sao? Tại vì chỉ có Phúc Âm của Thánh Gioan, cuốn
Phúc Âm cuối cùng trong 4 cuốn Phúc Âm được Giáo Hội công nhận trong
sổ bộ Thánh Kinh Tân Ước, cuốn Phúc Âm về thần tính của Chúa Kitô và
về Giáo Hội, mới có những đoạn
Chúa Giêsu tỏ thần tính của mình ra, hay nói
cách khác, Người tỏ nguồn
gốc thần linh của Người ra, vừa bằng
phép lạ hay dấu lạ vừa bằng
chính lời tự chứng của Người
liên quan đến ý
Cha là Đấng đã sai Người.
Tuy nhiên, đa số dân Do Thái nói chung và thành
phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ nói riêng đã không
thể chấp nhận chứng từ cùng chứng cớ rất chân
thực bất khả chối cãi của
Người, cho đến giờ của Người, tức
cho đến thời điểm họ có
thể thực hiện mưu đồ sát hại Người, theo đúng
như dự án cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc
cứu độ của Người, Đấng đã "tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó
lại" bằng Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm là
tột đỉnh của chung phụng niên và của riêng Tuần
Thánh, đặc biệt là của Tam
Nhật Thánh!
Hai bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan đầu
tiên cho 2 tuần cuối cùng của Mùa Chay liên
quan đến 2 phép lạ Chúa Giêsu làm, phép lạ trước, trong bài Phúc Âm
hôm nay, Người làm ở Galilêa, vùng đất miền bắc xa xôi, nơi có nhiều
dân ngoại sinh sống, còn phép lạ sau, trong bài Phúc Âm ngày mai,
Người làm ở ngay Giêrusalem xứ Giuđêa ở miền nam, một phép lạ xẩy
ra ở ngay giáo đô của dân Do Thái, do đó, đã trở thành nguyên cớ dẫn đến
cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và dân của Người, nhất là với thành
phần lãnh đạo ở đó bấy
giờ.
Phép
lạ được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, "là
phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa", tiếp
theo phép
lạ Người đã hóa nước thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana trước đó để tỏ
mình ra cho các môn đệ và làm cho các vị tin vào Người là
phép lạ đầu tiên (xem Gioan 2:11). Nếu
phép lạ thứ nhất liên quan đến hôn nhân thì phép
lạ thứ hai này liên quan đến gia đình. Bởi thế mà cuối Bài Phúc Âm
Thánh ký Gioan đã cho biết tác dụng xuất phát từ phép lạ Chúa Giêsu
thực hiện: "nên
ông và toàn thể gia quyến ông đều tin".
Tuy nhiên,
sở dĩ Giáo Hội chọn bài Phúc Âm về phép lạ Chúa Giêsu làm cho "một
quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt", không
phải để cho chúng ta thấy
cái cân xứng giữa
hai phép lạ: phép
lạ thứ nhất Người làm cho các môn đệ tin Người và phép lạ thứ hai
Người làm cho dân chúng tin Người, mà chính
là để cho chúng ta thấy rằng thành phần dân ngoại dễ tin vào Người
hơn là chính dân của Người, như phép lạ trong bài Phúc Âm ngày mai
chứng thực.
Đó là lý do ở đầu bài Phúc Âm hôm
nay, Thánh
ký Gioan đã ghi nhận lòng khao khát thần linh và thái độ mộ mến của
dân chúng đối với Đấng Thiên Sai của chính dân Do Thái: "Khi
ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: 'Không
vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình'. Khi Người đến
Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các
việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".
"Chính Người đã nói: 'Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê
hương mình'" ở
câu Phúc Âm này không phải ám chỉ dân chúng ở Nazarét quê quán của
Người đã đối xử với Người được Thánh ký Luca thuật lại (xem
4:14-30), mà là ám chỉ chung dân Do Thái là dân tộc của Người theo
huyết nhục trần gian. Tuy nhiên, thành phần dân tộc của Người ít là cũng được
chia làm
hai loại hay hai hạng, hạng bình dân cởi mở và hạng trí thức
lẫn quyền lực.
Hình
như dân Do Thái ở Galilêa thuộc miền bắc xa xôi, xa giáo đô
Giêrusalem và sống chung với nhiều người dân ngoại đã có được một
tinh thần cởi mở và phóng khoáng hơn là những người Do Thái ở Giuđêa
nói chung và ở giáo đô Giêrusalem nói riêng. Bởi thế nên, Thánh
Gioan đã cho thấy dân Do Thái ở Galilêa đã cởi mở hơn với Chúa
Giêsu: "Khi
Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất
cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự
lễ".
Sự
kiện "dân
chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm
ở Giêrusalem trong dịp lễ" đây
có nghĩa là họ rất cảm phục Người, vì Người chỉ là một người Galilêa
tầm thường như họ mà đã dám làm những gì không ai có thể làm và dám
làm như Người. Chẳng hạn như Người đã chẳng những dám đánh đuổi đám
buôn bán trong đền thờ mà còn dám thách thức những người Do Thái
chính qui ở đó bấy giờ đã ngỏ ý muốn thấy dấu lạ Người làm để chứng
tỏ thẩm quyền thực sự của Người trong việc Người thanh tẩy đền thờ
là nhà của Cha Người như thế (xem
Gioan 2:13-23).
Chính vì tấm lòng cởi mở của chung dân Do
Thái ở Galilêa như vậy mà
hầu như các phép lạ Người làm đều xẩy ra ở Galilêa, hơn là ở Giuđêa.
Phép lạ thứ hai Người làm ở Galilêa trong Bài Phúc Âm hôm nay lại
xẩy ra ở Cana là "nơi
Người đã biến nước thành rượu", một
phép lạ được
Chúa Giêsu thực hiện cho
người
con trai của một
viên chức triều đình (royal officer), không biết là người Do Thái
hay dân ngoại, nhưng có thể nắm chắc là dân ngoại, bởi vì cuối bài
Phúc Âm Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm chi tiết: "ông
và toàn thể gia quyến ông đều tin", như
trường hợp của gia đình viên đại đội trưởng Roma Cornelio (xem
Tông Vụ 10:1-48).
Trong Phúc Âm của Thánh Gioan, thường Chúa
Giêsu tự động làm
phép lạ để
tỏ mình ra cho người ta tin vào Người, hơn là người ta phải có đức
tin đã rồi
Người mới làm phép lạ, như thường xẩy
ra hầu
hết ở
bộ Phúc Âm Nhất Lãm. Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người
lại đề cập đến đức tin như là một điều kiện cần thiết trước
khi Người làm phép lạ.
Nhưng
người đề cập đến đức tin không phải chỉ với riêng viên chức
triều đình đang
van xin mà
là cho chung những người ở đó bấy giờ: "các
ông". Như
thể Người nhắc nhở hết mọi người
rằng hãy
tin sẽ được, như viên chức triều đình vẫn đang
gắn
bó tin
tưởng vào Người
bấy giờ: "xin
Ngài xuống trước khi con tôi chết".
Bởi thế, sau khi nghe "Chúa
Giêsu bảo ông: 'Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi'. Ông tin lời Chúa
Giêsu nói và trở về".
Quả thật, ông đã tin sao thì được đúng như
vậy, như bài Phúc Âm ở đoạn cuối cho thấy:
"Khi
xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết
con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: 'Hôm qua
lúc bảy giờ cậu hết sốt'. Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa
Giêsu bảo ông: 'Con ông mạnh rồi'".
Ngay trong cách
thức Chúa Giêsu chữa lành ở bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan
hôm nay, chỉ bằng ý muốn là xong, là phép lạ xẩy ra, chứ Người không
cần phải hiện diện, phải đến tận nơi, phải đụng
chạm, phải
tỏ cử chỉ đặc biệt nào đó..., cũng
là cách Chúa Giêsu muốn tỏ thần tính của Ngưòi ra, một tỏ mình thần
linh chẳng những làm tan biến đi tất cả những gì là yếu hèn bệnh
hoạn mà còn mang
lại sự sống sinh động
nữa.
Nội dung của Bài Đọc
1 hôm nay quả
thực đã phản ảnh ý nghĩa tỏ mình ra của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm
hôm nay qua việc Người tỏ thần tính của Người ra nơi phép lạ chữa
lành bằng ý muốn toàn năng vô cùng hiệu lực của Người, một phép lạ
cho thấy ý muốn cứu độ của Thiên Chúa trong việc tiêu diệt tội lỗi
và sự
chết mà
ban cho con người sự sống và hạnh phúc:
"Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ
vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy
hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì
đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta
sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta
sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn
trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết
trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi,
kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho
và ăn trái nho".
Theo chiều
hướng của Bài Phúc Âm và Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp
Ca được Giáo Hội chọn đọc cùng ngày đã chất chứa tâm tình thần linh của
thánh
vịnh gia cũng là của những
tâm hồn thực sự nhận thức được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và
cứu độ của con người nói
chung và của bản thân mình nói riêng:
1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân
thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm
phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh
danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng
nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi,
nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia
ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho
con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn
đời.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai,
thì tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước
chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía
đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên
thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về
hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra
về hướng đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi
qua dưới nước tới mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi
đi qua dưới nước đến đầu gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi
đi qua dưới nước đến ngang lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa,
và đây là suối nước, tôi không thể đi qua được, vì nước suối dâng lên
cao quá, phải lội mới đi qua được, nên người ta không thể đi qua được.
Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn
tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi trở lại, tôi thấy hai bên suối
có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn
cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến
mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống
động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi
nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được
phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá
của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng
nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng
làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Chúa
thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu
giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ
xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh
Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc
tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các
ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan
trên vũ trụ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con
niềm vui ơn cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại
Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là
Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất
nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số
đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy
người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành
bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ,
mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi".
Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy
được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat,
nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày
Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người
chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã
bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người
là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã
được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta
đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta
lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế
trong ngày Sabbat.
Ðó là lời Chúa.

Suy niệm
Sự Sống tươi
mát
Mùa
Chay tiếp tục với ngày Thứ Ba trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng
vụ lời Chúa, bao gồm cả Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1, đều liên quan đến
hình ảnh về nước.
Trước hết, nước trong Bài Phúc Âm hôm nay
là một thứ nước có khả năng chữa lành, như Thánh ký Gioan thuật
lại ở đầu bài Phúc Âm như sau: "Tại
Giêrusalem, gần cửa 'Chiên', có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là
Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có
rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt".
Lý
do tại sao cái hồ này lại "có
rất nhiều người đau yếu, mù lòa,
què quặt, bất toại nằm la liệt" như
vậy, là vì mỗi khi nước hồ động lên đều
có thể chữa lành cho bệnh nhân hay tật nguyền nhân nào xuống hồ đầu
tiên.
Đó là lý do, "có
một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" đã
trần tình cùng "Chúa
Giêsu", Đấng
bấy giờ đã "thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau
từ lâu, liền hỏi: 'Anh muốn được lành bệnh không?'", và
đã than
thở với Người về
hoàn cảnh nuôi hy vọng trong thất vọng và tuyệt vọng của anh ta như
sau: "Thưa
Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết
tới, thì có người xuống trước tôi rồi".
Ở đây,
trong câu
trả lời của nạn nhân "đau liệt 38 năm này", một nạn nhân
cô độc chẳng ai giúp đỡ ấy, như thể đã hoàn toàn bị bỏ rơi, và đã
hoàn toàn tuyệt vọng, không còn trông mong được khỏi tật bệnh kéo
dài có thể nói gần nửa đời người như thế nữa, nên khi được Chúa
Giêsu hỏi "Anh
muốn được lành bệnh không?", anh
ta đã
trả lời một cách có vẻ rất hững hờ, chẳng có chút gì là hào hứng,
chỉ trình bày và than phiền về thân phận hẩm hiu bất hạnh đến vô
vọng của mình thôi.
Nếu anh ta còn một chút hy vọng, còn ham
sống, thì phản ứng của anh ta khi vừa được Chúa Giêsu hỏi: "Anh
muốn được lành bệnh không?",
anh ta như chộp được thời cơ, chụp được cơ hội ngàn vàng, cơ hội
ngàn năm một thuở mà thưa ngay với Người rằng:
"Thưa có
chứ... Vậy thì ông có thể giúp tôi được không...".
Thế
nhưng, anh ta đâu có ngờ rằng, chính lúc anh ta đã nản lòng không
còn muốn sống nữa, muốn buông xuôi theo số phận hẩm hiu bất hạnh,
anh ta lại được cứu, cho dù anh ta không hội đủ điều kiện là lòng
tin tưởng cần có của anh ta. Nhưng vì Chúa Giêsu, ở trong trường hợp
của anh ta, không cần anh ta tin, vì anh ta đã biết Người đâu mà
tin, cho bằng Người làm
cho anh ta tin, bằng quyền năng của Người nơi anh ta.
Bởi thế, Người đã tự động chữa lành cho
anh ta: "Anh
hãy đứng dậy vác chõng mà về",
sau khi đã hỏi phép anh ta đàng hoàng trước đó.
Cho dù anh ta không tỏ ra tích cực và minh nhiên theo câu hỏi của
Người, nhưng
nội dung của câu anh ta trả lời Người đã
cho thấy rằng anh ta thực sự là
muốn được chữa lành. Và
tác dụng thần linh của lời Người truyền đã tuyệt đối công hiệu ngay
bấy giờ, nơi đương sự nạn nhân đã tỏ ý muốn được chữa lành: "Tức
khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi".
Phép
lạ Chúa Giêsu chữa lành cho "một
người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" ấy đã kèm
theo cả một
hiện tượng phải gọi là quái lạ hay quái
gở chưa hề thấy. Ở
chỗ, trong bài Phúc Âm không thấy nói gì đến việc nạn nhân đương
sự được chữa lành sụp lạy Chúa Giêsu để tạ ơn Người về phép lạ bất
ngờ anh ta không thể nào tưởng tượng được rằng phép lạ đã xẩy ra cho
anh ta ở vào lúc anh ta tuyệt vọng nhất như thế. Có thể là vì trong
thời khoảng anh ta đang lồm cồm bò ngồi dậy sau 38 năm không bao giờ
có thể ngồi lên như lời Người truyền thì "Chúa
Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó".
Cứ cho là như thế đi! Thế nhưng, sau khi
anh ta bị những người khác nhắc bảo rằng: "'Hôm
nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng'. Anh ta trả lời:
'Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: Vác chõng mà đi'. Họ hỏi:
'Ai là người đã bảo anh Vác chõng mà đi?' Nhưng kẻ đã được chữa lành
không biết Người là ai".
Nạn
nhân đương sự được chữa lành này không biết Người cũng phải và vì
thế anh ta đã trả lời đúng sự thật. Tuy nhiên vấn đề ở đây
là sau đó, sau khi anh ta biết được Người là ai rồi thì anh ta cũng
vẫn không ngỏ lời cám ơn Người, trái lại, quái gở thay, anh ta
lại đi tố cáo phản lại Người:
"Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: 'Này, anh
đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước'.
Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã
chữa anh ta lành bệnh. Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu,
vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat".
Trường
hợp chín trong mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành cho,
khi thấy mình được khỏi trên đường đi trình diện với các vị tư tế như
lời Người bảo họ, mà không trở lại tạ ơn Người như một người
Samaritanô trong
số
họ (xem Luca 17:11-19), đằng này nạn nhân đương sự được Chúa Giêsu
bất ngờ chữa lành cho khỏi tật bệnh kéo dài suốt 38 năm trường lại
quay ra tố cáo người nữa thì quả là vô cùng quái gở, không thể nào
tượng tưởng được.
Đó là lý do, thấy trước được con người
này, Chúa Giêsu đã cảnh giác anh ta về đặc ân nhưng không anh ta
vừa được hưởng về phần xác có thể sẽ trở thành tai họa về phần hồn
cho anh ta rằng: "Này,
anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn
trước".
Vấn đề được đặt
ra ở đây là thế thì tại sao Chúa Giêsu lại chữa lành cho một nạn
nhân mà Người biết rằng ân phúc nạn nhân đương sự này được hưởng có
thể trở
thành tai họa cho phần
hồn của họ như vậy? Có
thể nói, lý do Chúa Giêsu chữa lành cho nạn nhân đương sự này là vì
tự mình họ đáng thương và cần được cứu vớt trong lúc anh ta
không được ai cứu giúp và trong lúc anh ta có vẻ như đã hoàn toàn
tuyệt vọng.
Ngoài ra, không phải vì anh ta là con
người "xấu" mà anh ta không đáng được hưởng ơn lành như những người
tốt hơn anh ta và xứng đáng hơn anh ta. Ơn Chúa là của Chúa, là
những gì nhưng không từ Chúa, Người
muốn ban cho ai tùy ý của Ngài, hay muốn ban thế nào và ban vào lúc
nào cũng không ai cản được, và không ai có quyền ghen tị với
người khác và đặt
vấn đề với Người.
Nhưng
về phần người nhận ân huệ của Người có biết ơn Người và đáp ứng
xứng đáng với ân huệ họ lãnh nhận hay
chăng, hoàn toàn là do họ. Trường
hợp nạn nhân đương sự trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đâu
có ép anh ta phải được lành mạnh - anh
ta có
thể nói với Chúa khi Người hỏi anh ta "Anh
muốn được lành bệnh không?" rằng:
"No, thank you. I'm fine!"
Bởi thế, chỉ
sau khi anh ta ngỏ ý muốn được chữa lành Người mới ra tay
thỏa đáng ước muốn đã trở thành tuyệt vọng của anh ta thôi, nhờ đó,
Người
có thể làm
cho anh ta phấn khởi lên mà sống, và sống một
cách xứng đáng
với số phận
lành mạnh của con người vốn đã được
Thiên Chúa ngay từ ban đầu dựng nên tốt đẹp mọi
bề về cả hồn lẫn xác.
Sau nữa, "nước" trong
Bài Đọc 1 hôm nay được Tiên Tri Êzêkiên diễn tả xuất phát từ "nhà
Chúa" và "chảy
dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía
đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ (dường
như ám chỉ máu và nước chảy ra từ cạnh suờn Chúa Kitô tử giá), về
phía nam bàn thờ (ám
chỉ chảy
xuống phía dưới cạnh sườn bị đâm thâu qua của Chúa Kitô tử giá)". Nước
càng ngày càng dâng cao, đầu
tiên chỉ ở mức "mắt
cá chân", sau đó
"đến
đầu gối", rồi "đến
ngang lưng" và
cuối cùng "vì
nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được".
Chưa
hết, Bài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy tác dụng của giòng suối nước
này,
cả ở dưới suối nước
lẫn trên bờ suối nước. Ở
dưới suối nước: "Tất
cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống.
Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên
trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy
đến".
Còn ở
trên bờ suối nước thì sao, chúng ta thấy được Tiên Tri Êzêkiên diễn
tả ở phần cuối Bài Đọc
1 hôm
nay như thế này: "Gần
suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá
của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi
tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái
của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống".
Hình ảnh nước và suối
nước
theo Bài Đọc
1 hôm nay diễn tả, càng lúc càng dâng cao và mang lại sức sống cùng
phát
triển cho sinh vật
cả ở dưới nước lẫn trên bờ như thế khiến cho chúng ta liên tưởng đến
những gì Chúa Giêsu nói về nước ám chỉ Thần Linh,
một
Vị Thần Linh ban sự sống, được tuôn đổ xuống trên Giáo Hội bởi Chúa
Kitô phục sinh (xem Gioan 7:37-39; 20:22) trong mầu
nhiệm Vượt Qua và nhờ biến cố Vượt Qua.
Tâm tình của những ai được chữa lành bởi
nước, như người đau liệt 38 năm trong Bài Phúc Âm hôm nay, và những
ai được no thỏa suối nước xuất phát tự nhà Chúa trong Bài Đọc 1 hôm
nay, đều có một cảm nghiệm thần linh như vị thánh vịnh gia trong
Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu
giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu
núi đổ xuống đầy lòng biển cả.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung
thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển
rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ.
Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn
kỳ quan trên vũ trụ.
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 49, 8-15
"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày
cứu độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên
giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị
phân tán, để ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với
những kẻ ở trong tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được
nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ
sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì
Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối
nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi
của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ
từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên.
Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì
Chúa đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.
Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có
thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư?
Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18
Ðáp: Chúa
là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).
Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo
tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi
việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm
lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa
làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành
tâm. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 17-30
"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa
Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ,
Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết
Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi
Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa
Giêsu trả lời họ rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự
mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa
Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho
Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn
thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha
cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng
vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét
xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn
trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con
thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta
bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời
đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật,
quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe
tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha
có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự
sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì
Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi
kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc
lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị
xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án
Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai
Ta".
Ðó là lời Chúa.

Suy
niệm
Sự Sống thông
ban
Hôm nay, Thứ
Tư trong Tuần IV Mùa Chay, phụng
vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng liên quan đến mạc khải
thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến
tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, và được chính Chúa
Kitô bắt đầu chứng
thực cho dân do Thái biết bằng các cuộc đối đáp giữa Người và họ.
Như đã nhận định từ hôm Thứ Hai tuần này, chiều
hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội
chọn đọc cho ngày trong tuần liên tục suốt 2 tuần cuối cùng IV
và V của Mùa Chay, nhất là từ hôm nay trở đi, sau hai bài về 2 phép
lạ Người làm như được thuật lại ở bài
Phúc Âm Thứ Hai hôm kia và
Thứ Ba hôm qua.
Phép lạ
Người chữa lành cho một nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngày hưu
lễ ở Bài Phúc Âm hôm qua đã
trở thành như đầu mối cho cuộc đụng độ bắt đầu khai hỏa
giữa Chúa Giêsu và dân Do Thái nói chung, nhất là thành phần
biệt phái và lãnh đạo của họ.
Đó là lý do ngay sau phép lạ chữa lành cho nạn
nhân yếu liệt 38 năm vào ngay ngày hưu lễ ở
bài Phúc Âm hôm qua, Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm ngay sau biến
cố then chốt này như
sau: "Do
đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh
ngày sa-bát".
Chúa Giêsu đã lợi dụng chính vấn đề ngày
hưu lễ cần phải nghỉ ngơi theo luật lệ và thông lệ của dân Do Thái
để mạc khải cho họ thấy tất cả ý nghĩa sâu xa về việc làm đối với
Đấng hiện hữu luôn sống động và năng động không bao giờ nghỉ ngơi,
như chính Chúa Kitô khẳng định ở ngày đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Cho
đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc".
Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho việc "người Do-thái chống
đối (Người) vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". Nghĩa là sở dĩ
Người "hay chữa bệnh ngày sa-bát" là vì "Cha tôi vẫn làm
việc, thì tôi cũng làm việc". Đúng thế, nếu căn cứ vào luật phải
nghỉ ngày hưu lễ, tức là ngày thứ bảy, là vì ngày thứ bảy là ngày
chính Thiên Chúa đã nghỉ, hoàn toàn không còn tiếp tục việc tạo dựng
của Ngài như 6 ngày trước đó nữa, thì Chúa Giêsu đã làm điều sai
trái, ở chỗ Người chẳng những phạm luật Moisen (cũng là luật Thiên
Chúa ban cho dân do Thái qua ông) mà Người còn không đúng với ý
nghĩa của ngày thứ bảy ban đầu nữa (xem Khởi Nguyên 2:2-3).
Tuy nhiên, nếu hiểu đúng nghĩa của ngày thứ bảy, thời điểm Thiên
Chúa nghỉ việc tạo dựng, nhưng lại là thời điểm được thánh hóa: "Thiên
Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày này..."
(Khởi Nguyên 2:3). Nghĩa là ngày thứ bảy là ngày thánh trong tuần,
ngày để làm những việc thiêng liêng với Chúa và lành thánh với tha
nhân, xa lánh những mối bận tâm trần thế, chỉ chú tâm đến phần hồn
hơn là phần xác (như làm việc xác v.v.). Đó là lý do Kitô giáo đã
giữ ngày Chúa Nhật, thay ngày thứ bảy, vì là ngày thứ nhất trong
tuần, ngày Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô đến không phải để hủy lề
luật mà làm cho nó nên trọn là như thế.
Con người ta là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên sau cùng
nhưng lại là loài tạo vật được Ngài chăm chú tạo dựng một cách rất
đặc biệt theo chủ ý riêng của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-28). Bởi
thế, sau khi tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và tương tự như
Ngài, Ngài đã tiếp tục ở với con người, tiếp tục tỏ mình ra cho họ,
nghĩa là thánh hóa họ, một việc thánh hóa chỉ xẩy ra trong ngày thứ
bảy là thời điểm Ngài nghỉ việc tạo dựng bề ngoài để chuyên vào việc
thánh hóa bề trong, ở chỗ làm cho con người tin vào Ngài, như Chúa
Giêsu đã khẳng định về công việc của Cha Người: "Công việc của Thiên Chúa
đó là hãy tin vào Đấng Ngài sai"
(Gioan 6:29).
Vậy Chúa Giêsu chữa lành trong ngày thứ bảy là một việc rất chính
đáng, chẳng những nên làm mà còn cần phải làm nữa, vì việc chữa lành
của Người hợp với mục đích của ngày thứ bảy là ngày làm việc lành
thánh, ngày thánh hóa con người, để nhờ được chữa lành nạn nhân
đương sự và những ai quen biết đương sự tin vào Người mà được cứu
độ, đúng như bản chất việc làm của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy là
ngày thánh, ngày Ngài thánh hóa con người nơi việc tỏ mình ra của
Con Ngài, Đấng Ngài muốn con người tin tưởng mà được cứu độ và thánh
hóa.
Chúa Giêsu quả thực đã chí lý khi cho dân Do Thái bấy giờ biết lý do
tạo sao Người hay chữa lành vào ngày thứ bảy, đó là vì "Cho đến
nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Trong bài
Phúc Âm hôm nay, ở đoạn ngay sau đó, Người còn cho họ biết "Chúa
Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì
Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy". Chẳng hạn, như
Người trưng dẫn một việc quan trọng và chính yếu nhất của ngày thứ
bảy là ngày thánh hóa đó là: "Chúa Cha cho người chết sống lại và
làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai
sống là tùy ý Người", nên "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai
Ta, thì được sống đời đời".
Cho dù việc Người làm phép lạ trong ngày hưu lễ chính đáng và chí lý
mấy đi nữa, đúng như mục đích và ý nghĩa của ngày thứ bảy theo ý
định thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một hành động phạm luật và sai
trái, nên Người đã bị "người
Do-thái chống đối", vậy
mà Người lại còn như đổ thêm dầu vào lửa qua cách xưng hô của
Người với Đấng đã sai Người, mà tình hình căng thẳng và đụng độ càng
trở nên kịch liệt hơn nữa, đến độ họ tìm cách sát hại Người, như
Thánh ký Gioan ghi nhận ở ngay câu Người nói: "Bởi vậy, người
Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá
luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là
tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa".
Thế nhưng
là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người đã đến trong thế gian"
(Gioan 1:9), như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tối tăm
không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Chúa Giêsu đã lợi dụng cái
tối tăm và lầm lạc của dân Người nơi chính tình trạng rất đạo đức
tốt lành của dân mình, ở chỗ họ hết sức bảo vệ luật lệ (liên
quan đến phép lạ Người làm vào ngày hưu lễ) và coi trọng phẩm vị cao
cả của Thiên Chúa (liên quan đến lời Người xưng hô với Thiên Chúa),
nhưng không hoàn toàn phản ảnh tất cả sự thật của mạc khải thần linh
mà Người là tột đỉnh và là tất cả.
Bởi thế, qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã chứng thực về Người liên
quan đến mối liên hệ mật thiết với Cha của Người là Đấng đã sai
Người, bằng cách Người đã nói cho họ biết rõ: Người và Cha cùng làm
một việc như nhau (1); Người là hiện thân đại diện của Cha và cho
Cha nơi loài người và vì thế không ai có thể đến cùng Cha mà không
qua Người (2), và Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho
những ai tin vào Người, bằng không sẽ bị chính Người là Đấng có
quyền xét xử những ai không tin vào Người (3).
1- Người và Cha cùng làm
một
việc như
nhau:
"Chúa
Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều
gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa
Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm,
và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các
ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người
chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy,
Ngài làm cho ai sống là tùy ý
Ngài".
2- Người là hiện thân đại diện
của Cha và cho Cha nơi loài người và
vì thế không ai có thể đến cùng Cha mà không qua Người:
"Chúa
Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để
cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai
không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai
Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin
Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được
từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả
thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ
chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống".
3- Người là thừa tác viên ban sự
sống của
Cha cho những
ai tin vào Người, bằng không sẽ bị chính Người là Đấng có quyền xét
xử những ai không tin vào Người: "Cũng
như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho
Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con
quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về
điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và
ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã
làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều
gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không
tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".
Qua lời
tự chứng của Chúa Kitô về bản thân Người trong bài Phúc Âm hôm nay,
như vừa được thứ tự tóm gọn làm 3 đoạn trên đây, chúng ta thấy Người
muốn chứng thực với
dân Do Thái
rằng:
1- Người quả
thực
là Đấng Thiên Sai của
họ, từ Cha mà đến: "Chúa
Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì
Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy";
2- Nên Người
chỉ làm những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn Người làm: "Ta
không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử
thì công minh, vì Ta
không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta";
3- Mà việc
Người cần phải làm trên hết theo đúng như ý
muốn của Cha đó là ban sự sống của Người cũng
là của Cha cho
loài người:
"cũng
như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì
Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý
Ngài... Cũng
như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho
Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy";
4- Vì con
người
tạo vật, bởi
nguyên tội, đã bị băng hoại và sống trong chết chóc, cần được
hồi sinh và tái sinh:
"đến
giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã
nghe thì sẽ được sống... vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng
Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để
được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử".
5- Và đường
lối để được sự sống đó
là nhận
biết Đấng Thiên Sai và chấp nhận những gì Người mạc khải cho biết: "Chúa
Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để
cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai
không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai
Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin
Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được
từ cõi chết mà qua cõi sống".
Đúng thế, mục đích chính yếu và duy nhất Thiên Chúa dựng nên con
người theo hình ảnh thần linh của Ngài
và tương tự như Ngài (xem Khởi
Nguyên 1:26-27) đó
là cho họ được hiệp thông thần linh với Ngài, để họ được tham phần
vào sự sống thần linh của Người và với Người.
Cho dù loài
người, bởi
nguyên tội, đã đánh
mất sự sống thần linh vô cùng cao quí này từ
mối hiệp thông thần linh ngay từ ban đầu ấy,
Thiên Chúa vẫn tìm cách ban lại cho họ, ở một mức độ còn dồi dào
sung mãn hơn nữa, nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng
ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).
Ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Vị Thiên
Chúa vô cùng nhân hậu không bao giờ bỏ rơi nhân loại được Ngài cố ý
dựng nên để làm con cái của Ngài, để yêu thương họ và cho họ thông
phần vào sự sống của Ngài: "Nào
người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình
đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên
ngươi đâu".
Chính
vì Thiên Chúa luôn chăm sóc cho tạo vật vô cùng thấp hèn lại tội lỗi
vô cùng khốn nạn của Ngài như thế mà Ngài "đã yêu thế gian đến
ban Con Một
của Ngài để ai
tin vào
Con thì không phải chết nhưng được sự sống"
(Gioan 3:16), đúng
như những gì chính Chúa Kitô đã nói về Người trong Bài Phúc Âm hôm
nay, một
Người Con đã được báo trước trong Bài Đọc 1 cùng ngày về sứ vụ giải
phóng của Người để mang lại sự sống mới cho những ai được trao phó
cho Người:
"Nên giao ước của dân, để người phục
hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để người nói
với tù nhân rằng: 'Các ngươi hãy ra', và nói với những kẻ ở trong
tối tăm rằng: 'Các ngươi hãy ra ngoài sáng'. Họ được nuôi dưỡng trên
các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn
đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương
xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta
sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của
Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ
từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên".
Trước một
Vị Thiên Chúa yêu thương nhân hậu đối với nhân loại lầm than khốn
khổ cần được cứu độ như
thế, con người không thể nào không cùng với thánh vịnh gia trong
Bài Đáp Ca hôm nay dâng lên Ngài những cảm nhận thần linh chí thiết
sau đây:
1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo
tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong
mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi
kẻ khòm lưng đứng thẳng lên.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc
Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách
thành tâm.
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài
Ðọc I: Xh 32, 7-14
"Xin Chúa tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân
mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối
Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy
nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là
Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng
Môsê: "Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ
nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi
trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại".
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa
nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh
đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng:
"Người đã khéo dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi
mặt đất". Xin Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi
dân Chúa. Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì
chính Chúa đã thề hứa rằng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản
ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ
này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa
đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân
Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng
vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. -
Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều
trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ
Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người
Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng
tiêu diệt họ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám
hối và được sống".
Phúc Âm: Ga 5, 31-47
"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin
tưởng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về
Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về
Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai
người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không
cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được
cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh
sáng đó một thời gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan:
vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta
đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa
Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao
giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người,
và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin
Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong
đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm
chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có
lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi
không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến,
các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn
nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có
thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa
Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin
tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta,
bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều
Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"
Ðó là lời Chúa.

Suy niệm
Sự Sống chứng
thực
Thứ Năm trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa bề ngoài có vẻ
liên quan đến hiện tượng hay khuynh hướng ngẫu tượng nơi dân Do Thái, cả
Cựu Ước lẫn vào thời Chúa Kitô, nhưng sâu xa liên quan đến mạc khải thần
linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi
bản thân của Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại là một mạc khải thần linh bị
chính dân Người chống đối và trù dập.
Ở ngay đầu đoạn cuối của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã công khai và
thẳng thắn cho chung dân Do Thái đang tụ tập lại nghe Người bấy giờ biết
chính vì cái khuynh hướng trần tục của họ đã trở thành lý do tại sao họ
không thể nào có thể chấp nhận được chứng từ chân thực của Người về
Người:
"Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi
không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng
các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh
mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận
vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì
làm sao các ngươi có thể tin được?"
Khi khẳng định
với dân Do Thái về họ bấy giờ rằng "Nếu
có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận
nó", Chúa Giêsu đã đánh
trúng tim đen của họ, đã tấn công vào ngay nhược điểm
của họ. Ở chỗ, họ đang mong một đấng thiên sai về chính trị để có
thể giải cứu họ khỏi quyền lực của đế quốc Roma, mà ai có thể thực
hiện được việc giải phóng này thì họ sẽ tin phục, hoan hô và
theo đuổi, chẳng cần biết người anh hùng dân tộc đó có thực sự được
Thiên Chúa sai đến hay chăng, có
thể thắng được đế quốc Roma hay chăng...
Phần Chúa Giêsu, vì "không
tìm vinh quang nơi loài người" mà
Người không thể nào có
những hành động mị dân để được họ hoan hô ủng hộ, để
thu hút lòng mộ mến của họ, trái
lại, Người nói tất cả sự thật về bản thân cũng như về nguồn gốc thần
linh của
Người, vì
như Người tuyên bố với họ chỉ có chân lý mới giải thoát được họ thôi
(xem Gioan 8:32), chứ không phải quyền lực chính trị nào hết, bởi
họ cần phải được giải thoát trước hết và trên hết cho khỏi tội lỗi
và sự chết liên quan đến phần rỗi đời đời của họ, chứ không
phải được giải thoát khỏi một thứ quyền lực thế gian chỉ là những gì
tiêu biểu như hình bóng cho thứ quyền lực tối
tăm chết
chóc của hỏa
ngục.
Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay,
chứng từ của Chúa Giêsu về bản thân của Người không phải từ chứng cớ
riêng của Người: "Nếu
chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà
là từ
một thẩm quyền cao hơn Người: "Có
một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì
xác thực".
Và
Người chỉ trưng dẫn những chứng cớ về Người mà Người thấy rằng hoàn
toàn "xác thực" nơi bản thân Người, những chứng cớ được thẩm
quyền cao hơn Người đã sử dụng để chứng thực về Người, hiển nhiên
nhất ở trong biến cố Người biến hình trên núi cao: "Đây
là Con của Ta, người Ta đã tuyển chọn; hãy lắng nghe Người"
(Luca 9:35).
Chính Người
cũng đã căn
cứ vào 3 chứng cớ đã được thẩm quyển sai Người sử dụng để chứng thực
về Người, trước hết là chứng cớ liên quan đến loài người, sau nữa, nhất
là chứng cớ liên quan đến chính Thiên Chúa cùng
với mạc khải của Ngài, và sau cùng là chứng cớ liên quan đến mạc
khải thần linh trong Thánh Kinh.
Trước hết là chứng cớ liên quan đến loài
người: "Các
ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật.
Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều
này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các
ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian".
Sau nữa là chứng
cớ liên quan đến chính Thiên Chúa: "Nhưng
Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã
giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó
làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai
Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta".
Sau hết là chứng
cớ liên quan đến mạc
khải thần linh của Thiên Chúa, tức liên quan đến Thánh Kinh là những
gì chân thực không sai lầm mà họ cần phải tin theo:
"Nhưng
chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy
mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các
ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh,
vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính
Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến
với Ta để được sống".
Cho dù
Chúa Giêsu có chứng thực về mình bằng 3 nguồn chứng
rõ
ràng bất khả thiếu ấy, dân Do Thái nói chung vẫn
không chịu chấp
nhận Người, bởi khuynh hướng và tinh thần trần tục của họ, như đã đề
cập đến trên đây, chẳng
những vì họ "không
có lòng yêu mến Thiên Chúa... không tìm vinh quang do một Thiên
Chúa", trái
lại, họ chỉ theo đuổi tìm kiếm "vinh
quang lẫn nhau".
Tinh thần
và khuynh hướng trần tục này của họ chẳng khác gì của dân ngoại là
thành phần vẫn bị họ khinh bỉ là thứ đồ nhơ
nhớp tội lỗi, trong khi họ cũng chẳng hơn gì dân ngoại, thậm chí còn
tệ hơn cả dân ngoại nữa, vì họ được Thiên Chúa ở cùng họ, liên lỉ tỏ
mình ra cho họ, ban lề luật thánh của Ngài để dẫn dắt họ, nhờ đó họ
sống xứng với phẩm vị con người và ơn gọi trở thành một dân tộc
thánh hảo của Ngài giữa muôn dân nước, thế
mà họ vẫn tôn thờ tà thần ngẫu tượng như dân ngoại, chứ đâu có khá
hơn dân ngoại.
Không phải hay sao, lịch sử cứu độ của
họ đã cho thấy dân Do Thái còn
sống tệ
hơn cả dân ngoại nữa,
trong khi dân ngoại chẳng được diễm phúc biết đến mạc khải thần linh
và cũng chẳng được ban cho lề luật thánh hảo nên tôn thờ tà thần là
phải, còn dân Do Thái thì lại biến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất
từng tỏ mình ra cho họ, nhất là ở cuộc vượt qua của họ từ đất nước
Ai Cập băng qua Biển Đỏ mà vào sa mạc, thành một thứ ngẫu tượng của
họ, như Sách Xuất Hành thuật lại chính lời của Thiên Chúa phán cùng
Moisen về họ trong Bài Đọc
1 hôm nay:
"Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm
tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc
tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ
hiến tế và nói rằng: 'Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã
đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập'. Chúa phán cùng Môsê: 'Ta thấy rõ dân
này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ
với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ
phụ một dân tộc vĩ đại'".
Thế
nhưng, mạc khải thần linh của Thiên Chúa không phải chỉ như là ánh
sáng chiếu giữa ban ngày mà là chiếu vào bóng tối để xua tan tối
tăm. Bởi thế, dân Do Thái càng mù tối càng cần đến ánh sáng, nhờ đó
mạc khải thần linh của Thiên Chúa mới ngày càng trở nên sáng tỏ
hơn nơi họ. Ở chỗ, dân Do Thái càng phản bội Thiên Chúa của
mình, càng
muốn biến Vị Thiên
Chúa chân thật duy nhất của họ thành ngẫu tượng của họ thì Thiên
Chúa lại càng phải tỏ ra thủy chung với họ, để họ càng thấy được quả
thực ngoài Ngài ra không có một vị Thiên Chúa nào khác dưới tầng
trời này.
Trong lời khẩn cầu chống đỡ của mình để
ngăn cản ý định tru diệt dân Do Thái của Thiên Chúa, vị trung gian
môi giới Moisen đã căn cứ vào chính Thiên Chúa, vào lời hứa của
Ngài, vào mục đích giải thoát dân Do Thái của Ngài, vào tình yêu
nhân hậu của Ngài, vào mối liên hệ của Ngài với các vị tổ phụ của
họ để xin Ngài tha cho dân Do Thái, một lời khẩn cầu không thể nào
lại không đẹp lòng Thiên Chúa vì nó đã thực sự chạm đến chính cõi
lòng của Thiên Chúa và khuấy động lên lòng thương của Ngài:
"Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng
quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa
đừng để cho người Ai-cập nói rằng: 'Người đã khéo dẫn họ đến đây, để
giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất'. Xin Chúa nguôi cơn
giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ
đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa
rằng: 'Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao
trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời
Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi'. Chúa đã nguôi
cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người".
Hành động
tôn thờ ngẫu tượng của dân Do Thái trong Bài Đọc 1 hôm nay, được Bài Đáp
Ca cùng ngày chẳng những thuật lại mà còn được thánh vịnh gia cảm
nhận về tính cách của
việc dân
Do Thái ấy
như là việc "Họ
đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ":
1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng
vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn
cỏ.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều
trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ
họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.
3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là
người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận
và đừng tiêu diệt họ.
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22
"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".
Trích sách Khôn Ngoan.
Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt
kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối
việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô
kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa.
Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy
nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như
kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó
xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh
phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy
chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi
những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao.
Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó
khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để
thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó
chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" Chúng
nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù
quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên cũng
chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh
dự của những tâm hồn thánh thiện.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23
Ðáp: Chúa
gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).
Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi
trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi
mọi nỗi âu lo. - Ðáp.
2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau
thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa
luôn luôn giải thoát. - Ðáp.
3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy.
Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi
Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại
trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ
Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì
Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm
giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải
chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông
này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì
chẳng có ai biết Người bởi đâu".
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng
nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta
không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không
biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai
Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người,
vì chưa tới giờ Người.
Ðó là lời Chúa.

Suy
niệm
Sự
Sống tương
phản
Mùa
Chay cho tới hôm nay đã ở vào ngày Thứ Sáu trong Tuần thứ IV, phụng
vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng cho thấy phản ứng tiêu
cực của bóng tối lòng người bị chói lòa trước ánh sáng mạc khải thần
linh.
Thật vậy, ngay trong bài Phúc Âm
hôm nay, ở đoạn đầu tiên trong ba đoạn, Thánh ký Gioan đã ghi nhận
tình hình căng thẳng đến nghẹt thở giữa bóng tối và ánh sáng như
sau:
"Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại
trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần
đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ
rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi
cách kín đáo".
Hai bài
Phúc Âm hôm qua, Thứ Năm, và
hôm kia, Thứ Tư, Thánh
ký Gioan ở cùng đoạn 5 cho chúng ta thấy chứng từ của Chúa Giêsu
chứng thực về bản thân Người
và
nguồn gốc của Người ở giáo đô Giêrusalem.
Sau đó, ở đoạn
6 của cùng Phúc Âm, Người
về Galilêa và đã
làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để từ đó
mạc
khải về Người là Bánh Sự Sống.
Câu đầu tiên mở đầu đoạn 7 của bài Phúc Âm
hôm nay là câu chuyển tiếp cho việc Người đang ở Galilêa và lý do
Người không muốn xuất hiện ở Giuđêa: "Khi
ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại
trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người".
Thật
ra, không phải là Người sợ chết cho bằng chưa tới giờ của Người.
Nguyên sự kiện Người tạm lánh mặt đi như thế này thôi cũng đủ cho
thấy Người quả thực là Đấng Thiên Sai như Người đã nói và bao
giờ cũng chỉ làm theo ý Cha là Đấng đã
sai Người mà thôi.
Nếu
Người không phải là Đấng Thiên Sai đích thực, mà chỉ tìm vinh quang
trần thế, như Người cảnh báo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm
qua, chắc chắn Người sẽ làm theo ý của Người, ở chỗ, một khi thấy
rằng mình đã được bao nhiêu là người hậu thuẫn, thậm chí muốn tôn
Người lên làm vua (xem Gioan 6:15) sau phép lạ Người hóa bánh ra
nhiều để nuôi cả năm ngàn
người
đàn ông không kể đàn bà con nít, Người sẽ hô hào họ theo Người và
cùng Người kéo xuống Giuđea để tiến về
Giêrusalem hầu cho
cả
giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma thấy được quyền
lực cùng thanh thế hùng mạnh đáng
sợ của
Người.
Thế nhưng, vì là chính Đấng Thiên
Sai, Đấng Thiên sai đích thực, mà Thánh ký Gioan đã thuật lại về
Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Lúc
đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên
dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại
đi cách kín đáo".
Tuy nhiên,
cho dù lên Giêrusalem một cách kín đáo, ở tại giáo đô này, trong khu
vực đền thờ, Người vẫn công khai tỏ mình ra bằng chứng từ của Người,
không sợ, vì đó là giờ của Người, là lúc và là nơi Cha của
Người là Đấng đã sai Người đến, bằng thúc động của Thánh Linh hằng
ngự nơi Người và là Đấng
luôn tác động
mọi lời nói và việc làm của Người theo đúng ý muốn của Cha. Việc
công khai xuất hiện của Người tuy làm cho đám đông ngạc nhiên nhưng
họ vẫn không chấp nhận Người:
"Có
một số người ở Giêrusalem nói: 'Ðây không phải là người họ đang tìm
giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải
chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên,
ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô
tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu'".
Đúng thế, cho dù
Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa, dân chúng vẫn
không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ, bởi vì,
căn cứ vào nguồn
gốc trần gian của Người, một
tên Giêsu xuất
thân từ Nazarét xứ Galilêa: "ông
này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu",
nghĩa
là ông ta chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai, bởi theo suy luận
của họ thì nếu họ biết rõ về thân thế và xuất xứ của Người tất nhiên
những gì cần phải xẩy ra đó là Đấng Thiên Sai phải là một nhân
vật hoàn toàn bí mật: "khi
Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".
Trước
những nhận định của dân chúng không sai về xuất xứ ở trần gian
này của Người: "Phải,
các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu"; Chúa
Giêsu lại tiếp tục tỏ mình ra cho họ một cách chính xác hơn nữa, để
nhờ đó họ có thể thấy được
tất
cả sự
thật về Người mà được
sự sống, khi Người cho họ biết rằng: "Ta
không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi
không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính
Ngài đã sai Ta".
Nếu
trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô chỉ mới đi vòng vòng ở
ngoài khi nói đến các việc Người làm được Cha Người trao phó để
chứng thực về Người: "công
việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta
đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta.
Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta", thì
trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã bắt đầu tiến vào vòng trong,
khi tuyên bố rõ hơn và mạnh hơn về vai trò Thiên Sai của Người:
"Ta
không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các
ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài,
và chính Ngài đã sai Ta".
Ánh sáng
càng sáng
tỏ càng chói lòa bóng tối và càng xua tan bóng tối, tuy nhiên,
thành phần "chuộng tối tăm hơn ánh sáng... sợ bị phơi bày
ra ánh sáng" (Gioan 3:19-20), sợ chính ánh sáng, nên
chỉ muốn tìm hết cách để dập tắt ánh sáng. Thánh ký Gioan đã cho
thấy phản ứng của dân chúng trước mạc khải thần linh tràn đầy sự
thật càng ngày càng rạng ngời hơn về Chúa Giêsu như sau: "Bởi
thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người,
vì chưa tới giờ Người".
Hành động
và phản ứng đầy tính chất tối tăm của dân Do Thái trong Bài
Phúc Âm hôm nay, trước mạc khải thần linh của Chúa Kitô về bản
thân Người, là những hành động và phản ứng theo tâm lý tự nhiên
của con người ở mọi thời đại, như đã được Sách Khôn Ngoan ở
Bài Đọc 1 hôm nay vạch trần cho thấy tất cả những âm mưu gian ác
của họ như sau:
"Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho
chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng
ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết
Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo
những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta
cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ
khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm
rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp,
nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có
Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật
hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy
chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên
Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ
chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó
có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết
cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!"
Tuy nhiên,
lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử cứu độ của dân Do Thái
nói riêng đã cho
thấy, như
nơi trường hợp Giuse bị 10 người anh thay vì sát hại đã bán
Giuse sang Ai Cập để phá hủy mộng mị của đứa em Giuse đáng ghét
của họ không ngờ lại làm trọn những gì bị họ cho mà mộng mị ấy
(xem Khởi Nguyên 37:20; 50:19-20), vì họ chỉ là loài người thiển
cận, như cóc ngồi đáy giếng, đúng như Bài Đọc 1 hôm nay cho
biết: "nhưng
chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và
chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những
nhận thức hoàn toàn phản lại với tâm tưởng đen tối của thành
phần gian ác trong Bài Đọc 1 cùng ngày, những nhận thức hoàn
toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng làm chủ mọi sự và quan
phòng mọi sự theo ý định vô cùng khôn ngoan và toàn năng của
Ngài:
1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi
trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ
khỏi mọi nỗi âu lo.
2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn
đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân,
nhưng Chúa luôn luôn giải thoát.
3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào
bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm
đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi.
Thánh ISIDORO
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636)
ĐTC
Biển Đức
XVI: Thánh
Isidore of Seville

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Thánh Isidore, quê tại Séville theo truyền khẩu, sinh khoảng năm
560 tại Andalousie (Tây Ban Nha) từ một gia đình gia giáo lành
thánh: các anh em là hai giám mục Léandre và Fulgence, còn
Florentine là chị gái. Người kế vị anh Léandre trên ngai giám
mục thành Sévilla năm 601.
Trong nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài, người rao giảng chống lại
những kẻ theo bè Ario và những người lạc giáo được gọi là nhóm
“vô thủ lĩnh”. Họ không chấp nhận Đức Kitô có hai bản tính. Gần
Sévilla, ngài thành lập một ngôi trường – sau này rất nổi tiếng
– để đào tạo các linh mục và giáo dân; ngài cũng là giảng viên
tại chính ngôi trường này. Tại Công đồng Tolède lần thứ IV năm
633, ngài yêu cầu Giáo Hội phải thành lập các trường tương tự:
đó là nguồn gốc các trường của Hội Thánh và Đan Viện, xuất hiện
trước khi có các đại học.
Là một nhà văn lớn, một học giả uyên thâm về nền văn học ẩn sĩ
Đông Phương và rất sùng mộ Origène, thánh nhân đã để lại cho
chúng ta nhiều tác phẩm, trong đó: tập Luận đề (Sentences) và ba
quyển sách dọn đường cho các “Tổng Luận” thời Trung Cổ để trau
dồi kiến thức lẫn tâm linh cho các linh mục, đan sĩ và giáo dân.
Nhưng tuyệt tác phẩm của người vẫn là cuốn sách mang tựa đề
tiếng La Tinh Etymologiae (dịch sang pháp ngữ: Étymologies sur
l’origine de certaines choses– nguồn gốc các từ đầu ngành,): đó
là một loại từ điển bách khoa (hai mươi quyển) bao gồm mỹ thuật,
kỹ thuật, luật, y học, các khoa học tự nhiên, tôn giáo...
Là sử gia (lịch sử dân Goths), là thi sĩ và nhà Phụng Vụ (bộ
Sách Lễ và Kinh Nhật Tụng, được cho là của thánh nhân, là cốt
lõi cho Phụng Vụ tương lai mozarabe); ngài còn là luật gia
(Regula monachorum), nhà thần học và mục tử, nên ngài truyền bá
truyền thống Công Giáo và chuyên cần tổ chức Hội Thánh. Năm 633,
với tư cách là một vị chủ trì Công Đồng Quốc Gia lần thứ IV tại
Tolède, ngài ấn định một nền Phụng Vụ thống nhất cho toàn Tây
Ban Nha và miền Gaule narbonaise. Người ta cho rằng ngài soạn
lời nguyện Adsumus đọc trong mọi Công Đồng.
Isidore de Séville chiếm vị trí hàng đầu trong suốt thời Trung
Cổ; vào thời này, các tác phẩm La Tinh của thánh nhân được nhiều
người đọc và sao chép nhiều nhất. Đối với Bède Khả Kính (thế kỷ
VIII), thánh nhân là tác giả được ưa chuộng nhất sau Thánh Kinh.
Qua đời tại Séville năm 636, sau 25 năm làm giám mục và được tôn
kính như một vị hiển thánh trong toàn cõi Phương Tây từ thế kỷ
IX; ngài được Đức Giáo Hoàng Innocent XIII tôn phong làm tiến sĩ
Hội Thánh năm 1722. Thi hài thánh nhân được sùng kính tại Léôn
(Tây Ban Nha). Nghệ thuật ảnh tượng thường biểu hiện hình ảnh
ngài cầm bút lông, với đàn ong vây quanh hay bên cạnh tổ ong.
2. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện riêng biểu dương thánh Isidore làm bậc “tôn sư về
linh đạo”, gợi lại tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh của ngài.
a. sau khi là một người học sinh tầm thường, Isidore
chuyên cần học tập, cống hiến cả đời mình để nghiên cứu và giảng
dạy. Dưới mắt người đương thời, thánh nhân “phản ảnh kiến thức
văn hóa La-Hi cổ xưa”. Ngài đóng vai trò quan trọng trong các
thế kỷ về sau cho đến thời các nhà kinh viện nổi tiếng.
Nhưng trên hết, Isidore là mục tử hơn là nhà nghiên cứu; kiến
thức văn hóa uyên thâm của người chỉ phục vụ con người, Hội
Thánh và Đức Tin. Phụng Vụ Thánh Lễ trình bày cho chúng ta dụ
ngôn các nén bạc (Mt 25, 14-30) để nhấn mạnh tính chuyên cần học
hỏi của thánh nhân nhằm phục vụ Hội Thánh và anh em hữu hiệu
hơn.
b. Bài đọc một trong Thánh Lễ (1 Cor 2,
1-10) tập trung vào lẽ khôn ngoan: Đó chính là lẽ khôn ngoan mà
chúng ta loan báo... được tiền định cho những ai yêu mến Thiên
Chúa.
- Trong Hội Thánh Tây Ban Nha, nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài của
thánh Isidore dường như thể hiện lẽ Khôn Ngoan hằng thích thú
“giao lưu với con cái loài người” (lời đáp trong các bài đọc
Kinh Sách). Với tư cách là nhà văn, nhà thuyết giáo, và giảng
dạy, ngài sáng lập các học viện để giáo huấn và đào tạo giới
trẻ, thánh nhân đã định hướng mọi việc nhằm đạt được lẽ khôn
ngoan đích thực. Ngài thường nhắc nhở: “Hãy yêu mến khôn ngoan,
con sẽ được khôn ngoan tán dương ca tụng, nếu con cùng khôn
ngoan gắn bó, khôn ngoan sẽ đem vinh dự lại cho con” Nhưng làm
sao đạt được lẽ khôn ngoan ? Bài đọc - Kinh sách trích dẫn, một
đoạn trong các luận đề của thánh Isidore: “Mọi sự tiến bộ điều
do đọc Sách Thánh và suy niệm ... Không ai có thể biết được ý
nghĩa Sách Thánh nếu không làm quen nhờ năng đọc”.
- Lời cầu nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Kitô
hữu vì nhờ cầu nguyện chúng ta được thanh tẩy; nhờ đọc Sách
Thánh, chúng ta được dạy dỗ.Vì thế “nếu làm được cả hai thì tốt,
còn nếu không, thì cầu nguyện tốt hơn là đọc Sách Thánh. Ai muốn
được luôn ở với Thiên Chúa phải năng cầu nguyện và năng đọc Sách
Thánh nữa, bởi lẽ khi chúng ta cầu nguyện là chính chúng ta nói
với Thiên Chúa, còn khi chúng ta đọc Sách Thánh thì Thiên Chúa
nói với chúng ta” (các Bài Đọc - Kinh Sách).
Enzo Lodi
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-khoang-560-636-le-nho-tuy-chon/
Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
Trong 76 năm cuộc đời của thánh Isiđorô là thời kỳ tranh chấp cũng như
phát triển của Giáo hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất
này trong một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi thánh Isiđorô
chào đời thì họ đã thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Ðó là những
người theo Ariô – Họ cho rằng Ðức Kitô không phải là Thiên Chúa. Do đó,
Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công giáo La Mã) phải
chiến đấu với dân tộc khác (người Gôtích Ariô).
Thánh Isiđorô là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên
một trung tâm văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc
gia Âu châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng
của những dân man di.
Có thể nói thánh Isiđorô sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ
thứ sáu ở Tây Ban Nha. Hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và
người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban Nha.
Ðây cũng là một gia đình lãnh đạo và tài giỏi với các vị Leander và
Fulgentius đều làm Giám mục và Florentina làm mẹ bề trên.
Là một người tài giỏi về học thuật, đôi khi thánh Isiđorô được gọi là
“Sư phụ của thời Trung cổ” vì cuốn bách khoa ngài viết, tên là
“Etymology” (Từ nguyên học), đã được dùng như sách giáo khoa trong chín
thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và
tiểu sử cũng như thần học.
Kế vị anh mình là Ðức Leander, Isiđorô làm Giám mục Seville trong 37
năm, ngài đặt ra các mẫu mực cho một chính quyền đại nghị ở Âu châu [tức
chính quyền có Quốc hội Lập pháp là đại diện của nhân dân], đồng thời
ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và chủ trì các công đồng quốc gia
(national coumcil) để thảo luận về đường hướng của Giáo hội Tây Ban Nha.
Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có chủng viện, ngài viết quy
luật cho các dòng tu và thành lập các môn học thuộc đủ mọi ngành. Thánh
Isiđorô viết rất nhiều sách, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa,
một cuốn sử người Gôtích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên
Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày
nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.
Ý thức rất rõ là sự phồn thịnh thiêng liêng và vật chất của quốc gia lệ
thuộc hoàn toàn vào việc hấp thụ và liên kết các yếu tố ngoại lai, thánh
Hisidorô đã thành công trong việc kết lại toàn thể đám dân chúng
hỗn tạp thành một đất nước thuần nhất tạo thành vương quốc Gôtích Tây
Ban Nha. Ngài đã biết sử dụng các tiềm năng tôn giáo và giáo dục để đạt
đến mục tiêu này. Ngài đã hoàn toàn thành công. Chủ nghĩa Ariô là hình
thức Kitô giáo nguyên thủy giữa những người Visigoth là thành phần lãnh
đạo Tây Ban Nha xuất phát từ cuộc xâm nhập Visigoth từ Đức vào Âu châu
xưa, đã hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho một Kitô giáo chính thống.
Các tà giáo khác cũng bị dập tắt ngay khi vừa mới được thai nghén. Kỷ
luật tôn giáo được củng cố khắp nơi. Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn sống
khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác
ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào cũng đầy người nghèo.
Ngài từ trần năm 636 và được Giáo hội tuyên xưng là Tiến sĩ Hội Thánh.
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-4-thang-4-thanh-isidoro/
Thánh Isidorô được coi như vị thánh tiến sĩ lừng danh nhất của Giáo hội
Tây Ban Nha. Ngài chào đời tại Carthagena trong một gia đình thật đặc
sắc, có cha mẹ đạo đức và và cả bốn anh em đều được tôn phong lên hàng
hiển thánh . Các anh Ngài là hai thánh giám mục Leanger và Fulgentio.
Chị Ngài là thánh nữ Florentina. Như vậy thánh Isidôrô thật có phúc vì
được sinh ra sống giữa các vị thánh.
Cha mẹ mất sớm, người anh cả lãnh nhiệm vụ hướng dẫn đứa em út Isidorô.
Một bức thư của thánh Leander viết cho em gái là thánh Florentina làm
chứng điều đó: – “Anh xin em hãy nhớ đến anh trong kinh nguyện và đừng
quên chú út Isidorô. Cha mẹ đã ký thác em cho chúng ta và đã trở về với
Chúa mà không phải e sợ gì, bởi vì các Ngài đã trao cho em một người chị
và hai người anh săn sóc”.
Dù rất thương em. Nhưng Leander đã phải dùng biện pháp mạnh là cây roi
để sửa trị tính nhu nhược của đứa em biếng nhác. Một lần kia vì sợ đòn
và chán học, Isidorô đã bỏ nhà trốn đi. Cậu chạy nước rút mau hết sức
cho tới khi ngã quỵ bên một bờ giếng. Mơ màng trong lúc lấy hơi, cậu
nhìn thấy vách đá bên thành giếng có một đường rãnh. Một phụ nữ đến kín
nước giải thích cho cậu biết rằng, đá cứng đến đâu đi nữa nhưng sợ giây
thừng cọ sát liên tục cũng soi mòn được. Hiện tượng này khiến cậu phải
suy nghĩ: “Với thời gian sợi giây thừng và những giọt nước đẽo được cả
đá, còn tôi lại không thể học hành để gọt giũa tâm hơn sao ?”
Thật là một bài học lạ lùng đối với Isidorô. Ngài lấy lại can đảm bắt
tay và làm việc không còn biết mệt mỏi. Nỗ lực không ngừng đã biến Ngài
thành nhà thông thái nhất thời đó. Còn thanh xuân, Ngài đã thông hiểu
triết học, đã nghiên cứu các tác phẩm về luật. Nhà chép sử Arevalo đã
phải thán phục ghi nhận nói Ngài một sự cao siêu như Platon, sự thông
hiểu của Aristote, tài hùng biện của Cicéron, sự uyên bác của Origenê,
sự thận trọng của thánh Hiêronimô, giáo thuyết của thánh Augustinô và sự
thánh thiện của thánh Gregoriô. Người ta còn nói rằng khi đọc một bức
thư của Isidorô, thánh Grêgoriô đã thốt lên lời đầy tính chất tiên tri:
– “Đây là một tiên tri Daniel, một người còn trổi vượt hơn cả Salomon”.
Isidorô thụ phong linh mục và theo anh là Leander đang làm giám mục
Seville, tham dự các công đồng. Dầu có cuộc bách hại của nhà vua theo
phái Ariô và đã trục xuất hai anh của Ngài, thánh nhân vẫn công khai
chống lại lạc giáo. Ngài đã thay anh cai quản giáo phận lúc người anh bị
lưu đày. Năm 600, khi Đức Cha Leander từ trần, Ngài đã được cử lên kế
vị. Đức giáo hoàng Grêgoriô cả còn đặt Ngài làm vị tổng đại diện cho
mình ở Tây Ban Nha.
Dầu không bao giờ là tu sĩ, thánh Isidorô đã viết một bộ luật dòng tu.
Ngài giải thích, khai triển và hệ thống hoá phung vụ Mozarabic. Ngài nỗ
lực tiêu diệt tàn tích của phái Ariô, và đánh bại lạc thuyết của
Acephali, một ngành của lạc giáo Nhất tính thuyết ở Tây Ban Nha. Hơn nữa
thánh nhân còn lập nhiều trường học để giáo dục con dân của Ngài. Có ảnh
hưởng lớn tại triều đình, Ngài cũng giữ phần sáng chói trong cộng đồng
Toleđô năm 610, chủ tọa công đồng Seville II năm 618 hay 619 và công
đồng Tôleđo IV năm 633.
Nhưng trách vụ của Đức giám mục không ngăn cản công việc trước tác phong
phú của thánh Isidorô. Ngài đã viết một từ điển các tiếng đồng âm, một
khảo luận về thiên văn địa lý, tiểu sử của các vĩ nhân và các nhân vật
trong thánh kinh, một cuốn lịch sử xứ Goth. Tác phẩm ảnh hưởng nhất của
Ngài là Bộ bách Khoa từ điển ETYMOLOGIES tóm lược những hiểu biết của
thời đại Ngài.
Sau 36 năm nhọc mệt trong chức giám mục, thánh Isidorô phải chịu đựng
mọi yếu đau của tuổi già. Bệnh tật có thể nghiền nát thân xác, nhưng lại
không thể làm giảm thiểu được nhiệt tâm của Ngài. Trong sáu tháng cuối
đời, Ngài tăng thêm việc bác ái đến nỗi một đoàn dân nghèo đến với Ngài
tấp nập từ sáng đến chiều và cuối cùng chính Ngài cũng lâm cảnh nghèo
túng. Biết rằng sắp kết thúc được đời Ngài mời hai giám mục phụ tá đến
thăm, Ngài theo họ tới nhà thờ. Ơ đó một vị giám mục mặc áo nhặm cho
Ngài, một vị giám mục bỏ tro lên đầu Ngài. Giơ tay lên trời Ngài lớn
tiếng xin Chúa thứ tha tội lỗi, rước lễ. Xin mọi người cầu nguyện cho,
khuyên nhủ dân chúng sống bác ái, phân phát hết tiền của còn lại. Trở về
nhà, Ngài qua đời trong an bình của Chúa ngày 04 tháng 04 năm 636.
Theo lời yêu cầu của thánh nhân, thi hài Ngài được mai táng với thánh
Leander và Florentina. Nhưng về sau Vua Ferdinand di chuyển hài cốt về
Leon. Đức Giáo hoàng Benedictô XV tôn phong thánh Isidorô lên hàng Tiến
sĩ Hội Thánh.
Nguồn:
gxdaminh.net
https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2017/04/03/ngay-04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-636.html
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gr 11, 18-20
"Con như chiên con hiền lành bị đem đi giết".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con
những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi
giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: "Chúng ta
hãy bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống,
và người ta không còn nhớ đến tên nó nữa".
Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can.
Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho
Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 7, 2-3. 9bc-10. 11-12
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu
con khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có
người như sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. - Ðáp.
2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở
nơi con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố
người hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. - Ðáp.
3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay.
Thiên Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày. -
Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết
đời đời".
Phúc Âm: Ga 7, 40-53
"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân
chúng nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật
là Ðấng Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa
sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit,
và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?" Vì thế, dân chúng bất đồng ý
kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng
không ai dám ra tay bắt Người. Vậy khi những người thừa hành đến với
thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi
không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói
như người ấy". Các người biệt phái trả lời rằng: "Chớ thì các ngươi cũng
bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai
tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật". Nicôđêmô là
người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói
với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe
họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông
cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có
tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.
Ðó là lời Chúa.

Suy
niệm
Sự
Sống Ẩn Hiện
Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần IV Mùa Chay, bài Phúc Âm hôm
nay không hề có sự hiện diện chính thức của Chúa Giêsu một tí nào.
Thế nhưng dù không có lời nào Người phán hay việc nào Người làm, mà
Người lại nổi bật hơn bao giờ hết, giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng
nơi cả dân chúng cũng như thành phần lãnh đạo, và giữa thành phần
lãnh đạo với thành phần thừa hành. Đó là chứng cớ cho thấy tầm ảnh hưởng
quá ấn tượng của Người.
Trước hết, thành phần dân chúng đã chia rẽ nhau về Người như sau: "Khi
ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng
nói rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng
Kitô'. Người khác nữa lại nói: 'Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào
Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng
Bêlem, quê hương của Ðavit?' Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau
về Người".
Sau nữa, giữa
thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành: "Trong
số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người.
Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông
này hỏi họ rằng: 'Tại sao các ngươi không điệu nó tới?' Các người thừa
hành thưa rằng: 'Chẳng hề có ai nói như người ấy'. Các người biệt phái
trả lời rằng: 'Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị
thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó
nó không biết gì lề luật'".
Sau hết, giữa chính nội bộ lãnh đạo với nhau: "Nicôđêmô
là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói
với họ rằng: 'Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe
họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?' Nhưng họ trả lời rằng: 'Hay ông
cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có
tiên tri nào phát xuất từ Galilêa' Sau đó ai về nhà nấy".
Tình trạng chia rẽ này, cho dù giữa dân chúng với nhau hay giữa nội bộ
lãnh đạo với nhau, đều giống nhau và qui tụ lại ở chỗ cả hai thành phần
này cùng căn cứ vào xuất xứ của nhân vật Giêsu Nazarét là từ Galilêa chứ
không phải từ Giuđêa để suy diễn và quyết đoán về Người có thực sự là
tiên tri hay chăng, hoặc là đấng thiên sai hay chăng?
Dân chúng: "Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng
nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương
của Ðavit?"; Lãnh đạo: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ
Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ
Galilêa".
Đó là về phía thành phần không chấp nhận Người. Còn về thành phần chấp
nhận Người thì họ lại căn cứ vào cảm nhận tự nhiên của họ, đúng hơn, căn
cứ vào chính những gì Người nói mà họ cảm nhận được Người là ai, đúng
như Người chứng thực về Người, rất đáng khả tín, rất đáng chấp nhận.
Trong khi chung dân chúng: "sau khi nghe Chúa
Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật
là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'", thì thành
phần thừa hành của các vị trong giáo quyền cũng cảm thấy có một cái gì
đó đặc biệt nơi Người: "Chẳng hề có ai nói như
người ấy".
Đến đây và ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay chúng ta mới thấy
thật sự và hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên tri của tư tế Simeon là
vị đã ẵm hài nhi Giêsu trên tay lúc bé mới được 40 ngày mà nói: "Con
Trẻ này sẽ trở thành cớ cho nhiều người trong Israel vấp ngã hay chỗi
dậy, trở thành một dấu hiệu đối chọi" (Luca 2:34).
Chính Chúa Kitô cũng cho dân Do Thái biết bản thân Người là cả một mầu
nhiệm vô cùng cao cả và thần linh, tự mình họ không thể nào thấu biết,
cho dù Người không giấu diếm họ một chút nào, trái lại đã nhiều lần và
nhiều cách tỏ mình ra cho họ biết tất cả sự thật về Người, theo kiểu
cách loài người, đến độ, cả thành phần môn đệ thân tín của Người cũng
thế, cũng không hơn gì dân chúng và thành phần lãnh đạo dân chúng, như
chính Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với chung dân Do
Thái rằng:
"Các con ơi, Thày không còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm
kiếm Thày, nhưng này Thày nói với các con những gì Thày đã từng nói với
người Do Thái đó là 'nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được'"
(Gioan 13:33; 7:33-34).
Thậm chí, Người còn báo trước cho chung dân Do Thái và riêng thành phần
lãnh đạo của họ biết rằng: "Quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết
trong tội lỗi của quí vị" (Gioan 8:21), và quả thực đã xẩy ra hoàn
toàn đúng như vậy, trong Tuần Thánh. Ở chỗ, chẳng những cả một
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã đồng thanh lên án tử cho Người ngay khi
Người chân nhận mình là Đấng Thiên Sai như họ nhân danh Thiên Chúa hỏi
Người, mà còn cả một tông đồ đoàn bỏ chạy, một tông đồ Giuđa phản nộp
Thày mình và nhất là một lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô chối bỏ Thày
mình ...
Tuy nhiên, không phải vì thế, không phải thấy trước một tương lai đen
tối như thế mà Người, Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa cảm thấy
sợ hãi và toan tính bỏ chạy. Trái lại, biết vai trò chủ chiên của mình,
một "chủ chiên nhân lành thí mạng sống mình vì chiên... cho
chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:11,10) mà
Người đã tuyên bố và tiên báo: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi
lấy nó lại" (Gioan 10:17).
Qua miệng tiên tri Giêrêmia ở Bài Đọc 1 hôm nay, chính Người đã chấp
nhận thân phận thiên sai cứu thế đầy bất hạnh và vô cùng khốn nạn của
mình một cách ngoan ngoãn như con chiên bị đem đi giết như sau:
"Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con
những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi
giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: 'Chúng ta
hãy bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống,
và người ta không còn nhớ đến tên nó nữa'".
Thế nhưng, mục đích Người "tự ý bỏ sự sống mình đi" là "để lấy
lại", chứ không phải để bị hủy diệt đời đời. Bởi thế, cũng qua miệng
tiên tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, Người đã an tâm chấp nhận mọi
sự theo ý Đấng đã sai Người: "Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét
xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng,
vì con đã phó thác việc con cho Chúa", Đấng đã
có cách để "báo thù" một cách kỳ diệu ngoài sức tưởng tưởng của
họ.
Đúng thế, cách "báo thù" của Thiên Chúa
bao giờ cũng là lấy lành mà thắng dữ, lấy thiện mà báo ác, hay đúng hơn
biến ác thành lành, một đường lối siêu việt đến độ thế gian không thể
nào hiểu được, chứ đừng nói làm được, mà chỉ bàng hoàng ngỡ ngàng khi
thấy chính mưu đồ đầy gian ác, hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do của
mình lại trở thành phương tiện và cơ hội để Thiên Chúa thực hiện tất cả
những gì Ngài muốn, theo đúng dự án thần linh của Ngài: "Viên đá bị
thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá gốc" (Thánh Vịnh 118:22; Mathêu
21:42; Tông Vụ 4:11).
Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 cùng ngày,
chất chứa tâm tình của một con người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Vị
Thiên Chúa của mình, để Ngài muốn làm gì thì làm nơi mình cho ý muốn tối
thượng của Ngài được nên trọn:
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi
mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư
tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ.
2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở
nơi con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố
người hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh.
3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay.
Thiên Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày.
Thánh Vinh-Sơn Ferrier 5-4

Lời Tiên Tri Thánh Vincent Ferrer
Thánh (Vinh Sơn/Vicentê) sinh tại Valencia, nước Tây-ban-nha (Spain) vào
ngày 23 Tháng giêng Năm 1350, là con thứ ba của ông William Fêrrêr và bà
Cônstânce Mìguêl là con gái của chính khách naval, có họ hàng với Giám
Mục của Valencia lúc bấy giờ, một gia đình Công giáo đạo đức truyền
thống.
Vào một đêm kia, ông William nằm mơ thấy mình đi vào nhà thờ thánh
Đaminh tại Valencia, bỗng có một vị thuộc phần tử Dòng Thuyết Giáo từ
trên bục giảng phía trên cung thánh, xoay nhìn ông nói rằng,
“Cha chào mừng con, William. Trong mấy ngày nữa con sẽ có một cháu trai,
trẻ này sau sẽ được phúc học hành uyên thông và thánh thiện.
Cháu sẽ thành đại sự làm rạng danh nhà con. Thế gian sẽ vang vọng âm
thanh huy hoàng của cháu; cháu sẽ được ngập tràn phúc sủng thiên đàng
còn địa ngục phải khiếp run. Cháu sẽ mang tu phục như cha đang mặc đây,
và sẽ được tiếp nhận vào Hội Thánh với niềm vui của toàn thể vũ hoàn như
đối với một vị tông đồ tiên khởi.”
Những người nghe biết chuyện đều hết thảy lớn tiếng chúc tụng – cám đội
ơn Chúa với tin mừng bất ngờ này. Riêng ông William vui khôn xiết tả,
liền đi thuật lại đầu đuôi câu chuyện với vị giám mục họ hàng.
Bà Cônstânce kể thêm, lúc có thai Vincent thì có hai điềm lạ xảy ra; bà
không hề đau đớn khi mang thai Vincent so với những lần mang thai bình
thường khác; và gần đến ngày sinh trẻ Vincent, thì bà nghe trong bào
thai phát ra tiếng khóc như tiếng sủa của một con chó con-gần giống như
giấc mơ của chân phước Jane de Aza Mẹ thánh Đaminh vậy.
(Bà Aza mơ thấy mình sanh ra một con chó ngậm bó đuốc chạy đi thiêu đốt
khắp các thành thị). Vị giám mục ngầm hiểu rõ ngay đây là một dấu chỉ
màu nhiệm và nói với họ rằng,
“Anh chị hãy vui mừng Trong Thiên Chúa; đứa trẻ mà anh chị đang mang vào
thế gian đây, sẽ trở nên người con xứng đáng của thánh Đaminh, cháu sẽ
là một trong số những người được kêu gọi để làm nhiều điều thiện lành vô
kể bằng vào sự giảng truyền của cháu. Hãy chăm sóc cháu cách đặc biệt
cẩn thận và giáo dục cháu nên người thánh thiện, để mai ngày cháu không
phụ tình Thiên Chúa đối với các tặng sủng mà Ngài đã ban cho cháu.”
Vincent được Thiên Chúa phú bẩm cho ơn làm phép lạ ngay từ khi chưa lọt
lòng mẹ. Một buổi nọ, bà Cônstânce đi thăm một phụ nữ mù theo thói quen
đi làm việc bác ái - bố thí hàng tháng, và bà nói với chị ấy,
“Con ơi, hãy cầu xin Chúa cho thai nhi mà mẹ đang cưu mang đến ngày sinh
được bằng an nhé.”
Người phụ nữ mù liền cúi áp đầu vào bụng bà Cônstânce rồi nói với thai
nhi,
“Xin Thiên Chúa chúc ban phúc lành cho em.”
Lập tức, chị được khỏi mù, và lòng trí trở nên minh mẫn sáng láng, liền
thốt lời tiên tri rằng, “Thưa bà, quả là một thiên thần bà đang cưu
mang, bởi chính em đã chữa lành nỗi khổ đau cho con.”
Giống như một thai nhi Gioan Tẩy-giả khác, thai nhi Vincent tỏ ý bằng
lòng với lời cầu chúc từ miệng người phụ nữ nghèo, đến nỗi nhảy mừng
trong lòng mẹ bằng dấu lạ chữa chị khỏi mù.
Ấu Thơ
Khi trẻ Vincent chào đời, được ba mẹ ẵm lên nhà thờ để chịu Phép Rửa
Tội, thì những người bà con họ hàng ai cũng muốn lấy tên mình mà đặt
cho, khiến vị linh mục chủ sự phải can thiệp mà đặt tên là Vincent, có
nghĩa là kẻ thắng trận, một cái tên chưa hề có trong dòng họ bao giờ.
Trẻ Vincent rất dễ tính, đặt đâu nằm đó, không có quấy khóc như mọi trẻ
khác, với miệng cười tươi, cặp mắt tròn to mở lớn, khiến ai nấy cũng đem
lòng thương mến.
Lên năm tuổi, Vincent, đă chữa lành một đứa trẻ hàng xóm đau nặng được
khỏi bệnh. Trong đám trẻ nhỏ hàng xóm, bạn Vincent có một đứa lười học
lắm, một hôm, cậu tới rủ nó đi học thì nó đã chết. Mẹ nó đang vật vã
khóc lóc cách thảm thiết. Thấy thế, Vincent nói,
“Con bác không chết đâu, nó lười học nên mê ngủ đó.”
Nói đặng, Vincent cầm lấy tay bạn bảo:
“Dậy đi học với tôi mau, kẻo trễ rồi.”
Đứa trẻ đã chết liền bật mình sống dậy đi học với Vincent. Một lần khác,
khi cậu đang chơi bên cạnh giếng nhà mình thì đánh rơi giầy, cậu liền
quỳ xuống bờ giếng mà cầu nguyện, thì liền đó nước giếng dâng lên vừa
đúng tầm tay đặng cậu có thể lấy lại giầy.
Không những thế, Vincent còn thường xuyên hội tụ các bạn nhỏ lại, rồi tự
mình đi tìm các chỗ cao đứng giảng cho chúng nghe những gì cậu đã được
nghe cha xứ giảng vào ngày Chúa Nhật vừa qua ở nhà thờ. Có một hôm, thấy
người đầy tớ đang định chặt một trong các cây ở trong vườn, Vincent liền
tới cản lại bảo,
“Xin khoan đã, đừng chặt cây đó! Vì mai mốt người ta sẽ dùng cây này mà
khắc tượng cháu đó.”
Cậu còn làm nhiều điều lạ khác nữa. Vincent bắt đầu đi học vào năm tám
tuổi. Cậu thuộc làu các kinh, học hành xuất sắc, năm 12 tuổi cậu đã sớm
biết ăn chay vào các ngày thứ tư vào thứ sáu trong tuần chỉ bằng bánh mì
và nước lã.
Mười bốn tuổi Vincent học thần học, cậu năng nguyện gẫm, nhất là rất
sùng kính cuộc khổ hình, thương khó của Chúa Giêsu và có lòng biệt kính
Mẹ Maria cách riêng, và sống bác ái với mọi người. Nên xóm giềng ai cũng
đem lòng thương mến cậu và thường gọi là “Vị thánh tý hon.”
Thiếu Niên Dũng Trí
Mười tám tuổi, Vincent xin vào “Dòng Thuyết Giáo Thánh Đaminh -
Dominican Order of Preacher (O.P)” nơi thành phố cậu đang cư ngụ. Từ khi
chọn sống đời tu, thầy Vincent quyết chí noi gương thánh Đaminh để tiến
tới đường trọn lành.
Thầy siêng năng đọc Thánh Kinh - suy gẫm Lời Chúa tựa như cơ thể sống
động không thể thiếu các mạch máu chính và li-ti vậy. Thầy sống khổ chế
và thánh thiện trong mọi lời nói cũng như hành động.
Vì đó, quỷ dữ căm ghét và thường xuyên quấy phá – cám dỗ và gây đau khổ
cho thầy đủ điều. Đến độ cha mẹ của thầy khuyên nên bỏ nhà dòng trở về
làm một cha xứ (linh mục triều) bình thường thôi. Nhưng thầy Vincent vẫn
vững một lòng trông cậy Chúa, ra sức cầu nguyện nhiều hơn, đặc biệt là
thầy van nài - khẩn nguyện với Mẹ Maria và thiên thần bổn mạng cứu giúp.
Sau bao nhiêu khốn khó, thầy Vincent đã vượt thắng tất cả mọi cam go và
hoàn tất giai đoạn tập sinh.
Thầy Vincent lãnh mặc tu phục dòng Đaminh ngày 2 tháng 2 Năm 1363, và
khấn trọn đời năm 1368. Kế đến, thầy Vincent tiếp tục 18 năm theo học
các; khoa Thánh Kinh, học tiếng Dothái và học rất nhanh. Trong ba năm
đầu, thầy Vincent chỉ đọc Sách Thánh Kinh và sách của các Thánh Giáo-phụ
đến độ thuộc lòng, đồng thời thông hiểu hết toàn bộ Sách Thánh. Sau đó
không lâu, thầy được chỉ định học Triết học, mãn khóa học, Vincent cho
ra trình làng cuốn “khảo luận về giả thuyết biện chứng pháp...”
(Treatise Dialectic Suppositions), lúc ấy thầy chưa tròn hai mươi bốn
tuổi. Sau đó, Vincent được gửi đến Bárcêlôna tiếp tục học chuyên khoa
Thánh Kinh. Tuy bận rộn với việc học hành, nhưng cùng thời gian đó, thầy
không ngừng rao giảng Lời Chúa và đã mang lại nhiều kết quả lạ thường
tuyệt vời không ngờ. Thầy giống hệt như thánh Đaminh vừa là học trò,
đồng thời vừa là giáo sư, và vừa là nhà thuyết pháp tài ba vậy.
Vào năm 1378, ở tuổi hai mươi tám, chính tay Đức HồngY Peter De Luna
trao bằng tiến sĩ thần học cho thầy Vincent (Hồng Y Phêrô De Luna -
người sau này trở thành Giáo hoàng Bênêđíctô thứ XIII, nhưng không chính
thức giữa thời kỳ Giáo hội có cuộc “Đại Ly Giáo” bị hủng hoảng và phân
rẽ vì chiến tranh lan rộng khắp Tây Âu, mới đầu chỉ có hai rồi có tới ba
Đức Giáo hoàng: Đức Urban VI ngự điện tại Rôma, Đức Clêmentê VII ngự
điện tại Avignon, Pháp Quốc.
Thánh Catherine thành Siena ủng hộ Đức Urban VI ở Rôma, còn thánh
Vincent thì cho ngài là bất hợp pháp …trong lúc phục vụ Hồng Y Peter De
Luna, Vincent cùng lúc tích cực thuyết phục dân Tây Ban Nha theo Đức
Clêmentê, sau khi Đức Clementê băng hà, thì Hồng Y Luna được bầu làm
Giáo Hoàng tại Avignon, lấy hiệu là Đức Bênêđíctô thứ XIII ), Hồng Y
Peter lúc ấy đại diện cho Đức Giáo hoàng Clêment VII, đang ngự điện tại
Avignon, bên Pháp, đồng thời cũng là người thụ phong linh mục cho Vicent
tại Bárcêlôna năm 1379. Không bao lâu sau khi chịu chức linh mục, cha
Vincent liền được chọn làm bề trên tu viện Thánh Đaminh tại Valencia.
Đức Bênêđíctô XIII triệu Cha Vincent về làm việc trong bộ xá giải tông
truyền và như là một Trưởng Điện Tông Tòa. Nhưng tân giáo hoàng không
chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên hồng y trong mật nghị viện
đều nhất loạt truất phế. Thế nhưng dẫu cho hầu hết các hồng y và vua
nướp Pháp phế bỏ, ngài vẫn ngoan cố bất chấp không chịu từ chức. Nên cha
Vincent vỡ mộng trở bệnh nặng, nhưng sau cùng ngài đảm nhận việc “rao
giảng Chúa Kitô cho thế giới.”
Vào những năm 1408 đến 1415, cha Vincent cố gắng thuyết phục người bạn
cũ (Beneđíctô 13) từ chức nhưng bất thành. Sau cùng ngài kết luận rằng
Bênêđíctô không phải là đức giáo hoàng thật. Mặc dầu đang lâm bệnh nặng,
ngài cũng ráng hết sức lên tòa giảng ngay trước mặt giáo đoàn mà
Bênêđíctô đang chủ sự mạnh mẽ tố giác người đã tấn phong linh mục cho
ngài. Bênêđíctô vội vã bỏ trốn khỏi những người trước đây đã từng hỗ trợ
mình. Có điều kỳ lạ, là cha Vincent không phải thuộc phần tử của Công
Đồng Constance (Công Đồng Constance năm 1414 đến năm 1418 do Hoàng đế
Segismunđô triệu tập: nhằm bãi nhiệm 3 Đức Giáo Hoàng đang tranh chấp
nhau, chấm dứt tình trạng ly giáo ở Tây Phương, lên án Wiclef và Huss.
Công Đồng bầu chọn Tân Giáo Hoàng Martinô V), thế mà đã góp phần chấm
dứt cuộc ly giáo, bất kể thời ấy trải qua cuộc canh tân nào trong Giáo
Hội đều tùy thuộc vào sự hàn gắn ly giáo. Cha Vincent sống cho tới ngày
chứng kiến bầu chọn Đức tân giáo hoàng Martin V.
Đời Linh Mục
Vincent là một nhà thuyết giảng hăng say và tài ba, suốt 20 năm cuối
đời, ngài giảng truyền Tin Mừng Phúc Âm khắp cõi Miền Nam Âu Châu; Tây
ban nha, Pháp, Ý, Đức, Belgium, Úc, Thụy điển, Lombardy và các vùng phụ
cận. Giống như một Gioan Tẩy Giả khác được mệnh danh là một thiên sứ
thần thông lướt băng qua hoang địa tội lỗi, kêu gọi người ta ăn năn sám
hối, run sợ ngày công phán, dọn đường ngay thẳng để đón Chúa, nếu không
có lý do nào khác, hầu hết các tội nhân mới đầu lắng nghe các bài giảng
của ngài đều thống hối từ bỏ tội lỗi và yêu mến Thiên Chúa. Ngài còn xác
nhận rằng ngài chính là “Thẩm Phán Thiên Thần – Angel of the Judgment,”
được nhắc tới trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông Đồ (Kh 14:6-7),
nếu dân chúng không chịu ăn năn cải thiện đời sống thì cuộc chung thẩm
sắp xảy ra tới nơi.
Việc thuyết giảng của ngài thực lạ lùng nhưng sinh hiệu quả kỳ diệu đến
độ mỗi lần thánh Vincent lui tới đâu thuyết giảng, lập tức thu hút khá
đông dân chúng hàng vạn, hàng ngàn, và ít nhất có tới 10,000 người, 50
linh mục lũ lượt di hành theo từ nơi này qua nơi khác, thậm chí ngay cả
những người ở cách xa đó cả ngàn dặm hay tin cũng tấp nập rủ nhau tới
nghe ngài giảng, đến nỗi các nhà thờ chưa kịp mở cửa đã có sẵn đám đông
dân chúng túc trực chật ních ở ngoài từ bao giờ, dẫu nhà thờ có rộng lớn
bao nhiêu mấy cũng không đủ chỗ chứa họ. Cộng đoàn linh mục hát Kinh
Thần Vụ, hát Lễ hằng ngày, và cử hành các bí tích cho những người đã
hoán cải nhờ nghe cha Vincent thuyết giảng.
Từng đoàn người nam - nữ khác biệt từ khắp nơi vừa di hành chân không
vừa đánh tội cầu nguyện râm ran từ hết đường phố này sang tới thành phố
khác. Họ dạy giáo lý khi cần thiết, thành lập các nhà thương - bệnh xá,
và làm sống lại một đức tin vốn có trước kia nhưng đã bị tắt rụi vào
thời kỳ mắc nạn dịch bệnh. Tương tự như Tiên Tri Giôna cảnh báo thành
Ninivê, dân chúng liền cải thiện đời sống, và thế giới được tha rồi tồn
tại đến hiện nay ra sao - phần lớn cũng nhờ vào một trong những vị ngôn
sứ này! Thế nhưng, ngày nay ít có mấy người biết đến hoặc chưa hề nghe
nói tới thánh Vicentê Fêrrê!
Thể theo sự thỉnh cầu của hàng giáo mục, giáo sĩ và dân chúng Valencia,
ngài được triệu hồi về bản quốc, tiếp tục đôi việc của ngài là giảng dạy
và thuyết pháp với danh tiếng lẫy lừng như thế, chứng tỏ cho thấy người
tham dự cùng được chung hưởng phép lành của Đấng Toàn Năng, mà ngài tôn
thờ khắp đất nước vượt trên những gì có thể tưởng tượng ra được. Để thử
đức khiêm nhượng, Thiên Chúa cho phép một đồng bọn của satan đến quấy
phá cám dỗ ngài phạm tội nhục thể, và vây phủ lấy ngài những tư tưởng
xấu xa dơ bẩn bất chính. Những vũ khí mà thánh nhân chống lại quỷ dữ là
ăn chay, cầu nguyện và ngài tỉnh thức không ngừng mỗi khi bốc cơn mê
dục.
Phải nói là một khi càng thăng tiến trong nhân cách thì trông ngài càng
đẹp và rạng rỡ thêm ra, phản ánh vẻ đẹp của một tâm hồn ngập lút tình
thương Thiên Chúa. Cả khi về già vẻ đẹp rạng rỡ này cũng không hề tàn
phai. Tuy vậy, mỗi khi ngài thuyết giảng về Mẹ Thiên Chúa hay các niềm
vui Thiên Đàng. Ngài đặc biệt tỏ ra Say mê và hoan hỷ như một trẻ thơ
biệt sùng Mẹ Maria vậy, nhất là vào lúc mà các tín hữu nguyện kinh Lạy
Nữ Vương Thiên Đàng.
Tâm hồn của ngài luôn luôn hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện liên lỉ
trong công việc bổn phận, trong lao nhọc, và trong mọi hành động. Những
thao tác của ngài tương tự như trong tập sách để lại cho mọi Kitô Hữu
với nhan đề, KhảoLuận về Đời Sống Thiêng Liêng, ngài viết như sau: “Con
có muốn học hỏi để có lợi cho con không? Con hãy tôn vinh (Chúa) khi học
hỏi và nên học ít đi để nên thánh chứ không phải học để thành người uyên
bác..”
Thử suy gẫm một số câu văn (tư tưởng) trong tập sách tuyệt diệu này.
“Công đức không phải vì con người nghèo khổ nhưng một khi họ (ở trạng
thái) nghèo khổ mà lại yêu mến đức khó nghèo “Một câu hỏi vô bổ chỉ nên
đáp lại bằng yên lặng… Cho nên con hãy học yên lặng một thời gian; anh
em con sẽ cảm phục con và sự yên lặng sẽ dạy con lên tiếng khi cần phải
lên tiếng.” “Con hãy tự coi mình là dơ bẩn và hèn hạ trước mặt Chúa vì
tội lỗi của con hơn bất cứ người tội lỗi nào, bất kể tội của họ là gì đi
nữa... và hãy suy nghĩ thật kỹ càng rằng bất cứ một ân sủng hay một
khuynh hướng tốt lành nào hoặc một sự ham muốn sống nhân đức, thì đó
không phải là do tự con mà có mà do lòng thương xót duy nhất của Chúa
Kitô mà thôi.” “Con nên nhìn nhận rằng bất cứ một tội nhân nào đã phạm
những tội tầy đình cũng có thể phụng sự Chúa tốt hơn con nếu họ cũng
nhận được những ân sủng như con.” “Một khi thủ đắc được khiêm nhượng,
thì đời sống bác ái sẽ đến - lửa sốt mến sẽ thiêu đốt hết những thói hư
tật xấu và tâm hồn con sẽ đầy tràn đức mến chẳng còn chỗ cho phù vân giả
trá.”
https://hddaminhthanhlinh.net/a650/thanh-vincent-ferrer-tuc-la-thanh-vincente-lam-phep-la
Đối với tín hữu Việt Nam, thánh Vincentê Ferriô đã thường được khấn như
vị thánh hay làm phép lạ. Cuộc đời của vị tông đồ Âu Châu, vinh quang
của Giáo hội, vinh dự của dòng giảng thuyết này cũng rất lạ lùng, Ngài
chào đời tại Valentia nước Tây Ban Nha ngày 23 tháng 01 năm 1350. Mặc
dầu gia đình giàu có, nhưng thân mẫu thánh nhân đã muốn tự mình nuôi
dưỡng con.
Lên sáu tuổi, Vincentê cắp sách đến trường và đã tỏ ra có nhiều ân huệ
đặc biệt. Còn là một con trẻ ngây thơ nhưng Ngài đã có sức hấp dẫn lạ
lùng.
Bạn trẻ thường vây kín quanh Ngài để tham dự một trò chơi diễn lại bài
giảng ở nhà thờ. Vincentê luôn diễn giảng chính xác và hùng hồn một cách
đáng ngạc nhiên.
Mười hai tuổi thánh nhân theo môn triết học, mười bốn tuổi Ngài học thần
học. Người ta kể rằng vào lúc này, đã một lần thánh nhân làm cho một đứa
trẻ đã chết sống lại. Câu chuyện xảy ra khi những đứa bạn xấu bày trò
chết giả và xin Vincentê thương giúp.
Nhưng đứa giả chết lại chết thật làm chúng phải kinh hoàng. Đáp lời van
xin khẩn thiết của chúng, thánh nhân đã cầu nguyện rồi cầm tay đứa chết
cho nó sống lại.
Lên mười bảy tuổi, Vincentê đã được các giáo sư coi như ngang hàng với
mình. Đây là lúc Ngài phải quyết định hoặc làm giáo sư tại Roma và lập
gia đình, hoặc là theo đuổi lý tưởng tu dòng. Thánh nhân đã quyết định
gia nhập dòng thánh Đaminh. Đầy xúc cảm và hãnh diện, ngày 05 tháng 02
năm 1367, ông thân sinh đã dẫn Ngài tới cha bề trên dòng Đaminh ở
Valentina.
Nhưng chưa được một năm, thân mẫu Ngài lại luyến tiếc tương lai rực sáng
của con, và đã cố gắng đưa con trở về lại thế gian. Thoạt đầu Vincentê
có cám dỗ, nhưng sau đó Ngài đã thốt lên câu nói làm đà tiền cho suốt
cuộc đời:
- Lạy Chúa, con chọn Chúa mãi mãi.
Ngài được đưa về Barcelona và năm1370 đã trở thành giảng viên triết học
tại dòng Đaminh ở tại Lerida. Năm 1373, khi trở lại Barcelona để học
tiếng Ả rập và Do thái Ngài đã trở thành nhà giảng thuyết lừng danh.
Năm 1377, Vincentê được gọi sang Toulouse để học thêm. Mới đây Ngài kéo
được sự chú ý của đức hồng y Pedro da Luna, vị đại diện của phản giáo
hoàng tương lai ở Avignon. Từ năm 1385 tới năm 1930 thuyết giảng thần
học ở nhà thờ chính toà Valentina và sau đó vào nhóm với Hồng Y Pedro Da
Luna.
Ngài nhiệt tâm rao giảng nhất là cho dân Do thái và dân Mô (Maures).
Ngài đã cải hóa được một thày Rabbi ở Valladolid, người sau này trở
thành giám mục Phaolô miền Burgos và cùng với thánh nhân can đảm trong
nỗ lực cải hoá người Do thái ở Tây Ban Nha.
Từ năm 1391 Yolanda ở Aragon. Thời kỳ này, Ngài bị tra vấn vì rao giảng
sự thống hối. Pedro Da Luna, người đã được chọn làm giáo hoàng Benedictô
XIII ở Avignon đã cứu Ngài khỏi bị xử án và mời Ngài về giáo triều làm
cha linh hướng và cha giải tội.
Tỉnh ngộ trước những nỗ lực nhằm hàn gắn sự phân rẽ giữa Roma và
Avignon, thánh Vincentê được thị kiến thấy Chúa Giêsu ở giữa thánh
Phanxicô và thánh Đaminh sai đích danh Ngài đi rao giảng sự thống hối.
Tháng 11 năm 1399 được Đức Bênêdictô XIII cho phép làm việc này, Ngài đã
rao khắp miền Tây Âu để rao giảng cho tới ngày lìa trần. Từng đoàn hối
nhân từ 3000 tới 10.000 người theo Ngài và đánh tội.
Năm 1416, Ngài rút lại sự ủng hộ của mình và của vương quốc Aragon đối
với Đức Bênêdictô XIII vì vị phản giáo hoàng ở Avignon không nghiêm
chỉnh để hàn gắn sự phân rẽ khi từ chối đòi hỏi thoái vị công đồng
Constance đưa ra. Quyết định của thánh Vincentê có ảnh hưởng tới việc
thoái vị của Đức Bênedictô và giúp dễ dàng chấm dứt sự phân rẽ.
Thành quả thánh Vincentê thực hiện được thật lớn lao. Đối lại, thánh
nhân đã phải chịu biết bao nhiêu là đau khổ thử thách. Chúng ta đã nói
đến thử thách buổi đầu khi Ngài chọn đời sống hiến dâng. Lời vu oan đuổi
theo từng bước chân Ngài và các tội nhân cứng lòng tìm hết cách để tiêu
diệt Ngài. Chúng ta nhắc lại đây hai trường hợp:
Một phụ nữ dâm dật lẻn vào phòng Ngài, nhưng thánh nhân thay vì chiều
theo những đề nghị của chị ta, đã giảng giải cho chị biết rõ sự nguy
hiểm bị hư mất đời đời, khiến chị ta quỳ gối dưới chân Ngài xin lỗi rồi
rút lui vào một tu viện để đền tội.
Một phụ nữ khác giả bệnh để mời Vincentê đến. Vừa thấy Ngài tới phòng,
chị ta không một chút hổ thẹn đã tỏ rõ ý định của mình. Thánh nhân lập
tức rút lui. Giận dữ chị ta vu cáo rằng: thánh nhân đã dám xâm phạm tiết
hạnh chị. Nhưng về sau chị đã thú nhận tất cả và công khai đền tội.
Vượt qua được những thử thách, thánh Vincentê còn có những bí quyết để
thành công, chẳng hạn trong việc học hành Ngài cho biết: - "Muốn thành
công trong việc học hành hãy tham khảo thánh kinh hơn là sách vở. Hãy
khiêm tốn xin Chúa ơn được thông hiểu điều bạn đọc, học hành làm mệt trí
và làm khô cứng cõi lòng. Bạn thường xuyên đến dưới chân Chúa Giêsu để
phục hồi sinh lực".
Thực hiện lời khuyên của mình, thánh nhân dọn bài giảng dưới chân thánh
giá, kèm theo những hành vi sám hối cực khổ. Khi nói với dân chúng Ngài
lại quỳ trước thánh giá như thể mọi vinh dự chỉ thuộc về Chúa Kitô mà
thôi.
Cuộc đời luôn ướp đặm trong tình yêu Chúa, khiến Ngài được ví như thiên
thần Chúa trong buổi lễ Hiện xuống: để trả lời cho đám đông dân chúng
nhiều miền khác nhau ngạc nhiên vì hiểu được Ngài, Ngài nói: - Tôi nói
tiếng mẹ đẻ của tôi, thứ tiếng độc nhất mà tôi biết với một ít tiếng
Latinh và tiếng Do thái. Vậy chính Thiên Chúa thân hành giúp các bạn
hiểu được.
Các thôn xóm nào đông mỗi khi nghe tin thánh Vincentê sắp đến: công nhân
nghỉ việc, thương gia đóng cửa tiệm buôn, thầy dạy bãi khóa... để đi
nghe giảng bất kễ trời mưa hay nắng. Thánh nhân nhiệt tâm nói về sự chết
và hỏa ngục.
Nhiều tiếng khóc than nức nở cắt ngang lời Ngài khiến Ngài cũng phải
khóc theo. Người ta nói rằng nhiều tội nhân nghe lời giảng của Ngài đã
ngã chết vì đau đớn rồi hiện về cho biết lòng thống hối đã làm cho họ
đáng được hưởng Nước thiên đàng.
Chấm dứt bài giảng, thánh nhân tiếp tục ngồi tòa để phục sinh các tâm
hồn.
Hay nói về sự chết và hỏa ngục nhưng thánh nhân cũng thường dùng tính
hài hước để sửa dạy các tâm hồn. Ngày nay người ta còn nhắc lại mãi câu
chuyện của một phụ nữ. Nàng đau buồn nhiều vì tính nóng nảy của chồng,
nhưng không biết dẹp tính bép xép của mình. Thánh nhân khuyên nhủ nàng:
- Đây là phương thế có thể sửa đổi tính nóng của chồng chị. Ra về chị
hãy xin thày giữ cửa một bình kín ở giếng nhà dòng. Mỗi khi chồng về
nhà, chị hãy uống một ngụm, nhưng đừng đừng nuốt ngay và ngậm càng lâu
càng tốt. Giữ mãi được như vậy, chồng chị sẽ hiền lành như một con
chiên.
Sau một thời gian kết qủa thật khả quan. Người chồng hoàn toàn thay đổi
và người phụ nữ tới cảm ơn thánh nhân, vì phương dược thần hiệu đã tiêu
diệt được mọi cuộc cãi vã. Phương ngôn Tây Ban Nha còn nói: - Hãy uống
nước Thày Vincentê
Một người trong cơn thù hằn đã không muốn tha thứ cho người thợ đóng
giày. Thánh nhân bảo:
- Hãy tha thứ cho chính mình. Ông đang gậm nhấm lòng mình vì không quan
tâm đến linh hồn hư mất trong khi vẫn ăn uống và phí phạm thời gian.
Người đó đành thú nhận:
- Vâng, tôi hiểu rằng: ghen ghét như vậy là khùng.
Ngoài nhiệt tình và tài hùng biện đã mang lại thành công cho thánh
Vincentê, còn phải kể đến những phép lạ mà Chúa đã làm qua tay thánh
nhân. Ngài đã làm vô số những phép lạ. Chỉ nguyên việc điều tra ở
Avignon và một vài thành phố khác cũng ghi lại được hơn 860 phép lạ
thánh nhân đã làm. Chúng ta ghi một vài sự kiện:
Ở Morella, thánh Vincentê đã cứu sống một đứa trẻ mà người mẹ nó trong
một cơn điên, đã giết rồi đem nướng.
Ở Pampeluna Ngài đã dạy một người bị xử tử oan uổng nói lên sự thật.
Ở Vannes Ngài đã bảo một em bé da đen mới sinh nói rõ ai là cha mình, để
giải tỏa nỗi lòng đau khổ của người mẹ vì bị chồng nghi ngờ... tuy nhiên
chính cuộc sống của thánh Vincentê đã là một phép lạ với những chuyến đi
khắp nơi bất kể thời tiết và với việc ăn chay, cuộc sống khắc khổ không
ngừng.
Năm 1417 bá tước miền Bretanghe mời thánh nhân tới lãnh điạ của mình.
Giữa cuộc tiếp rước long trọng, Ngài đã yếu đuối khó đứng vững nổi,
nhưng mỗi khi làm việc, một sinh lực mới khiến Ngài hăng hái hoạt động
như hồi thiếu niên, để rồi khi xong việc sức lực Ngài lại tàn tạ như cũ.
Ròng rã hai mươi tháng như vậy, thánh nhân đã nỗ lực cải hoá miền
Bretagne và
Normandie.Cuối cùng Ngài mới trở về Valentia. Nhưng tới Valentia Ngài
kiệt sức và qua đời ngày 05 tháng 04 năm 1419.
http://www.cdcgtphero.de/hanhcacthanh.php?A=4/vinhson
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Vinxentê Phêrê (tiếng Tây Ban Nha: Vicente Ferrer), sinh tại Valence
(Tây Ban Nha) năm 1350. Ngài vào Dòng Đa Minh lúc mười bảy tuổi. Sau khi
học xuấc sắc triết học và thần học, ngài được thụ phong linh mục năm
1378 và đỗ tiến sĩ thần học tại Lérida. Sau vài năm giảng dạy và thuyết
giảng tại Valence, kể từ năm 1399, ngài sống đời thuyết giáo, chu du
khắp Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Sĩ, Ý và Ái Nhĩ Lan... Chỉ cái chết mới
chấm dứt một đời rong ruổi. Châu Âu lúc đó bị xâu xé bởi cuộc chiến Trăm
Năm (1337 – 1453). Cuộc chiến đã khiến Pháp và Anh đối đầu nhau; Hội
Thánh bị phân hóa do cuộc đại ly giáo ở Tây Phương (1378 – 1417); cuộc
Đại Ly khai với hai rồi ba Giáo Hoàng cạnh tranh nhau, cho đến khi Công
Đồng Constance (1414 – 1418) chấm dứt cuộc ly giáo, nhờ bầu được Đức
Giáo Hoàng Martin V vào năm 1417.
Vào thời đại quá nhiễu nhương, Vincent Ferrier đi khắp châu Âu kêu gọi
sự hoán cải và hòa giải. Tài hùng biện, sự thánh thiện, các phép lạ và
danh tiếng của ngài lan tràn khắp nơi, tất cả đã làm rung chuyển lục địa
này. Nhiều đoàn dân theo người, vì thế các “tu hội” được thành lập như:
Dòng “Anh Em Đánh Tội – les Flagellants”. Họ mang áo đen và trắng vừa
hành xác vừa hát lời ca này: “Vinh danh sự thương khó Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta và lạy Chúa, xin dủ lòng thương xót, xóa các tội lỗi chúng
con !”
Người ta gọi Vincent là “Thiên Sứ thời phán xét” vì vào thời tao loạn
ấy, thánh nhân xuất hiện như nhà thuyết giảng về ngày thế tận. Từ đó,
thánh nhân đã chinh phục vô vàn người trở lại, kể cả người Do Thái,
người Maures và các người lạc giáo. Sau cùng, ngài mang hòa bình khi giữ
vai trò trung gian trong cuộc chiến Trăm Năm. Ngài đóng góp công sức vào
việc giải quyết cuộc đại ly giáo ở Tây Phương, khi tham dự Công Đồng
Constance.
Vincent Ferrier qua đời vào tuổi bảy mươi, tại Vannes miền Bretagne, lúc
đang thi hành nhiệm vụ sau chuyến đi giảng Mùa Chay. Ngài được Đức Giáo
Hoàng Calixte III phong hiển thánh năm 1455 và nhận tước hiệu là vị Tông
Đồ của Châu Âu. Người Tây Ban Nha và Pháp tranh chấp về di hài của thánh
nhân.
2. Thông điệp và tính thời sự
Đức Giáo Hoàng Calixte III, khi phong Vincent Ferrier lên bậc hiển
thánh, đã ví người như một Thiên sứ đang bay lượn và gieo vãi Tin Mừng
khắp nơi. Vì thế nghệ thuật ảnh tượng đôi khi biểu hiện ngài với đôi
cánh và tay cầm Thánh Giá.
a. Lời nguyện đầu lễ trong ngày kính nhớ thánh Vincent nêu
rõ nhiệm vụ rao giảng của ngài là loan báo Đức Kitô lại đến như “vị thẩm
phán”. Cũng thế, tin mừng Thánh Lễ (Lc 12,35-40) gợi lại cuộc quang lâm
của Đức Kitô: ...Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn... Anh
em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con
Người sẽ đến. Tuy nhiên, đối với ai hỏi ngài về các dấu chỉ của cuộc
phán xét sau cùng ấy, ngài trả lời rằng không có dấu chỉ nào hơn lòng
bao dung của Thiên Chúa ban cho chúng ta.
b. Trong khảo luận về đời sống thiêng liêng, xuất
bản khoảng năm 1410, thánh Vincent kêu gọi các nhà mục tử tâm hồn nên có
một tấm lòng tràn đầy dịu dàng và thương xót. Ngài viết: “Khi giảng dạy
khuyên lơn, bạn hãy dùng lời lẽ đơn sơ... hãy nói thế nào cho người ta
thấy lời lẽ của bạn không phát xuất từ một tính khí kiêu căng giận dữ,
nhưng do một tấm lòng yêu thương đầy tình phụ tử. Hãy nên như người cha
đau đớn vì con cái mắc tội ... người cha ấy sẽ ấp ủ nó như một bà mẹ.
Lúc giải tội cũng thế: nhẹ nhàng khích lệ kẻ nhút nhát, lúc nào bạn cũng
hãy tỏ ra là một người đầy yêu thương trìu mến...” (các bài đọc Kinh
Sách). Như thế, thánh Vincent hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu “Thiên
Sứ của ngày phán xét” và đã nhận được sự khôn ngoan cùng vinh dự khi chỉ
cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đang đến “xét xử” trần gian, nhưng để
cứu trần gian, như bài đọc trong Thánh Lễ đã nêu lên: Đây là lời của vị
chứng nhân trung thành và chân thật...: Này đây ta đứng trước cửa và gõ.
Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy ... Ai thắng, Ta
sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta. (bài đọc một: Kh 3,14 ...22).
Vincent có nghĩa là “người chiến thắng”; để làm kẻ chiến thắng chỉ cần
đứng bên cửa và lắng nghe tiếng gõ. (xem thêm bài tin mừng Thánh Lễ: Hãy
làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ
cửa, là mở ngay ... (Lc 12,35-40).
Enzo Lodi
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/05-04-thanh-vixente-phere-linh-muc-1350-1419-le-nho-tuy-chon/
