SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

3 Ngày Đầu Mùa Chay 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Dẫn Nhập tổng quan về Phụng Niên 

 

Theo phụng niên của Giáo Hội thì Mùa Chay và Mùa Phục Sinh ở giữa Mùa Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. 

Thực ra có thể chia phụng niên của Giáo Hội thành hai phần chính yếu: phần đầu bao gồm Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, và phần sau là phần bao gồm Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. 

Hai phần bất khả thiếu và bất khả phân ly làm nên phụng niên của Giáo Hội này, phần nào cũng liên hệ hết sức mật thiết với nhau về ý nghĩa của từng phần, được thể hiện qua chủ đề chung của nó, và cả hai phần cũng chặt chẽ liên kết với nhau.

Trước hết, từng phần có liên hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, ý nghĩa chính yếu của Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh ở câu Phúc Âm chủ đề liên quan đến việc tỏ mình của Thiên Chúa: "Lời đã hóa thành nhục thể (Mùa Vọng) và ở giữa chúng ta (Lễ và Tuần Bát Nhật Giáng Sinh). Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người (Lễ và Tuần Lễ Hiển Linh), vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý (Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh)" (Gioan 1:14), như đã được suy diễn trọn phần đầu phụng niên này. 

Cũng thế, phần hai của phụng niên bao gồm Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, cũng liên hệ mật thiết với nhau vì liên quan đến việc Thiên Chúa thông mình ra, thông ban sự sống: "Tôi tự ý bỏ sự sống của Tôi (Mùa Chay và Tuần Thánh) và Tôi có quyền lấy nó lại (Mùa Phục Sinh)" (Gioan 10:18), vì "Tôi là sự sống lại (Mùa Phục Sinh - Tuần Bát Nhật) và là sự sống (Mùa Phục Sinh - sau Tuần Bát Nhật" (Gioan 11:25), và "Tôi đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn (Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh)" (Gioan 10:10). 

Sau nữa, cả hai phần cũng liên hệ với nhau. Ở chỗ, nếu phần đầu của phụng niên bao gồm Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh liên quan đến việc Thiên Chúa tỏ mình ra, thì phần sau của phụng niên bao gồm Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh liên quan đến việc Thiên Chúa thông mình ra, sau khi tỏ mình ra ở phần phụng niên đầu, việc thông ban chính sự sống thần linh của Ngài cho nhân loại, chủ đích của việc Ngài muốn tỏ mình ra cho nhân loại, chủ đề của phần đầu của phụng niên, nhờ đó nhân loại mới có thể hiệp thông thần linh với Ngài và cũng nhờ đó thành phần lãnh nhận Phép Rửa Kitô hữu mới có thể làm chứng cho Ngài, thành phần qua họ Ngài tiếp tục tỏ mình và thông mình ra cho nhân loại.

Vấn đề cuối cùng liên quan đến riêng Mùa Chay đó là Mùa Chay có bao nhiêu ngày và từ ngày nào tới ngày nào. Thường chúng ta nghĩ 40 ngày, và từ Thứ Tư Lễ Tro cho tới Chúa Nhật Lễ Lá là đúng 40 ngày. Vì 5 tuần x 7 ngày = 35 + 4 ngày đầu (trước CN 1 MC) + 1 (CN Lễ Lá). Tuy nhiên, vấn đề lại là như thế này: Mùa Chay kéo dài từ Thứ Tư Lễ Tro tới Thứ Bảy Tuần Thánh, và như thế thành 46 ngày, nhưng thật ra 6 ngày không tính vì không ăn chay đó là 6 Chúa Nhật trong Mùa Chay, và thật sự Mùa Chay kéo dài tới tận Thứ Bảy Tuần Thánh như Giáo Hội ấn định, như văn liệu cho Nghi thức Lãnh nhận Phép Rửa vào Lễ Đêm Vọng Phục Sinh sau đây:

 

 

 


Thứ Tư Lễ Tro


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Ge 2, 12-18

"Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi".

Trích sách Tiên tri Giôel.

Bấy giờ Chúa phán: Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Người nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ. Biết đâu Người sẽ trở lại, sẽ hối tiếc và sẽ ban lại phần phúc để có của lễ hiến tế dâng lên Chúa là Thiên Chúa các ngươi?

Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay, triệu tập một đại lễ, quy tụ dân chúng, ra lệnh mở đại hội, tập họp các bô lão, quy tụ các thiếu nhi và các trẻ còn măng sữa. Tân lang hãy ra khỏi nhà, và tân nương hãy ra khỏi phòng. Các tư tế là những kẻ phụng sự Chúa, hãy đứng giữa cửa chính và bàn thờ mà than khóc và kêu lên rằng: Lạy Chúa, xin thương xót dân Chúa, xin đừng để cho cơ nghiệp Chúa phải hổ thẹn, đừng để các dân tộc thống trị nó. Tại sao thiên hạ dám nói rằng: "Chúa của chúng ở đâu?" Chúa đã nhiệt thành với xứ sở Người và đã tha thứ cho dân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 20 - 6, 2

"Hãy làm hoà cùng Chúa đi... Bây giờ là cơ hội thuận tiện".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, chúng tôi đây là sứ giả của Ðức Kitô, chính Thiên Chúa nhờ chúng tôi mà khích lệ anh em. Nhân danh Ðức Kitô, chúng tôi năn nỉ anh em hãy làm hoà cùng Thiên Chúa. Ðấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã làm Người thành thân tội vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa.

Với tư cách là những cộng sự viên của Người, chúng tôi khuyên anh em đừng nhận lấy ơn của Thiên Chúa một cách vô hiệu. Quả thật Chúa phán: "Dịp thuận tiện đến rồi, Ta đã nhậm lời ngươi, vào ngày giải thoát, Ta đã cứu vớt ngươi". Bây giờ là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14

Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.

 

Phúc Âm: Mt 6, 1-6. 16-18

"Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Ðó là lời Chúa.


Daily Gospel Reading – Matthew 6:1-6, 16-18 | Daily Bible Readings


Suy niệm

 


   Mùa Chay là thời điểm phụng vụ cử hành mầu nhiệm "vượt qua sự chết mà vào sự sống"    



Vì Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tiêu biểu cho 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, cũng như cho 40 năm dân Do Thái băng qua sa mạc, một biểu hiệu cho hành trình đức tin của họ, "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24), từ vùng đất nô lệ Ai Cập biểu hiệu cho vùng đất của sự chết tiến về miền Đất Hứa tự do biểu hiệu cho vùng đất của sự sống, hay cũng tiêu biểu cho 40 ngày Moisen ở trên Núi Sinai để lãnh nhận Lề Luật của Chúa (xem Xuất Hành 34:38), hoặc cho 40 ngày hành trình của Tiên Tri Isaia tiến lên Núi Horeb để gặp gỡ Thiên Chúa (xem 1Kings 19:8), nên Mùa phụng vụ này cần phải bắt đầu từ Thứ Tư trước Chúa Nhật I Mùa Chay và mở đầu cho thời gian 6 tuần lễ Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, đến Lễ Vọng Phục Sinh, và thời điểm Thứ Tư mở màn cho Mùa Chay này lại bao gồm cả nghi thức xức tro, nên được gọi là Thứ Tư Lễ Tro, một nghi thức dọn lòng cho tín hữu hiệp thông với Chúa Kitô là Đấng "tự ý bỏ sự sống mình đi".

Thật vậy, là Kitô hữu, qua Phép Rửa, họ đã được hiệp thông với Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô và với Chúa Kitô (xem Roma 6:3-5), Đấng đã "tự ý bỏ sự sống mình đi và có quyền lấy nó lại", vì thế và nhớ thế, "con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, tức là con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa" (Roma 6:6), trái lại, "chúng ta được sống một đời sống mới" (Roma 6:4).

Chính vì Mùa Chay là thời điểm phụng vụ cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, mầu nhiệm "vượt qua sự chết mà vào sự sống" của Người (Gioan 5:24 và xem Gioan 12:24), một mầu nhiệm theo nguyên tắc liên quan đến chính Phép Rửa Kitô giáo như vậy, và trên thực tế liên quan đến đời sống của những ai lãnh nhận Phép Rửa như thế, mà thành phần dự tòng mới được lãnh nhận Phép Rửa vào chính Đêm Vọng Phục Sinh để được tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhờ đó, nhờ được hiệp thông với Cuộc Vượt Qua của Người, thành phần tân tòng Kitô hữu này mới có thể cùng với toàn thể Giáo Hội trở thành chứng nhân của Người và cho Người, cho đến khi Người lại đến.

Trong Mùa Chay, một thời điểm có thể nói như Thánh Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay, "là cơ hội thuận tiện... là ngày cứu thoát", Kitô hữu sống lại cái cảm nghiệm khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, bằng những việc làm cụ thể, bao gồm cả con người của họ, cả linh hồn và thân xác của họ, bởi họ được Chúa Kitô cứu độ trọn vẹn bản tính của họ, bao gồm cả thân xác sẽ phục sinh của họ khi Người lại đến trong vinh quang, một việc làm cụ thể chứng tỏ họ thực sự cảm nghiệm khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô. 

Việc làm cụ thể nhất Kitô hữu cần làm trong Mùa Chay liên quan đến cuộc khổ nạn và tử giá của Đấng "tự ý bỏ sự sống mình đi" cho phần rỗi của chung nhân loại và của từng Kitô hữu môn đệ của Người, không phải chỉ là những việc làm bề ngoài liên quan đến bộ ba tu đức Mùa Chay là bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, như được liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay, mà nhất là nhận biết tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, và có thực hành bộ ba tu đức này Kitô hữu cũng phải thi hành làm sao với tất cả tinh thần nhận biết của mình.

Đó là lý do qua miệng Tiên Tri Joel ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã nhắc nhở dân Ngài bao gồm cả thành phần Kitô hữu chúng ta rằng: "Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Người nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ".

Trong câu vừa nhắc nhở vừa kêu gọi này, Thiên Chúa chẳng những đề cập đến những gì là hình thức bề ngoài như "chay tịnh, nước mắt và than van", nhưng các việc này phải bắt nguồn từ bên trong với thái độ "thật lòng trở về với Ta", một thái độ chứng thực con người nhận biết "Chúa là Thiên Chúa ... nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ".

Bài Đọc 2 hôm nay cũng thế, Thánh Phaolô Tông Đồ đã "nhân danh Đức Kitô" kêu gọi Kitô hữu Corintô trong Thư 2 của ngài "hãy làm hòa cùng Thiên Chúa". Tại sao vậy? Lý do duy nhất và chính yếu cũng xuất phát từ việc Kitô hữu nhận biết Vị "Thiên Chúa ... nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu đến độ, như Thánh Phaolô cảm nhận và khẳng định trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Ðấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã biến Người thành tội lỗi vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa".

Nếu Kitô hữu quả thực nhận biết Thiên Chúa, nhận biết tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, Đấng "nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Đấng "đã biến (Đức Kitô vô tội) thành tội lỗi vì chúng ta", họ mới có được một tâm tình ăn năn thống hối tuyệt vời về những gì họ đã chẳng những phạm đến Ngài mà còn bất xứng với tình yêu đầy lòng xót thương của Ngài nữa, một tâm tình của Thánh Vương Đavít trong Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. 

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. 

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. 

Việc Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là Đấng "nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Đấng "đã biến (Đức Kitô vô tội) thành tội lỗi vì chúng ta" không phải chỉ ở chỗ ăn năn thống hối về mặt tiêu cực mà thôi, còn cần phải được tỏ hiện bằng những việc tích cực thích hợp chứng thực việc nhận biết thần linh của họ nữa, những việc được chính Chúa Kitô nói đến trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng là những việc được Giáo Hội cho rằng rất thích hợp với Mùa Chay mà Kitô hữu không thể nào không thi hành, những việc chúng ta có thể gọi là bộ ba tác hành tu đức Mùa Chay, thứ tự là bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, cả 3 đều phải làm hoàn toàn chỉ vì "Đấng thấu suốt mọi bí ẩn" mà thôi.

"Bố thí" là việc làm đầu tiên trong bộ ba hành vi tu đức Mùa Chay, một hành động mà Kitô hữu cần làm trước hết và trên hết, bởi vì "bố thí" liên quan hết sức mật thiết với Lòng Thương Xót Chúa, một Lòng Thương Xót Chúa mà Kitô hữu đã được hoan hưởng một cách hoàn toàn nhưng không, nên họ cũng phải cho đi nhưng không, cũng phải san sẻ chính những gì họ cảm nghiệm thấy về Lòng Thương Xót Chúa này, như thể họ được Lòng Thương Xót Chúa đoái nhìn đến thân phận thấp hèn tội lỗi của họ thế nào thì họ cũng phải thương xót tha nhân như vậy. 

"Cầu nguyện" là việc thứ hai, sau "bố thí" và trước "chay tịnh", mà Kitô hữu cần phải làm. Bởi vì, nhờ cầu nguyện mà họ mới cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa đã được tỏ ra cho họ trong đời sống của họ, để nhờ đó và từ đó họ mới có thể "bố thí", mới có thể yêu thương như họ được thương yêu, và cũng chỉ nhờ cầu nguyện là giao tiếp với Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý họ mới có thể sẵn sàng hiến mình cho Lòng Thương Xót Chúa như giá trả cho phần rỗi vô giá của các linh hồn tội nhân đáng thương bằng việc "chay tịnh".

"Chay tịnh" là việc thứ ba trong bộ ba hành vi tu đức Mùa Chay mà Kitô hữu cần phải thực hiện để chứng tỏ mình nhận biết tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa đối với họ, một việc "chay tịnhnhư là thành quả của việc "cầu nguyện" và là chứng thực cho việc "bố thí", một việc "bố thí" cao cả nhất và quí giá nhất và khẩn thiết nhất, đó là "bố thí" chính bản thân mình, đến độ có thể sẵn sàng "hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:28) như Chúa Kitô, nghĩa là họ đạt tới tầm mức hiệp nhất nên một với chính Lòng Thương Xót Chúa!

Căn cứ vào ý nghĩa sâu xa của bộ ba tác hành tu đức Mùa Chay và mối liên hệ bất khả phân ly của bộ ba này, có thể nói bộ ba tác hành tu đức Mùa Chay này cũng chính là linh đạo Kitô giáo. Linh đạo Kitô giáo nhắm đến đức ái trọn hảo và thể hiện đức ái trọn hảo (bố thí), ở chỗ "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con", "thí mạng sống mình vì người mình yêu(xem Gioan 13:34;15:12,13), một đức ái trọn hảo xuất phát từ mối hiệp thông thần linh (cầu nguyện), ở chỗ "hiệp nhất nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21), đến độ, "không phải tôi sống nữa (chay tịnh) mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), nhờ đó tôi mới có thể sống đức ái trọn hảo yêu nhau như Chúa yêu đến thí mạng sống mình cho nhau (bố thí). 

 

Thánh thi (giờ Kinh Phụng Vụ Chiều Thứ Tư Lễ Tro - trích từ Giờ Kinh Phụng Vụ)

 

Lạy Ðức Kitô, Ngài thánh hiến

Thời gian trai tịnh bốn mươi ngày,

Và cho người thế mau siêu độ

Ngài đã kêu mời phải ăn chay.

 

Giờ đây Giáo Hội đang sám hối

Xin lượng từ bi ghé mắt nhìn,

Ðấm ngực cúi đầu, than khóc tội

Ngài thương giải cứu, đỡ nâng lên.

 

Bao lỗi lầm xưa, Ngài tha thứ

Chính vì nghĩa nặng với ân sâu,

Từ đây xin Chúa thương gìn giữ

Kẻo lỡ một mai vướng tội nào.

 

Hằng năm khi đến mùa trai tịnh

Vẳng tiếng ăn năn thấm lệ nhòa

Ta hãy rửa hồn cho thanh khiết

Ðể mừng long trọng lễ Vượt Qua.

 

Vũ trụ càn khôn cùng khép nép

Tôn thờ ca ngợi Chúa Ba Ngôi

Ðoàn con nhận lãnh ơn xá tội,

Dâng khúc tân ca cảm tạ Ngài.

 

 

 

Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðnl 30, 15-20

"Hôm nay tôi đề nghị với anh em về sự chúc lành và sự chúc dữ".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói với dân rằng: Này hôm nay tôi giãi bày cho anh em về sự sống và hạnh phúc, về sự chết và bất hạnh. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy đi trong đường lối Người và tuân giữ các giới răn, những lề luật và các huấn lệnh của Người, hầu anh em được sống và tăng số, và Chúa chúc lành cho anh em trên phần đất mà anh em sẽ chiếm hữu. Nhưng nếu lòng anh em không quay về, không muốn nghe, và chạy theo lầm lạc, thờ lạy và phụng sự các thần khác, thì hôm nay tôi tuyên bố với anh em rằng anh em sẽ chết, không được sống trên phần đất bên kia sông Giođan mà anh em sẽ chiếm hữu. Hôm nay, tôi xin trời đất làm chứng rằng: tôi đã đề nghị với anh em về sự sống và sự chết, sự chúc lành và sự chúc dữ. Vậy hãy chọn lựa sự sống để anh em và dòng dõi anh em được sống. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em, để anh em được ở trong đất nước mà Chúa đã hứa ban cho tổ phụ anh em là Abraham, Isaac và Giacóp".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6,2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 9, 22-25

"Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Chúa nói với mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?"

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm



  Mùa Chay là thời điểm phụng vụ cử hành mầu nhiệm "bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại"     



Chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh, như đã đề cập từ Thứ Tư Lễ Tro hôm qua, đó là "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), rất khít khao với bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm ngay sau Thứ Tư Lễ Tro, ngày thứ hai mở đầu Mùa Chay

Thật vậy, chủ đề "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lạiđược phản ảnh rất chính xác ngay câu Chúa Giêsu tiên báo về cuộc Vượt Qua của Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Thế nhưng, Giáo Hội cố ý chọn Bài Phúc Âm hôm nay không phải để nhấn mạnh đến Chúa Kitô cho bằng đến Kitô hữu, thành phần đã nhờ Phép Rửa mà được hiệp thông với cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thì cũng phải sống như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, ở chỗ, đáp ứng đúng như lời Người kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?"

Đúng thế, nếu "môn đệ không hơn Thày và tôi tớ không hơn chủ" (Mathêu 10:24), mà Thày và chủ đây "phải đau khổ nhiều, bị khai trừ và giết chết" thì bất cứ người môn đệ và đầy tớ nào của Người "muốn theo Thày" cũng không thể nào không "bỏ mình" và "vác thập giá mình hằng ngày mà theo" Người.

Chính Chúa Kitô cũng đã "bỏ mình" và "vác thập giá mình" ở chỗ "tuy là Con, Người cũng đã biết tuân phục ("bỏ mình"nơi những gì Người phải chịu ("vác thập giá mình")..." (Do Thái 5:8), đến độ "Người đã vâng lời cho đến chết ("bỏ mình") và chết trên thập giá ("vác thập giá mình")... " (Philiphe 2:8).

Là môn đệ của Chúa Kitô, nghĩa là thành phần được hiệp thông với cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô từ khi lãnh nhận Phép Rửa, từ khi đã chết cho con người cũ và mặc lấy Người là con người mới của họ (xem Epheso 4:22-14), Kitô hữu nào không sống với Chúa Kitô và như Chúa Kitô đã sống thì chẳng khác nào như một tên phản kitô, trong khi Người "tự bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" họ lại "muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất", mất Người là chính sự sống của họ và nơi họ.

Trái lại, chỉ có Kitô hữu môn đệ nào dám "mất sự sống mình" vì Người và cho Người, thì mới "được sống" vì bấy giờ "sự sống tôi đang sống không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), một "sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), một sự sống cao quí hơn tất cả mọi sự, hơn được "lời lãi cả thế gian" này. 

Dám "mất sự sống mình" đây, như chính gương của Người, nghĩa là Kitô hữu phải làm sao sống giống như một hạt lúa miến mục nát đi để sinh nhiều hoa trái (xem Gioan 12:24). Chính Chúa Kitô là hạt lúa miến được gieo xuống đất bằng việc nhập thể và đã mục nát đi nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, nên đã sinh nhiều hoa trái là ơn cứu độ cho trần gian bằng cuộc phục sinh của Người.

Nếu Chúa Kitô, trước cuộc Vượt Qua của mình, đã sánh Người giống như một hạt lúa miến được gieo xuống đất cần phải bị mục nát đi để sinh nhiều hoa trái, đúng như Người đã tiên báo: "Tôi bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), thì nhân của Hạt Lúa Miến Thần Linh Kitô này đây là thần tính của Người và vỏ của của Hạt Lúa Miến Thần Linh Kitô này đây là nhân tính của Người, một nhân tính vỏ bọc bao gồm cả hồn lẫn xác của Người đã thực sự bị mục nát đi nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, nhờ đó thần tính nhân trung của Người đã được rạng ngời tỏ hiện nơi cuộc phục sinh vinh hiển của Người.

Cũng thế, hạt lúa miến Kitô hữu cũng cần phải bị mục nát đi trong lòng đất thế gian, trong cuộc đời của họ, không phải mục nát ở nhân mà là ở vỏ bọc. Nhân của hạt lúa miến không thể nào nẩy mầm và mọc lên nếu vỏ của nó không bị mục nát đi, nghĩa là không mở ra thế nào, thì nhân trung Chúa Kitô nơi hạt lúa miến Kitô hữu cũng chỉ hoàn toàn nẩy nở và phát triển cho khi đạt đến tầm vóc thành toàn của Người là Đầu nơi họ (xem Epheso 4:13-15), ở chỗ cái vỏ nhân tính nơi hạt lúa miến Kitô hữu mục nát đi, bằng việc họ hoàn toàn tín thác vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Chúa Kitô là Đấng đang sống trong họ và muốn tỏ mình ra cho họ và qua họ cho thế gian.

Chiều hướng "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống", như vừa cảm nghiệm ngay ở đoạn trên đây, một từ bỏ không phải là tự diệt mà chính là việc sự sống tự bản tính là những gì bất diệt sẽ vĩnh viễn tồn tại và phát triển nơi bản thân Kitô hữu và trong cuộc đời của họ, cũng đã được sáng tỏ ở nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay, qua lời của Moisen nhắn nhủ và kêu gọi dân Do Thái được Sách Đệ Nhị Luật ghi lại như sau:

"Hôm nay, tôi xin trời đất làm chứng rằng: tôi đã đề nghị với anh em về sự sống và sự chết, sự chúc lành và sự chúc dữ. Vậy hãy chọn lựa sự sống để anh em và dòng dõi anh em được sống. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em, để anh em được ở trong đất nước mà Chúa đã hứa ban cho tổ phụ anh em là Abraham, Isaac và Giacóp".

Đúng thế, "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống", theo Bài Đọc 1 hôm nay, là ở chỗ không sống theo bản tính tự nhiên đã bị băng hoại theo nguyên tội, một bản tính đã chất chứa đầy những mầm mống chết chóc và liên lỉ xu hướng về chết chóc, như Bài Đọc 1 diễn tả: "chạy theo lầm lạc, thờ lạy và phụng sự các thần khác", trái lại, sống đúng như những gì Thiên Chúa muốn, ở chỗ "tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em".

Bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về cả thành phần "công chính" liên quan đến "sự sống" và "chúc lành" lẫn thành phần "gian ác" liên quan đến "sự chết" và "chúc dữ", hai thành phần tiêu biểu này hoàn toàn hợp với những lời Chúa Giêsu nói trong Bài Phúc Âm hôm nay: "ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống": 

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. 

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. 

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. 



Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 58, 1-9a

"Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn không?"

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ngươi hãy hô to, và đừng ngừng tiếng; hãy làm cho tiếng ngươi vang dội như tiếng kèn, và loan báo cho dân Ta biết sự bất trung của họ, cho nhà Giacóp biết tội lỗi của nó. Vì hằng ngày họ tìm kiếm Ta, và ước mong biết đường lối Ta, như một dân tộc thực hiện công lý và không bỏ lề luật Chúa. Họ hỏi Ta về quy tắc công lý và ước mong đến gần Thiên Chúa: "Tại sao chúng con ăn chay mà Chúa không thấy? Tại sao chúng con hãm mình mà Chúa không hay biết?" Phải, trong ngày ăn chay, các ngươi lo dàn xếp công việc làm ăn, các ngươi hối thúc mọi người làm công. Phải, các ngươi ăn chay trong sự cãi vã, ẩu đả và đánh nhau hung tợn. Các ngươi đừng ăn chay như xưa nay, là cố la lớn tiếng cho người ta nghe. Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn, có phải như thế là ngày hãm mình không? Gục đầu như bông sậy, mặc áo thô, nằm trên đống tro, có phải đó là ăn chay, là ngày làm cho Chúa hài lòng không? Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao, là huỷ bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng; hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạt không nhà; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ áo mặc, ngươi đừng khinh bỉ người cùng xác thịt như mình. Như thế, sự sáng ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, khi ngươi kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: "Này Ta đây".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung (c. 19b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33,11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống".

 

Phúc Âm: Mt 9, 14-15

"Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay".

Ðó là lời Chúa. 


Eating with Sinners - A Sermon


Suy niệm

  

 Bất cứ thứ chay tịnh nào không mang lại sự sống đều là tác hại và giả dối, cần phải loại bỏ....

Như thế thì Mùa Chay đã bắt đầu ngay từ trong Địa Đường trước nguyên tội. 


Hôm nay, Thứ Sáu, sau Thứ Tư Lễ Tro, ngày thứ ba của Mùa Chay, Chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay, một bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu chỉ có vỏn vẹn 2 câu, một bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm trong phụng niên, giống như Bài Phúc Âm Thứ Bảy Tuần 2 Thường Niên theo Thánh Marco cũng chỉ có 2 câu (3:20-21)

Hai câu của Bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu hôm nay nguyên văn đó là: "Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: 'Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?' Chúa Giêsu nói với họ: 'Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay'".

Qua câu trả lời này của mình, Chúa Giêsu chẳng những tự nhận Người như là một "tân lang" và Người so sánh các môn đệ của Người như là "các khách dự tiệc cưới", mà Người còn sâu xa ám chỉ đến lời tiên báo khẳng định về ý định liên quan tới số phận đóng vai trò cứu độ của Người nữa: "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại", ở chỗ "rồi sẽ có ngày tân lang ra đi".

Như Bài Phúc Âm cho ngày thứ hai ở ngay đầu Mùa Chay hôm qua, lời tiên báo về cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô bao gồm cả việc bỏ mình và vác thập giá mà theo Người nơi các môn đệ của Người, bài Phúc Âm cho ngày thứ sáu ở đầu Mùa Chay hôm nay cũng thế, chẳng những liên quan đến số phận khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô mà còn đến cả ơn gọi hiệp thông cứu độ với Người của các môn đệ theo Người nữa: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay".

Thật vậy, nếu "ngày tân lang ra đi" đây là thời điểm Người cần phải lìa bỏ các môn đệ của Người để hoàn thành ý muốn của Đấng đã sai Người bằng một cuộc khổ nạn và tử giá của Người, một cuộc khổ nạn và tử giá hoàn toàn trái với tất cả những gì thành phần môn đệ của Người nói riêng và dân Do Thái nói chung vốn trông đợi ở nơi một Đấng Thiên Sai đầy quyền năng và thế lực thần linh như Người.

Trong khi chung dân Do Thái và riêng các môn đệ của Chúa Kitô mong đợi một Đấng Thiên Sai, như thời các Quan Án sau khi vào Đất Hứa và trước thời Chư Vương xưa, đến để giải thoát dân tộc của họ khỏi tình trạng bị đô hộ bởi Đế quốc Roma bấy giờ thì Người, Đấng bị đóng đinh với tư cách trước chính quyền Roma là "Vua Dân Do Thái" lại không thể nào xuống khỏi thập giá và không thể nào tự cứu được bản thân mình (xem Mathêu 27:37-44).

Vấn đề và cốt lõi của việc chay tịnh nơi các môn đệ Chúa Kitô: "bấy giờ họ mới giữ chay" đây, trước hết và trên hết là ở chỗ đó, là ở chỗ các vị, về mặt tiêu cực, cần phải chấp nhận tất cả những gì hoàn toàn trái với ý nghĩ và ý muốn của các vị về vị Đại Sư Phụ vô cùng kính mến của các vị. Chưa hết, "bấy giờ họ mới giữ chay" đây, về mặt tích cực, còn ở chỗ, các vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Người, dù phải xa Người, không còn được gần gũi với Người về thể lý nữa, như thể các vị đã bị mất đi những gì chính yếu nhất của con người các vị và cho cuộc đời các vị.

Thế nhưng, chính việc "bấy giờ họ mới giữ chay" này lại một điều kiện tối cần bất khả thiếu để các vị có thể không bao giờ xa Người nữa, mất Người nữa, trái lại, còn gần Người hơn bao giờ hết, còn hiệp nhất nên một với Người hơn ai hết, như lời Người quả quyết trong Bài Phúc Âm hôm qua "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống". 

Việc các môn đệ của Chúa Kitô "bấy giờ họ mới giữ chay" vào "ngày tân lang ra đi", một cuộc "ra đi" với một trong những mục đích "là để dọn chỗ cho các con để Thày ở đâu các con cũng sẽ được ở đó với Thày" (Gioan 14:3)chính là việc các vị "mất mạng sống vì Ta", nghĩa là việc các vị tiếp tục tin tưởng vào Người, ở chỗ chờ đợi Người và sẵn sàng theo Người cho tới cùng: "Họ theo Con Chiên đi đến những nơi Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), như vị đệ nhất môn đệ là Maria Mẹ của Người ở dưới chân cây thập giá của Người (xem Gioan 19:25).

Ý nghĩa của việc chay tịnh có tính cách tích cực theo chiều hướng cứu độ như nơi trường hợp của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng là những gì chính yếu đã được nhấn mạnh đến trong Bài Đọc 1 hôm nay, trong đó, qua miệng của Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa đã  khiển trách dân Do Thái về kiểu cách bất xứng trong việc họ chay tịnh khiến việc chay tịnh của họ chẳng những trở thành vô hiệu mà còn làm mất lòng Chúa nữa. 

"Phải, trong ngày ăn chay, các ngươi lo dàn xếp công việc làm ăn, các ngươi hối thúc mọi người làm công. Phải, các ngươi ăn chay trong sự cãi vã, ẩu đả và đánh nhau hung tợn. Các ngươi đừng ăn chay như xưa nay, là cố la lớn tiếng cho người ta nghe. Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn, có phải như thế là ngày hãm mình không? Gục đầu như bông sậy, mặc áo thô, nằm trên đống tro, có phải đó là ăn chay, là ngày làm cho Chúa hài lòng không?" 

Thiên Chúa không phải chỉ khiển trách dân Do Thái về việc ăn chay bất xứng và vô dụng của họ, Ngài còn cho họ biết việc chay tịnh theo đúng như ý Ngài muốn như thế nào nữa, nhờ đó, họ mới có thể được sống và sống viên mãn hơn, như Ngài tiếp tục phán dạy họ qua Tiên Tri Isaia như sau:

"Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao, là hủy bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng; hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạt không nhà; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ áo mặc, ngươi đừng khinh bỉ người cùng xác thịt như mình. Như thế, sự sáng ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, khi ngươi kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: 'Này Ta đây'".

Ý nghĩa và mục đích của việc chay tịnh không phải là tự diệt, là sự chết mà là phát triển, là sự sống, theo ý nghĩa gắn liền với những gì là vui tươi, như nơi hình ảnh của "tân lang", hình ảnh của "các khách dự tiệc cướiđược Chúa Giêsu sử dụng trong Bài Phúc Âm hôm nay để trả lời cho vấn đề chay tịnh được "các môn đệ của Gioan" đặt ra hỏi Người về lý do "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?"   

Bởi thế, bất cứ thứ chay tịnh nào không mang lại sự sống đều là tác hại và giả dối, cần phải loại bỏ. Thế nhưng, bất cứ thứ chay tịnh nào mang lại sự sống đều phải tuân hành bằng không sẽ phải chết. Điển hình là trường hợp hai nguyên tổ đã không chịu chay tịnh nên mới gây ra nguyên tội, ở chỗ các vị không chịu kiêng ăn trái cấm Thiên Chúa không cho đụng vào kẻo phải chết (xem Khởi Nguyên 2:17,3:3). Như thế thì Mùa Chay đã bắt đầu ngay từ trong Địa Đường trước nguyên tội.

Đó là lý do thứ chay tịnh mang tính cách tích cực đúng như Thiên Chúa muốn, như Ngài phán dạy trong Bài Đọc 1 hôm nay, mới làm cho những ai thực hành thứ chay tịnh chính đáng này "tỏ rạng như hừng đông, các vết thương (của họ) sẽ lành nhanh chóng; công lý (của họ) sẽ đi trước mặt (họ), vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho (họ). Như thế, khi (họ) kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; (họ) la lên, Chúa sẽ phán: 'Này Ta đây'". 

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình ăn năn thống hối tội lỗi của Vua Đavít trong Thánh Vịnh 50 của vua, trong đó, cũng cho thấy nếu việc chay tịnh hướng đến ơn cứu độ thì không thể không dính liền với lòng thống hối ăn năn, một tấm lòng thống hối ăn năn, tự bản chất của nó, cũng là việc chay tịnh căn bản nhất và cần nhất nơi những ai muốn được cứu độ, một việc chay tịnh đẹp lòng Chúa còn hơn cả chính "lễ toàn thiêu" nữa, vì việc chay tịnh này được thực hiện với tất cả "tâm hồn tan nát khiêm cung".

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. 

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. 


Ngày 07: Thánh Perpêtua và Fêlicita, tử đạo

I. ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ

Lịch sử về cuộc đời hai thánh tử đạo tiên khởi khá mù mờ nhưng trong những truyền thuyết mù mờ về đời sống các vị tử đạo tiên khởi đó, chúng ta vẫn may mắn có được ít tài liệu về sự can đảm của Thánh Perpetua và Felicita từ chính nhật ký của Thánh Perpetua và của giáo lý viên Saturus, cũng như một số những chứng nhân. Văn bản này, thường được gọi là “Sự Tử Ðạo của Perpetua và Felicita,” được nổi tiếng trong các thế kỷ đầu tiên đến nỗi văn bản ấy đã được đọc trong phụng vụ.

Vào năm 203, Vibia Perpetua quyết định trở nên một Kitô hữu, mặc dù ngài biết điều đó có thể dẫn đến cái chết trong thời kỳ bách hại của Septimus. Một người em trai của ngài cũng noi gương và trở nên người dự tòng. Cha của ngài cuống cuồng lo âu, và ông cố gắng thay đổi ý định của ngài. Sự lo âu của ông cũng dễ hiểu, vì một phụ nữ 22 tuổi, hăng say và có học thức như Perpetua thì không có lý do gì lại muốn chết - chưa kể ngài còn có một đứa con mới sinh.

Nhưng thái độ của Perpetua thì rất rõ ràng. Ngài chỉ tay vào một bình đựng nước, và hỏi cha ngài,

- Cha có thấy cái bình đó không ? Cha có thể gọi nó một cái tên nào khác với bản chất của nó không ?.

Người cha trả lời,

- Dĩ nhiên là không.

Và Perpetua thản nhiên tiếp lời,

- Con cũng không thể gọi con bằng một cái tên nào khác hơn là bản chất của con - một Kitô hữu.

Câu trả lời đã làm người cha bực mình và ông đã tấn công chính con mình. Nhật ký Perpetua kể cho chúng ta biết, sau biến cố ấy ngài phải sống tách biệt với cha ngài trong vài ngày, và sự tách biệt ấy đã đưa đến sự bắt bớ và tù đày của chính ngài.

Perpetua bị bắt với bốn người dự tòng khác, kể cả hai người nô lệ là Felicita và Revocatus. Người dạy giáo lý cho các ngài là Saturus đã bị bắt trước đó.

Nhà tù đầy những con người đến nỗi họ ngộp thở vì nóng nực và không có một chút ánh sáng. Quân lính thì xô đẩy họ không một chút xót thương. Perpetua thật khiếp sợ, nhưng trong tất cả những sự ghê rợn ấy, điều đau khổ lớn lao nhất của ngài là phải xa cách đứa con thơ.

Người nô lệ trẻ tuổi là Felicita lại càng đáng thương hơn nữa, vì ngài đang mang thai đã được tám tháng tuổi và phải sống trong cái nóng nực, chen chúc, và thô bạo ấy.

Hai phó tế phục vụ tù nhân đã đút lót cho lính canh để các ngài được có một chỗ ở tốt nhất trong nhà tù. Ở đó, mẹ và em của Perpetua đã đến thăm và đưa con đến cho ngài. Khi được phép giữ con trong tù, ngài cảm thấy “nhà tù trở nên như cung điện”. Cha ngài lại nài nỉ ngài thay đổi ý định, ông hôn tay ngài và ngay cả quỳ dưới chân ngài. Perpetua nói với ông, “Chúng ta không thể dựa vào quyền thế của chúng ta, nhưng vào quyền thế của Thiên Chúa”.

Trong khi ngài bị đưa ra xét xử, cha ngài cũng đi theo, nài nỉ quan tòa. Vì thương hại, quan tòa cũng cố thay đổi ý định của Perpetua, nhưng ngài vẫn cương quyết, và cùng với các người khác, ngài bị kết án tử hình bằng cách bị ném cho thú dữ ăn thịt trong đấu trường.

Trong khi đó Felicita cũng rất đau khổ. Theo luật lệ, giết người phụ nữ mang thai là điều trái phép. Giết hài nhi trong bụng mẹ là đổ máu người vô tội và linh thiêng. Trong khi đó, Felicita lại lo rằng ngài không kịp sinh con trước ngày tử đạo, và các bạn ngài sẽ bước vào vinh quang ấy mà không có ngài.

Hai ngày trước khi bị hành quyết, Felicita đau đớn chuyển bụng. Bọn lính canh chế giễu, nhục mạ ngài và nói,

- Nếu đau đớn bây giờ mà còn chịu không nổi, thì làm sao đương đầu với thú dữ ?

 Felicita điềm tĩnh trả lời:

 - Bây giờ tôi là người phải chịu đau khổ, nhưng trong đấu trường, một Ðấng khác sẽ ở trong tôi, chịu đau khổ giùm tôi vì tôi đã chịu đau khổ vì Ngài.

 Felicita sinh hạ một bé gái kháu khỉnh và được một Kitô hữu ở Carthage nhận làm con nuôi.

Vào ngày bị hành quyết, bốn bổn đạo mới và giáo lý viên bước vào đấu trường với niềm vui và sự bình thản. Khi dân chúng đòi hỏi Perpetua và các bạn ngài phải mặc y phục dành cho việc thờ cúng tà thần, Perpetua đã đối chất với các lý hình:

- Chúng tôi tự ý chịu chết để được tự do thờ phượng Thiên Chúa của chúng tôi. Chúng tôi đã trao mạng sống cho các ông thì không có lý do gì chúng tôi phải thờ lạy thần thánh của các ông.

Và các ngài đã được phép mặc quần áo của mình.

Những người đàn ông thì bị tấn công bởi gấu, beo và heo rừng. Các phụ nữ thì bị bò dại tấn công. Perpetua, dù bị tan nát và rối bời, ngài vẫn nghĩ đến các bạn và chạy đến giúp Felicita đứng dậy. Cả hai đã đứng cạnh nhau khi bọn lính cắt cổ tất cả năm vị tử đạo.

II. BÀI HỌC

Nói về sự tử đạo Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 2473 đã viết rất hay: “Sự tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết. Vị tử đạo làm chứng cho Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, mà họ được liên kết với Người bằng đức mến. Vị tử đạo làm chứng cho chân lý đức tin và đạo lý Kitô giáo. Vị tử đạo chịu chết bằng hành vi của đức can đảm. “Hãy để tôi trở nên mồi ngon cho ác thú, nhờ việc này mà tôi được đến với Thiên Chúa”

Chính Chúa Giêsu đã muốn như thế. Chúa muốn mọi người làm chứng cho Chúa và làm chúng bằng cái chết của mình là một bằng chứng cao cả nhất.Và Chúa đã không phải thất vọng.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng, Chúa Giêsu sau khi chịu nạn trên thập tự giá, đã phục sinh trở về trong vinh hiển, Ngài vẫn còn mang dấu vết của sự đau thương. Một trong những vị thiên sứ nói với Ngài rằng:

- Chúa chắc đã chịu thống khổ vô cùng vì loài người dưới đó ?

Chúa Giêsu đáp:

- Đúng vậy!

Thiên sứ hỏi tiếp:

- Có phải tất cả mọi người đều biết những gì Ngài làm cho họ không ?

Chúa Giêsu trả lời:

- Chưa, chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.

Thiên sứ hỏi tiếp:

- Thế thì Ngài đã làm gì để giúp mọi người biết ?

Chúa Giêsu đáp:

- Ta đã dặn Phêrô, Giacôbê và Gioan lãnh trách nhiệm đi nói với những người khác, rồi những người khác nói cho những người khác, rồi cho những người khác nữa, cho đến lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên địa cầu đều được nghe.

Thiên sứ nhìn với vẻ nghi ngờ, vì vị này hiểu rõ con người như thế nào, nên nói tiếp:

- Vâng, nhưng nếu Phêrô, Giacôbê và Gioan quên đi thì sao ? Nếu họ mệt mỏi trong sự rao giảng thì sao ? Hoặc nếu những người ở thế kỷ 20 không thực hiện trọng trách thuật lại về câu chuyện tình yêu của Ngài cho họ thì sao ? Như thế thì sao ? Ngài không lập những chương trình khác sao ?

Chúa Giêsu trả lời:

- Ta không sắp đặt một chương trình nào khác. Ta đặt tin tưởng nơi họ.

Chúa Giêsu đã chết để ban cho chúng ta Phúc âm và hiện nay Ngài đang tin cậy nơi chúng ta để chuyển đạt Phúc âm đó đến cho tất cả mọi người.

Chúng ta hãy làm cho mọi người trên thế giới này được biết và được sống Tin Mừng yêu thương của Chúa. Amen.

Trong nhật ký, Perpêtua mô tả: “Một ngày thật khủng khiếp! Nóng khủng khiếp vì chật người! Bị lính cư xử tồi tệ! Lại khổ nữa, tôi bị dày vò vì lo lắng cho đứa con... Những mối lo lắng như vậy tôi phải chịu đựng nhiều ngày, nhưng tôi được phép cho con ở trong tù với mình, và được bớt lo lắng về con, tôi hồi phục sức khỏe, nhà tù là cung điện tôi ở và tôi nên ở đó hơn bất cứ nơi nào khác”. Vài ngày sau, Phêlicita sinh một bé gái trước khi bị thú dữ giết chết. Nhật ký của Perpêtua về cảnh tù đày hoàn tất ngày hôm trước bị giết chết. “Về những gì thuộc về trò chơi dã man, hãy để họ viết đó là ai”. Nhật ký của Perpêtua được một nhân chứng hoàn tất thêm. (đoạn cuối cùng này được thêm vào bởi người chia sẻ PVLC ở đây).

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-07-03-thanh-nu-perpetua-va-thanh-nu-felicita-53748

thánh Pécpêtua và thánh Phêlixita




 

Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 58, 9b-14

"Ngươi hãy ca tụng Chúa khi ngươi bỏ đường lối của ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Nếu ngươi loại bỏ ra khỏi tâm hồn sự đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc; khi ngươi hết lòng quảng đại với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái, thì sự sáng của ngươi xuất hiện trong tối tăm và tối tăm sẽ trở nên như giữa ban ngày. Và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươi, những điêu tàn ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi. Thiên hạ sẽ gọi ngươi là "kẻ tu bổ những chỗ sứt mẻ, kẻ tu bổ lại đường lối nơi cư ngụ".

"Nếu ngươi không tự tiện đi đường xa trong ngày Sabbat là ngày thánh, và ngươi coi ngày Sabbat là ngày hạnh phúc, ngày thánh, ngày hiển vinh của Thiên Chúa; nếu ngươi bỏ công ăn việc làm và những cuộc bàn tính mưu lợi mà ca tụng Chúa, thì ngươi sẽ được hoan lạc nơi Thiên Chúa, và Ta sẽ đưa ngươi lên làm chủ các núi đồi, Ta cho ngươi thừa hưởng gia nghiệp của Giacóp, tổ phụ ngươi, vì chính Chúa đã phán".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 85, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy con đường lối Chúa, để con sống theo chân lý của Ngài (c. 11a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

 

Phúc Âm: Lc 5, 27-32

"Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: "Hãy đi theo Ta". Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài. Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: "Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".

Ðó là lời Chúa.


My Reflections...: Reflection for February 20 Saturday after Ash Wednesday: Luke  5:27-32


Suy niệm


    

Không thể nào có vấn đề bỏ mình và chay tịnh để theo Chúa Kitô, 

để được hiệp thông cứu độ với Người, mà lại mang tâm trạng cho mình là công chính 

 

Thứ Bảy hôm nay, ngày thứ ba sau Thứ Tư Lễ Tro, cũng là ngày thứ tư đầu Mùa Chay, chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) được phản ảnh trong bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến thành phần tội nhân và lòng thống hối ăn năn.

Thật vậy, nếu "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" cho nhân loại thì, trước hết và trên hết, là cho những ai xứng đáng với giá cứu chuộc vô giá của Người và sự sống đời đời Người ban tặng. 

Tất nhiên người xứng đáng lãnh nhận mạng sống vô cùng quí báu của Chúa Kitô đã trở thành giá cứu chuộc vô giá cho nhân loại đó chính là và phải là thành phần tội nhân, thành phần bệnh nhân, chứ không phải thành phần công chính, thành phần lành mạnh, tức là thành phần tự cho mình là công chính, tự cho mình là lành mạnh, không cần đến thày thuốc, như chính Người khẳng định và tuyên bố ngay trước mặt "những người biệt phái và các luật sĩđang hiện diện trong "bữa tiệc linh đình thiết đãi Người tại nhà (Levi)" là viên thu thuế đã được Người kêu gọi "Hãy đi theo Tavà cũng đã "liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người": 

"Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải". Như chính việc Người kêu gọi viên thu thuế Levi, việc Người vào nhà của tên tội nhân này và nhất là việc Người đồng bàn với thành phần tội nhân trong số thân nhân bạn hữu của chàng Levi này là một bằng cớ hùng hồn chứng thực lời Người công khai tuyên bố ấy.

Vấn đề hay đề tài chính của phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1, là lòng thống hối ăn năn, một vấn đề cũng là đề tài rất thích hợp với Mùa Chay, rất hợp với chủ đề của Mùa Chay: "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lạiđể cho những ai đáng thương (tội nhân) nhưng xứng đáng (thống hối).

Đúng thế, nếu vấn đề hay đề tài bỏ mình của ngày Thứ Năm sau Thứ Tư Lễ Tro và vấn đề hay đề tài chay tịnh của ngày Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro áp dụng hầu như cho thành phần môn đệ của Chúa Kitô, thì vấn đề hay đề tài thống hối ăn năn ở chung Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cũng như ở riêng Bài Phúc Âm hôm nay là những gì áp dụng cho chung tất cả mọi người, bao gồm cả những con người chưa phải là môn đệ của Chúa Kitô. 

Tuy nhiên, thậm chí là cho thành phần môn đệ của Chúa Kitô trên danh nghĩa đi nữa, nhưng trong thực tế vẫn sống mâu thuẫn với danh phận làm môn đệ của mình, họ sống như thể họ không phải là người theo Chúa Kitô, vì họ tự cho mình là công chính, tức là họ đã tỏ ra không cần đến Chúa Kitô nữa

Bởi thế, không thể nào có vấn đề bỏ mình và chay tịnh để theo Chúa Kitô, để được hiệp thông cứu độ với Người, mà lại mang tâm trạng cho mình là công chính, không cần đến Chúa Kitô, không cần đến ơn cứu độ của Người, nếu trước hết và trên hết không có lòng thống hối ăn năn, không biết mình cho dù đã được cứu độ nhưng vẫn phải được tiếp tục cứu độ cho đến cùng, tức là bền đổ cho đến cùng mới được cứu độ (xem Mathêu 24:12)

Thật ra, khi lãnh nhận Phép Rửa, cho dù vô thức, như khi còn là một em bé sơ sinh, hay khi là người lớn song vẫn chưa ý thức trọn vẹn ý nghĩa của Phép Rửa, thì tự việc lãnh nhận Phép Rửa này của họ, đã là một lời tuyên xưng tôi là kẻ có tội vô cùng khốn nạn đáng thương, và tôi cần đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất ban ơn cứu độ cho tôi.

Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ, sau khi trở thành Kitô hữu rồi, sau khi đã được thanh tẩy cho khỏi nguyên tội và được thánh hóa bởi Thánh Linh rồi, trong cuộc sống đức tin, có một số tâm hồn lại tỏ ra hãnh diện về đời sống đạo đức tốt lành của mình, đến độ khinh bỉ người khác, nhất là đối với những người anh chị em sống khô khan nguội lạnh, sống tội lỗi bê tha, như thể họ cho rằng họ nên công chính là do công khó của họ chứ không phải là nhờ ơn Chúa.

Việc tự cho mình là công chính của thành phần Kitô hữu sau Phép Rửa này có thể nói là việc họ tự tử thiêng liêng, ở chỗ họ ngấm ngầm cho mình là cùng đích của họ, là master làm chủ họ, là thày của họ chứ không phải là Thày Kitô, không còn Thày Kitô nào khác ngoài chính bản thân tự công chính của họ, nghĩa là họ tự chặt mất đầu của họ là Chúa Kitô, họ tự thắt cổ của mình làm cho cả cơ thể của họ không còn hiệp thông với luồng khí Thần Linh trong Nhiệm Thể Chúa Kitô nữa.  

Không phải việc bác bỏ cảm nhận tự cho mình là công chính, hay nói cách khác, không phải việc bác bỏ tính cách lập công trong việc mình làm, mà chúng ta trở thành những Kitô hữu duy tín, nghĩa là những Kitô hữu chỉ cần tin là được cứu rỗi, không cần phải làm gì nữa, kẻo những công việc Kitô hữu làm, hay những gì họ gọi là "công nghiệp" ấy sẽ làm mất đi hay giảm bớt đi giá trị vô cùng cao cả của công nghiệp Chúa Kitô. Trái lại, chính vì "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6) nên "đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Giacôbê 2:14). 

Thế nhưng việc làm của đức tin nơi Kitô hữu đây, không thể nào thiếu đây, tự nó không mang tính cách lập công để chiếm thưởng, cho bằng tính cách con người cần phải có những việc làm cụ thể và thích đáng trong việc đáp ứng tác động thần linh, đáp ứng Thánh Sủng, đáp ứng Đức Ái, đáp ứng Sự Sống Thần Linh, một Sự Sống Thần Linh đã được ban cho Kitô hữu khi họ lãnh nhận Phép Rửa, và như một mầm sống thần linh cần phải được nẩy mầm và triển nở nơi một con người thích đáng như là một mảnh đất tốt.  

Chính Thánh Sủng, chính Đức Ái, chính Thánh Linh ở nơi Kitô hữu mới là nguyên nhân chính, mới là nguyên động lực chính, mới là tác nhân chính làm cho Kitô hữu nên công chính, chứ không phải tự nguyên việc làm của họ, chứ không phải do công lao họ lập được, để rồi nhờ đó họ cũng mới thực sự được nên công chính, và càng ngày họ càng nên công chính hơn nữa khi họ biết hưởng ứng và có những đáp ứng thần linh một cách cân xứng, nhất là khi họ biết chia sẻ và truyền đạt những gì họ lãnh nhận cho tha nhân, cho đồng đạo, để xây dựng công ích, để phát triển Nhiệm Thể Chúa Kitô

Mảnh đất nhân tính của họ không thể nào trở thành một cây mọc lên xum xuê nếu nhân tính ấy không có hạt giống đức tin, hạt giống thần linh gieo vào. 

Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy chiều hướng đáp ứng thần linh tích cực đầy hiệu quả, ở chỗ sống chia sẻ bác ái yêu thương: "hết lòng quảng đại với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái", chứ không phải thái độ bất cần của một kẻ tự cho mình là công chính, một thái độ hoàn toàn phản chứng yêu thương: "tâm hồn đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc", có tính chất thui chột và tự diệt.  

Nhờ các đáp ứng thần linh mang tính cách bác ái yêu thương như thế nơi những tâm hồn sống trong sự thật, mà tâm hồn của họ càng trở nên công chính và cuộc đời của họ càng phát triển cho đến tầm mức hoàn hảo theo tác động thần linh của Thiên Chúa, như những gì được Tiên Tri Isaia ám chỉ bằng những hình ảnh tươi sáng trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

"Thiên Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươinhững điêu tàn ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi".

Tâm tình của thành phần cho mình là một tội nhân đáng thương nếu chân thành nhìn nhận mình như một kẻ khốn cùng cần được cứu độ và đáng được Vị Thiên Chúa từ bi thương xót cứu độ sẽ vang lên những lời nguyện đầy tin tưởng của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. 

2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. 

3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. 



Ngày 08: Thánh Gioan Thiên Chúa, tu sĩ lập dòng

 

 

Bối cảnh xã hội Châu Âu tiền bán thế kỷ XVI[4]

"Mỗi người là một đứa con của thời đại" (Hegel) và "Mỗi vị sáng lập Dòng tu cũng là những đứa con của thời đại, chịu ảnh hưởng sâu đậm của thời đại và đã cố gắng trả lời cho những thách đố riêng của thời đại. Chính vì vậy, linh đạo của họ vừa ghi đậm dấu ấn cá nhân, vừa dấu ấn văn hóa, điạ lý và thời đại đã khai sinh ra nó"[5], những nhận định này quả thật chí lý. Vì thế, chúng ta không thể hiểu rõ hơn được linh đạo Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa nếu chúng ta không tìm hiểu bối cảnh xã hội thời thế kỷ XVI tại Châu Âu nói chung và Tây Ban Nha nói riêng.

Như chúng ta biết, thánh Gioan Thiên Chúa sống vào giai đoạn cuối thế kỷ XV và nửa đầu thế kỷ XVI, một giai đoạn lịch sử mà ở Châu Âu có nhiều vấn đề phức tạp về chính trị và tôn giáo.

Trước khi có thể nói riêng đôi nét về chính trị và tôn giáo, chúng ta nên biết là vào thời này tôn giáo và chính trị dường như không có sự tách biệt như ngày nay. Các vua quan cũng can thiệp vào những vấn đề của tôn giáo, và các giáo sĩ cũng lo những việc chính trị như các vua quan trần thế.

Về chính trị, nước Tây Ban Nha nằm trong khối Hoàng đế La Đức, họ phải cùng với khối Công giáo Châu Âu chống trả sự xâm chiếm của quân Man di, Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi đánh chiếm lại được vị trí cuối cùng của Hồi giáo tại ngay thủ đô Grenade của họ vào năm 1492, người Tây Ban Nha lại phải chiến tranh nhiều lần với quân Pháp trong thế kỷ XVI. Cuộc chiến giữa Tây Ban Nha với Pháp vẫn chưa kết thúc, thì Quân Thổ Nhĩ Kỳ lại xâm chiếm Hungary, Bude và đang vây hãm thành Vienna. Tây Ban Nha lại phải chi viện binh lính đến đây để chống trả Hồi giáo. Khối công giáo trong đế quốc La Đức mặc dù chiến thắng quân Thổ ở Vienne, nhưng vẫn phải luôn chuẩn bị để đối phó và tiếp tục đánh đuổi Man di ra khỏi những nước Công giáo mà họ đang chiếm đóng. Trong khi đang sống trong cảnh chiến tranh đó, thì lại xẩy ra vấn đề ly giáo của Martin Luther ở Đức, Zwingli ở Thụy Sĩ và Canvin ở Pháp. Sự kiện ly giáo này kéo theo một số ông hoàng, nên Hoàng đế Carlos Quinto lại phải can thiệp để ổn định trật tự trong đế quốc. Giải quyết những khó khăn này chưa xong thì lại có sự ly giáo ở Anh quốc, khởi đầu do Henry VIII và chính thức dưới thời nữ hoàng Elisabeth năm 1559.

Tưởng chừng chính sự là chuyện của các vua quan trần thế, nhưng như chúng ta đã nói trên đây, thời bấy giờ không có sự phân biệt rõ rệt giữa tôn giáo và chính trị. Chính vì thế, nhiều Giáo hoàng trong giai đoạn này cũng lo cầm quân đi đánh trận, cụ thể như Đức Giulio II (1503-1513), được người ta xem là một nhà binh mã hơn là một Giáo hoàng. Đức Leô X (1513-1521) là người say mê văn chương và nghệ thuật, để rồi giáo triều không còn là chỗ bàn chuyện đạo lý, mà "trở thành nơi viết sách, ngâm thơ, trình bày nghệ thuật một cách đáng phàn nàn" (Nhưng cũng chính nhờ thời kỳ này mà nghệ thuật Châu Âu đạt đến đỉnh cao của mình) ; và khi ngài mặc phẩm phục Giáo Hoàng thì không phải là để giảng đạo lý yêu thương, phục vụ người đau khổ mà "tham dự các buổi trình diễn văn nghệ, săn bắn, hội hè"[6]. Lùi về trước hai vị Giáo hoàng này, chúng ta còn gặp một vị Giáo Hoàng có thể nói là tai tiếng nhất trong lịch sử Giáo hội, Đức Alexandrô IV (1492 - 1503), một người chỉ biết lo chuyện hưởng lạc thú cá nhân và lo cho gia đình, con cái hơn là lo cho đoàn chiên của Chúa Giêsu Kitô.

Trong giai đoạn này, ngoài việc các Giáo hoàng phải đánh quân Thổ Nhĩ Kỳ và quân Pháp, các ngài còn phải đối đầu với nhóm 5 Hồng y bất mãn với Tòa Thánh đứng về vua nước Pháp lúc bấy giờ đang đánh chiếm nước Tòa Thánh và phải họp công đồng Latran V để giải quyết vụ này; và nhất là phải đối đầu với nỗi đau trong nội bộ là những vấn đế tín lý và sự li khai của Martin Luther, Zwingli và Calvin, để rồi lại phải đổ sức ra lo triệu tập công đồng Trentô (1545-1563).

Tóm lại, giai đoạn mà thánh Gioan Thiên Chúa sinh sống, Châu Âu nói chung và Tây Ban Nha nói riêng phải luôn sống trong bầu không khí của chiến tranh, phân li tôn giáo ; một số Giáo hoàng thì mải mê với việc trần thế, một số Giáo hoàng khác lại phải lo tổ chức công đồng, hội họp để ổn định phẩm trật và đạo lý, nên chẳng còn mấy ai quan tâm đến những người bệnh tật, nghèo đói. Nhưng Chúa là Thiên Chúa tình yêu, Người luôn lo liệu để tình yêu của Người không vắng bóng trên trần thế này. Người được thôi thúc để diễn tả tình yêu của Chúa một cách đặc biệt cho những người đau khổ trong bối cảnh chiến tranh loạn lạc, nghèo đói, phân biệt tôn giáo, đảng phái… chính là Gioan Thiên Chúa. Nhưng con đường thiêng liêng của Gioan Thiên Chúa như thế nào ? Chúng ta cùng đi tìm câu trả lời trong phần tiếp theo.

Sơ lược tiểu sử thánh Gioan Thiên Chúa[1]

Thánh Gioan Thiên Chúa, lúc đầu có tên là Gioan Cidade, sinh vào khoảng năm 1495, tại làng Montermor O-novo. Cha là ông An-rê và mẹ là bà Tê-rê-xa. Năm lên tám tuổi, cậu theo một người khách lạ lưu lạc qua Tây Ban Nha. Khi đi đến vùng Oropesa, cậu bị bỏ rơi, và được gia đình ông François de Majoral nhận về nuôi dạy.

Gioan đã kinh qua nhiều ngành nghề trong đời như đi chăn súc vật, đi làm mã phu, hai lần đi lính (một lần đánh chiếm lại Fontarabia và một lần đánh quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Vienne), đi đắp thành ở Châu Phi, đi bán tranh ảnh, sách báo và bán củi ở Grenade.

Ngày 20.1.1539, anh được ơn biến đổi tâm hồn. Bài giảng của linh mục Gioan d’Avilla trong thánh lễ kính thánh Sébastiano tử đạo nói về sự nguy hiểm của tội lỗi và lòng xót thương của Thiên Chúa, đã làm Gioan cidade bị xúc động mạnh đến độ thần kinh bị kích động giống như những người bị điên lên cơn, và vì thế người ta đã đưa anh vào bệnh viện tâm thần Hoàng Gia Tây Ban Nha. Vì chỉ là bị giao động thần kinh, nên sau vài ngày thì anh ổn định trở lại. Nhưng anh đã xin được ở lại bệnh viện độ ba tháng để giúp đỡ các công việc vặt và trò chuyện, chăm sóc cho các bệnh nhân. Sau đó anh xin xuất viện, và vì được sự chỉ dạy của cha linh hướng - linh mục Gioan d'Avilla, vào tháng 10 năm đó, anh đi hành hương Đức Mẹ Guadaloupe. Trong thời gian hơn một tháng ở Guadaloupe anh đã tranh thủ đi học cách tổ chức bệnh viện cũng như chăm sóc bệnh nhân với các tu sĩ dòng Hiêrônimô. Trở về từ trung tâm hành hương kính Đức Mẹ nổi tiếng đó, tháng 12. 1539, Gioan bắt đầu thành lập một phòng khám đầu tiên tại phố Lucena, đúng ra thì đó chỉ là một ngôi nhà cho những người nghèo khổ, bệnh tật không có chỗ nương thân đến trú ngụ, và khi những bệnh nhân do chính Gioan đưa về hay tự họ tìm đến ngôi nhà này, thì việc đầu tiên Gioan làm là tắm rửa cho họ, băng bó những vết thương bị lở loét... Thấy công việc của anh tốt đẹp, đức cha Ramirez, giám mục thành Tuy đặt tên là Gioan Thiên Chúa, và vì anh có cái áo nào lành đều cởi cho người đói rách, nên đức cha cho anh mặc một loại áo giống như áo nhà tu và làm phép áo đó để anh không còn cho người khác.

Nhờ sự giúp đỡ của đức cha Ramirez, đức tổng giám mục Grenade và nhiều ân nhân, nên Gioan Thiên Chúa có điều kiện mở thêm những nhà khác và đi tìm kiếm và đón tiếp nhiều người đau khổ, bất hạnh. Thánh Gioan Thiên Chúa qua đời ngày 8.3.1550, do bị cảm lạnh nặng bởi trước đó mấy tuần ngài đã cố gắng lao mình xuống dòng nước buốt giá trong khi sức khỏe đã suy yếu, để cứu một thanh niên đi với củi với ngài bị lỡ chân rớt xuống sông Génil.

Đức giáo hoàng Alexandro tôn phong Gioan Thiên Chúa lên bậc hiển thánh vào ngày 16.10.1690, và đức Lêô XIII đặt ngài làm bổn mạng các bệnh nhân và các bệnh viện công giáo vào ngày 22.6.1886 ; và cùng với thánh Camilo de Lellis, được đức giáo hoàng Piô XI đặt làm đấng phù hộ các nghiệp đoàn Y tá công giáo và tất cả các nam nữ y tá trong mọi thời đại và mọi nơi vào ngày 28.8.1930.

Được xem là đấng sáng lập Dòng[2]

Có lẽ nhiều người khi đọc thấy tên "Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa", thì cứ tưởng ngài đã sáng lập dòng này. Đúng là thánh Gioan Thiên Chúa đã lập bệnh viện, đã phục vụ người đau khổ và đã quy tụ được những người cùng chí nguyện để tiếp nối công việc của mình. Nhưng đọc trong tiểu sử cũng như trong các lá thư còn sót lại của Gioan Thiên Chúa, người ta không tìm thấy một chỗ nào nói là ngài có ý muốn lập một dòng tu. Dòng Trợ Thế thánh Gioan Thiên Chúa thực ra được thành lập theo Giáo luật vài thập niên sau khi Gioan Thiên Chúa qua đời.

Vốn là sau khi Gioan Thiên Chúa trở về nhà Cha trên trời, các môn đệ vẫn duy trì được tinh thần phục vụ và công việc mỗi lúc một phát triển - bệnh nhân, người nghèo đói mỗi lúc một gia tăng, và vì vậy, các môn đệ của người càng phải đi lạc quyên đây đó nhiều hơn để trang trải. Trong khi các anh em này đi xin sự giúp đỡ của các ân nhân, thì nhiều kẻ đã bắt chước may loại áo giống áo các anh em trong bệnh viện Gioan Thiên Chúa mặc và đi lạc quyên. Thấy sự giả dạng này ảnh hưởng đến uy tín của anh em, nên anh Rodrigo de Seguenza đang làm trưởng nhóm mới bàn họp với anh em để có cách đối phó với tình trạng đó ; và có lẽ hơn nữa, được sự thúc dục của vua Philip II và Đức tổng giám mục thành Grenada, các anh em mới gửi hai anh em là Pietro Soriano và Sebastiano Arias sang Tòa Thánh, mang theo thư của Đức giám mục và nhà vua, để xin thành lập tu hội. Ngày 01.01.1571, Đức giáo hoàng Pio V đã chấp thuận đơn thỉnh nguyện, và ngoài việc chấp thuận trong mỗi bệnh viện có một anh em làm linh mục và được đi lạc quyên giúp cho bệnh nhân và người nghèo đói, ngài còn đồng ý cho anh em mặc một áo phép (scapulaire) bên ngoài như áo của các tu sĩ và để khác với áo mà những kẻ giả mạo bắt chước. Cùng với những điều anh em thỉnh nguyện, Đức giáo hoàng cũng truyền:

- Tuân giữ luật thánh Augustinô

- Tuân theo quyền tài phán của đức giám mục địa phương

- Hàng năm trình sổ sách tài chánh chi thu lên giám mục điạ phương

Được sự châu phê này anh em mới bắt đầu khấn ba Lời Khuyên Phúc Âm và lời khấn Trợ Thế, và anh em nhìn nhận thánh Gioan Thiên Chúa là Đấng sáng lập Dòng này[3].

Phục vụ không phân biệt

Việc phục vụ những người đau khổ của Gioan Thiên Chúa không chỉ nổi bật trong việc dốc toàn tâm toàn sức[9], mà còn nổi bật trong việc phục vụ không phân biệt. Sự không phân biệt ở đây không chỉ không lựa chọn phái nam hay phái nữ, già hay trẻ, giàu hay nghèo, người trong nước hay người ngoại quốc, mà còn ở chỗ không phân biệt tôn giáo.

Đây quả là một điều đặc biệt, một hành động cách mạng so với xã hội Châu Âu thời bấy giờ. Như chúng ta biết thời này Tòa tra của Giáo hội vẫn còn, sẵn sàng kết án và thiêu sống những ai chống đạo, chối đạo Công giáo[10]. Thế mà Gioan Thiên Chúa đã đưa những người bỏ đạo Công giáo theo Hồi giáo hay chính những người Hồi giáo bị phong cùi, bệnh tật, nghèo đói về chăm sóc. Khi ngài mang vác những người này về, thì ngay cả cha linh hướng trong bệnh viện cũng có lúc không bằng lòng và các người Công giáo đau khổ ở trong nhà của ngài chưởi rủa, xua đuổi họ, vì họ không ưa và sợ bị liên lụy bởi chính quyền, thì Gioan Thiên Chúa liền đưa họ vào phòng riêng của mình và chăm sóc cho đến khi họ qua đời[11]. Có lẽ chính nhờ điểm đặc biệt này mà truyền thống Giáo hội hay ví Gioan Thiên Chúa là "người Samari nhân hậu", và Hội dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa xem Luca 10, 29-37 là đoạn văn cách ngôn của mình là thế.

Khi đưa những người này về chăm sóc, với những người Công giáo theo đạo Hồi, Gioan Thiên Chúa cố gắng giúp họ trở về với Chúa. Còn đối với những người Hồi giáo, ngài cố gắng biểu lộ tình yêu sâu xa và chân thành nhất đối với họ, nhưng không áp đặt vấn đề tôn giáo lên họ. Hẳn hành động trên đây của thánh nhân là nền tảng cho số 43 Tổng Quy của Dòng, có đoạn viết: "Chúng ta tôn trọng tự do lương tâm của những người chúng ta chăm sóc và những người làm việc với chúng ta, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi họ tôn trọng căn tính của các trung tâm trợ thế của chúng ta." Và có thể nói đây chính là quan niệm của Vatican II về tự do lương tâm.

Phục vụ con người toàn diện

Gioan Thiên Chúa không phục vụ người đau khổ chỉ vì những đau khổ thể lý hay tâm lý của họ, mà ngài còn muốn phục vụ con người toàn diện, nghĩa là thể lý, tâm lý và tâm linh.

Quả thật, nếu Gioan Thiên Chúa chỉ phục vụ người khổ đau chỉ vì những khổ đau về thân xác và tâm lý, thì lối sống, lối phục vụ của ngài không thể trở thành một linh đạo, không thể diễn tả một khía cạnh nào đó của Chúa Giêsu Kitô được; việc làm đó sẽ chẳng khác gì công việc của dịch vụ y tế. Nỗi khát khao của Gioan Thiên Chúa là yêu mến Chúa Giêsu trên hết mọi sự[12] và mong muốn thể hiện tình yêu đó cho những người khổ đau giống như Chúa Giêsu xưa, để qua việc chữa lành thể chất dẫn đưa người ta đến với việc chữa trị tâm linh. Điều này được chứng tỏ qua những lời mà Gioan Thiên Chúa thường nói: "Qua xác yếu hèn tới hồn bất diệt."

Trong tiểu sử của Gioan Thiên Chúa, chúng ta thấy điều này rất rõ. Ngài thường nhờ các linh mục đến làm công tác mục vụ trong bệnh viện. Mỗi buổi sáng ngài cùng các bệnh nhân đọc kinh cầu nguyện, và tối đến, trước khi đi ngủ ngài đi thăm từng bệnh nhân và xin Chúa chúc lành cho họ. Tu sĩ Castro cho ta thấy rõ hơn việc phục vụ con người toàn diện của Gioan Thiên Chúa:

"Không bao giờ người cấp dưỡng của cải thể xác cho một người nào mà đồng thời không giúp cho họ một phương thuốc chữa lành linh hồn họ, để đạt mục đích đó, người tận dụng những lời khuyên nóng bỏng và thánh thiện. Đàng khác, người lôi kéo mọi ngưòi vào đường cứu rỗi bằng việc dùng việc lành sống động hơn là bằng lời nói mà giảng dạy bổn phận vác khổ giá mình mà theo chân Chúa Giêsu Kitô."[13]

Có lẽ Gioan là một trong những người đã có cái nhìn tiên tri về sự ảnh hưởng qua lại giữa thể chất và tinh thần. Quả thật, sẽ khó có một đời sống tâm linh mạnh mẽ trong một thân xác đau yếu bệnh tật, và sẽ không thể có một sự lành mạnh thực sự khi thân xác khỏe mạnh, hết bệnh tật mà tâm hồn đầy những mụn nhọt hôi thối; và cần phải trân trọng, chăm lo cho thân xác, bởi vì Đức Kitô không chỉ cứu linh hồn người ta, mà cả thân xác của họ nữa.

Bước theo tinh thần này, ngày nay, trong phần nói về linh đạo, Hiến pháp của Dòng đã triển khai thêm rằng, khi anh em phục vụ người đau khổ là anh em phải làm thế nào đó để hành động của anh em trở thành lời loan báo tình thương của Chúa Cha và mầu nhiệm cứu độ toàn vẹn[14].

http://donggioanthienchua.net/dac-sung-dong-thanh-gioan-thien-chua.html