SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa
 
Mùa Thường Niên Tuần III 

Năm C - Chúa Nhật & Năm Lẻ - Ngày trong tuần


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



   

Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Đọc I: Nkm 8, 2-4a. 5-6. 8-10

"Họ đọc trong sách Luật và người ta hiểu được điều đã đọc".

 

Bài trích sách Nơ-khe-mia.

 

Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: "Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc". Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: "Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em!"

Đó là lời Chúa.

 

Đáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15

 

Đáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).

 

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Đáp.

2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Đáp.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Đáp.

4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Đá, là Đấng Cứu Chuộc con. - Đáp.

 

Bài Đọc II: 1 Cr 12, 12-30 (bài dài)

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".

 

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

 

Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: "Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Và nếu lỗ tai nói rằng: "Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Nếu toàn thân xác là một, thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai, thì đâu là khứu giác? Vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong thân xác như ý Người muốn. Nếu tất cả đều là một chi thể, thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: "Ta không cần mi". Đầu cũng không thể nói với chân: "Ta không cần các ngươi". Nhưng hơn thế nữa, các chi thể thân xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi thể chúng ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi thể thiếu trang nhã lại được ta trang sức hơn, còn những chi thể trang nhã lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có sự bất đồng trong thân xác, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi thể phải đau, tất cả các chi thể khác đều phải đau lây; hoặc một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể cùng chia vui.

Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư?

Đó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 12, 12-14. 27

 

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

 

Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình.

Đó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 4, 18-19

Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 1-4; 4, 14-21

"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.

Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:

"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".

Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".

Đó là lời Chúa.




Suy niệm

 

 

Đức Kitô Thiên Sai

 

Hai Chúa Nhật đầu tiên (1 và 2) của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bao giờ cũng là bài Phúc Âm Nhất Lãm (theo chu kỳ A-B-C) về sự kiện Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa (Chúa Nhật 1), và bao giờ cũng là bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan (cho cả 3 chu kỳ A-B-C) về sự kiện Người bắt đầu tỏ mình ra qua môi giới Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (hai bài Phúc Âm liền nhau, một cho chu kỳ A và một cho chu kỳ B) cũng như qua môi giới Mẹ của Người ở Tiệc Cưới Cana (bài Phúc Âm cho chu kỳ C tiếp sau 2 bài Phúc Âm cho chu kỳ B và A). 

 

Phải nói rằng ở Chúa Nhật tuần 3 của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, Chúa Giêsu mới thực sự trực tiếp tỏ mình ta cho dân chúng. Nếu trong bài Phúc Âm của chu kỳ A theo Thánh Mathêu, Chúa Giêsu tỏ mình ra bắt đầu ở miền đất đông đảo dân ngoại sống như ánh sáng chiếu trong tăm tối, và trong bài Phúc Âm của chu kỳ B theo Thánh Marco, Chúa Giêsu tỏ mình ra ở lời rao giảng tiên khởi của Người cũng như ở việc tuyển chọn 4 môn đệ đầu tiên, thì trong bài Phúc Âm chu kỳ C theo Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu tỏ mình ra ở Hội Đường Nazarét là nơi Người khẳng định Người chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế được Tiên Tri Isaia báo trước:

 

"Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 'Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng'. Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: 'Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe'".


Thật vậy, nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này, nhân vật đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả tiên báo và làm chứng là Đấng đến sau ngài nhưng cao trọng hơn ngài, Đấng sẽ "làm phép rửa Thánh Linh" (Gioan 1:27,33), Vị cũng đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với chung dân chúng "là Chiên Thiên Chúa" (Mathêu 1:29 - Bài Phúc Âm Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm A) cũng như với riêng các môn đệ của ngài hôm sau đó "là Chiên Thiên Chúa" (Mathêu 1:36 - Bài Phúc Âm Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm B), và là Vị, qua môi giới của mẹ mình, đã tỏ mình ra cho 4-6 môn đệ đầu tiên ở Tiệc Cưới Cana (xem Gioan 2:11), quả thực là chính Đấng Thiên Sai được Tiên Tri Isaia báo trước, như chính Người đã tự nhận trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, cũng như đã được Thánh ký Luca ghi nhận ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay thế này: "Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng". 


Thật vậy, yếu tố chính yếu bất khả thiếu làm nên Vị Thiên Sai Cứu Thế nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đây là Thánh Linh, hay nói cách khác hoặc nói ngược lại, Thánh Linh là dấu chứng thực nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đây là Đấng Thiên Sai Cứu Thế: đúng như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã nhận biết và giới thiệu, cũng như Mẹ Maria đã nhận biết và dọn đường để Người tỏ mình ra ở Tiệc Cưới Cana, một Vị Thánh Linh đã tác tạo nên chung nhân tính và riêng thân xác của Người trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ Maria, cũng là Vị Thánh Linh đã thánh hóa thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ngay từ trong bụng mẹ khi bé mới được 6 tháng thai, và là Vị Thánh Linh được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thấy như chim bồ câu đậu trên nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét sau khi Người lãnh nhận phép rửa, như một dấu chứng thực nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này chính là Con Thiên Chúa (xem Gioan 1:31-34): "Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con" (Luca 3:22).


Trong bài Phúc Âm hôm nay, câu Chúa Giêsu tuyên bố 'Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe'", Người chẳng những xác nhận tính chất chính xác và trung thực nơi các chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng như vai trò của Mẹ Maria trong sứ vụ đồng công cứu chuộc với Người, mà còn báo trước những chứng từ của chính bản thân Người trong tương lai mà Người sẽ đích thân tỏ ra cho chung dân chúng và riêng các môn đệ của Người thấy rằng Người quả là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bởi Người đã được Xức Dầu Thánh Linh, Đấng ngự nơi Người và tác hành trong Người như một động lực thần linh để Người có thể hoàn trọn tất cả những gì Thiên Chúa muốn Người thực hiện với sứ mệnh Thiên Sai Cứu Thế của Người, một sứ mệnh bao gồm 3 vai trò chính yếu là vai trò giải thoát như một vị vương đế, vai trò chữa lành như một vị tư tế và vai trò rao giảng như một vị ngôn xứ, đúng như lời tiên tri Isaia mà Người đã đọc và công nhận là ứng nghiệm ở nơi Người.


Nếu Phúc Âm của Thánh ký Luca là cuốn phúc âm thuật lại tất cả những gì Chúa Giêsu làm theo 3 vai trò của một Đấng Thiên Sai Cứu Thế này của Người thì các bài Phúc Âm theo chu kỳ phụng vụ Năm C ở các tuần lễ Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hay hậu Phục Sinh cũng xuất phát từ những gì được Chúa Giêsu xác nhận là "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe", một "hôm nay", về thời gian bao gồm cả những ngày sau đó, cả những gì Người nói và làm, cho tới khi Người hoàn thành cuộc Vượt Qua của Người, nhưng về thực tại lại là chính bản thân của Người, một bản thân được Xức Dầu Thánh Linh để "đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng", mà ngay bấy giờ, trong hội đường hôm ấy (đối với chúng ta bây giờ) cũng là "hôm nay" (đối với Chúa Giêsu bấy giờ), đang thực hiện những gì Tiên Tri Isaia báo trước về Người ở môi trường của một hội đường lúc ấy có sự hiện diện của mọi người trong dân chúng đang cần được Người giải thoát, được chữa lành và được rao giảng.


Hình ảnh cộng đồng Dân Chúa trong Cựu Ước ở Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói phản ảnh hình ảnh của cộng đoàn dân Do Thái ở hội đường Nazarét hôm nay, ở chỗ họ qui tụ lại một nơi lắng nghe Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy thế nào thì cộng động trong Bài Đọc 1 cũng thế: "Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên".  


Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy 3 vai trò giải thoát, chữa lành và rao giảng được Tiên Tri Isaia báo trước liên quan đến nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là Đấng đã tự xác nhận là "ứng nghiệm" về mình trong bài Phúc Âm hôm nay, ở một nghĩa nào đó, cũng đã được "ứng nghiệm" nơi cộng đồng dân Chúa đang qui tụ nghe "Thày thư ký Esdras ... đọc sách" bấy giờ. 


Họ được rao giảng ở chỗ: "Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc". 


Họ được chữa lành ở chỗ: "Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: 'Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc'. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật". 


Họ được giải thoát ở chỗ: "Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: 'Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn lũy của anh chị em!'"


Tâm tình và thái độ của cộng đồng dân Chúa ở chỗ chẳng những lắng nghe lề luật mà còn đáp ứng những gì được nghe từ lề luật trong Bài Đọc 1 hôm nay dường như được phản ảnh, bộc phát và bày tỏ thật chính xác trong Bài Đáp Ca hôm nay: 


1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. 

 

2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. 


3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. 


4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Đá, là Đấng Cứu Chuộc con.


Tâm tình và thái độ của cộng đồng dân Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay đầy tinh thần hân hoan phấn khởi như thể họ đã được tràn đầy Thánh Linh, Vị Thánh Linh đã tác động nơi họ qua những nhân vật lãnh đạo của họ, tùy theo vai trò và trách nhiệm của từng người: "Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng...".


Đó là lý do trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô viết cho Giáo Đoàn Côrinto trong Thư Thứ 2 của ngài đã khẳng định về thực trạng hiệp nhất ("một thân xác") trong đa dạng ("nhiều chi thể"), cũng như về tính cách khác biệt của các chi thể, với những phận vụ, sứ vụ, thừa tác vụ thích hợp với từng chi thể, để cùng phục vụ công ích, phục vụ "một thân thể", như sau:

 

"Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình".


Kitô hữu chúng ta nhờ bởi Thánh Linh khi lãnh nhận Phép Rửa đã trở thành một thân thể duy nhất với Chúa Kitô là đầu, và nhờ đó chúng ta cũng được hiệp thông với chính Thánh Thần của Chúa Kitô, ở tầm mức trọn vẹn khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức. 


Bởi thế, tất cả những gì chúng ta lãnh nhận nhờ được hiệp thông với Nhiệm Thể Chúa Kirtô nói chung và với Đầu Nhiệm Thể là Chúa Kitô nói riêng đều từ Nhiệm Thể này và cần qui về Nhiệm Thể này, nhờ đó chúng ta mới được lớn lên với Nhiệm Thể này, cho đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô (xem Epheso 4:13,15), một tầm vóc được chính Chúa Kitô sống trong chúng ta để Người tiếp tục thực hiện vai trò vương đế giải phóng, tư tế chữa lành và ngôn sứ rao giảng của Người cho đến tận thế, qua chúng ta và nhờ chúng ta là thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Người.

 

 

 

 

"Chúa Giêsu muốn trở thành một vị tiên tri lưu động nay đây mai đó. Người không chờ đợi dân chúng mà là đến gặp gỡ họ. Chúa Giêsu luôn hành trình!...

Chúa tỏ Mình ra cho chúng ta không phải bằng một đường lối phi thường hay nổi bật, mà là trong đời sống thường ngày của chúng ta."

(ĐTC Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III ngày 22/1/2017)

Xin chào anh chị em thân mến!

Đoạn Phúc Âm hôm nay (xem Mathêu 4:12-23) thuật lại thời điểm mở màn cho việc giảng dạy của Chúa Giêsu ở Galilêa. Người bỏ Nazarét là một ngôi làng ở trên đồi mà đến ở thành Caphanaum, một trung tâm trọng yếu ở bên bờ Hồ, có rất nhiều dân ngoại cư ngụ, một giao điểm giữa Địa Trung Hải và nội địa Mesopotamia. Sự chọn địa điểm này cho thấy rằng thành phần lãnh nhận việc rao giảng của Người không phải chỉ có đồng bào của Người mà còn tất cả những ai sống ở một đại đồng "Galilêa của các Dân Ngoại" (câu 15; xem Isaiah 8:23), như nó được gọi như vậy. So với Giêrusalem là thủ đô thì miền đất này về địa dư ở vùng ngoại biên và dơ bẩn về tôn giáo, vì nó đầy những dân ngoại, ở chỗ pha trộn với tất cả những ai không thuộc về dân Do Thái. Những điều cao cả trọng đại đối với lịch sử cứu độ thực sự là không được mong đợi xuất phát từ Galilêa. Thế mà, chính từ chỗ đó "ánh sáng" đã phát tỏara là điều chúng ta đã suy niệm trong các Chúa Nhật vừa qua: ánh sáng Chúa Kitô. Ánh sáng này thật sự tỏa ra từ một vùng ngoại biên.

Sứ điệp của Chúa Giêsu lập lại sứ điệp của vị Tẩy Giả, loan báo về "Nước Trời" (câu 17). Vương quốc này không bao gồm việc thiết lập một thứ quyền lực mới về chính trị, mà là việc hoàn thành Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân của Ngài, một việc hoàn thành sẽ khai mào cho một mùa hòa bình và công lý. Mỗi người được kêu gọi hoán cải, củng cố Giao Ước này với Thiên Chúa, biến đổi cách suy nghĩ và sống động của mình. Điều quan trọng là ở chỗ hoán cải không phải chỉ là việc thay đổi lối sống mà còn cả lối suy nghĩ của mình nữaNó không phải là việc thay đổi y phục mà là những thói quen! Điều làm cho Chúa Giêsu khác với vị Gioan Tẩy Giả đó là kiểu cách và phương pháp. Chúa Giêsu muốn trở thành một vị tiên tri lưu động nay đây mai đó. Người không chờ đợi dân chúng mà là đến gặp gỡ họ. Chúa Giêsu luôn hành trình! Những cuộc truyền giáo đầu tiên của Người đã xẩy ra dọc Biển Hồ Galilêa, giao tiếp với đám đông, đặc biệt là với những người đánh cá. Chúa Giêsu ở đó chẳng những loan báo Nước Thiên Chúa đến mà còn tìm kiếm các bạn đồng hành để cộng tác vào sứ vụ cứu độ của Người. Ở cùng một chỗ ấy, Người đã gặp được hai cặp anh em là Simon và Anrê cùng Giacôbê và Gioan. Người gọi họ mà rằng: "Hãy theo Tôi, và Tôi sẽ làm cho anh em thành những kẻ chài lưới người" (câu 19). Tiếng gọi này chạm đến họ ngay giữa sinh hoạt hằng ngày của họ: Chúa tỏ Mình ra cho chúng ta không phải bằng một đường lối phi thường hay nổi bật, mà là trong đời sống thường ngày của chúng ta. Chúng ta cần phải thấy Chúa ở đó; Người tỏ Mình ra ở đó, làm cho lòng chúng ta cảm thấy được tình yêu của Người; và ở đó - bằng cuộc trao đổi này với Người trong cuộc sống hằng ngày - lòng của chúng ta được biến đổi. Việc đáp ứng của bốn người chài lưới này xẩy ra ngay lập tức: "Họ liền bỏ lưới của mình lại mà theo Người" (câu 20). Thật vậy, chúng ta biết rằng họ đã từng là những người môn đệ của vị Tẩy Giả, và nhờ chứng từ của vị này họ đã bắt đầu tin rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (xem Gioan 1:35-42).

Thành phần Kitô hữu chúng ta hôm nay đây hân hoan loan báo và làm chứng cho đức tin của chúng ta, vì đó là việc loan báo tiên khởi, vì đã có những con người khiêm tốn và can trường quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu. Cộng đồng môn đệ đầu tiên của Chúa Kitô được xuất thân ở bờ Hồ, ở một miền đất không ngờ. Chớ gì cái nhận thức về những sự khởi đầu này khơi động trong chúng ta ước muốn mang Lời Chúa, tình yêu thương và niềm êm ái dịu dàng của Chúa Giêsu đến cho hết mọi tình huống, cho dù là thành phần không tiếp thu và chống cưỡng nhất. Hãy mang Lời Chúa đến cho tất cả những vùng ngoại biên! Tất cả mọi lãnh vực của đời sống con người đều là khu vực để gieo hạt giống Phúc Âm, nhờ đó hạt giống này mới sinh hoa trái cứu độ.

Xin Trinh Nữ Maria giúp chúng ta, bằng việc chuyển cầu từ mẫu của mình, biết hân hoan đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu, và dấn thân phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa.

https://zenit.org/articles/angelus-address-on-the-need-for-conversion-to-follow-jesus/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu        


"Galilêa thuộc các dân nước"

 

(ĐTC Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III ngày 26/1/2014)

 

Phúc Âm Chúa Nhật này thuật lại khởi điểm đời sống công khai của Chúa Giêsu ở các phố thị và làng mạc Xứ Galilêa. Sứ vụ của Người không bắt đầu ở Giêrusalem, trung tâm về tôn giáo và cũng là trung tâm về xã hội và chính trị, mà là ở một miền đất ngoại vi bên lề, một miền đất bị hầu hết thành phần Do Thái ngoan đạo khinh bỉ vì ở miền đất này có các thành phần ngoại quốc khác nhau; đó là lý do tại sao Tiên Tri Isaia đã gọi nó là "Xứ Galilêa thuộc các dân nước" (9:1).

 

Nó là một miền đất biên giới, một nơi qua lại của thành phần dân chúng thuộc các chủng tộc, văn hóa và tôn giáo khác nhau tụ lại. Bởi thế Galilêa trở thành một nơi tiêu biểu cho Phúc Âm hướng tới tất cả mọi dân nước. Theo quan điểm ấy thì Galilêa giống như thế giới ngày nay, ở chỗ đồng hiện diện của các thứ văn hóa khác nhau, nhu cầu cần so sánh và nhu cầu cần hội ngộ. Cả chúng ta nữa bị chìm đắm hằng ngày vào một thứ "Galilêa thuộc các dân nước", và trong thứ bối cảnh này chúng ta cảm thấy lo sợ và chiều theo khuynh hướng thực hiện việc ngăn chặn rào cản để cảm thấy mình được an toàn hơn, được bảo vệ hơn. Thế nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng Tin Mừng được Người mang đến không phải chỉ dành cho một phần nhân loại mà là được truyền đạt cho hết mọi người. Nó là một thứ loan báo về niềm hân hoan nhắm đến những ai đang đợi chờ nó, thế nhưng cũng cho tất cả những ai có lẽ không còn chờ đợi bất cứ gì nữa và thậm chí không còn sức để tìm kiếm và kêu xin.

 

Bắt đầu từ Galilêa, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng không có ai bị loại trừ khỏi ơn cứu độ của Thiên Chúa, trái lại, chính từ những nơi ngoại biên này mà Thiên Chúa thích khởi sự, từ những gì là bé mọn nhất, để vươn tới hết mọi người. Người dạy chúng ta một phương pháp, phương pháp của Người, cũng cho thấy nội dung của của nó là tình thương của Cha....

 

Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người chẳng những từ một nơi chốn ngoài tâm điểm mà còn giữa những con người mà người ta có thể gọi, ám chỉ, như là một thứ "hạ cấp - low profile". Khi chọn các môn đệ đầu tiên của mình và là các vị tông đồ sau này, Người đã không hướng tới các trường phái luật sĩ hay tiến sĩ Luật, mà về thành phần thấp hèn và thành phần quê mùa, thành phần ân cần sửa soạn cho việc trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến kêu gọi họ ở nơi họ đang làm việc, trên bờ hồ: họ là những tay đánh cá. Người kêu gọi họ, và họ lập tức theo Người. Họ lìa bỏ chài lưới mà đi theo Người: đời sống của họ sẽ trở thành một cuộc mạo hiểm phi thường và hấp dẫn.

 

 

http://w2.vatican.va/content/francesco/en/angelus/2014/documents/papa-francesco_angelus_20140126.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch  

 

 

ĐTC Phanxicô: Giảng Lễ Chúa Nhật Lời Chúa - CN III Thường Niên

 

 

Ngày 26 tháng 1

Thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô, giám mục

lễ nhớ bắt buộc

 

Jan. 26: Sts. Timothy and Titus, Bishops AV+ Divine Office Reading. –  AnaStpaul


Cùng với thánh Lu-ca, thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phao-lô. Mẹ thánh Ti-mô-thê là người Do-thái, còn chính ông thì đã được thánh Phao-lô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phao-lô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Ê-phê-xô. Còn thánh Ti-tô đã được thánh Phao-lô nhận ở An-ti-ô-khi-a ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Thư thánh Phao-lô gửi cho ông Ti-mô-thê (1 – 2 Tm) và thư gửi cho ông Ti-tô (Tt) được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.

 

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ, xin nhậm lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin

 

ĐTC Biển Đức XVI Thứ Tư 13/12/2006 -  Bài 27: Thánh Timôthêu và Titô

 

Thánh Timôthê (c. 97?):

Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôthê thì giống như của một Giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng Phúc Âm và chịu đau khổ.

Thánh Timôthê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân "hỗn hợp", nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô giáo. Sau đó, Timôthê được thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và thánh Phalô cùng sáng lập Giáo hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, Timôthê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.

Khi Timôthê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôthê cũng bị tù (Dt 13,23). Và thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôthê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô.

Timôthê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. "Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung," trong thư I thánh Phaolô viết cho Tm 4,12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôthê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôthê: "Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn" (1Tm 5,23).


Thánh Titô (c. 94?):

Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là Dân Ngoại, thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: "Khi tôi đến Troas... Tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không gặp được Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia... Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách, xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến..." (2 Cr 2,12a, 13; 7, 5-6).

Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.

Lời Bàn

Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong "sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn." Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-timothe-va-thanh-tito-40934

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Ghi chú cổ nhất về Thánh Lễ kính thánh Timôthê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai Vị thánh.

Thánh Kinh cho biết, Timôthê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; Thánh Phaolô ghi chú: bà nội Lois đã dạy cho Timôthê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôthê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôthê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông Đồ (Cv 17,14-15; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17; 16,10); rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).

Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: “Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôthê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.

Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troas, ngài muốn gặp Titô, “người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo Hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là “người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôthê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.

2. Thông điệp và tính thời sự

Kinh Tổng Nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông Đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôthê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích : Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.

Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôthê đã lãnh nhận và thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần Trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.

Cũng trong lá thư gởi cho Timôthê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: “Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông Đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.

Kinh Tổng Nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: “Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.

Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: “Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng.

Enzo Lodi (Nguồn:tgpHaNoi)

https://www.kath-vietnamesen.de/26-01-thanh-timothe-va-thanh-tito-giam-muc-le-kinh/

 

 

 

 

Thứ Hai


Lời Chúa


  

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 9, 15. 24-28

"Người chỉ tế lễ chính mình một lần để huỷ diệt tội lỗi, Người sẽ xuất hiện lần thứ hai để cứu độ những ai trông đợi Người".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Chúa Kitô là trung gian của Tân Ước, vì nhờ sự chết của Người để cứu chuộc các tội phạm dưới thời Cựu Ước, mà những kẻ được kêu gọi, đến lãnh lấy gia nghiệp đời đời đã hứa cho họ. Ðức Giêsu không tiến vào cung thánh do tay người phàm làm ra, chỉ là hình bóng cung thánh thật, nhưng Người vào chính thiên đàng, để từ đây xuất hiện trước tôn nhan Thiên Chúa vì chúng ta. Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần: nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng tế hiến một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6.

Ðáp: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu (c. 1a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh, Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là vua. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 22-30

"Satan phải diệt vong".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ". Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y. Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".

Ðó là lời Chúa.

 



Suy niệm

 


Đức Kitô Quyền Năng


Hôm nay, Thứ Hai, ngày thường đầu tiên trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay. 

Bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Marco thuật lại sự kiện đụng độ giữa "những luật sĩ từ Giêrusalem đến" và Chúa Giêsu, một cuộc đụng độ càng cho thấy bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha" này. Ở chỗ, cho dù bị xuyên tạc chụp mũ Người vẫn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn nhẫn nhịn giúp cho đối phương nhận ra cái sai lầm của họ và cảnh giác họ để họ khỏi bị đời đời hư mất.

Thật vậy, khi thấy danh tiếng của Chúa Giêsu càng ngày càng nổi nang khắp nơi trong dân chúng, cho dù Người mới chỉ ở Galilêa thuộc miền bắc đất nước Do Thái, chứ chưa xuống tới Giuđêa thuộc miền nam là nơi toàn tòng dân Do Thái và có giáo đô Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, thành phần "những luật sĩ từ Giêrusalem đến nói rằng 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'".  

Không biết thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến này từ bao lâu rồi, đã tận mắt xem thấy Chúa Giêsu trừ quỉ hay chưa, hoặc chỉ nghe nói đến thôi, rồi suy diễn một cách méo mó như vậy để chống phá đối phương mới trở nên nổi tiếng, với chủ đích hạ bệ đối thủ của mình xuống càng sớm càng tốt?! 

Tuy nhiên, nếu "miệng nói ra những gì đầy trong lòng", như chính Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (12:34) cũng có cùng chủ trương như những người luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay, thì nội dung của lời phát biểu này dường như chất chứa tính cách cạnh tranh xuất phát từ lòng ghen ghét, chứ chưa nói đến tính cách hết sức phạm thượng của nó, của những ai phát ngôn như thế.

Thế nhưng, cho dù bị phạm thượng như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã không nổi giận, quát mắng họ hay thậm tệ quở trách họ, như Người sẽ làm sau này, được thấy ở nguyên đoạn 23 Phúc Âm Thánh Mathêu, mà còn hết sức nhân từ "gọi họ lạivà "dùng tỉ dụ" (như cha mẹ hay thày cô dạy cho đám học trò con nít của mìnhcho dễ hiểu để nhờ đó vạch ra cho họ thấy những gì sơ hở đầy mẫu thuẫn nơi cái nhận định và lập luận vừa thiển cận nông nổi vừa mâu thuẫn mù tối của họ, bằng cách Người đã lấy gậy ông đập lưng ông, như sau:

"Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong". Tức là Chúa Giêsu muốn nói với thành phần luật sĩ đầy thế lực từ giáo đô Giêrusalem rằng: quí vị thật là mâu thuẫn, chẳng hiểu gì cả, nếu tôi như quí vị nói "bị quỉ Belzebul ám" nhờ đó tôi mới có thể "nhờ chính tướng quỷ mà trừ quỷ" thì ma quỉ tự chúng chia rẽ nhau mà chết thôi - làm gì có cái chuyện hoang đường là ma quỉ quay ra tàn sát lẫn nhau để hủy diệt đi vương quốc tử thần của chúng chứ? 

Chưa hết, Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để chẳng những sửa lỗi cho họ mà còn tỏ mình ra cho họ thấy rõ hơn một chút nữa, hy vọng họ thấy được quyền phép thần linh của mình là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", một quyền phép vô địch còn hơn cả quyền lực chết chóc của thần dữ, ở chỗ còn khống chế được cả ma quỉ là loài vẫn từng thống trị loài người từ sau nguyên tội: "Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y". 

Không biết các nhà luật sĩ khôn ngoan thông thái trong bài Phúc Âm hôm nay, nghe xong câu nói nhẹ nhàng xa xa bóng gió này của Chúa Giêsu có hiểu ý Người muốn nói hay chăng, nhưng thực tại đúng là như thế, đúng là Người có một quyền lực vô địch, một quyền lực sẽ đạt đến tột đỉnh của mình nơi cuộc Vượt Qua chiến thắng tội lỗi và sự chết của Người.

Tình thương của Chúa Giêsu tỏ ra với thành phần luật sĩ mù quáng trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ ở chỗ: 1- vạch ra cho họ thấy cái sai lầm của họ; và 2- tỏ cho họ thấy quyền lực thần linh trừ quỉ của Người, mà còn 3- cảnh báo về phần rỗi đời đời của họ nữa, như thể khuyên họ hãy cẩn thận và coi chừng thứ tội nguy hiểm được Người thẳng thắn cho họ biết rằng: 

"'Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời'. Ðó là vì họ nói 'Người bị thần ô uế ám'".

Căn cứ vào lời cảnh báo này của Chúa Giêsu thì ở đây Chúa Giêsu nói đến kẻ phạm tội "kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần... nó mắc tội muôn đời'", hơn là thứ tội "phạm đến Chúa Thánh Thần", và hình phạt muôn đời giành cho kẻ phạm một thứ tội phạm thượng khủng khiếp, dám cho "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là Đấng có thể khống chế quyền lực của thần dữ "bị thần ô uế ám", có nghĩa là dám hoàn toàn phủ nhận Thánh Linh là "quyền phép Đấng Tối Cao" (Luca 1:35) ở trong Người và làm việc đó, và vì thế cũng có nghĩa là gián tiếp không chấp nhận Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để được cứu độ (xem Marco 16:16).

Nếu vai trò tư tế liên quan đến sự thánh, và việc dâng của lễ của họ liên quan đến việc đền tội là những gì xấu xa tội lỗi làm cho con người ra ô uế, như thể họ bị thần ô uế ám vậy, thì việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế trong Bài Phúc Âm hôm nay, nhất là trừ khử những ý nghĩ hay đúng hơn những thần trí ô uế ám ảnh thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, với đầy những ghen hờn nên có những thiên kiến và hành động tuyên truyền bậy bạ, là Người thực hiện vai trò tư tế của Người, một vai trò sẽ đạt đến tột đỉnh của nó nơi cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người, nhờ đó Người đã phá tan vương quốc của Satan chúa tể trần gian và mang lại ơn cứu độ cho loài người.

Thư gửi giáo đoàn Do Thái hôm nay đã cảm nhận và tuyên xưng về "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này theo chiều kích tư tế như sau: "Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần: nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng tế hiến một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người".

Nơi và qua "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này, Thiên Chúa đã tỏ hết mình ra, nhưng mạc khải thần linh của Ngài đã được bắt đầu và diễn tiến suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, thành phần đã được chứng kiến thấy Ngài tuyển chọn họ, giải phóng họ, ở với họ, không bao giờ bỏ họ, đến độ, qua Thánh Vịnh 97 ở Bài Đáp Ca hôm nay, Thiên Chúa đã được nhận biết và chúc tụng rằng:

      1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh, Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là vua.

 

 

Ngày 27 tháng 1 - Thánh Angiêla Mêrici, trinh nữ (1474-1540)

 

 


 

Angela sinh ngày 21 tháng 3 năm 1474  tại Desenzano, xứ Lombardie, Ý Đại Lợi. Angela mồ côi cha mẹ và ở với các anh và cậu. Vào lúc 56 tuổi, Angela Merici từ chối lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng. Ngài biết Ðức Clementê VII muốn ban cho ngài một vinh dự lớn lao và một cơ hội vĩ đại để phục vụ khi đức giáo hoàng yêu cầu ngài nhận trách nhiệm lãnh đạo một dòng nữ tu chuyên về điều dưỡng. Nhưng Angela biết công việc điều dưỡng không phải là điều Thiên Chúa muốn mời gọi ngài thi hành.


Ngài mới từ Ðất Thánh trở về. Khi trên đường đến đó ngài bị bệnh nặng và bị mù. Tuy nhiên, ngài nhất quyết tiếp tục cuộc hành hương và thăm viếng các thánh địa với tất cả lòng sùng kính hơn là muốn chiêm ngưỡng bằng cặp mắt. Trên đường về ngài được chữa lành và được sáng mắt. Ðiều ấy chắc chắn đã nhắc nhở ngài rằng không thể nhắm mắt trước nhu cầu của những người chung quanh, và đừng đóng cửa lòng trước lời mời của Thiên Chúa.


Ở khắp nơi trong thành phố, đâu đâu ngài cũng thấy các em gái nghèo nàn, không có học vấn và cũng không có tương lai. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu của Thánh Angela, vấn đề giáo dục phụ nữ là dành cho người giầu và cho các nữ tu. Angela là người có học thức. Cha mẹ ngài chết sớm khi ngài mới mười tuổi và sau đó ngài phải sống với người chú. Ngài thực sự bối rối khi thấy chị của ngài từ trần mà không được lãnh nhận các bí tích. Trong một thị kiến ngài được đảm bảo là chị của ngài được an toàn trong bàn tay Thiên Chúa — và cũng qua thị kiến ấy ngài tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa.


Khi chú ngài từ trần, trở về nhà ngài nhận thấy các em gái trong vùng không có một chút học vấn. Nhưng ai sẽ dạy các em? Thời ấy thật khác biệt. Phụ nữ không được phép làm nghề giáo và các cô chưa chồng thì không được tự ý đi ra ngoài — dù để phục vụ người khác. Nữ tu là các phụ nữ có kiến thức nhưng họ không được phép bước chân ra khỏi tu viện. Thời đó không có dòng nữ tu chuyên về giáo dục như ngày nay.


Ðể giúp đỡ các em, Angela nghĩ ra một phương cách mới. Ngài quy tụ một nhóm các cô thuộc dòng Ba Phanxicô, đi ra đường phố và tụ tập các em gái lại để dạy học cho các em. Các cô không có tiền cũng như không có quyền thế, họ chỉ có tấm lòng tận tụy cho việc giáo dục và cho Ðức Kitô. Sống trong chính nhà của mình, họ gặp gỡ để cầu nguyện và dạy học. Họ thành công đến nỗi Angela được yêu cầu đưa sáng kiến ấy để thực hiện ở các thành phố khác, và đã làm nhiều người kinh ngạc, kể cả đức giáo hoàng.


Mặc dù ngài từ chối đức giáo hoàng, nhưng có lẽ thỉnh cầu của đức giáo hoàng đã gợi ý cho ngài thấy rằng cần phải chính thức hóa tổ chức của ngài. Mặc dù chưa bao giờ là một nữ tu, Hội Thánh Ursula của Angela là nhóm nữ tu đầu tiên hoạt động ngoài khuôn khổ nhà dòng và là dòng nữ đầu tiên chuyên lo giáo dục.

Lúc đó, chưa có những nữ tu viện dành cho các chị em và cũng chẳng có ai đã từng nghĩ đến chuyện này bao giờ. Thánh nữ Angiêla Merisi là người đầu tiên đã tụ họp một nhóm chị em và mở các trường dạy trẻ. Vào ngày 25 tháng Mười Một năm 1535, hai mươi tám chị em đã tận hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Họ tuân giữ luật dòng thánh Ursula. Angiêla đặt hội dòng dưới sự bảo trợ của thánh Ursula. Đây là lý do họ có được danh hiệu đó. Thoạt đầu, các chị đã cư ngụ tại nhà quê của mình. Bởi có nhiều khó khăn nên phải trải qua một thời gian dài sau họ mới có thể cùng được chung sống trong tu viện. Thánh nữ Angiêla Merisi mất vào ngày 27 tháng Giêng năm 1540 khi hội dòng của ngài vừa được phôi dựng. Lòng cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa đã giúp Angiêla vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Ngài không hồ nghi gì về việc Thiên Chúa sẽ quan phòng lo liệu cho công việc ngài đã khởi sự. Và Thiên Chúa đã thực hiện.

Các nữ tu dòng thánh Ursula đã có mặt tại nhiều quốc gia. Hội dòng hiện vẫn tiếp tục hoạt động cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người; nhất là việc giáo dục các trẻ em và các thanh thiếu niên.

Thánh nữ Angiêla Merisi nhắc nhở chúng ta rằng những sự khó và những chán nản thất vọng có thể giúp chúng ta nhận ra những nỗi đau thương nơi người khác. Khi chúng ta sẵn lòng vươn tay ra, Thiên Chúa sẽ dùng chúng ta để thực hiện những công việc phi thường của Người. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Angiêla Merisi giúp chúng ta biết cách tỏ lòng tế nhị và xót thương đối với tha nhân.

Thánh Angela Merici từ trần ngày 27 tháng 1 năm 1540 tại Brescia, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi. Mộ phần trở nên một nơi hành hương. Thánh tích còn tại thánh đường Thánh Afra, Brescia Ý Đại Lợi. Ngay sau khi qua đời, nữ tu Angela đã được dân chúng thành phố ca tụng như một đấng thánh. Họ đến kính viếng thi hài của chị thánh đông đảo đến độ phải hoãn lễ an táng đến 30 ngày sau.

Thánh nữ được tôn phong Chân Phước năm 1768 do Đức Giáo Hoàng Clement XIII và đến ngày 27 tháng 5 năm 1807 Đức Giáo Hoàng Pius VII đã ghi tên thánh nữ vào sổ bộ các thánh của Giáo Hội.

Lời Trích
Khi sự thay đổi trở nên khó khăn đối với nhiều người, có lẽ thật hữu ích khi nhớ lại lời của thánh nữ nói với các nữ tu: "Nếu theo thời gian và vì nhu cầu, các chị phải vâng theo các quy luật mới và thay đổi một vài điều, thì hãy thi hành với sự thận trọng và hãy để ý đến lời khuyên bảo."


Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp

 

 

 


Thứ Ba

 


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 1-10

"Lạy Chúa, nầy tôi đến để làm theo thánh ý Chúa"

Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.

Anh em thân mến, lề luật là bóng dáng của những việc tốt lành tương lai, chớ không phải chính hình ảnh chân chính của sự thật.

Lề luật ấy với những hy tế được hiến dâng liên tiếp hằng năm không bao giờ có thể làm cho những kẻ đến tham dự được hoàn hảo.

Chẳng vậy, người ta sẽ chấm dứt việc tế lễ, vì lẽ những người làm việc phượng tự nầy, đã được tẩy sạch một lần rồi, nên không còn ý thức mình có tội nữa.

Ngược lại, các lễ tế hằng năm nhắc nhở người ta nhớ đến tội lỗi.

Bởi chưng máu bò dê không thể xóa bỏ tội lỗi.

Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác.

Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội.

Nên tôi nói: Lạy Chúa, nầy tôi đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về tôi ở đoạn đầu cuốn sách.

Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật".

Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa".

Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hóa nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 39,2 và 4ab, 7-8a, 7-9, 10, 11

Ðáp: Lạy Chúa, nầy tôi xin đến, để thực thi ý Chúa. (8a và 9a)

Xướng 1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên tôi, và Ngài đã nghe tiếng tôi kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta. - Ðáp.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai tôi. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và đền tội, bấy giờ tôi đã thưa: "Nầy tôi xin đến". - Ðáp.

3) Như trong cuốn sách đã chép về tôi: lạy Chúa, tôi sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận lòng tôi. - Ðáp.

4) Tôi đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

5) Tôi chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng tôi: tôi đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa, tôi đã không giấu giếm gì với Ðại Hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp. 

 

  

Alleluia: Ga 15,15b

Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3,31-35

"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.

Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".

Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"

Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".

Ðó là Lời Chúa.

 


Suy niệm

 

  

Đức Kitô Tình Nghĩa   


Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Ba trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này. 

Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra", cũng như phản ứng của Chúa Giêsu khi Người được "đám đông ngồi chung quanh Người trình với Người rằng: 'Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy'".

Phản ứng của Chúa Giêsu, qua cả lời nói lẫn cử chỉ tác hành của Người, như được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, như sau: "Người trả lời rằng: 'Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?' Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: 'Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta'".

Phải chăng Người tỏ ra như thể bị gia đình làm phiền Người đang khi Người thi hành sứ vụ Thiên Sai của Người, nên Người có thái độ như lạnh nhạt hơn là vồn vã với gia đình của Người, thậm chí Người còn có vẻ coi trọng thính giả của Người hơn cả gia đình của Người nữa.

Bề ngoài có thể là thế thật, nhưng tận sâu xa ở những lời nói và cử chỉ có vẻ tiêu cực này của mình, Người lại sử dụng đường lối phủ nhận cách liên quan đến mối liên hệ ruột thịt tự nhiên với gia đình của Người để khẳng định một chân lý hết sức quan trọng về mối liên hệ thiêng liêng với Người là những gì Người đang thiết lập và sẽ hoàn thành vào cuộc Vượt Qua của Người trong tương lai.

Thật vậy, là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người không đến chỉ cho Mẹ của Người hay gia đình của Người thôi, mà cho toàn thể nhân loại, được đại diện bởi thành phần thính giả của Người bấy giờ. 

Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), để "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), thì Người quả thực, qua việc rao giảng và tỏ mình ra, "như ánh sáng chiếu soi mọi người", đang thiết lập mối liên hệ thiêng liêng với nhân loại, nghĩa là Người đang làm cho nhân loại tin vào Người, "chấp nhận Người", để họ "được quyền làm con Thiên Chúa" như Người và với Người.

Bởi thế, so với tình nghĩa thiêng liêng vô cùng chân thật, hoàn hảo và bền vững thì tình nghĩa xác thịt thấp hèn, hạn hữu và trần tục không thể nào sánh bằng, và vì thế tình nghĩa xác thịt tự nhiên cần phải được thăng hoa, cần được thánh hóa, cần phải được nâng cấp bằng lời Chúa. 

Nếu tình nghĩa thiêng liêng với Chúa Kitô, như Người nói, ở chỗ "làm theo ý Thiên Chúa", như chính bản thân Người liên lỉ chú trọng và thực thi cho tới cùng, thì không còn ai hơn Mẹ của Người, một Trinh Nữ đã đáp ứng lời thiên sứ truyền tin Lời Nhập Thể bằng tất cả đức tin siêu vượt của mình qua tiếng "Xin Vâng" (Luca 1:38), cho đến khi "đứng chân Thánh Giá Chúa Giêsu" (Gioan 19:25).

Như vậy, lời nói và thái độ có vẻ dửng dưng lạnh lùng như phủ nhận gia đình mình của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì chẳng những phấn khích việc nâng cấp cho thành phần thính giả của Người bấy giờ mà nhất là còn cố ý chúc tụng Mẹ của Người, lấy Mẹ của Người như là một mô phạm cho thành phần thính giả ấy trong việc lắng nghe lời Chúa (xem Luca 2:19,51).

Đúng thế, Mẹ Maria thật sự là môn đệ đầu tiên của Con Mẹ và là đệ nhất môn đệ của Con Mẹ, ở chỗ, Mẹ đã hoàn toàn giống y như Con Mẹ, trong thái độ liên lỉ lắng nghe lời Chúa và hành động đáp ứng ý muốn của Thiên Chúa ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, một Người Con mà khi nhập thể trong lòng Mẹ đã thân thưa cùng Cha của Người, như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết như sau:

"Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: 'Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: Lạy Chúa, nầy tôi đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về tôi ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật'. Ðoạn Người nói tiếp: 'Lạy Chúa, nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa'".

Những lời thân thưa cùng Cha trên trời xin vâng của Chúa Kitô Con Mẹ như được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại đã hoàn toàn ứng nghiệm như lời Thánh Vịnh 39 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên tôi, và Ngài đã nghe tiếng tôi kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai tôi. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và đền tội, bấy giờ tôi đã thưa: "Nầy tôi xin đến".

3) Như trong cuốn sách đã chép về tôi: lạy Chúa, tôi sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận lòng tôi.

4) Tôi đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.

5) Tôi chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng tôi: tôi đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa, tôi đã không giấu giếm gì với Ðại Hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa.

 

 

Ngày 28 tháng 1

Thánh Tô-ma A-qui-nô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc


Sinh năm 1225 trong một gia đình quý tộc ở A-qui-nô, rồi theo học tại đan viện Mon-tê Cát-xi-nô, tiếp đến tại đại học Na-pô-li, cuối cùng Tô-ma nhập Dòng Anh Em Thuyết Giáo và hoàn tất việc học tại Pa-ri và Cô-lô-nhơ, dưới sự dẫn dắt của một bậc thánh sư là An-bê-tô Cả. Thánh Tô-ma đã thể hiện trọn vẹn lý tưởng dòng thánh Đa-minh là chiêm niệm và truyền đạt cho tha nhân điều mình đã chiêm niệm. Vừa là triết gia, vừa là thần học gia, trong vai trò giáo sư, thánh nhân đã suy nghĩ, giảng dạy và viết rất nhiều. Nhưng trước hết và trên hết, thánh nhân là người chiêm niệm, người đã cầu nguyện nhiều và đã tuân thủ một kỷ luật nghiêm khắc để có thể đạt tới ánh sáng tinh tuyền. Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xi-tô ở Phốt-xa-nô-va. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tu-lu-dơ năm 1369.

 


Bài đọc 2

Không có gương nhân đức nào mà không có nơi thập giá

Trích bài chia sẻ của thánh Tô-ma A-qui-nô, linh mục.

Có cần thiết Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ vì chúng ta không ? Thưa cần lắm, và có thể tóm lại trong hai lý do : một là để làm phương dược chữa trị tội lỗi, hai là để làm gương cho chúng ta noi theo.

Xét về phương dược để chữa trị mọi sự dữ mà chúng ta mắc phải vì tội lỗi, chúng ta gặp thấy linh dược nhờ cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô.

Nhưng xét về gương sáng thì ích lợi cũng không nhỏ, vì cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô đủ để soi sáng trọn vẹn cuộc đời chúng ta. Quả vậy, bất cứ ai muốn sống đời hoàn hảo, người ấy không cần làm gì khác ngoài việc khinh chê những gì Đức Ki-tô đã khinh chê trên thập giá và ao ước những gì Người đã ước ao. Bởi lẽ không có gương nhân đức nào mà không có nơi thập giá.

Nếu bạn muốn tìm một tấm gương bác ái, thì đây : Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Đó là điều Đức Ki-tô đã thực hiện trên thập giá. Vậy nếu Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, thì khi vì Người mà chúng ta phải chịu bất cứ đau khổ nào, sẽ chẳng có chi là quá nặng.

Nếu bạn muốn tìm một tấm gương nhẫn nhục, thì nơi thập giá có cả một tấm gương sáng ngời. Thật vậy, sự nhẫn nhục sẽ lớn lao vì hai lý do : hoặc khi người ta chịu những đau khổ lớn lao, hoặc khi người ta chịu những đau khổ có thể tránh được mà lại không tránh. Quả thế, Đức Ki-tô đã mang lấy những đau khổ lớn lao trên thập giá, và nhẫn nhục chịu đựng : Người chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín trước mặt kẻ xén lông, Người chẳng hề mở miệng. Như thế, sự nhẫn nhục của Đức Ki-tô trên thập giá thật là lớn lao : Chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục.

Nếu bạn muốn tìm một tấm gương khiêm nhường, thì xin bạn nhìn lên Đấng chịu đóng đinh : Đấng vốn là Thiên Chúa mà đã muốn chịu xét xử dưới thời Phong-xi-ô Phi-la-tô và chịu chết.

Nếu bạn muốn tìm một tấm gương tuân phục, bạn chỉ việc bước theo Đấng đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết : Cũng như vì một người duy nhất, tức là ông A-đam, đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ trở thành người công chính.

Nếu bạn muốn tìm một tấm gương khinh chê của cải trần gian, bạn chỉ việc bước theo Đấng là Vua các vua và là Chúa các chúa, nơi Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết, thế mà trên thập giá Người đã chịu trần truồng, bị chế giễu, bị khạc nhổ, bị đánh đập, bị đội vòng gai và phải uống giấm chua mật đắng.

Vậy bạn đừng bám víu vào y phục và của cải, vì áo xống tôi, chúng đem chia chác ; đừng bám víu vào danh dự, vì Người đã chịu lăng nhục và bị đánh đòn ; đừng say mê chức tước, vì họ đã kết một vòng gai làm vương miện đội lên đầu Người ; và đừng ham mê thú vui nữa, vì tôi khát nước, lại cho uống giấm chua.

Lạy Chúa, Chúa làm cho thánh Tô-ma trở nên một bậc thầy lỗi lạc, vì đã ban cho người lòng tha thiết sống cuộc đời thánh thiện và hăng say giảng dạy đạo lý cao siêu. Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con ngày càng hiểu biết điều người dạy và ra công bắt chước việc người làm. Chúng con cầu xin

ĐTC Biển Đức XVI:

23/6/2010 –  Bài 112: Thánh Thomas Aquinas - Tổng Luận Thần Học

16/6/2010 – Bài 111: Thánh Thomas Aquinas - Triết Lý Thần Học

2/6/2010 – Bài 110: Thánh Thomas Aquinas - Tiểu Sử


 

 


Thứ Tư

 

(Ngày Thứ Tư 26/1/2025 trong tuần này có thể cử hành PVLC Lễ Tết Mùng 1 - xin xem bên dưới PVLC Thứ Tư này)


Lời Chúa


 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 11-18

"Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời"

Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.

Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến dâng cũng những ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xóa được tội lỗi, còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người.

Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời.

Vả chính Thánh Thần cũng đã minh chứng cho chúng ta như thế.

Vì sau khi Chúa đã phán: "Nầy là giao ước Ta sẽ ký kết với chúng sau những ngày ấy", thì Người còn thêm: "Ta sẽ đặt lề luật Ta trong lòng chúng, và khắc nó vào tâm trí chúng; ta sẽ không còn nhớ đến những tội lỗi và sự gian ác của chúng nữa".

Vậy nơi nào tội lỗi được thứ tha, thì không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 88, 4-5, 27-28, 29-30

Ðáp: Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái. (29)

Xướng 1) Ta sẽ ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".

2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của tôi". và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.

3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.

 

Alleluia: 1Sam 3,9

Alleluia, Alleluia. - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4,1-20

"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.

Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng:

"Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống.

Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết.

Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất.

Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu.

Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô.

Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được.

Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".

Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".

Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông:

"Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội".

Người nói với các ông:

"Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?

Người gieo hạt là gieo lời Chúa.

Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ.

Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền.

Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai.

Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được.

Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".

Ðó là Lời Chúa.

 


Suy niệm

 

 

   

 Đức Kitô Mạc Khải   

 

Tiếp tục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bài Phúc Âm Thứ Tư hôm nay trong Tuần 3 của thời điểm phụng vụ này liên quan đến dụ ngôn "người gieo hạt đi gieo hạt giống".

Theo bài Phúc Âm thuật lại ở phần đầu thì nội dung của dụ ngôn này như sau: "Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".

Cũng theo bài Phúc Âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã giải thích ý nghĩa của từng hình ảnh được ám chỉ trong dụ ngôn cho các môn đệ nghe, như lời yêu cầu của các vị:

"Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".

Trong phần dẫn giải của mình, Chúa Giêsu không cho biết "người gieo hạt" là ai. Tuy nhiên, vì "gieo hạt là gieo lời Chúa" như Chúa Giêsu dẫn giải, thì "người gieo hạt" đây còn ai khác ngoài chính bản thân Người, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

Nếu "hạt đây là lời Chúa" và lời Chúa đây chất chứa "ân sủng và chân lý", vì chính bản thân Người là "Lời", bởi thế "người gieo hạtđây tức là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra để thông ban cho "những ai chấp nhận Người" (Gioan 1:12) "ân sủng và chân lý" của Người và từ Người: "ân sủng" là "được quyền làm con Thiên Chúa" và "chân lý" là "được sinh ra bởi Thiên Chúa, chứ không phải bởi huyết nhục, bởi nhục dục hay bởi ý muốn của con người" (Gioan 1:13).

Đúng thế, theo dẫn giải của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay thì hạt khi chưa gieo vẫn còn là hạt, nhưng một khi đã gieo xuống rồi thì hạt được gieo xuống ấy trở thành người nghe, người đón nhận. Có tất cả 4 loại người chính yếu tiêu biểu đáp ứng lời Chúa, đáp ứng mạc khải thần linh là chính Chúa Kitô, hay "chấp nhận" Chúa Kitô cũng thế.

Nếu "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) và là người "sinh bởi Thiên Chúa" thì họ quả thực là "những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm". 

Vậy thì 3 thành phần còn lại sẽ có thể được suy diễn và áp dụng như sau:

"Những hạt ở trên vệ đường là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi huyết nhục", nghĩa là hoàn toàn sống theo tự nhiên nông nổi bề ngoài một cách hờ hững lãnh đạm với những gì siêu nhiên, thuộc lãnh vực đức tin, thuộc đời sống thiêng liêng.


"Những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi nhục dục", sống theo cảm giác cảm tình nên rất thay đổi bất nhất.


"Những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi ý muốn của con người", sống tìm kiếm và theo đuổi ưu tiên lợi lộc trần gian, coi trọng giá trị trần gian hơn những gì là chân thực bất biến. 


Nếu "Người Con duy nhất đền từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" trong bài Phúc Âm hôm nay đóng vai trò là người gieo giống thì, trong Bài Đọc 1 hôm nay, "Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người. Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời".

 

Chính vì thế mà, Thánh Vịnh 88 trong Bài Đáp Ca hôm nay mới tiên báo về những gì Thiên Chúa đối xử với "Người Con duy nhất đền từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này như sau:

 

1) Ta sẽ ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".

2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của tôi". và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.

3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.

 

 

Thánh Lễ Đầu Năm Âm Lịch


Thánh Lễ Tất Niên


Phúc Âm: Lc 1, 39-55

"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần. Bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Người, thực từ đây thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi có phước, vì Ðấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng, và Danh Người là thánh. Ðức từ bi Người tự đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Người đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Người lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ; người đói khát, Người cho no đầy thiện hảo, bọn giàu sang, Người đuổi về tay không. Người đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Người, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người, như Người đã phán cùng tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Lc 17,11-19

"Người ấy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi ngang qua biên giới Samaria và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi".

Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế".

Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.

Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

B. Thánh Lễ Giao Thừa

 

Phúc Âm: Mt 5,1-10

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.

Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.

Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.

Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.

Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.

Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Mt 7,7-11

"Ai xin thì sẽ được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được; ai tìm thì sẽ gặp; ai gõ cửa sẽ mở cho. Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người?"

Ðó là lời Chúa.

 

C. Thánh Lễ Minh Niên

(Cầu bình an cho Năm Mới)

 

Bài Ðọc I: Gen 1,14-18

"Những vật sáng hãy trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm. Và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy tốt đẹp.

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - -

Hoặc: Num 6,22-27

"Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Bài trích sách Dân Số.

Chúa phán cùng Môisen rằng: "Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế nầy: Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con, xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 48, 2-3. 6-7. 8-10. 11. 17-18

Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. (Mt 5, 3)

Hoặc Ðáp: Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. (Mt 6, 33a)

Xướng: 1) Hỡi các dân, xin nghe lấy chuyện nầy, xin hãy lắng tai, hết thảy những ai cư ngụ địa cầu, người phận nhỏ cũng như người quyền thế, kẻ giàu sang cũng như kẻ cơ bần! - Ðáp.

2) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai họa, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người nầy tin cậy vào tài sản, chúng tự hào bì có bạc vạn tiền muôn? - Ðáp.

3) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền chuộc mạng. Giá chuộc mạng quá đắt, không bao giờ người ta có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết. - Ðáp.

4) Bởi lẽ người ta thấy chết cả những người khôn, đứa dại đứa ngu cũng đều phải chết, để lại cho người khác tài sản của mình. - Ðáp.

5) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng; bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ. - Ðáp.

- - - - - - - - - - - -

Hoặc: Tv 89, 2. 3-4. 5-6. 12-13. 14. 16

Ðáp: Lạy Chúa, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng tôi làm ra. (17c)

Xướng 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở nầy qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

5) Xin cho chúng tôi sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng tôi mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng tôi. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1Cor 7,29-31

"Bộ mặt thế gian nầy đang qua đi".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Corintô.

Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều nầy là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy như không có: những ai than khóc, hãy ăn ở như không khóc; những ai hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những ai mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời nầy, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian nầy đang qua đi.

Ðó là lời Chúa

- - - - - - - - - - -

Hoặc: Jac 4,13b-15

"Anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao".

Bài trích thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, bây giờ anh em nói: "Hôm nay hoặc ngày mai chúng tôi sẽ đến một thành nọ, rồi ở lại đó một năm mà buôn bán kiếm lời". Nhưng anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi vì đời sống anh em là cái gì? Là một chút hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi biến đi. Lẽ ra anh em phải nói rằng: "Nếu Chúa muốn, và nếu chúng tôi còn sống, chúng tôi sẽ làm điều nầy điều kia".

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia và Câu Xướng Trước Phúc Âm: Chron 29, 10. 11b

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel tổ phụ chúng tôi, Chúa đáng chúc tụng; mọi tạo vật trên trời dưới đất đều là của Chúa. - Alleluia.

Hoặc đọc: 

Alleluia, alleluia! - Trải qua mọi ngày, chúng tôi chúc tụng Chúa; và chúng tôi ca ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 25-30

"Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho. Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Ga 14, 23-27

"Thầy ban bình an của Thầy cho các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Ga 20,19-23

"Bình an cho các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Mt 6,25-34

"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?" Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

LeDauNamAmLich.mp3  

 

 

 

 

Thứ Năm

 

(Có thể cử hành Lễ Mùng 2 Tết, ở bên dưới phần PVLC Thứ Năm này)


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 19-25

"Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta, và hãy thúc giục nhau thực thi bác ái".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, nhờ máu Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng bước vào cung thánh. Ðó là con đường mới và sống động mà Người đã mở cho chúng ta, xuyên qua tấm màn là thân xác Người; và ban cho chúng ta có một thượng tế cai quản nhà Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến đến với lòng chân thành, đầy đức tin, lòng được trong sạch khỏi lương tâm gian ác, và thân xác được tắm gội bằng nước trong sạch. Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta, vì Ðấng đã hứa là Ðấng trung tín. Chúng ta hãy thúc giục nhau thực thi bác ái và làm việc thiện. Ðừng trốn tránh những buổi hội chung như ít người có thói quen, nhưng anh em hãy khích lệ nhau, nhất là khi thấy ngày đó gần đến.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6.

Ðáp: Lạy Chúa, đó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa (c. 6).

Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.

2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.

3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4, 21-25

"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe". Và Người bảo họ rằng: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy niệm



  Đức Kitô tỏa sáng   


Hôm nay, Thứ Năm Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này liên quan đến những lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm sau đây:

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".

Đối tượng của những lời Chúa Giêsu phán dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như Thánh ký Marco cho biết, đó là "dân chúng", chứ không phải là các môn đệ của Người, cho dù các môn đệ của Người là thành phần đã được Người ví như "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).

"Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao?": Chúa Giêsu muốn nói gì đây hay ám chỉ ai đây? Phải chăng Người muốn ám chỉ Lời giảng dạy của Người? Vì "Lời Ngài là đèn soi chân con bước, là ánh sáng soi đường con đi" (Thánh Vịnh 119:105). 

Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, mà bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn "người đi gieo hạt" và "hạt là Lời Chúa", thì bài Phúc Âm hôm nay Người muốn tiếp tục đề tài Lời Chúa hay mạc khải thần linh, nhưng bằng một hình ảnh khác hay đúng hơn bằng một tác động khác, thay vì "đi gieo hạt" như trong bài Phúc Âm hôm qua thì lại "đặt trên giá đèn" trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nếu ánh sáng là hình ảnh hay tiêu biểu cho sự thật cũng như cho bản chất của ánh sáng hay của sự thật là chiếu soi, là giải phóng thì quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng". 

Câu "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng" này cũng có thể hiểu là không gì có thể ẩn khuất, cho dù là thâm tâm của con người, là âm mưu tinh quái nhất của con người, cũng không thể nào qua mặt được Lời Chúa, không thể nào che giấu được Lời Chúa là Chúa Kitô, che giấu được ánh mắt thần linh của Người: "Người tự mình biết được những gì nơi con người ta" (Gioan 2:25).

Trong bài Phúc Âm hôm qua, khi nói về dụ ngôn "người đi gieo hạt", Chúa Giêsu còn nói cả về phía thành phần lãnh nhận và đáp ứng thế nào: hạt vệ đường, hạt đá sỏi, hạt bụi gai, hạt đất tốt bao gồm hạt 30, hạt 60 và hạt 100, thì trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, Người cũng bao gồm cả vế thành phần lãnh nhận nữa: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy" (chính động từ "nghe" ở đây cũng cho thấy "đèn soi" là Lời Chúa, đối tượng của tác động "nghe").

"'Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".

Đúng thế, càng cởi mở và khao khát lời Chúa, nhất là càng nhiệt thành và mau mắn đón nhận Lời Chúa, tức là càng tìm kiếm chân lý là Chúa Kitô, càng đáp ứng Chúa Kitô là mạc khải thần linh, thì tùy theo tầm vóc của mình, một tầm vóc được ví như cái "đấu", cũng như tùy theo cường độ khát vọng thần linh của mình, tùy theo khoảng rộng cởi mở của mình, một thứ cường độ và khoảng rộng được ví như tác động "đong" của con người lãnh nhận, Lời Chúa ở nơi họ, một là "có, sẽ được cho thêm", hai là "không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".

Thật ra, cho dù tác dụng của "đèn soi" hay của "hạt gieo" có vẻ bị lệ thuộc vào môi trường là người nhận, ở chỗ nếu họ không mở cửa thì ánh sáng của "đèn soi" không lọt vào được, hay nếu không gặp "đất tốt" thì "hạt gieo" sẽ không thể nẩy mầm và phát triển, nhưng tự mình, "đèn soi" vẫn không thể nào không tỏa sáng để làm cho môi trường biến khuất tối tăm, và "hạt gieo" vẫn chất chứa mầm sống để làm cho môi trường phát triển tốt tươi

Những môi trường nhân bản nào khép kín không tiếp nhận ánh sáng của "đèn soi", hay khô cằn không thể thích hợp với mầm sống của "hạt gieo" là những môi trường nhân bản hay những con người tự tác hại bản thân mình, chứ không thể nào tác hại đến chính "đèn soi" tự bản chất vẫn soi chiếu, hay đến chính "hạt gieo" tự bản chất vẫn làm cho cây cối phát triển.

Nếu "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", bằng nhân tính nói chung và nhờ thân xác của Người nói riêng, như bí tích cứu độ của Người, đã thông truyền sự sống thần linh cho con người, như thể Người thắp lên nơi chung con người, cũng như nơi từng người, nhất là nơi thành phần môn đệ của Người, "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12 và xem 1:4), thì, như Bài Đọc 1 hôm nay cảm nhận: "Ðó là con đường mới và sống động mà Người đã mở cho chúng ta, xuyên qua tấm màn là thân xác Người; và ban cho chúng ta có một thượng tế cai quản nhà Thiên Chúa".

Về phần những ai được diễm phúc thắp sáng bởi Người Con này, thì Bài Đọc 1 thôi thúc "Chúng ta hãy tiến đến với lòng chân thành, đầy đức tin, lòng được trong sạch khỏi lương tâm gian ác, và thân xác được tắm gội bằng nước trong sạch. Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta, vì Ðấng đã hứa là Ðấng trung tín. Chúng ta hãy thúc giục nhau thực thi bác ái và làm việc thiện", thành phần được Thánh Vịnh 23 ở câu họa chung của Bài Đáp Ca hôm nay cho biết "đó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa", ở chỗ:

1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn.

2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa.

3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.

 

 

Ngày Mồng 2 Tết Âm Lịch

 

Thánh Lễ Cầu Cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ

 

Bài Ðọc 1: Hc 44,1.10-15

"Chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ."

Bài trích sách Huấn Ca.

Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ.

Nhưng các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen.

Ðó là lời Chúa.

 

Bài Ðọc 2: Ep 6,1-4.18.23.24

"Hãy tôn kính cha mẹ. Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này".

Bài trích thư của Thánh Phaolô Tông Ðồ các gửi tín hữu thành Êphêsô.

Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Ðó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.

Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Ðể được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể các thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói.

Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin. Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất cả những ai yêu mến Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.

Ðó là lời Chúa.

 

Phúc Âm: Mc 7,1-2. 5-13a

"Hãy thảo kính cha mẹ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước.

Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?"

Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì chúng dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy".

Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, người đó phải chết". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được, nay tôi muốn nó trở thành Corban (nghĩa là của dâng cúng)", rồi các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - -

Hoặc: Lc 1,67-75

"Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Phi Thuyền bay vào Cõi Vĩnh Hằng

 

 

 

Thứ Sáu

 

(Có thể cử hành Lễ Mùng 3 Tết, ở bên dưới phần PVLC Thứ Sáu này)


Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 32-39

"Anh em đừng mất lòng kiên nhẫn".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, anh em hãy nhớ lại những ngày trước, khi anh em vừa lãnh nhận ánh sáng, anh em đã đương đầu với bao nhiêu trận đau khổ lớn lao. Khi thì anh em bị công khai sỉ nhục và hoạn nạn, khi thì anh em phải liên đới với những kẻ chịu những sự đối xử như thế. Vì chưng, anh em đã cùng chịu số phận của những tù nhân, anh em đã vui mừng chấp nhận người ta tước đoạt của cải, vì anh em biết rằng mình có của cải tốt hơn và bền vững. Vậy anh em đừng bỏ mất lòng tin tưởng của anh em, đáng được thưởng công bội hậu. Anh em cần phải kiên nhẫn, để khi làm tròn thánh ý Chúa, anh em được lãnh nhận điều Chúa hứa. Vì chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi, Ðấng phải đến sẽ đến, và Người sẽ không trì hoãn. "Còn kẻ công chính của Ta thì sống theo đức tin. Nhưng nếu người đó tháo lui, thì sẽ không làm đẹp lòng Ta". Còn chúng ta, chúng ta không thuộc hạng người tháo lui mà hư mất, nhưng chúng ta là con cái đức tin để cứu thoát linh hồn chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 36, 3-4. 5-6. 23-24. 39-40

Ðáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).

Xướng: 1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. - Ðáp.

2) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động, Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ. - Ðáp.

3) Nhờ ơn Chúa mà hiền nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối họ đi. Dầu có ngã, họ sẽ không nằm gục, vì Chúa sẽ nâng đỡ tay họ. - Ðáp.

4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4, 26-34

"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được". Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm

   

 Đức Kitô Nước Trời  


Thứ Sáu Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, Bài Phúc Âm nói riêng và phụng vụ Lời Chúa nói chung vẫn phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này.

Trước hết, ở bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã sử dụng 2 dụ ngôn để nói về mầu nhiệm hay thực tại "Nước Thiên Chúa", dụ ngôn đầu về "người kia đã gieo hạt xuống đất" và dụ ngôn sau về "hạt cải", thứ tự như sau:

Dụ ngôn về "người kia đã gieo hạt xuống đất": "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

Dụ ngôn về "hạt cải": "Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được".

Về dụ ngôn "người kia đã gieo hạt xuống đất", Chúa Giêsu có bao gồm 2 đặc điểm liên hệ với nhau giữa người gieo hạt giống và chính hạt giống, đó là "người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa". 

"Người đó cũng không hay biết nữa" ở đây có thể hiểu là: 1- không cần để ý, vì theo kinh nghiệm nhà nông thì người này đã thừa biết rằng: "đất tự nó làm cây lúa mọc lên"; 2- hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của hạt giống được mình gieo xuống: "hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên... trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt"; và 3- sống trong chờ đợi công lao gieo vãi chuyên nghiệp của mình: "Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

Thật vậy, nếu "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trong bài Phúc Âm hôm nay chẳng những tỏ ra tin tưởng vào những gì mình gieo vãi mà còn tỏ ra nhẫn nại chờ đợi, bằng việc tôn trọng tiến trình phát triển của những gì do mình gieo vãi cho đến khi những gì được gieo vãi ấy đạt đến tầm mức viên trọn của chúng, thì thành phần nhận được những gì do Người gieo vãi, như Bài Đọc 1 hôm nay khuyên dạy, đó là "anh em đừng bỏ mất lòng tin tưởng của anh em, đáng được thưởng công bội hậu. Anh em cần phải kiên nhẫn, để khi làm tròn thánh ý Chúa, anh em được lãnh nhận điều Chúa hứa. Vì chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi, Ðấng phải đến sẽ đến, và Người sẽ không trì hoãn".

Thành phần "tin tưởng" "kiên nhẫn" được Bài Đọc 1 hôm nay nói đến ấy được câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay gọi là "Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ", những con người còn được Thánh Vịnh 36 ở Bài Đáp Ca hôm nay kêu gọi một khi "được Chúa ban ơn cứu độ" như thế này:

1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu.

2) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động, Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ.

3) Nhờ ơn Chúa mà hiền nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối họ đi. Dầu có ngã, họ sẽ không nằm gục, vì Chúa sẽ nâng đỡ tay họ.

4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.

 

Riêng bài Phúc Âm hôm nay, về hai dụ ngôn Nước Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể suy diễn như thế này, trước hết là dụ ngôn "gieo hạt xuống đất" và sau đó là dụ ngôn "hạt cải thành cây".

Du Ngôn gieo hạt xuống đất

"Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất": Chúng ta cần lưu ý là "Nước Thiên Chúa giống như người kia", tức "Nước Thiên Chúa giống như" một con người, một con người gieo giống, chứ không phải Nước Thiên Chúa giống như chuyện gieo hạt xuống đất, hoặc "Nước Thiên Chúa giống như hạt được gieo xuống đất". Vậy thì "người kia" đây là ai hay ám chỉ ai? Nếu không phải là chính Thiên Chúa, Đấng "đã sai Con Ngài xuống trần gian" (Gioan 3:17) như thể Ngài gieo Con Ngài là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) trên trái đất này vậy.

Mà đã là Con Ngài, hiện thân của Ngài, phản ảnh chính Ngài, thì Ngài thật sự là chẳng cần phải lo lắng gì hết, do đó mới có chi tiết: "người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa". Bởi vì, "đất tự nó làm cây lúa mọc lên", ở chỗ "đất" đây ám chỉ nhân tính của Chúa Kitô nói chung và thân xác của Người nói riêng, một thân xác, cùng với nhân tính, đã được hiệp nhất nên một ngôi vị với thần tính của Con Thiên Chúa làm người, nhờ đó đã trở thành môi trường, thành phương tiện, thành bí tích cho thần tính tỏ mình ra và thông mình ra, tùy theo tiến trình phát triển của nhân tính qua thân xác của Người: "Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa... Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta" (Luca 2:40,52).

"Trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt lúa vì đã đến mùa". Qua dụ ngôn người gieo hạt, Chúa Kitô còn diễn tả tiến trình phát triển của hạt được gieo xuống đất nữa, và được chia là 5 giai đoạn, tương đương với 5 biến cố chính yếu trong cuộc đời của "Lời đã hóa thành nhục thể":

1- "Trước hết thành cây": đó là lúc Chúa Kitô chịu phép rửa ở Sông Jordan, ở vào tuổi 30 là tuổi trưởng thành nhất, theo tầm vóc cả về thể lý lẫn tâm lý của con người ta, sau tuổi thanh niên được hấp thụ kinh nghiệm cuộc đời và trước tuổi lão thành chín chắn già dặn đầy kinh nghiệm sống;

2- "Rồi đâm bông": đó là lúc Chúa Kitô vinh hiển vào Thành Thánh Giêrusalem, thời điểm "Lời đã hóa thành nhục thể", theo con mắt trần gian, được hiển vinh nhất sau 3 năm Người thi hành thừa tác vụ thiên sai của mình;

3- "Rồi kết hạt": đó là lúc Chúa Kitô trải qua cuộc khổ nạn và tử giá, vì muốn kết nụ thì các cánh hoa phải rụng đi hết để có thể "tượng" (tiếng chuyên môn của nhà vườn), nghĩa là để có thể kết thành nụ, giai đoạn "thành cây" không còn lộng lẫy và sắc sỡ mầu sắc cùng hương thơm nữa, đúng như những gì đã xẩy ra vào Chúa Nhật Lễ Lá, một Chúa Nhật bao gồm cả hai chiều kính vinh quang ("đâm bông") lẫn khổ giá ("kết hạt");

4- "Lúa chín": đó là lúc Chúa Kitô phục sinh từ trong cõi chết, bằng không, nếu không sống lại, Chúa Kitô không phải là "Lời đã hóa thành nhục thể", mà chỉ là một con người thuấn túy, không tự cứu được bản thân mình, cũng bị tội lỗi và sự chết thống trị như tất cả mọi người khác;

5- "Gặt lúa": đó là lúc Thánh Thần, Đấng được Chúa Kitô, với thân xác phục sinh vinh hiển của nhân tính Người, thăng thiên về trời, từ Cha sai xuống trên các tông đồ, để các vị bắt đầu sứ vụ loan truyền ơn cứu độ của Chúa Kitô Phục Sinh, cho đến khi Người lại tới, và ngay ngày Thánh Thần Hiện Xuống, các vị đã gặt hái được 3 ngàn người trở lại (xem Tông Vụ 2:41).

Dụ Ngôn hạt cải thành cây.

1- "Hạt cải": Hạt cải đây ám chỉ "Lời" hay "Ngôi Lời" (xem Gioan 1:1) và cũng ám chỉ thần tính của "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14);

2- "Gieo xuống đất": Đất đây ám chỉ thế gian, ám chỉ trái đất này, hay ám chỉ nhân tính của loài người, đặc biệt là ám chỉ thân xác được tạo dựng nên bởi đất (xem Khởi Nguyên 2:7), vì thế "hạt cải được gieo xuống đất" đây ám chỉ thần tính mặc lấy nhân tính nơi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô;

3- "Nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất": Ở chỗ, không thể dùng kính hiển vi mà nhìn thấy được như nhìn thấy một thứ vi khuẩn tí ti hữu hình về thể lý, bởi "Lời đã hóa thành nhục thể" là một thực tại thần linh, chỉ có thể nhận biết bằng đức tin siêu nhiên mà thôi, có nghĩa là "Lời đã hóa thành nhục thể", tự bản chất, quá ư là bé mọn trước con mắt trần gian, như trước con mắt của Vua Hêrôđê hay của thành phần luật sĩ Do Thái thông luật và biết được Hài Nhi Giêsu sinh ra ở đâu, không thể nhận ra được thực tại thần linh huyền nhiệm siêu việt này, nếu không có đức tin như thành phần nghèo khó thành tâm như các mục đồng ở Belem, hay như ba vị chiêm vương gia đông phương; thậm chí hạt cải này còn bé mọn đến độ mục nát đi như hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), qua cuộc khổ nạn và tử giá của "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14);

4- "Nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, đâm những cành to": Tuy nhiên, sau cuộc Vượt Qua của mình, tức sau khi sống lại từ trong cõi chết, hạt cải bé mọn nhất là "Lời đã hóa thành nhục thể" ấy đã trở "thành cây rau lớn nhất", như cây thánh giá, cũng chính là cây sự sống, một cây sự sống "đã đâm ra những cành to" là Giáo Hội ở các nơi trên thế giới nói chung và nơi các vị đại thánh nói riêng, trước hết và trên hết là nơi các thánh tông đồ, đặc biệt là nơi hai vị tông đồ cả Phêrô và Phaolô; hay như nơi hai vị thánh phó tế tử đạo Stephano và Laurenso; hoặc như nơi hai vị đại giáo hoàng Lêô Cả và Grêgôriô Cả; hay như nơi hai vị đại thừa sai truyền giáo là cặp anh em Thánh Cylillô và Mêthôđiô, 2 trong 6 vị thánh quan thày của Âu Châu; hoặc như nơi hai thánh lập dòng thời trung cổ là Thánh Phanxicô lập dòng Anh Em Hèn Mọn và Thánh Đaminh lập dòng Giảng Thuyết; hay như nơi hai vị thánh Balan của Lòng Thương Xót Chúa là Thánh Faustina Kowalska và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II v.v.

5- "Chim trời có thể tới núp bóng được": "Chim trời" đây ám chỉ các linh hồn được cứu độ khi biết "thống hối và tin vào phúc âm" (Marcô 1:15), như thể các linh hồn tìm về tổ ấm này "núp bóng" nơi "cây rau lớn nhất, đâm những cành to" "Lời đã hóa thành nhục thể", ở nơi Giáo Hội Nhiệm Thể của Người trên khắp trần gian này, qua chứng từ của các vị thánh dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, cho tới khi "Người lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng" (Kinh Tin Kính).

 

 

 

Ngày Mồng 3 Tết Âm Lịch

 

Thánh Lễ Cầu Cho Công Ăn Việc Làm

 

Bài Ðọc I: St 1,26 - 2,3

"Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều đầy mặt đất và thống trị nó".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất".

Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Người tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.

Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Người chúc phúc và thánh hóa ngày thứ bảy, vì trong đó Người nghỉ việc tạo thành.

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - -

Hoặc: St 2, 4b-9. 15

"Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa".

Bài trích sách Sáng Thế.

Trong ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, thì chưa có bụi cây nào mọc ngoài đồng, không có một cây rau cỏ nào nẩy mầm ngoài đồng ruộng, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa rơi xuống đất, và chưa có người để trồng trọt, nhưng lúc đó mạch nước từ đất vọt lên, tưới khắp mặt đất.

Vậy Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vườn tại E-đen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên. Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết lành biết dữ. Vậy Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn.

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - -

Hoặc: 2Cor 9, 8-11

"Thiên Chúa đã cung cấp bánh để nuôi họ".

Bài trích thơ thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn sung túc mọi mặt, vừa được dư dật dể làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời".

Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em. Như thế, anh em được giàu có mọi bề, để thi hành mọi việc bác ái; qua tay chúng tôi, phúc đức đó sẽ làm phát sinh lời cảm tạ Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp ca: Tv 103, 1-2a, 14-15, 24, 27-28

Ðáp: Lạy Chúa, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. (24c)

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.

2) Ngài khiến cỏ xanh mọc ra cho súc vật, và cây cối để con người xử dụng, để từ trong đất con người tạo ra cơm bánh, và rượu làm hoan hỉ lòng người; khiến cho mặt người lấp lánh dầu thơm, và bánh cơm tâm can người được bỗ dưỡng. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. - Ðáp.

4) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo. - Ðáp.

 

Alleluia và Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 67, 20

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia; Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. - Alleluia.

Hoặc: Mt 11, 28

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: Hỡi tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, "hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 5, 16-20

"Chúa Cha yêu Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, các người Do thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã chữa bệnh trong ngày sabbat. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, các người Do thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.

Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Thật, Ta bảo thật cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì, nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu thương Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán thục".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - -

Hoặc: Mt 6, 31-34

"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?" Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - - - - - - -

Hoặc: Mc 4,26-29

"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất, người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".

Ðó là lời Chúa.

 

Tân Niên - Lời Chúc Xuân lợi hại nhất

 

 

Ngày 31 tháng 1

Thánh Gio-an Bốt-cô, linh mục

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử
 
Chào đời năm 1815 tại Cát-ten-nô-vô, giáo phận Tô-ri-nô, Gio-an đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Sa-lê-diêng và dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888.

 

Noi gương Đức Giê-su và để cho tình yêu hướng dẫn

Trích thư của thánh Gio-an Bốt-cô, linh mục.

Nếu chúng ta muốn tỏ ra là người tha thiết quan tâm tới lợi ích đích thực của các học sinh chúng ta, và thôi thúc chúng chu toàn bổn phận, các con đừng bao giờ quên rằng mình đang thay mặt cho cha mẹ của lớp trẻ thân yêu này, lớp trẻ đã từng là đối tượng ưu ái khiến cha luôn bận tâm, lao nhọc, học hỏi, và thực thi tác vụ linh mục. Chúng còn là đối tượng cho toàn thể dòng Sa-lê-diêng chúng ta phục vụ nữa. Do đó, nếu chúng con muốn là những người cha đích thực của các học sinh, nhất thiết chúng con phải có tấm lòng của một người cha ; và như thế, chúng con đừng bao giờ dùng tới biện pháp cưỡng chế hay ra hình phạt cách vô lý và không công bằng, cũng đừng theo lối của người làm việc miễn cưỡng, hoặc chỉ làm vừa đủ để chu toàn phận sự của mình.

Các con rất thân mến, trong công việc giáo dục lâu dài của cha, biết bao lần cha đã phải tâm niệm về chân lý cao cả này : bực tức thì bao giờ cũng dễ hơn là nhẫn nại, doạ nạt một đứa trẻ thì dễ hơn là thu phục nó. Cha còn dám nói thêm rằng : thường chúng ta dễ theo tính kiêu căng và nóng nảy mà trừng phạt những em bướng bỉnh, hơn là lấy lòng cương nghị và hiền từ mà sửa dạy và chịu đựng chúng. Lòng bác ái mà cha xin chúng con chính là đức ái mà thánh Phao-lô đã dành cho các tín hữu mới trở lại đạo Chúa. Đức ái này đã khiến thánh nhân phải nhiều phen khóc lóc van nài khi thấy họ ít vâng lời và không đáp lại lòng nhiệt thành của người.

Khi sửa phạt, thật khó mà giữ được bình tĩnh. Nhưng đó lại là điều tối cần để không ai có thể nghĩ rằng ta làm thế vì muốn thị uy hay trút cơn nóng giận.

Hãy coi các trẻ nhỏ dưới quyền chúng ta như là con cái. Hãy dấn thân phục vụ chúng theo gương Chúa Giê-su. Người đến không phải để ra lệnh nhưng để vâng phục. Các con phải cảm thấy xấu hổ khi thấy mình lộ vẻ thống trị ; và nếu có thống trị thì cũng chỉ là để phục vụ đắc lực hơn mà thôi. Chúa Giê-su đã cư xử như thế với các Tông Đồ. Người chịu đựng sự dốt nát, thô kệch, và cả lòng trung thành yếu kém của các ông nữa. Rồi khi đối xử với các tội nhân cách nhân hậu và thân mật, Người đã làm cho lắm kẻ phải ngạc nhiên, nhiều người khó chịu, nhưng cũng khiến cho biết bao người hy vọng được Thiên Chúa thứ tha. Vì thế, Đức Giê-su bảo ta hãy học nơi Người để biết sống hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Bởi vì trẻ em là con cái chúng ta, nên khi phải sửa trị lỗi lầm của chúng, ta phải tránh mọi sự nóng giận, hay ít ra phải nén lòng tới độ xem ra đã hoàn toàn dập tắt được cơn nóng giận rồi. Tuyệt đối không được để cho cõi lòng sôi sục, không được có khoé nhìn khinh bỉ, không được phép dùng lời ăn tiếng nói hạ nhục một ai. Nhưng ta hãy cứ cảm thông lúc này và hy vọng vào tương lai. Như vậy, các con mới là những người cha đích thực, và sửa dạy chúng thật sự.

Trong những trường hợp trầm trọng, ta nên khiêm hạ nài xin Thiên Chúa, hơn là tuôn ra những lời lẽ vừa khiến cho người nghe phật lòng, lại vừa không ích lợi gì cho kẻ phạm lỗi.

Các con hãy nhớ rằng giáo dục là công việc của tâm hồn, nơi chỉ có Thiên Chúa làm chủ. Thế nên ta không thể đạt được gì nếu Thiên Chúa không dạy ta nghệ thuật và không trao cho ta bí quyết giáo dục.

Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến. Hãy vun trồng tâm tình kính sợ Thiên Chúa. Như thế, ta có thể dễ dàng mở được cánh cửa của bao tâm hồn và liên kết lại với chúng ta mà ca hát, ngợi khen và chúc tụng Đấng đã muốn trở nên mẫu mực của chúng ta, đường đi của chúng ta và gương lành cho chúng ta trong mọi sự, đặc biệt trong việc giáo dục thanh thiếu niên.

Xướng đápMc 10,13-14 ; Mt 18,5

XNgười ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người chạm tay vào chúng ; nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông :

Đ“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.

XAi tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.”

Đ“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.

Lạy Chúa, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh một người cha và một bậc thầy của giới thanh thiếu niên là thánh Gio-an Bốt-cô linh mục. Xin Chúa cũng đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con biết phụng sự một mình Chúa và lo cho anh em được cứu độ. Chúng con cầu xin

 

 

 


Là cha, thầy và bạn của
Thanh Thiếu Niên
Phạm Bá Nha 
 
 Cuộc đời thánh Gioan Don Bosco, như chính ngài viết trong nhật ký theo lệnh ÐGH Pio IX, ghi lại dòng Salésiens, gồm 3 phần : sống nghèo với cảnh mẹ góa con côi. Ơn gọi làm linh mục mở trường giáo dục con em và lập Dòng Salésiens. Cha Thánh suốt đời sống và phục vụ người trẻ. Trước khi qua đời, (31.01.1888), cha nói : Hãy nói với các bạn trẻ, ta chờ chúng ở trên Thiên Ðàng. Thánh nhân được phong Chân Phước 02.06.1926, và Hiển Thánh 1.4.1934, do ÐGH Pio XI. Lễ kính 31.1. hàng năm. Khi phong thánh, ÐHG tôn vinh Don Bosco là cha và thầy của thanh thiếu niên
Năm 2015, kỷ niệm 200 sinh nhật Thánh Don Bosco, ÐGH Phanxico nói : Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thánh nhân, xin hoán cải giới trẻ trong tinh thần tươi trẻ huynh đệ như xưa, ngài đã đào luyện.
 
 I. Nghèo cảnh Mẹ Góa con côi
 
 Thánh Gioan Don Bosco sinh 15.08.1815, lễ Ðức Mẹ Lên Trời, tại làng Becchi, Marialdo, thị trấn Castelnuovo d’Asti, bắc Ý, xa Torino 17 cây số. Ngày 17, Gioan được rửa tội do cha Giuse Festa. Trong sổ rửa tội ghi tên em nhỏ : Bosco Joannes Melchior. Melchior là tên ông nội. Chữ Don thêm vào để ‘‘tôn kính’’ hay ‘‘cha’’.
 
 Mẹ Gioan là Magarita Occhiena di Capriglio (+1865). Ông bà thành hôn năm ông 28 tuổi bà 24 tuổi. Cha của Gioan là Phanxico Aloysii, dân quê. Ông qua đời 12.5.1817, 34 tuổi. Năm đó, Bosco mới 22 tháng, mẹ kéo Gioan vào buồng khóc, nói : Bố không còn nữa. Trên mộ ông,  ghi : Orphanorum pater, cha trẻ mồ côi. Gia đình có ba anh em : Antôn con mẹ trước, Têrêxa mất khi mới hai ngày. Giuse và Gioan. Trong nhà còn bà nội, 70  tuổi.
 
 Gia đình sống trong thời đói kém. Dân làng ăn cháo bột bắp hay mì. Người chết đói la liệt ngoài đường, miệng còn ngậm cỏ. Có tiền cũng không mua được thức ăn. Có lần bà mẹ nhờ người hàng xóm đi mua thức ăn. Họ mang tiền về. Cả nhà bàng hoàng lo sợ. Giữa lúc túng bấn ngặt nghèo, bà qua nhà bên cạnh vay mượn chút ít. Nhưng không ai có. Bà nói với các con : Khi bố chết, có dặn : phải có lòng tin. Nghe lời bố cả nhà qùi xuống cầu kinh. Rồi bà xuống bắt con bê, nấu một phần cho con ăn, qua cơn đói.
 
 Ngay trong những ngày đói kém, có người ngỏ ý muốn kết hôn. Bà từ chối : Thiên Chúa cho tôi một người chồng. Nay Chúa cất đi. Anh trao lại cho tôi ba đứa con. Tôi sẽ là người mẹ độc ác, nếu bỏ rơi chúng. Ðang khi chúng cần tôi. Người ta nói với bà tìm cho mỗi đứa một người giám hộ tốt. Bà trả lời : giám hộ chỉ là bạn. Tôi là mẹ, không bao giờ bỏ con. Dù cho tôi vàng bạc.  
 
 Chính bà để tâm dạy các con đọc kinh chung, lần chuỗi và cầu nguyện. Năm con Bosco lên sáu, xưng tội lần đầu mẹ dẫn con đến nhà thờ, tham dự Lễ, bà xưng tội trước, sau đến con. Ðức Pio XII nói về gia đình bà : hãy xem người phụ nữ góa, cùng ba đứa con cầu nguyện. Chúng như thiên thần nhỏ. Người mẹ mở tủ, lấy quần áo cho con mặc. Ðem con đi nhà thờ làng bên cạnh. Sau cơm tối, con cái vây quanh, bà nhắc các con 10 giới răn. Kể cho con cuộc tử nạn Chúa Giêsu.  Sau này, Bosco kể lại, nhờ mẹ, mà mình có lòng tôn kính Phép Thánh Thể.
 
 Mẹ con không có nghề trong tay, nên Bosco làm nhiều việc, phụ giúp nuôi gia đình, như : chăn bò, bửa củi, bồi bàn càfê, may quần áo... Năm 11 tuổi, Gioan mới cắp sách, đi bộ 4 cây số, mới đến trường. Do các linh mục điểu hành, kỷ luật.
 
 Nghèo, lại lận đận học hành, Bosco mất học nhiều năm. Từ nhỏ nuôi mộng thành linh mục. Nhưng sợ mẹ vất vả tốn kém. Bà đã nói với con :đừng băn khoăn. Mẹ nghèo, sống và chết nghèo. Năm 16 tuổi, Bosco nhập tu. Giờ rảnh Bosco xin tập họp trẻ mồ côi, vui chơi và dạy giáo lý. Sau khi làm linh mục, cha bắt tay gầy dựng theo ước mơ. Lần đầu 1 trẻ đến. Ba hôm sau có 9 em. 3 tháng có 25 em. Chẳng bao lâu, toàn trẻ mồ côi đến. Sáng lễ, xưng tội. Chiều giáo lý, hát vui chơi. Cha lập các ‘‘nguyện xá’’ qui tụ thanh thiếu niên, vui chơi. Cha có thiên tài viết nhạc thuyết phục trẻ và chủ trương : Nhà Salésiens thiếu âm nhạc, chỉ là xác không hồn. Bosco yêu giới trẻ.
 
 Có mẹ Margarita, Thánh Gioan Don Bosco trở thành nhà giáo dục thanh thiếu niên tài giỏi. Anh của Bosco nóng tính hay hành hạ em. Bà buồn. Cha sở thấy Gioan thông minh chọn vào nhà xứ học latinh, chuẩn bị đi tu. Anh ghét, bắt Gioan làm việc tối ngày lại đánh đập, có khi Gioan ngất xỉu. Nhìn xa, biết con sẽ đau khổ, bà gửi con tới nhà cậu em, xa 20 cây số. ở nhà cậu, em làm bánh mì, nặng nhọc thức khuya dạy sớm. Dưới ánh lửa tối, Gioan lấy sách ra học. Ðôi khi bà gửi con đến nhà những người quen.    
 
 Ðến hôm người anh lập gia đình, ở riêng.  Bà mẹ đem con về nhà và gửi vào cha xứ tiếp tục tu luyện. Ngày con nhập tu viện Torino, nghèo bà phải bán áo cưới may cho con áo chùng thâm. Ngày con thụ phong linh mục, bà qùi nhận phép lành, bà nói : mẹ sung sướng thấy con thành linh mục. Con thành tâm phụng sự Chúa và các linh hồn.
 
 Có lần thấy mẹ lạnh, ăn mặc lôi thôi, cha mua cho mẹ áo mới. Lâu không thấy mẹ mặc, cha hỏi. Mẹ trả lời đã bán phụ tiền nuôi trẻ. Sau nhiều năm phụ con, cạn tiền, lại già, kiệt sức, vì lũ trẻ tinh nghịch, phá phách bà xin nghỉ. Cha nói với mẹ: vắng mẹ, còn ai giúp con. Bà mẹ mắt mờ, lưng còng, hai mẹ con nhìn nhau, nước mắt lưng tròng, nói : Gioan con, mẹ hiểu và ở lại với con....cho đến chết. Tụi nó là con mẹ. Sau 20 năm phụ con, bà qua đời ai cũng mộ mến và gọi là má Magarita. Hiện có tượng má lớn ngay cổng vào làng cũ xưa. Tay mang giỏ hoa. Bà qua đời năm 1865, sau 20 năm phụ con giáo dục, giúp trẻ em. Ai cũng mộ mến gọi bà : Má Margarita. (Những Người Lữ Hành Trên Ðường Hy Vọng. ttr.193-197).
 
 II. Linh Mục trẻ ở Torino

Cậu kể lại giấc mơ, năm lên 10. Một đêm trong giấc mơ, Gioan Don Bosco thấy mình đứng giữa bọn trẻ đang đánh nhau và chửi tục. Cậu khuyên can, chúng không nghe. Bỗng, người áo trắng đến mỉm cười, nói :
- Bằng tình yêu, em sẽ biến chúng thành ngoan ngoãn đạo hạnh.
- Nhưng thưa ông, cháu nghèo và dốt.
- Vâng lời, chịu khó học, em sẽ làm được.
- Thưa, ông là ai ? 
- Ta là con Trinh Nữ mà mẹ em đã dạy phải cầu nguyện, em hãy xin Mẹ Ta giúp.
 Rồi kìa, Ðức Mẹ xuất hiện, mặt dịu hiền, nói với Don Bosco :
- Con nhìn xem...
Theo tay Mẹ chỉ, Bosco nhìn thấy đoàn chó dữ. Ðức Mẹ tiếp :
- Như Mẹ xử với đoàn chó dữ thế nào, con hãy xử với các trẻ như vậy.
 
 Từ giấc chiêm bao đó, Don Bosco hiểu được sứ vụ giáo dục phục vụ thanh thiếu niên.
Ngày kia, mẹ dẫn Bosco đi coi xiệc. Về nhà, Bosco nảy ra, bắt chước trong xiệc ‘'tự tập leo giây’’. Mỗi lần té, Bosco lại đọc Kinh Kính Mừng. Sau nhiều lần. Bosco thành công. Tập hết màn này, sang màn khác.
Tập xong tài nghệ này, cậu lại tập sang tài nghệ khác của ngưới làm xiếc.  Cuối cùng, Vào một tối Chúa Nhật, cậu mời một số người đến xem trình diễn.  Họ ngạc nhiên thích thú và vỗ tay tán thưởng liên  hồi. Nhưng ẩn sau cuộc giải trí lành mạnh đó Don Bosco còn có một động lực khác thúc đẩy.  Chen kẽ các tiết mục trình diễn tài nghê? cậu hát các bài thánh ca mừng kính Ðức Mẹ.  Mọi người hiện diện đều hợp giọng thánh thót dâng lên trời cao.  Thế rồi cậu hô hào mọi người:
- Nào, xin qúi vị vui lòng đọc kinh Mân Côi trong khi cháu trình diễn, nếu không cháu sẽ té nhào xuống đất, bể đầu mất !
Họ nghe theo lời cậu và bắt đầu cầu nguyện.  Cuối cuộc trình diễn.  Don Bosco nhắc lại bài giảng của cha xứ trong thánh lễ sáng hôm đó.  Mọi người ra về trong hân hoan cả tinh thần lẫn thể chất.
Một đêm khác, người ta dự trù cuộc vui chơi trần tục khiêu vũ công cộng.  Cuộc vui chơi trần tục này có thể đưa đến tội lỗi.  Don Bosco lúc đó mới 12 tuổi đầu, cậu suy tư, loay hoay tìm cách ngăn cản dân chúng khỏi cuộc vui chơi đó.  Cuối cùng, cậu đã tìm được giải pháp.  Chúa ban cho cậu có giọng hát thật hay, do đó cậu đứng giữa phố chợ bắt đầu hát.  Giọng hát  du dương trầm bổng của cậu đã thu hút được đám đông quần chúng.  Cậu từ từ dẫn họ về phía nhà thờ, để rồi mọi người cùng với cậu vào trong nhà thờ hát kinh tối và nghe cha giảng thuyết.
 
Từ nhỏ, Don Bosco đã nuôi mộng trở thành linh mục.  Nhưng tự biết phận mình con nhà nghèo nếu xin đi học, mẹ cậu sẽ phải vất vả và tằn tiện rất nhiều.  Cậu không muốn mẹ phải hy sinh như thế. Nhưng mẹ cậu thực là người tốt lành, hiểu ý con.  Bà nói với con đừng băn khoăn lo lắng về bà, nhưng hãy lo thực hiện điều Chúa muốn nơi cậu:
- Mẹ sinh ra nghèo khó, mẹ hiện sống túng nghèo, mẹ muốn chết trong nghèo hèn.

Mẹ thánh nhân nói với con lúc 14 tuổi khi vào chủng viện Chierin ở Turino : Mẹ tràn đầy niềm vui, khi thấy con mặc áo chùng thâm, nhưng con nên nhớ ‘‘chiếc áo không làm nên thầy tu’’. Nếu ngày nào con nghi ngờ ơn gọi, thì mẹ van xin con, hãy chọn con đường khác. Mẹ thích đứa con nông dân nghèo hơn linh mục sao lãng bổn phận. Lúc con chào đời, mẹ đã dâng con cho Đức Mẹ. khi con đi học, mẹ đã dặn con tôn kính Người trong khó khăn. Giờ đây con hãy chọn Đức Mẹ là nữ vương của con.

Kết quả, Don Bosco được nhập tiểu chủng viện lúc 16 tuổi.
Trong đời chủng sinh, bất kỳ lúc nào có giờ rảnh là Don Bosco tụ họp bọn trẻ mồ côi, rách rưới, rồi dẫn chúng ra ngoài đồi cỏ vui đùa với chúng và dậy giáo lý cho chúng.
Năm 1848, Don Bosco thụ phong linh mục. Sau khi lãnh Chức Linh Mục, Cha Don Bosco trở về làng dâng lễ mở tay.  Cả làng, già trẻ lớn bé vui mừng hớn hở đến dự lễ và mừng cho cha mới.  Mẹ Don Bosco nước mắt trào tràn đôi mi, lăn dài trên gò má.  Còn niềm vui sướng nào sánh bằng niềm vui mẹ thấy con bước lên bàn thánh tế lễ Chúa Tình Yêu ! Lúc đầu ngài làm tuyên úy nhà tù, sau có mẹ phụ giúp, phục vụ giới trẻ trong xóm lao động. Và 1844, làm tuyên úy lưu xá sinh viên. Từ 1856, hai mẹ con trực tiếp nuôi khoảng 150 đến 200 trẻ em.
 
 Nguyện xá ở Valdosco
 
 Năm 1848, chuyện xảy ra khiến cha nghĩ phải lập nhà riêng cho giới trẻ nghèo.

Đó là mấy tháng sau khi làm linh mục, đang khi dọn mình dâng lễ tại buồng áo, Cha Don Bosco chứng kiến cảnh ông từ la mắng một chú nhỏ không biết cách giúp lễ.  Ðộng lòng trắc ẩn, vị Linh Mục tới gần cậu bé can thiệp:
- Con có muốn Cha dậy con cách giúp lễ không ?
Với lòng biết ơn, chú bé gật đầu lia lịa !  Sau khi dậy cho cậu nhỏ biết cách giúp lễ, Cha Don Bosco xin cậu ngày hôm sau đem bạn bè của cậu đến gặp Cha.

Tên cậu Garetti Bartholomew, 16 tuổi, làm gạch. Ba hôm sau cậu rủ thêm 8 người khác, đến gặp cha. Rồi được Thiên Chúa và Ðức Mẹ thúc đẩy, Cha nghĩ ra nơi tập trung cho thanh thiếu niên đến ngày một đông. Cha đặt tên cho trung tâm này Nguyện xá. Các linh mục, dân chúng, trong vùng không tán thành vì cho rằng cha đã lôi kéo bọn trẻ, chúng không đến nhà thờ được. Trong khi đó, chính quyền làm khó dễ, cho là ồn ào, mất an ninh. Nên bước đầu cha tập trung thanh thiếu niên ngoài cánh đồng. Ngủ lều, lưu động, mưa gió, nhất là thực phẩm vô cùng khó khăn. Có những ngày, cha dẫn đàn em xin ăn. Bên ngoài nhìn vào, người ta cho cha điên. Nhưng kiên tâm, kết quả tốt, nhờ giúp đỡ người thiện nguyện. Chính trong các Nguyện Xá có thánh lễ, ca hát, lớp học chữ và nghề.

 Ngày nay, trung tâm Valdocco còn lại : lớp học, phòng ăn, phòng ngủ, sân chơi, vòi nước... xưa, rộng rãi, một lúc cho cả mấy ngàn em... Nguyện xá lần lượt xây cất, dựng lên, với bao tiếng hoan hô và khâm mộ. Các em đến ngày một đông. Nổi tiếng. 
 

 Ii. Lập Dòng Phanxico Salésiens.
 
 Một mình không thể làm xuể. Có lần Cha mệt, té, tưởng chết. Từ đó, năm 1859, cha và các cộng sự viên có ý tưởng lập Dòng Don Bosco, chuyên giáo dục thanh niên. Có dòng nam và nữ Salésiens. Người ta thường gọi Don Bosco là Vincent de Paul mới. Theo tinh thần của Thánh Phanxico. Ðược Tòa Thánh công bố, 22.07.1864, mang tên Hội Ðạo Ðức thánh Phanxico đệ Salê, với sắc lệnh Decretum Laudis. Ðức Pio IX, phê chuẩn hiến luật, 1873.
 
 - 1859, đầu tiên có dòng Nam, tên là ‘‘Phanxico Salésiens’’ (SDB). Dòng lo giáo dục, dạy nghề cho thanh thiếu niên. Dòng còn lo truyền giáo.Triết lý giáo dục là hiểu biết và yêu thương giới trẻ. Chân phước linh mục Michel Rua là 1 trong 8 tu sỹ khấn dòng đầu tiên. Sau làm Bề trên kế nghiệp Cha Bosco. Họ được chọn trong những em được cha Bosco nuôi.

 Khẩu hiệu Dòng : Da mihi animas, coetera tolle, Xin cho tôi các linh hồn. Các sự khác cứ lấy đi (x.St. 24, 21-23)                                                                                                                                                                                                                                                                                     
 (Huy hiệu) Logo Dòng cũ do Giáo sư Boas thiết kế (1885) : Ngôi sao rạng rỡ (niềm tin), mỏ neo (hy vọng), và một trái tim (tổ chức). Ðặt trên nền khu rừng nhỏ (hình đấng sáng lập) với ngọn núi cao (thành viên Salésiens vươn cao). Vòng quanh, là cành nguyệt tuế đan quanh xen nhau. Phía dưới câu khẩu hiệu Dòng.
 
 Huy hiệu mới : Thánh Bosco với vòng tay mở rộng, cô đọng trong ba từ : Lý trí, tôn giáo và lòng thương yêu. Các trung tâm (nhà dòng trên thế giới được che dưới đường chữ ‘‘S’’ (Salésiens)  Ba mũi có vòng đỏ trên đầu, chỉ ba người, người giữa cao hơn. Che bởi mái nhà.
 
 - 1872, Cha cùng thánh Marie Mazzarello lập Dòng Nữ mang tên ‘‘Dòng con Ðức Mẹ Phù Hộ Giáo Hữu’’ (FMA)
 - 1876, Cha bề trên cả Phillip Rinaldi (sau là chân phước) thành lập ‘‘Chí nguyện Don Bosco (VDB) nhiệt tâm với giới trẻ. Họ là những người độc thân, có nam, có nữ được thánh hiến. Dưới sự hướng dẫn của linh mục Salésiens.
 
 Sau khi Thánh Don Bosco qua đời, những người tình nguyện và cựu học sinh mộ mến Dòng, lập ra ba tổ chức sau, yểm trợ cho Dòng tiếp tục đào tạo thế hệ trẻ.
 - ‘‘Hội Cựu học viên Don Bosco’’ (FMA) gồm những học sinh đã chịu ơn Salésiens, rải  rác khắp nơi, đóng góp tài sức cho dòng Salésiens. 
 - ‘‘Hội Cộng tác viên Salésiens’’ gồm giáo dân sống trong gia đình và cả linh mục trong xứ đạo, sống Tin Mừng theo tinh thần Don Bosco, trên thế giới, phục vụ giới trẻ địa phương.
 - ''Hội Truyền giáo giáo dân Salésiens’’ gồm nam nữ độc thân hay có gia đình, làm việc tự nguyện, ít ngày, bên cạnh SDB, FMA, tại các nước truyền giáo, có người Salésiens.  
 
 Nay Salésiens có mặt tại 130 nước, gần 20.000 tu sỹ. VN có 11 cộng đoàn. Sau Ý, Salésiens mở  sang Nice, 1875 (Pháp) rồi Argentina... từ 1911, phát triển qua Colombia, Trung Quốc, ấn  Ðộ, Nam Phi.. Năm 1877, ‘‘Tập san Salésiens’’ đầu tiên phát hành.
 
 
 III. Trung tâm Valdosco Torino
 
 Trung tâm phát sinh Salésiens, nay còn ba nơi hành hương kính viếng, vết tích công trình thời thánh Don Bosco để lại.                                                                                                                                                                                       
 1. Vương cung thánh đường Ðức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, ở trên, có hầm. Dưới hầm đặt hơn 3.000 xương các Tử  Ðạo. Bên phải có xác Thánh Don Bosco. Vương Cung Thánh Ðường chứa khoảng 5.000... Ngày 09.06.1868, thánh lễ thánh hiến đầu tiên, có tới 1.200 em trường Don Bosco tham dự. Vòm nhà thờ có hàng chữ : Hic Domus Mea, inde Gloria mea (Ðây là nhà của Mẹ. Từ đây giải tỏa vinh quang của Mẹ). Báo Unita Catonca viết : Ngôi thánh đường do người ngheo xây cất, để phục vụ người nghèo. Sau đó trong vùng ngôi trường thứ ba xây cất.  
 
 Gioan Don Bosco qua đời ngày 31.01. 1888. 72 tuổi. Don Bosco muốn ở với đàn con, trong khu trường, thành phố Torino. Nhưng vì vệ sinh, thi thể ngài an táng bên cạnh, ở Valsalice, chiều 06.02.1888, xa Torino 400 mét.
 
 Ngày 16.05.1929, dịp phong chân phước cho cha Don Bosco, Thi thể Thánh nhân được bốc lên. Xác còn nguyên vẹn, đầy đủ. ÐGH Pio XI phong chân phước cho ngài, ngày 02.06.1929 và hiển Thánh 01.04.1934.
 
 Hòm kiếng đựng Thánh Quan, bàn tay phải, ban phép lành, được đặt trên ngực, Hai bên hông có hàng chữ khẩu hiệu Dòng Da Mihi Animas. Cetera Tolle. Ðầu và cuối Thánh Quan có hình đông trẻ em và bản đồ thế giới Salésiens. Thánh quan nặng 820 kg, dài 2m53, rộng 1m08, cao 1m32.
 
 Ngày 09.06.1929, Thánh Quan Don Bosco long trọng đặt  trong hòm kiếng nghinh về đặt bên phải Ðền Thánh Ðức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu.
 
 Ðể đón chào kỷ niệm 150 năm thành lập Dòng, hòm kiếng thánh quan Don Bosco di chuyển đi 130 nước, có Salésiens. VN đón mừng từ 21.01.2011 đến 01.02.2011. Thánh quan trở về kịp năm 2015, 200 năm sinh nhật của thánh sáng lập Salésiens.
 
 2. Tấm Khăn Liệm Chúa Giêsu.
 
 Nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh nhật thánh Gioan Don Bosco (1815-2015). Khăn Liệm được trưng bày từ 19.04 đến 24.06.2015. Ðức Giáo Hoàng Phanxicô đến kính viếng vào 21.06.2015.
 
 Muốn kính viếng Khăn Liệm. Vì an ninh, người hành hương được kiểm soát hành lý như đi máy bay. Ði bộ, leo giốc, khoảng hơn 10.000 bước.Mục đích vừa đi vừa suy gẫm sự Thương Khó Chúa Giêsu.      
 
 Theo Thánh sử Gioan, Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng Khăn Liệm còn đặt gọn ở mộ. Khăn này lọt vào tay vợ Philatô, muốn tha Chúa Giêsu. Từ 325, khăn được đem qua Thổ Nhĩ Kỳ. Khăn được cất dấu, vì chính trị và tôn giáo. Lúc thấy tôn kính ở Palestin (670), ở Hy Lạp (1203).
 
 Ðến năm 1418, thấy ở Lyon, Chambery, Pháp. Năm 1506, ÐGH Julius ban hành sắc lệnh công nhận Thánh Tích của Chúa Giêsu, lễ kính vào 4.5 hàng năm. Ngày 17.9.1578, từ Pháp chuyển về Torino, Ý. Một thời gian khăn lưu vong qua Bồ Ðào Nha. Từ 1690, khăn trở lại Torino đặt trong nhà thờ Thánh Gioan Baotixita cho tới nay.
 
 Khăn dài 441cm và rộng 113cm. Qua nhiều lần xét nghiệm  (1978, 1988, 1997) và tiếp tục tranh cãi về tính xác thực của thánh tích... Ðền thánh Torino là nơi đông người đến tôn kính Khăn Liệm. Khăn được trưng bày công khai cho dân chúng kính viếng, qua các năm 1898, 1933, 1973, 1978, 1984, và 2015
 
 Các ÐGH đến viếng : Ðức Hồng Y Karol Wojtila(1978), và khi làm Giáo Hoàng Gioan Phaolo II (năm Thánh 2000) Ðức Benedicto XVI (02.05.2005), và năm nay Ðức Phanxico đến vào 21.06.2015.
 
 Ðứng trước khăn, mỗi người trong thinh nguyện, được nhìn Năm Dấu Thánh Chúa trên khăn, để lại. Những giọt nước mắt ăn năn từ từ lăn trên má. Chưa bao giờ có trong đời.
 
 Ðức Phanxicô nói: Con người trên Khăn Liệm mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Nazareth. Hình ảnh này nói với trái tim của chúng ta và đưa chúng ta trèo lên ngọn đồi Calvaire. Nhìn đến Thánh Giá và hóa mình trong im lặng hùng hồn tình yêu. Ngài còn soạn kinh khi viếng, với lời kết :
 Lạy Thiên Chúa tối cao và vinh hiển,
 xin chiếu sáng cõi lòng tăm tối của con.
 Xin ban cho con đức tin ngay thẳng,
 đức cậy vững vàng, đức mến hoàn hảo,
 cảm thức và hiểu biết, để con thi hành huấn
 lệnh thánh
 
 Trước vết thương Chúa còn in trên khăn, ai mà không cảm mến, như ‘'Bên Khăn Liệm’’
Con đứng đây lặng ngắm bóng hình
Trải dài trên khăn liệm năm xưa
Tấm khăn gởi trọn tình Thiên Chúa
Vì yêu con đến phải lụy mình
Bao vết đòn roi, bao giọt máu
Ðã nhỏ ra từ những vết thương đau
Còn in dấu mãi đến ngàn sau
Làm chứng tá một tình yêu cao cả
Xin cho con dâng lời cảm tạ
Trong tim con xin khắc mãi bóng hình Cha    
(Minh Thanh. Hành hương GXVN. 04.2015)
 

 3. ‘‘Cái Nôi’’, làng cũ của Don Bosco
 
 Ðây, quảng trường rộng lớn. Công trình lớn nhất là đại thánh đường, có tầng và hầm. Kiến trúc tối tân. Bên ngoài là beton, nhưng trong là gỗ. Sau bàn thờ trên cao là tượng gỗ Chúa Phục Sinh giang tay, cao 16 thước. Theo thánh Don Bosco, thì Chúa Phục Sinh dễ khuất phục người trẻ hơn Chúa Chịu nạn.
 
 Bên cánh phải bàn thờ chính có bàn thờ cạnh, đặt tượng thánh Dominico Savio, trên tường gắn đầy thư, kỷ vật của những cặp vợ chồng trẻ, tạ ơn, vì hiếm muộn, được ơn có con, hay nuôi con khó mà nuôi con khỏe mạnh.
 
 Làng quê thánh Don Bosco, mang tên Colle Don Bosco, có phần đất nhỏ dưới thung lũng cây cỏ um tùm, để hoang. Trong căn nhà mô hình nông trại xưa, còn nhiều dụng cụ nhà nông thô sơ. Cày, cuốc, xẻng, cào... Bên cạnh nhà ở gia đình Thánh Don Bosco, phòng ngủ, phòng nguyện gia đình dành cho Cha khi mới chịu chức. Bàn thờ phủ khăn, còn nguyên.
 
 Cũng trong khu có Bảo Tàng Truyền Giáo, nhiều kỷ vật của các vị truyền giáo Salésiens, từ 5 châu gửi về. Khu Việt Nam chưa có gì. Các cha Salésiens VN có gửi tại đây tượng Ðức Mẹ La vang, mà chưa trưng ra. Một nhà nguyện nhỏ, trên tường đầy những bao thư viết cám ơn thánh Trẻ Dominico Savio đã ban cho những cặp trẻ hiếm muộn hay khó nuôi con. 

 Bên ngoài, đầu nhà nguyện, dưới gốc cây, có mộ trống thánh trẻ Dominico Savio. Ði bộ một lên sườn đồi một chút gặp nhà của gia đình Thánh trẻ. Bà quản gia vui vẻ, cười tươi khi có phái đoàn đến. 
   
 Suốt đời, Thánh Nhân đã tôn kính Đức Mẹ và kêu cầu Đức Mẹ dưới tước hiệu Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu’’. Trên áo tu các tu sỹ dòng Don Bosco có ghi Da mihi animas cetera tolle tibi.
 
 Khi còn sống, Cha Thánh không Iàm phép lạ. Nhưng được cứu thoát cách lạ lùng. Một buổi tối, khi Cha Don Bosco đang đi bách bộ một mình, đột nhiên bốn gã to côn đồ giở trò ám hại Cha.  Một con chó lạ xuất hiện từ bóng tối nhẩy vào tấn công một tên côn đồ.  Ba tên kia sợ hãi bỏ chạy ! Cha Don Bosco phải gọi con chó buông tha cho nạn nhân, rồi con chó lạ lùng cùng Cha Don Bosco sánh bước về nhà.  Nhưng đang khi đi, bỗng nhiên con chó biến mất trong bóng đêm.  Về sau, nhiều lần gặp nguy hiểm trong đời, chính con chó lạ này lại đến cứu mạng Cha Don Bosco.  Nhưng tuyệt nhiên người ta không rõ nó từ đâu tới ! Hình chó và cha có trưng bày trong khu nhà cũ của cha.
 
 Theo chân Thánh lập dòng, hàng ngũ đông đảo nam nữ Salésiens, 16.092 người, tại 1.859 nhà thuộc 130 nước, có VN, từ 1952 (2009) đang hiến dâng cuộc đời phục vụ người trẻ.
 
 Cùng nhau đọc lời kinh cầu nguyện dịp 200 sinh nhật thánh tổ phụ :
 
 Lạy thánh Gioan Don Bosco, là người cha, thầy, bạn tuyệt vời của bạn trẻ. Xin cho chúng con biết noi gương Ngài cả đời đem hết tâm huyết nhiệt tình lo cho thanh thiếu niên, giáo dục bằng tình yêu và gương sáng, để giúp các em về và ở lại với Chúa mãi mãi. Amen.
 

Tài liệu viết bài
 
- Ða minh phạm xuân Uyển dịch.
  Don Bosco, Một tiểi sử mới. Sàigòn. 2014
- Ða minh phạm xuân Uyển dịch.
  Hồi ký Nguyện xá Thánh Phanxico Salê.
  Sài gòn. 2014.

- Webesite : Salésiens Don Bosco. 

http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/475-thanh-gioan-don-bosco-y-1815-1888-.html


Một số chi tiết được bổ túc sau từ Đaminh Maria cao tấn tĩnh

 

Những thời khắc lịch sử trong cuộc đời Thánh Gioan Bosco

 

 

- Ngày 16/8/1815: Gioan Bosco sinh tại Becchi, Castelnuovo d’Asti, nước Ý. Cha của ngài là Phanxicô Bosco và mẹ là Magarita Occhiena.

- Năm 1817: Ông Phanxicô Bosco qua đời khi Gioan Bosco mới 2 tuổi.

- Năm 1824: Giấc mơ lúc 9 tuổi mạc khải cho Gioan Bosco sứ mệnh mà Thiên Chúa kêu gọi: Giáo dục những người trẻ bị bỏ rơi và những đứa trẻ đã theo con đường xấu.

- Năm 1826: Gioan Bosco được rước lễ lần đầu.

- Năm 1827: Gioan Bosco xa nhà để làm thuê cho trang trại Moglia ở Moncucco, vì xích mích với anh Antôn, người anh cùng cha khác mẹ không muốn Gioan Bosco đi học.
- Tháng 11/1829: Trở về nhà, Gioan Bosco bắt đầu đi học ở nơi cha già Calosso, tại Morialdo.

- Tháng 11/1830: Cha Calosso qua đời. Antôn muốn lập gia đình, nên không muốn Gioan Bosco đi học ở trường công ở Castelnuovo.

- Ngày 04/11/1831: Gioan Bosco tới Chieri ở trọ và đi làm thuê bằng nhiều việc khác nhau để kiếm sống và đi học trong thời gian 10 năm.

- Năm 1833: Gioan Bosco lãnh bí tích Thêm sức tại Buttigliera d’Asti.

- Ngày 29/3/184: Tư giáo Gioan Bosco chịu chức phó tế.

- Ngày 05/6/184: Thầy Gioan Bosco chịu chức linh mục do Đức Tổng Giám mục Torino, Fransoni, trong nhà nguyện của tòa Tổng Giám mục.

- Mùa thu năm 184: Don Bosco ghi danh vào Học viện Giáo sĩ thánh Phanxicô Assisi để đào sâu các môn thần học. Thời gian này ngài tìm hiểu thành phố Torino và khám phá ra những vấn đề nghiêm trọng của giới trẻ nghèo và bị bỏ rơi, hậu quả của cuộc “Cách mạng kỹ nghệ” đang xâm nhập thành phố này.

- Ngày 08/12/184: Don Bosco gặp cậu bé Bartolomeo Garelli quê Asti, tại Valdocco, trong phòng áo của nhà thờ thánh Phanxicô Assisi. Công cuộc nguyện xá bắt đầu khởi sự.

- Ngày 12/4/1846: Nguyện xá chuyển tới khu nhà thuê của ông Phanxicô Pinardi, tại Valdocco. Nơi đây được coi như mô hình nguyện xá kiểu mẫu về sứ mệnh giáo dục Salêdiêng.

- Ngày 03/11/1846: Sau một thời gian dưỡng bệnh dài ở Becchi, Don Bosco trở về Nguyện xá, có mẹ Magaritta đi cùng. Bà đến Nguyện xá làm mẹ đám trẻ con của Don Bosco. Don Bosco thuê hai phòng để khởi sự trường học.

- Năm 1851: Don Bosco mua khu nhà Pinardi và bắt đầu xây dựng ngôi nhà thờ kính thánh Phanxocô Salê. Ngôi nhà thờ hoàn tất và được thánh hiến năm 1852.

- Ngày 26/01/1854: Don Bosco đề nghị bốn thanh niên (Rua, Cagliero, Rocchietti, Artiglia) lập nên các Salêdiêng với một lời hứa dấn thân “Thực hành đức ái với tha nhân”.

- Ngày 29/10/1854: Đaminh Saviô, một đứa trẻ thánh thiện vào Nguyện xá.

- Ngày 08/6/1856: Đaminh Saviô lập Hội Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đó là nhóm các người trẻ cộng tác với Don Bosco để giúp đỡ và làm điều tốt cho các bạn của mình.

- Năm 1858: Don Bosco đi Roma để trình bày công cuộc của ngài cho Đức Thánh Cha Pio IX, ngài được đề nghị viết lại “Những điều kỳ diệu” vào lúc khởi đầu công cuộc ngài cho Đức Thánh Cha.

- Ngày 18/12/1859: Tu hội Salêdiêng chính thức khai sinh. Công cuộc Don Bosco có 18 Salêdiêng tiên khởi.

- Tháng 03/1864: Don Bosco xây dựng đền thờ dâng kính Mẹ Phù Hộ tại Valdocco, Tôrinô.

- Ngày 09/6/1868: Thánh hiến đền thờ Đức Mẹ.

- Ngày 05/8/1872: Don Bosco cùng với Mẹ Maria Mazza-rello thành lập Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (FMA).

- Ngày 03/4/1874: Tòa Thánh châu phê dứt khoát Quy luật của Tu Hội Salêdiêng.

- Ngày 11/11/1875: Don Bosco khởi đầu công cuộc truyền giáo Saliêdiêng tại Patagonia, Achentina.

- Năm 1876: Don Bosco thành lập Hiệp Hội Cộng tác viên Salêdiêng.

- Năm 1880: Đức Leo XIII ủy thác cho Don Bosco việc xây dựng Đền thờ kính Thánh Tâm Chúa tại Roma.

- Năm 1887: Don Bosco đi tới Roma lần cuối cùng để thánh hiến Đền thờ Thánh Tâm Chúa. Lúc này sức khỏe của ngài đã bị suy kiệt.

- Ngày 31/01/1888: Don Bosco qua đời để lại niềm thương tiếc cho khắp nước Ý và tất cả những ai từng biết về công cuộc giáo dục giới trẻ của ngài.

- Ngày 01/4/1934: Vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, Don Bosco được Đức Thánh Cha Pio XI tôn phong hiển thánh.

- Ngày 24/01/1989: Don Bosco được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên bố ngài là “Cha và Thầy của giới trẻ”

 

https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=873

 

 

 

 


Thứ Bảy


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 11, 1-2. 8-19

"Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng Sáng Lập".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt. Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac, và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập. Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.

Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì. Nhờ đức tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75

Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68a).

Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.

2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài. - Ðáp.

3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Ngài cho chúng tôi được khỏi sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng tôi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4, 35-41

"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


   

  

 Đức Kitô chỗi dậy

 

Hôm nay Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinhchủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này vẫn được tiếp tục ở chung phụng vụ Lời Chúa hôm nay, cách riêng là bài Phúc Âm, qua sự kiện Người dẹp yên bão tố.

Thật vậy, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này đã tỏ mình ra qua sự kiện dẹp yên bão tố để cứu các môn đệ của Người, thành phần yếu đức tin cần phải mạnh tin hơn nhờ chứng kiến thấy quyền năng của Người: "Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: 'Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?'"

Căn cứ vào sự kiện xẩy ra được Phúc Âm hôm nay thuật lại là "chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'" chúng ta thấy quả thực các môn đệ đáng bị Thày của các vị quở trách: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"

Lời quở trách này của Người như thể Người muốn nói cùng các vị rằng: Tại sao các con lại cuống lên và quá hoảng loạn như thế. Chính Thày đang ở bên các con và ở cùng các con mà các con còn sợ và vẫn sợ hay sao. Các con không nhớ rằng Thày đã từng tỏ quyền năng thần linh của Thày ra bằng cách chữa lành đủ thứ bệnh nạn tật nguyền, thậm chí trừ được cả quyền lực của ngụy thần ma quỉ. 

Phải, chắc chắn các môn đệ của Người không chối cãi được quyền năng của Thày trong việc Người chữa lành và trừ quỉ, nhưng còn bão tố dữ dội khủng khiếp trong thiên nhiên như lần này thì các vị mới gặp lần đầu tiên, nên không biết quyền năng của Thày các vị ra sao và tới đâu, liệu có thể làm chủ nổi sức mạnh cuồng phong kinh hoàng bấy giờ hay chăng thì chưa thấy, do đó để chắc ăn các vị cần phải "đánh thức Người đậy mà nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'"

Đúng là cơn bão tố quá dữ dội đến độ đã làm cho các môn đệ trở nên hoảng loạn, thậm chí các vị không còn bình tĩnh để nghĩ được rằng tại sao Thày của các vị có thể ngủ say đến thế, đến độ "những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước" mà Thày lại cứ "dựa gối mà ngủ ở đằng lái" được là làm sao? Các vị đang hết sức chống chọi với bão tố mà còn có thể bị chết thì chẳng lẽ Thày ngủ như vậy mà thoát chết được hay sao??

Tuy nhiên, dầu sao cũng nhờ tình trạng quá yếu kém đức tin của các vị mà Chúa Kitô được dịp tỏ quyền năng của Người nơi cả thiên nhiên tạo vật nữa, chứ không phải chỉ nơi loài người hay nơi ma quỉ mà thôi. Thiên nhiên tạo vật sở dĩ xẩy ra những thiên tai cũng do bởi tội lỗi của loài người, như bệnh hoạn tật nguyền cũng bởi nguyên tội, bị quỉ ám cũng bởi nguyên tội. Là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người cứu độ con người chẳng những phần hồn mà còn phần xác của họ nữa

Chỉ vào lúc con người cảm thấy hoàn toàn bất lực, cảm thấy bất khả cứu vãn, Thiên Chúa thường mới lợi dụng để tỏ mình ra, nhờ đó đức tin của họ được gia tăng trong đời sống trần gian này và Người được họ nhận biết. Bởi thế, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: 'Hãy im đi, hãy lặng đi'. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ". 

"Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chẳng những nơi quyền năng của Người trong vũ trụ này, bằng việc dẹp yên bão tố, mà còn nơi cả lòng người nữa, ở chỗ làm cho họ tin vào Người, như trình thuật của bài Phúc Âm hôm nay. Bởi thế, chỉ có những ai tin vào Người, khi Người tỏ mình ra cho họ, mới thấy được thực sự nhận ra vị mà thắc mắc "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?" chính là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", thực tại về vị "Người là ai" ấy, một thực tại chỉ có đức tin mới thấu biết, đúng như Bài Đọc 1 hôm nay đã định nghĩa "đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn".

Với đức tin được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tạo nên nơi họ để nhờ đó mà họ tin vào "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này, để rồi qua "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" ấy, họ tin vào Thiên Chúa mà "Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài" nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", như câu họa chung của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy, ở chỗ, như những gì được thân phụ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã cảm nhận trong Ca Vịnh Chúc Tụng Chúa của ông ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa.

2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài.

3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Ngài cho chúng tôi được khỏi sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng tôi.