SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Đọc I: Nkm 8, 2-4a. 5-6. 8-10
"Họ đọc trong sách Luật và người ta hiểu được điều đã đọc".
Bài trích sách Nơ-khe-mia.
Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: "Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc". Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: "Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em!"
Đó là lời Chúa.
Đáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15
Đáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Đáp.
2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Đáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Đáp.
4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Đá, là Đấng Cứu Chuộc con. - Đáp.
Bài Đọc II: 1 Cr 12, 12-30 (bài dài)
"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: "Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Và nếu lỗ tai nói rằng: "Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Nếu toàn thân xác là một, thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai, thì đâu là khứu giác? Vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong thân xác như ý Người muốn. Nếu tất cả đều là một chi thể, thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: "Ta không cần mi". Đầu cũng không thể nói với chân: "Ta không cần các ngươi". Nhưng hơn thế nữa, các chi thể thân xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi thể chúng ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi thể thiếu trang nhã lại được ta trang sức hơn, còn những chi thể trang nhã lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có sự bất đồng trong thân xác, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi thể phải đau, tất cả các chi thể khác đều phải đau lây; hoặc một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể cùng chia vui.
Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư?
Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 12, 12-14. 27
"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 4, 18-19
Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
Đó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Thiên
Sai
Hai Chúa Nhật đầu tiên (1 và 2) của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bao giờ cũng là bài Phúc Âm Nhất Lãm (theo chu kỳ A-B-C) về sự kiện Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa (Chúa Nhật 1), và bao giờ cũng là bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan (cho cả 3 chu kỳ A-B-C) về sự kiện Người bắt đầu tỏ mình ra qua môi giới Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (hai bài Phúc Âm liền nhau, một cho chu kỳ A và một cho chu kỳ B) cũng như qua môi giới Mẹ của Người ở Tiệc Cưới Cana (bài Phúc Âm cho chu kỳ C tiếp sau 2 bài Phúc Âm cho chu kỳ B và A).
Phải nói rằng ở Chúa Nhật tuần 3 của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, Chúa Giêsu mới thực sự trực tiếp tỏ mình ta cho dân chúng. Nếu trong bài Phúc Âm của chu kỳ A theo Thánh Mathêu, Chúa Giêsu tỏ mình ra bắt đầu ở miền đất đông đảo dân ngoại sống như ánh sáng chiếu trong tăm tối, và trong bài Phúc Âm của chu kỳ B theo Thánh Marco, Chúa Giêsu tỏ mình ra ở lời rao giảng tiên khởi của Người cũng như ở việc tuyển chọn 4 môn đệ đầu tiên, thì trong bài Phúc Âm chu kỳ C theo Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu tỏ mình ra ở Hội Đường Nazarét là nơi Người khẳng định Người chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế được Tiên Tri Isaia báo trước:
"Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 'Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng'. Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: 'Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe'".
Thật vậy, nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này, nhân vật đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả tiên báo và làm chứng là Đấng đến sau ngài nhưng cao trọng hơn ngài, Đấng sẽ "làm phép rửa Thánh Linh" (Gioan 1:27,33), Vị cũng đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với chung dân chúng "là Chiên Thiên Chúa" (Mathêu 1:29 - Bài Phúc Âm Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm A) cũng như với riêng các môn đệ của ngài hôm sau đó "là Chiên Thiên Chúa" (Mathêu 1:36 - Bài Phúc Âm Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm B), và là Vị, qua môi giới của mẹ mình, đã tỏ mình ra cho 4-6 môn đệ đầu tiên ở Tiệc Cưới Cana (xem Gioan 2:11), quả thực là chính Đấng Thiên Sai được Tiên Tri Isaia báo trước, như chính Người đã tự nhận trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, cũng như đã được Thánh ký Luca ghi nhận ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay thế này: "Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng".
Thật vậy, yếu tố chính yếu bất khả thiếu làm nên Vị Thiên Sai Cứu Thế nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đây là Thánh Linh, hay nói cách khác hoặc nói ngược lại, Thánh Linh là dấu chứng thực nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đây là Đấng Thiên Sai Cứu Thế: đúng như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã nhận biết và giới thiệu, cũng như Mẹ Maria đã nhận biết và dọn đường để Người tỏ mình ra ở Tiệc Cưới Cana, một Vị Thánh Linh đã tác tạo nên chung nhân tính và riêng thân xác của Người trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ Maria, cũng là Vị Thánh Linh đã thánh hóa thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ngay từ trong bụng mẹ khi bé mới được 6 tháng thai, và là Vị Thánh Linh được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thấy như chim bồ câu đậu trên nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét sau khi Người lãnh nhận phép rửa, như một dấu chứng thực nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này chính là Con Thiên Chúa (xem Gioan 1:31-34): "Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con" (Luca 3:22).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, câu Chúa Giêsu tuyên bố 'Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe'", Người chẳng những xác nhận tính chất chính xác và trung thực nơi các chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng như vai trò của Mẹ Maria trong sứ vụ đồng công cứu chuộc với Người, mà còn báo trước những chứng từ của chính bản thân Người trong tương lai mà Người sẽ đích thân tỏ ra cho chung dân chúng và riêng các môn đệ của Người thấy rằng Người quả là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bởi Người đã được Xức Dầu Thánh Linh, Đấng ngự nơi Người và tác hành trong Người như một động lực thần linh để Người có thể hoàn trọn tất cả những gì Thiên Chúa muốn Người thực hiện với sứ mệnh Thiên Sai Cứu Thế của Người, một sứ mệnh bao gồm 3 vai trò chính yếu là vai trò giải thoát như một vị vương đế, vai trò chữa lành như một vị tư tế và vai trò rao giảng như một vị ngôn xứ, đúng như lời tiên tri Isaia mà Người đã đọc và công nhận là ứng nghiệm ở nơi Người.
Nếu Phúc Âm của Thánh ký Luca là cuốn phúc âm thuật lại tất cả những gì Chúa Giêsu làm theo 3 vai trò của một Đấng Thiên Sai Cứu Thế này của Người thì các bài Phúc Âm theo chu kỳ phụng vụ Năm C ở các tuần lễ Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hay hậu Phục Sinh cũng xuất phát từ những gì được Chúa Giêsu xác nhận là "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe", một "hôm nay", về thời gian bao gồm cả những ngày sau đó, cả những gì Người nói và làm, cho tới khi Người hoàn thành cuộc Vượt Qua của Người, nhưng về thực tại lại là chính bản thân của Người, một bản thân được Xức Dầu Thánh Linh để "đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng", mà ngay bấy giờ, trong hội đường hôm ấy (đối với chúng ta bây giờ) cũng là "hôm nay" (đối với Chúa Giêsu bấy giờ), đang thực hiện những gì Tiên Tri Isaia báo trước về Người ở môi trường của một hội đường lúc ấy có sự hiện diện của mọi người trong dân chúng đang cần được Người giải thoát, được chữa lành và được rao giảng.
Hình ảnh cộng đồng Dân Chúa trong Cựu Ước ở Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói phản ảnh hình ảnh của cộng đoàn dân Do Thái ở hội đường Nazarét hôm nay, ở chỗ họ qui tụ lại một nơi lắng nghe Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy thế nào thì cộng động trong Bài Đọc 1 cũng thế: "Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên".
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy 3 vai trò giải thoát, chữa lành và rao giảng được Tiên Tri Isaia báo trước liên quan đến nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là Đấng đã tự xác nhận là "ứng nghiệm" về mình trong bài Phúc Âm hôm nay, ở một nghĩa nào đó, cũng đã được "ứng nghiệm" nơi cộng đồng dân Chúa đang qui tụ nghe "Thày thư ký Esdras ... đọc sách" bấy giờ.
Họ được rao giảng ở chỗ: "Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc".
Họ được chữa lành ở chỗ: "Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: 'Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc'. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật".
Họ được giải thoát ở chỗ: "Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: 'Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn lũy của anh chị em!'"
Tâm tình và thái độ của cộng đồng dân Chúa ở chỗ chẳng những lắng nghe lề luật mà còn đáp ứng những gì được nghe từ lề luật trong Bài Đọc 1 hôm nay dường như được phản ảnh, bộc phát và bày tỏ thật chính xác trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá
ngu kẻ dốt.
2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Đá, là Đấng Cứu Chuộc con.
Tâm tình và thái độ của cộng đồng dân Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay đầy tinh thần hân hoan phấn khởi như thể họ đã được tràn đầy Thánh Linh, Vị Thánh Linh đã tác động nơi họ qua những nhân vật lãnh đạo của họ, tùy theo vai trò và trách nhiệm của từng người: "Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng...".
Đó là lý do trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô viết cho Giáo Đoàn Côrinto trong Thư Thứ 2 của ngài đã khẳng định về thực trạng hiệp nhất ("một thân xác") trong đa dạng ("nhiều chi thể"), cũng như về tính cách khác biệt của các chi thể, với những phận vụ, sứ vụ, thừa tác vụ thích hợp với từng chi thể, để cùng phục vụ công ích, phục vụ "một thân thể", như sau:
"Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình".
Kitô hữu chúng ta nhờ bởi Thánh Linh khi lãnh nhận Phép Rửa đã trở thành một thân thể duy nhất với Chúa Kitô là đầu, và nhờ đó chúng ta cũng được hiệp thông với chính Thánh Thần của Chúa Kitô, ở tầm mức trọn vẹn khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức.
Bởi thế, tất cả những gì chúng ta lãnh nhận nhờ được hiệp thông với Nhiệm Thể Chúa Kirtô nói chung và với Đầu Nhiệm Thể là Chúa Kitô nói riêng đều từ Nhiệm Thể này và cần qui về Nhiệm Thể này, nhờ đó chúng ta mới được lớn lên với Nhiệm Thể này, cho đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô (xem Epheso 4:13,15), một tầm vóc được chính Chúa Kitô sống trong chúng ta để Người tiếp tục thực hiện vai trò vương đế giải phóng, tư tế chữa lành và ngôn sứ rao giảng của Người cho đến tận thế, qua chúng ta và nhờ chúng ta là thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Người.
"Chúa Giêsu muốn trở thành một vị tiên tri lưu động nay đây mai đó. Người không chờ đợi dân chúng mà là đến gặp gỡ họ. Chúa Giêsu luôn hành trình!...
Chúa tỏ Mình ra cho chúng ta không phải bằng một đường lối phi thường hay nổi bật, mà là trong đời sống thường ngày của chúng ta."
(ĐTC Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III ngày 22/1/2017)
Xin chào anh chị em thân mến!
Đoạn Phúc Âm hôm nay (xem Mathêu 4:12-23) thuật lại thời điểm mở màn cho việc giảng dạy của Chúa Giêsu ở Galilêa. Người bỏ Nazarét là một ngôi làng ở trên đồi mà đến ở thành Caphanaum, một trung tâm trọng yếu ở bên bờ Hồ, có rất nhiều dân ngoại cư ngụ, một giao điểm giữa Địa Trung Hải và nội địa Mesopotamia. Sự chọn địa điểm này cho thấy rằng thành phần lãnh nhận việc rao giảng của Người không phải chỉ có đồng bào của Người mà còn tất cả những ai sống ở một đại đồng "Galilêa của các Dân Ngoại" (câu 15; xem Isaiah 8:23), như nó được gọi như vậy. So với Giêrusalem là thủ đô thì miền đất này về địa dư ở vùng ngoại biên và dơ bẩn về tôn giáo, vì nó đầy những dân ngoại, ở chỗ pha trộn với tất cả những ai không thuộc về dân Do Thái. Những điều cao cả trọng đại đối với lịch sử cứu độ thực sự là không được mong đợi xuất phát từ Galilêa. Thế mà, chính từ chỗ đó "ánh sáng" đã phát tỏara là điều chúng ta đã suy niệm trong các Chúa Nhật vừa qua: ánh sáng Chúa Kitô. Ánh sáng này thật sự tỏa ra từ một vùng ngoại biên.
Sứ điệp của Chúa Giêsu lập lại sứ điệp của vị Tẩy Giả, loan báo về "Nước Trời" (câu 17). Vương quốc này không bao gồm việc thiết lập một thứ quyền lực mới về chính trị, mà là việc hoàn thành Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân của Ngài, một việc hoàn thành sẽ khai mào cho một mùa hòa bình và công lý. Mỗi người được kêu gọi hoán cải, củng cố Giao Ước này với Thiên Chúa, biến đổi cách suy nghĩ và sống động của mình. Điều quan trọng là ở chỗ hoán cải không phải chỉ là việc thay đổi lối sống mà còn cả lối suy nghĩ của mình nữa. Nó không phải là việc thay đổi y phục mà là những thói quen! Điều làm cho Chúa Giêsu khác với vị Gioan Tẩy Giả đó là kiểu cách và phương pháp. Chúa Giêsu muốn trở thành một vị tiên tri lưu động nay đây mai đó. Người không chờ đợi dân chúng mà là đến gặp gỡ họ. Chúa Giêsu luôn hành trình! Những cuộc truyền giáo đầu tiên của Người đã xẩy ra dọc Biển Hồ Galilêa, giao tiếp với đám đông, đặc biệt là với những người đánh cá. Chúa Giêsu ở đó chẳng những loan báo Nước Thiên Chúa đến mà còn tìm kiếm các bạn đồng hành để cộng tác vào sứ vụ cứu độ của Người. Ở cùng một chỗ ấy, Người đã gặp được hai cặp anh em là Simon và Anrê cùng Giacôbê và Gioan. Người gọi họ mà rằng: "Hãy theo Tôi, và Tôi sẽ làm cho anh em thành những kẻ chài lưới người" (câu 19). Tiếng gọi này chạm đến họ ngay giữa sinh hoạt hằng ngày của họ: Chúa tỏ Mình ra cho chúng ta không phải bằng một đường lối phi thường hay nổi bật, mà là trong đời sống thường ngày của chúng ta. Chúng ta cần phải thấy Chúa ở đó; Người tỏ Mình ra ở đó, làm cho lòng chúng ta cảm thấy được tình yêu của Người; và ở đó - bằng cuộc trao đổi này với Người trong cuộc sống hằng ngày - lòng của chúng ta được biến đổi. Việc đáp ứng của bốn người chài lưới này xẩy ra ngay lập tức: "Họ liền bỏ lưới của mình lại mà theo Người" (câu 20). Thật vậy, chúng ta biết rằng họ đã từng là những người môn đệ của vị Tẩy Giả, và nhờ chứng từ của vị này họ đã bắt đầu tin rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (xem Gioan 1:35-42).
Thành phần Kitô hữu chúng ta hôm nay đây hân hoan loan báo và làm chứng cho đức tin của chúng ta, vì đó là việc loan báo tiên khởi, vì đã có những con người khiêm tốn và can trường quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu. Cộng đồng môn đệ đầu tiên của Chúa Kitô được xuất thân ở bờ Hồ, ở một miền đất không ngờ. Chớ gì cái nhận thức về những sự khởi đầu này khơi động trong chúng ta ước muốn mang Lời Chúa, tình yêu thương và niềm êm ái dịu dàng của Chúa Giêsu đến cho hết mọi tình huống, cho dù là thành phần không tiếp thu và chống cưỡng nhất. Hãy mang Lời Chúa đến cho tất cả những vùng ngoại biên! Tất cả mọi lãnh vực của đời sống con người đều là khu vực để gieo hạt giống Phúc Âm, nhờ đó hạt giống này mới sinh hoa trái cứu độ.
Xin Trinh Nữ Maria giúp chúng ta, bằng việc chuyển cầu từ mẫu của mình, biết hân hoan đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu, và dấn thân phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa.
https://zenit.org/articles/angelus-address-on-the-need-for-conversion-to-follow-jesus/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu
"Galilêa thuộc các dân nước"
(ĐTC Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III ngày 26/1/2014)
Phúc Âm Chúa Nhật này thuật lại khởi điểm đời sống công khai của Chúa Giêsu ở các phố thị và làng mạc Xứ Galilêa. Sứ vụ của Người không bắt đầu ở Giêrusalem, trung tâm về tôn giáo và cũng là trung tâm về xã hội và chính trị, mà là ở một miền đất ngoại vi bên lề, một miền đất bị hầu hết thành phần Do Thái ngoan đạo khinh bỉ vì ở miền đất này có các thành phần ngoại quốc khác nhau; đó là lý do tại sao Tiên Tri Isaia đã gọi nó là "Xứ Galilêa thuộc các dân nước" (9:1).
Nó là một miền đất biên giới, một nơi qua lại của thành phần dân chúng thuộc các chủng tộc, văn hóa và tôn giáo khác nhau tụ lại. Bởi thế Galilêa trở thành một nơi tiêu biểu cho Phúc Âm hướng tới tất cả mọi dân nước. Theo quan điểm ấy thì Galilêa giống như thế giới ngày nay, ở chỗ đồng hiện diện của các thứ văn hóa khác nhau, nhu cầu cần so sánh và nhu cầu cần hội ngộ. Cả chúng ta nữa bị chìm đắm hằng ngày vào một thứ "Galilêa thuộc các dân nước", và trong thứ bối cảnh này chúng ta cảm thấy lo sợ và chiều theo khuynh hướng thực hiện việc ngăn chặn rào cản để cảm thấy mình được an toàn hơn, được bảo vệ hơn. Thế nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng Tin Mừng được Người mang đến không phải chỉ dành cho một phần nhân loại mà là được truyền đạt cho hết mọi người. Nó là một thứ loan báo về niềm hân hoan nhắm đến những ai đang đợi chờ nó, thế nhưng cũng cho tất cả những ai có lẽ không còn chờ đợi bất cứ gì nữa và thậm chí không còn sức để tìm kiếm và kêu xin.
Bắt đầu từ Galilêa, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng không có ai bị loại trừ khỏi ơn cứu độ của Thiên Chúa, trái lại, chính từ những nơi ngoại biên này mà Thiên Chúa thích khởi sự, từ những gì là bé mọn nhất, để vươn tới hết mọi người. Người dạy chúng ta một phương pháp, phương pháp của Người, cũng cho thấy nội dung của của nó là tình thương của Cha....
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người chẳng những từ một nơi chốn ngoài tâm điểm mà còn giữa những con người mà người ta có thể gọi, ám chỉ, như là một thứ "hạ cấp - low profile". Khi chọn các môn đệ đầu tiên của mình và là các vị tông đồ sau này, Người đã không hướng tới các trường phái luật sĩ hay tiến sĩ Luật, mà về thành phần thấp hèn và thành phần quê mùa, thành phần ân cần sửa soạn cho việc trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến kêu gọi họ ở nơi họ đang làm việc, trên bờ hồ: họ là những tay đánh cá. Người kêu gọi họ, và họ lập tức theo Người. Họ lìa bỏ chài lưới mà đi theo Người: đời sống của họ sẽ trở thành một cuộc mạo hiểm phi thường và hấp dẫn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
ĐTC Phanxicô: Giảng Lễ Chúa Nhật Lời Chúa - CN III Thường Niên
Ngày 26 tháng 1
Thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô, giám mục
lễ nhớ bắt buộc
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ, xin nhậm lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin
Đ
Thánh Timôthê (c. 97?):
Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôthê thì giống như của một Giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng Phúc Âm và chịu đau khổ.
Thánh Timôthê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân "hỗn hợp", nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô giáo. Sau đó, Timôthê được thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và thánh Phalô cùng sáng lập Giáo hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, Timôthê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.
Khi Timôthê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôthê cũng bị tù (Dt 13,23). Và thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôthê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô.
Timôthê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. "Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung," trong thư I thánh Phaolô viết cho Tm 4,12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôthê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôthê: "Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn" (1Tm 5,23).
Thánh Titô (c. 94?):
Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là
môn đệ của thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo.
Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là
Dân Ngoại, thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem.
Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt.
Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta
thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai
người khi rao giảng Tin Mừng: "Khi tôi đến Troas... Tinh thần tôi không
được khuây khỏa vì không gặp được Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi
từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia... Ngay cả khi đến Macedonia, thể
xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách, xung
đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ
yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến..." (2 Cr 2,12a, 13;
7, 5-6).
Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như
quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức,
chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lời Bàn
Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong "sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn." Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-timothe-va-thanh-tito-40934
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Ghi chú cổ nhất về Thánh Lễ kính thánh Timôthê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai Vị thánh.
Thánh Kinh cho biết, Timôthê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; Thánh Phaolô ghi chú: bà nội Lois đã dạy cho Timôthê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôthê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôthê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông Đồ (Cv 17,14-15; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17; 16,10); rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: “Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôthê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.
Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troas, ngài muốn gặp Titô, “người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo Hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là “người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôthê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.
2. Thông điệp và tính thời sự
Kinh Tổng Nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông Đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôthê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích : Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.
Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôthê đã lãnh nhận và thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần Trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.
Cũng trong lá thư gởi cho Timôthê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: “Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông Đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.
Kinh Tổng Nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: “Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.
Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: “Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng.
Enzo Lodi (Nguồn:tgpHaNoi)
https://www.kath-vietnamesen.de/26-01-thanh-timothe-va-thanh-tito-giam-muc-le-kinh/
Thứ Hai
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 9, 15. 24-28
"Người chỉ tế lễ chính mình một lần để huỷ diệt tội lỗi, Người sẽ xuất hiện lần thứ hai để cứu độ những ai trông đợi Người".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Chúa Kitô là trung gian của Tân Ước, vì nhờ sự chết của Người để cứu chuộc các tội phạm dưới thời Cựu Ước, mà những kẻ được kêu gọi, đến lãnh lấy gia nghiệp đời đời đã hứa cho họ. Ðức Giêsu không tiến vào cung thánh do tay người phàm làm ra, chỉ là hình bóng cung thánh thật, nhưng Người vào chính thiên đàng, để từ đây xuất hiện trước tôn nhan Thiên Chúa vì chúng ta. Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần: nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng tế hiến một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6.
Ðáp: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu (c. 1a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh, Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là vua. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3, 22-30
"Satan phải diệt vong".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ". Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y. Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Quyền
Năng
Hôm nay, Thứ Hai, ngày thường đầu tiên trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Marco thuật lại sự kiện đụng độ giữa "những luật sĩ từ Giêrusalem đến" và Chúa Giêsu, một cuộc đụng độ càng cho thấy bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha" này. Ở chỗ, cho dù bị xuyên tạc chụp mũ Người vẫn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn nhẫn nhịn giúp cho đối phương nhận ra cái sai lầm của họ và cảnh giác họ để họ khỏi bị đời đời hư mất.
Thật vậy, khi thấy danh tiếng của Chúa Giêsu càng ngày càng nổi nang khắp nơi trong dân chúng, cho dù Người mới chỉ ở Galilêa thuộc miền bắc đất nước Do Thái, chứ chưa xuống tới Giuđêa thuộc miền nam là nơi toàn tòng dân Do Thái và có giáo đô Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, thành phần "những luật sĩ từ Giêrusalem đến nói rằng 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'".
Không biết thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến này từ bao lâu rồi, đã tận mắt xem thấy Chúa Giêsu trừ quỉ hay chưa, hoặc chỉ nghe nói đến thôi, rồi suy diễn một cách méo mó như vậy để chống phá đối phương mới trở nên nổi tiếng, với chủ đích hạ bệ đối thủ của mình xuống càng sớm càng tốt?!
Tuy nhiên, nếu "miệng nói ra những gì đầy trong lòng", như chính Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (12:34) cũng có cùng chủ trương như những người luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay, thì nội dung của lời phát biểu này dường như chất chứa tính cách cạnh tranh xuất phát từ lòng ghen ghét, chứ chưa nói đến tính cách hết sức phạm thượng của nó, của những ai phát ngôn như thế.
Thế nhưng, cho dù bị phạm thượng như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã không nổi giận, quát mắng họ hay thậm tệ quở trách họ, như Người sẽ làm sau này, được thấy ở nguyên đoạn 23 Phúc Âm Thánh Mathêu, mà còn hết sức nhân từ "gọi họ lại" và "dùng tỉ dụ" (như cha mẹ hay thày cô dạy cho đám học trò con nít của mình) cho dễ hiểu để nhờ đó vạch ra cho họ thấy những gì sơ hở đầy mẫu thuẫn nơi cái nhận định và lập luận vừa thiển cận nông nổi vừa mâu thuẫn mù tối của họ, bằng cách Người đã lấy gậy ông đập lưng ông, như sau:
"Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong". Tức là Chúa Giêsu muốn nói với thành phần luật sĩ đầy thế lực từ giáo đô Giêrusalem rằng: quí vị thật là mâu thuẫn, chẳng hiểu gì cả, nếu tôi như quí vị nói "bị quỉ Belzebul ám" nhờ đó tôi mới có thể "nhờ chính tướng quỷ mà trừ quỷ" thì ma quỉ tự chúng chia rẽ nhau mà chết thôi - làm gì có cái chuyện hoang đường là ma quỉ quay ra tàn sát lẫn nhau để hủy diệt đi vương quốc tử thần của chúng chứ?
Chưa hết, Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để chẳng những sửa lỗi cho họ mà còn tỏ mình ra cho họ thấy rõ hơn một chút nữa, hy vọng họ thấy được quyền phép thần linh của mình là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", một quyền phép vô địch còn hơn cả quyền lực chết chóc của thần dữ, ở chỗ còn khống chế được cả ma quỉ là loài vẫn từng thống trị loài người từ sau nguyên tội: "Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y".
Không biết các nhà luật sĩ khôn ngoan thông thái trong bài Phúc Âm hôm nay, nghe xong câu nói nhẹ nhàng xa xa bóng gió này của Chúa Giêsu có hiểu ý Người muốn nói hay chăng, nhưng thực tại đúng là như thế, đúng là Người có một quyền lực vô địch, một quyền lực sẽ đạt đến tột đỉnh của mình nơi cuộc Vượt Qua chiến thắng tội lỗi và sự chết của Người.
Tình thương của Chúa Giêsu tỏ ra với thành phần luật sĩ mù quáng trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ ở chỗ: 1- vạch ra cho họ thấy cái sai lầm của họ; và 2- tỏ cho họ thấy quyền lực thần linh trừ quỉ của Người, mà còn 3- cảnh báo về phần rỗi đời đời của họ nữa, như thể khuyên họ hãy cẩn thận và coi chừng thứ tội nguy hiểm được Người thẳng thắn cho họ biết rằng:
"'Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời'. Ðó là vì họ nói 'Người bị thần ô uế ám'".
Căn cứ vào lời cảnh báo này của Chúa Giêsu thì ở đây Chúa Giêsu nói đến kẻ phạm tội "kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần... nó mắc tội muôn đời'", hơn là thứ tội "phạm đến Chúa Thánh Thần", và hình phạt muôn đời giành cho kẻ phạm một thứ tội phạm thượng khủng khiếp, dám cho "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là Đấng có thể khống chế quyền lực của thần dữ "bị thần ô uế ám", có nghĩa là dám hoàn toàn phủ nhận Thánh Linh là "quyền phép Đấng Tối Cao" (Luca 1:35) ở trong Người và làm việc đó, và vì thế cũng có nghĩa là gián tiếp không chấp nhận Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để được cứu độ (xem Marco 16:16).
Nếu vai trò tư tế liên quan đến sự thánh, và việc dâng của lễ của họ liên quan đến việc đền tội là những gì xấu xa tội lỗi làm cho con người ra ô uế, như thể họ bị thần ô uế ám vậy, thì việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế trong Bài Phúc Âm hôm nay, nhất là trừ khử những ý nghĩ hay đúng hơn những thần trí ô uế ám ảnh thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, với đầy những ghen hờn nên có những thiên kiến và hành động tuyên truyền bậy bạ, là Người thực hiện vai trò tư tế của Người, một vai trò sẽ đạt đến tột đỉnh của nó nơi cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người, nhờ đó Người đã phá tan vương quốc của Satan chúa tể trần gian và mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Thư gửi giáo đoàn Do Thái hôm nay đã cảm nhận và tuyên xưng về "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này theo chiều kích tư tế như sau: "Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần: nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng tế hiến một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người".
Nơi và qua "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này, Thiên Chúa đã tỏ hết mình ra, nhưng mạc khải thần linh của Ngài đã được bắt đầu và diễn tiến suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, thành phần đã được chứng kiến thấy Ngài tuyển chọn họ, giải phóng họ, ở với họ, không bao giờ bỏ họ, đến độ, qua Thánh Vịnh 97 ở Bài Đáp Ca hôm nay, Thiên Chúa đã được nhận biết và chúc tụng rằng:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh, Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là vua.
Ngày 27 tháng 1 - Thánh
Angiêla Mêrici, trinh nữ
Angela sinh ngày 21 tháng 3 năm 1474 tại Desenzano, xứ Lombardie, Ý Đại Lợi. Angela mồ côi cha mẹ và ở với các anh và cậu. Vào lúc 56 tuổi, Angela Merici từ chối lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng. Ngài biết Ðức Clementê VII muốn ban cho ngài một vinh dự lớn lao và một cơ hội vĩ đại để phục vụ khi đức giáo hoàng yêu cầu ngài nhận trách nhiệm lãnh đạo một dòng nữ tu chuyên về điều dưỡng. Nhưng Angela biết công việc điều dưỡng không phải là điều Thiên Chúa muốn mời gọi ngài thi hành.
Lúc đó, chưa có những nữ tu viện dành cho các chị em và cũng chẳng có ai đã từng nghĩ đến chuyện này bao giờ. Thánh nữ Angiêla Merisi là người đầu tiên đã tụ họp một nhóm chị em và mở các trường dạy trẻ. Vào ngày 25 tháng Mười Một năm 1535, hai mươi tám chị em đã tận hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Họ tuân giữ luật dòng thánh Ursula. Angiêla đặt hội dòng dưới sự bảo trợ của thánh Ursula. Đây là lý do họ có được danh hiệu đó. Thoạt đầu, các chị đã cư ngụ tại nhà quê của mình. Bởi có nhiều khó khăn nên phải trải qua một thời gian dài sau họ mới có thể cùng được chung sống trong tu viện. Thánh nữ Angiêla Merisi mất vào ngày 27 tháng Giêng năm 1540 khi hội dòng của ngài vừa được phôi dựng. Lòng cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa đã giúp Angiêla vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Ngài không hồ nghi gì về việc Thiên Chúa sẽ quan phòng lo liệu cho công việc ngài đã khởi sự. Và Thiên Chúa đã thực hiện.
Các nữ tu dòng thánh Ursula đã có mặt tại nhiều quốc gia. Hội dòng hiện vẫn tiếp tục hoạt động cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người; nhất là việc giáo dục các trẻ em và các thanh thiếu niên.
Thánh nữ Angiêla Merisi nhắc nhở chúng ta rằng những sự khó và những chán nản thất vọng có thể giúp chúng ta nhận ra những nỗi đau thương nơi người khác. Khi chúng ta sẵn lòng vươn tay ra, Thiên Chúa sẽ dùng chúng ta để thực hiện những công việc phi thường của Người. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Angiêla Merisi giúp chúng ta biết cách tỏ lòng tế nhị và xót thương đối với tha nhân.
Thánh Angela Merici từ trần ngày 27 tháng 1 năm 1540 tại Brescia, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi. Mộ phần trở nên một nơi hành hương. Thánh tích còn tại thánh đường Thánh Afra, Brescia Ý Đại Lợi. Ngay sau khi qua đời, nữ tu Angela đã được dân chúng thành phố ca tụng như một đấng thánh. Họ đến kính viếng thi hài của chị thánh đông đảo đến độ phải hoãn lễ an táng đến 30 ngày sau.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 1-10
"Lạy Chúa, nầy tôi đến để làm theo thánh ý Chúa"
Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.
Anh em thân mến, lề luật là bóng dáng của những việc tốt lành tương lai, chớ không phải chính hình ảnh chân chính của sự thật.
Lề luật ấy với những hy tế được hiến dâng liên tiếp hằng năm không bao giờ có thể làm cho những kẻ đến tham dự được hoàn hảo.
Chẳng vậy, người ta sẽ chấm dứt việc tế lễ, vì lẽ những người làm việc phượng tự nầy, đã được tẩy sạch một lần rồi, nên không còn ý thức mình có tội nữa.
Ngược lại, các lễ tế hằng năm nhắc nhở người ta nhớ đến tội lỗi.
Bởi chưng máu bò dê không thể xóa bỏ tội lỗi.
Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác.
Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội.
Nên tôi nói: Lạy Chúa, nầy tôi đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về tôi ở đoạn đầu cuốn sách.
Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật".
Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa".
Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hóa nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv. 39,2 và 4ab, 7-8a, 7-9, 10, 11
Ðáp: Lạy Chúa, nầy tôi xin đến, để thực thi ý Chúa. (8a và 9a)
Xướng 1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên tôi, và Ngài đã nghe tiếng tôi kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta. - Ðáp.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai tôi. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và đền tội, bấy giờ tôi đã thưa: "Nầy tôi xin đến". - Ðáp.
3) Như trong cuốn sách đã chép về tôi: lạy Chúa, tôi sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận lòng tôi. - Ðáp.
4) Tôi đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
5) Tôi chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng tôi: tôi đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa, tôi đã không giấu giếm gì với Ðại Hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15,15b
Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả
những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết".
- Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3,31-35
"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào
mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng:
"Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta
và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và
là mẹ Ta".
Ðó là Lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Tình Nghĩa
Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Ba trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này.
Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra", cũng như phản ứng của Chúa Giêsu khi Người được "đám đông ngồi chung quanh Người trình với Người rằng: 'Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy'".
Phản ứng của Chúa Giêsu, qua cả lời nói lẫn cử chỉ tác hành của Người, như được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, như sau: "Người trả lời rằng: 'Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?' Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: 'Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta'".
Phải chăng Người tỏ ra như thể bị gia đình làm phiền Người đang khi Người thi hành sứ vụ Thiên Sai của Người, nên Người có thái độ như lạnh nhạt hơn là vồn vã với gia đình của Người, thậm chí Người còn có vẻ coi trọng thính giả của Người hơn cả gia đình của Người nữa.
Bề ngoài có thể là thế thật, nhưng tận sâu xa ở những lời nói và cử chỉ có vẻ tiêu cực này của mình, Người lại sử dụng đường lối phủ nhận cách liên quan đến mối liên hệ ruột thịt tự nhiên với gia đình của Người để khẳng định một chân lý hết sức quan trọng về mối liên hệ thiêng liêng với Người là những gì Người đang thiết lập và sẽ hoàn thành vào cuộc Vượt Qua của Người trong tương lai.
Thật vậy, là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người không đến chỉ cho Mẹ của Người hay gia đình của Người thôi, mà cho toàn thể nhân loại, được đại diện bởi thành phần thính giả của Người bấy giờ.
Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), để "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), thì Người quả thực, qua việc rao giảng và tỏ mình ra, "như ánh sáng chiếu soi mọi người", đang thiết lập mối liên hệ thiêng liêng với nhân loại, nghĩa là Người đang làm cho nhân loại tin vào Người, "chấp nhận Người", để họ "được quyền làm con Thiên Chúa" như Người và với Người.
Bởi thế, so với tình nghĩa thiêng liêng vô cùng chân thật, hoàn hảo và bền vững thì tình nghĩa xác thịt thấp hèn, hạn hữu và trần tục không thể nào sánh bằng, và vì thế tình nghĩa xác thịt tự nhiên cần phải được thăng hoa, cần được thánh hóa, cần phải được nâng cấp bằng lời Chúa.
Nếu tình nghĩa thiêng liêng với Chúa Kitô, như Người nói, ở chỗ "làm theo ý Thiên Chúa", như chính bản thân Người liên lỉ chú trọng và thực thi cho tới cùng, thì không còn ai hơn Mẹ của Người, một Trinh Nữ đã đáp ứng lời thiên sứ truyền tin Lời Nhập Thể bằng tất cả đức tin siêu vượt của mình qua tiếng "Xin Vâng" (Luca 1:38), cho đến khi "đứng chân Thánh Giá Chúa Giêsu" (Gioan 19:25).
Như vậy, lời nói và thái độ có vẻ dửng dưng lạnh lùng như phủ nhận gia đình mình của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì chẳng những phấn khích việc nâng cấp cho thành phần thính giả của Người bấy giờ mà nhất là còn cố ý chúc tụng Mẹ của Người, lấy Mẹ của Người như là một mô phạm cho thành phần thính giả ấy trong việc lắng nghe lời Chúa (xem Luca 2:19,51).
Đúng thế, Mẹ Maria thật sự là môn đệ đầu tiên của Con Mẹ và là đệ nhất môn đệ của Con Mẹ, ở chỗ, Mẹ đã hoàn toàn giống y như Con Mẹ, trong thái độ liên lỉ lắng nghe lời Chúa và hành động đáp ứng ý muốn của Thiên Chúa ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, một Người Con mà khi nhập thể trong lòng Mẹ đã thân thưa cùng Cha của Người, như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết như sau:
"Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: 'Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: Lạy Chúa, nầy tôi đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về tôi ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật'. Ðoạn Người nói tiếp: 'Lạy Chúa, nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa'".
Những lời thân thưa cùng Cha trên trời xin vâng của Chúa Kitô Con Mẹ như được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại đã hoàn toàn ứng nghiệm như lời Thánh Vịnh 39 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên tôi, và Ngài đã nghe tiếng tôi kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai tôi. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và đền tội, bấy giờ tôi đã thưa: "Nầy tôi xin đến".
3) Như trong cuốn sách đã chép về tôi: lạy Chúa, tôi sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận lòng tôi.
4) Tôi đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.
5) Tôi chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng tôi: tôi đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa, tôi đã không giấu giếm gì với Ðại Hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa.
Ngày 28 tháng 1
Thánh Tô-ma A-qui-nô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Không có gương nhân đức nào mà không có nơi thập giá
Trích bài chia sẻ của thánh Tô-ma A-qui-nô, linh mục.
Có cần thiết Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ vì chúng ta không ? Thưa cần lắm, và có thể tóm lại trong hai lý do : một là để làm phương dược chữa trị tội lỗi, hai là để làm gương cho chúng ta noi theo.
Xét về phương dược để chữa trị mọi sự dữ mà chúng ta mắc phải vì tội lỗi, chúng ta gặp thấy linh dược nhờ cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô.
Nhưng xét về gương sáng thì ích lợi cũng không nhỏ, vì cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô đủ để soi sáng trọn vẹn cuộc đời chúng ta. Quả vậy, bất cứ ai muốn sống đời hoàn hảo, người ấy không cần làm gì khác ngoài việc khinh chê những gì Đức Ki-tô đã khinh chê trên thập giá và ao ước những gì Người đã ước ao. Bởi lẽ không có gương nhân đức nào mà không có nơi thập giá.
Nếu bạn muốn tìm một tấm gương bác ái, thì đây : Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Đó là điều Đức Ki-tô đã thực hiện trên thập giá. Vậy nếu Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, thì khi vì Người mà chúng ta phải chịu bất cứ đau khổ nào, sẽ chẳng có chi là quá nặng.
Nếu bạn muốn tìm một tấm gương nhẫn nhục, thì nơi thập giá có cả một tấm gương sáng ngời. Thật vậy, sự nhẫn nhục sẽ lớn lao vì hai lý do : hoặc khi người ta chịu những đau khổ lớn lao, hoặc khi người ta chịu những đau khổ có thể tránh được mà lại không tránh. Quả thế, Đức Ki-tô đã mang lấy những đau khổ lớn lao trên thập giá, và nhẫn nhục chịu đựng : Người chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín trước mặt kẻ xén lông, Người chẳng hề mở miệng. Như thế, sự nhẫn nhục của Đức Ki-tô trên thập giá thật là lớn lao : Chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục.
Nếu bạn muốn tìm một tấm gương khiêm nhường, thì xin bạn nhìn lên Đấng chịu đóng đinh : Đấng vốn là Thiên Chúa mà đã muốn chịu xét xử dưới thời Phong-xi-ô Phi-la-tô và chịu chết.
Nếu bạn muốn tìm một tấm gương tuân phục, bạn chỉ việc bước theo Đấng đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết : Cũng như vì một người duy nhất, tức là ông A-đam, đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ trở thành người công chính.
Nếu bạn muốn tìm một tấm gương khinh chê của cải trần gian, bạn chỉ việc bước theo Đấng là Vua các vua và là Chúa các chúa, nơi Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết, thế mà trên thập giá Người đã chịu trần truồng, bị chế giễu, bị khạc nhổ, bị đánh đập, bị đội vòng gai và phải uống giấm chua mật đắng.
Vậy bạn đừng bám víu vào y phục và của cải, vì áo xống tôi, chúng đem chia chác ; đừng bám víu vào danh dự, vì Người đã chịu lăng nhục và bị đánh đòn ; đừng say mê chức tước, vì họ đã kết một vòng gai làm vương miện đội lên đầu Người ; và đừng ham mê thú vui nữa, vì tôi khát nước, lại cho uống giấm chua.
Lạy Chúa, Chúa làm cho thánh Tô-ma trở nên một bậc thầy lỗi lạc, vì đã ban cho người lòng tha thiết sống cuộc đời thánh thiện và hăng say giảng dạy đạo lý cao siêu. Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con ngày càng hiểu biết điều người dạy và ra công bắt chước việc người làm. Chúng con cầu xin
ĐTC Biển Đức XVI:
23/6/2010 – Bài 112: Thánh Thomas Aquinas - Tổng Luận Thần Học
16/6/2010 – Bài 111: Thánh Thomas Aquinas - Triết Lý Thần Học
2/6/2010 – Bài 110: Thánh Thomas Aquinas - Tiểu Sử
Thứ Tư
(Ngày Thứ Tư 26/1/2025 trong tuần này có thể cử hành PVLC Lễ Tết Mùng 1 - xin xem bên dưới PVLC Thứ Tư này)
Lời Chúa
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 11-18
"Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời"
Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.
Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến dâng cũng những ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xóa được tội lỗi, còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người.
Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời.
Vả chính Thánh Thần cũng đã minh chứng cho chúng ta như thế.
Vì sau khi Chúa đã phán: "Nầy là giao ước Ta sẽ ký kết với chúng sau những ngày ấy", thì Người còn thêm: "Ta sẽ đặt lề luật Ta trong lòng chúng, và khắc nó vào tâm trí chúng; ta sẽ không còn nhớ đến những tội lỗi và sự gian ác của chúng nữa".
Vậy nơi nào tội lỗi được thứ tha, thì không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv. 88, 4-5, 27-28, 29-30
Ðáp: Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái. (29)
Xướng 1) Ta sẽ ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của tôi". và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.
3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.
Alleluia: 1Sam 3,9
Alleluia, Alleluia. - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng
tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4,1-20
"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng
tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt
biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.
Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ
rằng:
"Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống.
Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết.
Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất.
Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu.
Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị
chết khô.
Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không
sinh hoa trái được.
Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh
được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".
Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".
Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với
Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông:
"Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác
ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không
thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội".
Người nói với các ông:
"Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những
dụ ngôn khác?
Người gieo hạt là gieo lời Chúa.
Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan
đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ.
Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời
Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những
người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì
họ sa ngã liền.
Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai.
Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt
lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được.
Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa,
biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một
trăm".
Ðó là Lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Mạc Khải
Tiếp tục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bài Phúc Âm Thứ Tư hôm nay trong Tuần 3 của thời điểm phụng vụ này liên quan đến dụ ngôn "người gieo hạt đi gieo hạt giống".
Theo bài Phúc Âm thuật lại ở phần đầu thì nội dung của dụ ngôn này như sau: "Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".
Cũng theo bài Phúc Âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã giải thích ý nghĩa của từng hình ảnh được ám chỉ trong dụ ngôn cho các môn đệ nghe, như lời yêu cầu của các vị:
"Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
Trong phần dẫn giải của mình, Chúa Giêsu không cho biết "người gieo hạt" là ai. Tuy nhiên, vì "gieo hạt là gieo lời Chúa" như Chúa Giêsu dẫn giải, thì "người gieo hạt" đây còn ai khác ngoài chính bản thân Người, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".
Nếu "hạt đây là lời Chúa" và lời Chúa đây chất chứa "ân sủng và chân lý", vì chính bản thân Người là "Lời", bởi thế "người gieo hạt" đây tức là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra để thông ban cho "những ai chấp nhận Người" (Gioan 1:12) "ân sủng và chân lý" của Người và từ Người: "ân sủng" là "được quyền làm con Thiên Chúa" và "chân lý" là "được sinh ra bởi Thiên Chúa, chứ không phải bởi huyết nhục, bởi nhục dục hay bởi ý muốn của con người" (Gioan 1:13).
Đúng thế, theo dẫn giải của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay thì hạt khi chưa gieo vẫn còn là hạt, nhưng một khi đã gieo xuống rồi thì hạt được gieo xuống ấy trở thành người nghe, người đón nhận. Có tất cả 4 loại người chính yếu tiêu biểu đáp ứng lời Chúa, đáp ứng mạc khải thần linh là chính Chúa Kitô, hay "chấp nhận" Chúa Kitô cũng thế.
Nếu "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) và là người "sinh bởi Thiên Chúa" thì họ quả thực là "những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
Vậy
thì 3 thành phần còn lại sẽ có thể được
suy diễn và áp dụng như sau:
"Những hạt ở trên vệ đường là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi huyết nhục", nghĩa là hoàn toàn sống theo tự nhiên nông nổi bề ngoài một cách hờ hững lãnh đạm với những gì siêu nhiên, thuộc lãnh vực đức tin, thuộc đời sống thiêng liêng.
"Những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi nhục dục", sống theo cảm giác cảm tình nên rất thay đổi bất nhất.
"Những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi ý muốn của con người", sống tìm kiếm và theo đuổi ưu tiên lợi lộc trần gian, coi trọng giá trị trần gian hơn những gì là chân thực bất biến.
Nếu "Người Con duy nhất đền từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" trong bài Phúc Âm hôm nay đóng vai trò là người gieo giống thì, trong Bài Đọc 1 hôm nay, "Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người. Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời".
Chính vì thế mà, Thánh Vịnh 88 trong Bài Đáp Ca hôm nay mới tiên báo về những gì Thiên Chúa đối xử với "Người Con duy nhất đền từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này như sau:
1) Ta sẽ ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của tôi". và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.
3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.
Thánh Lễ Đầu Năm Âm Lịch
Thánh Lễ Tất Niên
Phúc Âm: Lc 1, 39-55
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần. Bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Người, thực từ đây thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi có phước, vì Ðấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng, và Danh Người là thánh. Ðức từ bi Người tự đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Người đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Người lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ; người đói khát, Người cho no đầy thiện hảo, bọn giàu sang, Người đuổi về tay không. Người đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Người, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người, như Người đã phán cùng tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Lc 17,11-19
"Người ấy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi ngang qua biên giới Samaria và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi".
Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế".
Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.
B. Thánh Lễ Giao Thừa
Phúc Âm: Mt 5,1-10
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Mt 7,7-11
"Ai xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được; ai tìm thì sẽ gặp; ai gõ cửa sẽ mở cho. Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người?"
Ðó là lời Chúa.
C. Thánh Lễ Minh Niên
(Cầu bình an cho Năm Mới)
Bài Ðọc I: Gen 1,14-18
"Những vật sáng hãy trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng".
Bài trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm. Và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy tốt đẹp.
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - -
Hoặc: Num 6,22-27
"Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng".
Bài trích sách Dân Số.
Chúa phán cùng Môisen rằng: "Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel, hãy nói với chúng thế nầy: Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con, xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 48, 2-3. 6-7. 8-10. 11. 17-18
Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. (Mt 5, 3)
Hoặc Ðáp: Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. (Mt 6, 33a)
Xướng: 1) Hỡi các dân, xin nghe lấy chuyện nầy, xin hãy lắng tai, hết thảy những ai cư ngụ địa cầu, người phận nhỏ cũng như người quyền thế, kẻ giàu sang cũng như kẻ cơ bần! - Ðáp.
2) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai họa, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người nầy tin cậy vào tài sản, chúng tự hào bì có bạc vạn tiền muôn? - Ðáp.
3) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền chuộc mạng. Giá chuộc mạng quá đắt, không bao giờ người ta có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết. - Ðáp.
4) Bởi lẽ người ta thấy chết cả những người khôn, đứa dại đứa ngu cũng đều phải chết, để lại cho người khác tài sản của mình. - Ðáp.
5) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng; bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ. - Ðáp.
- - - - - - - - - - - -
Hoặc: Tv 89, 2. 3-4. 5-6. 12-13. 14. 16
Ðáp: Lạy Chúa, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng tôi làm ra. (17c)
Xướng 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở nầy qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.
2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.
3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.
4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
5) Xin cho chúng tôi sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng tôi mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng tôi. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1Cor 7,29-31
"Bộ mặt thế gian nầy đang qua đi".
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Corintô.
Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều nầy là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy như không có: những ai than khóc, hãy ăn ở như không khóc; những ai hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những ai mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời nầy, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian nầy đang qua đi.
Ðó là lời Chúa
- - - - - - - - - - -
Hoặc: Jac 4,13b-15
"Anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao".
Bài trích thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, bây giờ anh em nói: "Hôm nay hoặc ngày mai chúng tôi sẽ đến một thành nọ, rồi ở lại đó một năm mà buôn bán kiếm lời". Nhưng anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi vì đời sống anh em là cái gì? Là một chút hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi biến đi. Lẽ ra anh em phải nói rằng: "Nếu Chúa muốn, và nếu chúng tôi còn sống, chúng tôi sẽ làm điều nầy điều kia".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia và Câu Xướng Trước Phúc Âm: Chron 29, 10. 11b
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel tổ phụ chúng tôi, Chúa đáng chúc tụng; mọi tạo vật trên trời dưới đất đều là của Chúa. - Alleluia.
Hoặc đọc:
Alleluia, alleluia! - Trải qua mọi ngày, chúng tôi chúc tụng Chúa; và chúng tôi ca ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 25-30
"Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho. Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Ga 14, 23-27
"Thầy ban bình an của Thầy cho các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Ga 20,19-23
"Bình an cho các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Mt 6,25-34
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?" Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Ðó là lời Chúa.
Thứ Năm
(Có thể cử hành Lễ Mùng 2 Tết, ở bên dưới phần PVLC Thứ Năm này)
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 19-25
"Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta, và hãy thúc giục nhau thực thi bác ái".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, nhờ máu Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng bước vào cung thánh. Ðó là con đường mới và sống động mà Người đã mở cho chúng ta, xuyên qua tấm màn là thân xác Người; và ban cho chúng ta có một thượng tế cai quản nhà Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến đến với lòng chân thành, đầy đức tin, lòng được trong sạch khỏi lương tâm gian ác, và thân xác được tắm gội bằng nước trong sạch. Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta, vì Ðấng đã hứa là Ðấng trung tín. Chúng ta hãy thúc giục nhau thực thi bác ái và làm việc thiện. Ðừng trốn tránh những buổi hội chung như ít người có thói quen, nhưng anh em hãy khích lệ nhau, nhất là khi thấy ngày đó gần đến.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6.
Ðáp: Lạy Chúa, đó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa (c. 6).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và
xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 21-25
"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người
ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt
trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn
sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà
không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe". Và Người bảo
họ rằng: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng
đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta
còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có
cũng bị lấy mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô tỏa sáng
Hôm nay, Thứ Năm Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này liên quan đến những lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm sau đây:
"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".
Đối tượng của những lời Chúa Giêsu phán dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như Thánh ký Marco cho biết, đó là "dân chúng", chứ không phải là các môn đệ của Người, cho dù các môn đệ của Người là thành phần đã được Người ví như "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).
"Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao?": Chúa Giêsu muốn nói gì đây hay ám chỉ ai đây? Phải chăng Người muốn ám chỉ Lời giảng dạy của Người? Vì "Lời Ngài là đèn soi chân con bước, là ánh sáng soi đường con đi" (Thánh Vịnh 119:105).
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, mà bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn "người đi gieo hạt" và "hạt là Lời Chúa", thì bài Phúc Âm hôm nay Người muốn tiếp tục đề tài Lời Chúa hay mạc khải thần linh, nhưng bằng một hình ảnh khác hay đúng hơn bằng một tác động khác, thay vì "đi gieo hạt" như trong bài Phúc Âm hôm qua thì lại "đặt trên giá đèn" trong bài Phúc Âm hôm nay.
Nếu ánh sáng là hình ảnh hay tiêu biểu cho sự thật cũng như cho bản chất của ánh sáng hay của sự thật là chiếu soi, là giải phóng thì quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng".
Câu "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng" này cũng có thể hiểu là không gì có thể ẩn khuất, cho dù là thâm tâm của con người, là âm mưu tinh quái nhất của con người, cũng không thể nào qua mặt được Lời Chúa, không thể nào che giấu được Lời Chúa là Chúa Kitô, che giấu được ánh mắt thần linh của Người: "Người tự mình biết được những gì nơi con người ta" (Gioan 2:25).
Trong bài Phúc Âm hôm qua, khi nói về dụ ngôn "người đi gieo hạt", Chúa Giêsu còn nói cả về phía thành phần lãnh nhận và đáp ứng thế nào: hạt vệ đường, hạt đá sỏi, hạt bụi gai, hạt đất tốt bao gồm hạt 30, hạt 60 và hạt 100, thì trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, Người cũng bao gồm cả vế thành phần lãnh nhận nữa: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy" (chính động từ "nghe" ở đây cũng cho thấy "đèn soi" là Lời Chúa, đối tượng của tác động "nghe").
"'Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng
điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ
đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có,
sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".
Đúng thế, càng cởi mở và khao khát lời Chúa, nhất là càng nhiệt thành và mau mắn đón nhận Lời Chúa, tức là càng tìm kiếm chân lý là Chúa Kitô, càng đáp ứng Chúa Kitô là mạc khải thần linh, thì tùy theo tầm vóc của mình, một tầm vóc được ví như cái "đấu", cũng như tùy theo cường độ khát vọng thần linh của mình, tùy theo khoảng rộng cởi mở của mình, một thứ cường độ và khoảng rộng được ví như tác động "đong" của con người lãnh nhận, Lời Chúa ở nơi họ, một là "có, sẽ được cho thêm", hai là "không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
Thật ra, cho dù tác dụng của "đèn soi" hay của "hạt gieo" có vẻ bị lệ thuộc vào môi trường là người nhận, ở chỗ nếu họ không mở cửa thì ánh sáng của "đèn soi" không lọt vào được, hay nếu không gặp "đất tốt" thì "hạt gieo" sẽ không thể nẩy mầm và phát triển, nhưng tự mình, "đèn soi" vẫn không thể nào không tỏa sáng để làm cho môi trường biến khuất tối tăm, và "hạt gieo" vẫn chất chứa mầm sống để làm cho môi trường phát triển tốt tươi.
Những môi trường nhân bản nào khép kín không tiếp nhận ánh sáng của "đèn soi", hay khô cằn không thể thích hợp với mầm sống của "hạt gieo" là những môi trường nhân bản hay những con người tự tác hại bản thân mình, chứ không thể nào tác hại đến chính "đèn soi" tự bản chất vẫn soi chiếu, hay đến chính "hạt gieo" tự bản chất vẫn làm cho cây cối phát triển.
Nếu
"Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", bằng nhân tính nói chung và nhờ thân xác của Người nói riêng, như bí tích cứu độ của Người, đã thông truyền sự sống thần linh cho con người, như thể Người thắp lên nơi chung con người, cũng như nơi từng người, nhất là nơi thành phần môn đệ của Người, "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12 và xem 1:4), thì, như Bài Đọc 1 hôm nay cảm nhận: "Ðó là con đường mới và sống động mà Người đã mở cho chúng ta, xuyên qua tấm màn là thân xác Người; và ban cho chúng ta có một thượng tế cai quản nhà Thiên Chúa".Về phần những ai được diễm phúc thắp sáng bởi Người Con này, thì Bài Đọc 1 thôi thúc "Chúng ta hãy tiến đến với lòng chân thành, đầy đức tin, lòng được trong sạch khỏi lương tâm gian ác, và thân xác được tắm gội bằng nước trong sạch. Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta, vì Ðấng đã hứa là Ðấng trung tín. Chúng ta hãy thúc giục nhau thực thi bác ái và làm việc thiện", thành phần được Thánh Vịnh 23 ở câu họa chung của Bài Đáp Ca hôm nay cho biết "đó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa", ở chỗ:
1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.
Ngày Mồng 2 Tết Âm Lịch
Thánh Lễ Cầu Cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ
Bài Ðọc 1: Hc 44,1.10-15
"Chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ."
Bài trích sách Huấn Ca.
Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ.
Nhưng các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen.
Ðó là lời Chúa.
Bài Ðọc 2: Ep 6,1-4.18.23.24
"Hãy tôn kính cha mẹ. Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này".
Bài trích thư của Thánh Phaolô Tông Ðồ các gửi tín hữu thành Êphêsô.
Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Ðó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.
Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Ðể được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể các thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói.
Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin. Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất cả những ai yêu mến Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Mc 7,1-2. 5-13a
"Hãy thảo kính cha mẹ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước.
Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?"
Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì chúng dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy".
Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, người đó phải chết". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được, nay tôi muốn nó trở thành Corban (nghĩa là của dâng cúng)", rồi các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - -
Hoặc: Lc 1,67-75
"Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Phi Thuyền bay vào Cõi Vĩnh Hằng
Thứ Sáu
(Có thể cử hành Lễ Mùng 3 Tết, ở bên dưới phần PVLC Thứ Sáu này)
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 32-39
"Anh em đừng mất lòng kiên nhẫn".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, anh em hãy nhớ lại những ngày trước, khi anh em vừa lãnh nhận ánh sáng, anh em đã đương đầu với bao nhiêu trận đau khổ lớn lao. Khi thì anh em bị công khai sỉ nhục và hoạn nạn, khi thì anh em phải liên đới với những kẻ chịu những sự đối xử như thế. Vì chưng, anh em đã cùng chịu số phận của những tù nhân, anh em đã vui mừng chấp nhận người ta tước đoạt của cải, vì anh em biết rằng mình có của cải tốt hơn và bền vững. Vậy anh em đừng bỏ mất lòng tin tưởng của anh em, đáng được thưởng công bội hậu. Anh em cần phải kiên nhẫn, để khi làm tròn thánh ý Chúa, anh em được lãnh nhận điều Chúa hứa. Vì chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi, Ðấng phải đến sẽ đến, và Người sẽ không trì hoãn. "Còn kẻ công chính của Ta thì sống theo đức tin. Nhưng nếu người đó tháo lui, thì sẽ không làm đẹp lòng Ta". Còn chúng ta, chúng ta không thuộc hạng người tháo lui mà hư mất, nhưng chúng ta là con cái đức tin để cứu thoát linh hồn chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 36, 3-4. 5-6. 23-24. 39-40
Ðáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).
Xướng: 1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. - Ðáp.
2) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động, Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ. - Ðáp.
3) Nhờ ơn Chúa mà hiền nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối họ đi. Dầu có ngã, họ sẽ không nằm gục, vì Chúa sẽ nâng đỡ tay họ. - Ðáp.
4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng
cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 26-34
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào
người đó cũng không hay biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như
người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày,
hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết
nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông,
rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay
dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi
gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng
khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to,
đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được". Người dùng nhiều dụ ngôn
như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và
Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ,
Người giải thích tất cả cho các ông.
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Đức Kitô Nước Trời
Thứ Sáu Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, Bài Phúc Âm nói riêng và phụng vụ Lời Chúa nói chung vẫn phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này.
Trước hết, ở bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã sử dụng 2 dụ ngôn để nói về mầu nhiệm hay thực tại "Nước Thiên Chúa", dụ ngôn đầu về "người kia đã gieo hạt xuống đất" và dụ ngôn sau về "hạt cải", thứ tự như sau:
Dụ ngôn về "người
kia đã gieo hạt xuống đất": "Nước
Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay
thức, đêm hay ngày, hạt giống
cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự
nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt.
Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Dụ ngôn về "hạt
cải":
"Nước
đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả
các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn
nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được".
Về dụ ngôn "người kia đã gieo hạt xuống đất", Chúa Giêsu có bao gồm 2 đặc điểm liên hệ với nhau giữa người gieo hạt giống và chính hạt giống, đó là "người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa".
"Người đó cũng không hay biết nữa" ở đây có thể hiểu là: 1- không cần để ý, vì theo kinh nghiệm nhà nông thì người này đã thừa biết rằng: "đất tự nó làm cây lúa mọc lên"; 2- hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của hạt giống được mình gieo xuống: "hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên... trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt"; và 3- sống trong chờ đợi công lao gieo vãi chuyên nghiệp của mình: "Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Thật vậy, nếu "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trong bài Phúc Âm hôm nay chẳng những tỏ ra tin tưởng vào những gì mình gieo vãi mà còn tỏ ra nhẫn nại chờ đợi, bằng việc tôn trọng tiến trình phát triển của những gì do mình gieo vãi cho đến khi những gì được gieo vãi ấy đạt đến tầm mức viên trọn của chúng, thì thành phần nhận được những gì do Người gieo vãi, như Bài Đọc 1 hôm nay khuyên dạy, đó là "anh em đừng bỏ mất lòng tin tưởng của anh em, đáng được thưởng công bội hậu. Anh em cần phải kiên nhẫn, để khi làm tròn thánh ý Chúa, anh em được lãnh nhận điều Chúa hứa. Vì chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi, Ðấng phải đến sẽ đến, và Người sẽ không trì hoãn".
Thành phần "tin tưởng" và "kiên nhẫn" được Bài Đọc 1 hôm nay nói đến ấy được câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay gọi là "Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ", những con người còn được Thánh Vịnh 36 ở Bài Đáp Ca hôm nay kêu gọi một khi "được Chúa ban ơn cứu độ" như thế này:
1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu.
2) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động, Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ.
3) Nhờ ơn Chúa mà hiền nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối họ đi. Dầu có ngã, họ sẽ không nằm gục, vì Chúa sẽ nâng đỡ tay họ.
4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.
Riêng bài Phúc Âm hôm nay, về hai dụ ngôn Nước Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể suy diễn như thế này, trước hết là dụ ngôn "gieo hạt xuống đất" và sau đó là dụ ngôn "hạt cải thành cây".
Du Ngôn gieo hạt xuống đất
"Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất": Chúng ta cần lưu ý là "Nước Thiên Chúa giống như người kia", tức "Nước Thiên Chúa giống như" một con người, một con người gieo giống, chứ không phải Nước Thiên Chúa giống như chuyện gieo hạt xuống đất, hoặc "Nước Thiên Chúa giống như hạt được gieo xuống đất". Vậy thì "người kia" đây là ai hay ám chỉ ai? Nếu không phải là chính Thiên Chúa, Đấng "đã sai Con Ngài xuống trần gian" (Gioan 3:17) như thể Ngài gieo Con Ngài là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) trên trái đất này vậy.
Mà đã là Con Ngài, hiện thân của Ngài, phản ảnh chính Ngài, thì Ngài thật sự là chẳng cần phải lo lắng gì hết, do đó mới có chi tiết: "người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa". Bởi vì, "đất tự nó làm cây lúa mọc lên", ở chỗ "đất" đây ám chỉ nhân tính của Chúa Kitô nói chung và thân xác của Người nói riêng, một thân xác, cùng với nhân tính, đã được hiệp nhất nên một ngôi vị với thần tính của Con Thiên Chúa làm người, nhờ đó đã trở thành môi trường, thành phương tiện, thành bí tích cho thần tính tỏ mình ra và thông mình ra, tùy theo tiến trình phát triển của nhân tính qua thân xác của Người: "Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa... Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta" (Luca 2:40,52).
"Trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín,
người ấy liền gặt lúa vì đã đến mùa".
3- "
Ngày Mồng 3 Tết Âm Lịch
Thánh Lễ Cầu Cho Công Ăn Việc Làm
Bài Ðọc I: St 1,26 - 2,3
"Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều đầy mặt đất và thống trị nó".
Bài trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất".
Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Người tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.
Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Người chúc phúc và thánh hóa ngày thứ bảy, vì trong đó Người nghỉ việc tạo thành.
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - -
Hoặc: St 2, 4b-9. 15
"Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa".
Bài trích sách Sáng Thế.
Trong ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, thì chưa có bụi cây nào mọc ngoài đồng, không có một cây rau cỏ nào nẩy mầm ngoài đồng ruộng, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa rơi xuống đất, và chưa có người để trồng trọt, nhưng lúc đó mạch nước từ đất vọt lên, tưới khắp mặt đất.
Vậy Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vườn tại E-đen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên. Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết lành biết dữ. Vậy Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn.
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - -
Hoặc: 2Cor 9, 8-11
"Thiên Chúa đã cung cấp bánh để nuôi họ".
Bài trích thơ thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn sung túc mọi mặt, vừa được dư dật dể làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời".
Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em. Như thế, anh em được giàu có mọi bề, để thi hành mọi việc bác ái; qua tay chúng tôi, phúc đức đó sẽ làm phát sinh lời cảm tạ Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp ca: Tv 103, 1-2a, 14-15, 24, 27-28
Ðáp: Lạy Chúa, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. (24c)
Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.
2) Ngài khiến cỏ xanh mọc ra cho súc vật, và cây cối để con người xử dụng, để từ trong đất con người tạo ra cơm bánh, và rượu làm hoan hỉ lòng người; khiến cho mặt người lấp lánh dầu thơm, và bánh cơm tâm can người được bỗ dưỡng. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. - Ðáp.
4) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo. - Ðáp.
Alleluia và Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 67, 20
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia; Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. - Alleluia.
Hoặc: Mt 11, 28
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: Hỡi tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, "hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 5, 16-20
"Chúa Cha yêu Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, các người Do thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã chữa bệnh trong ngày sabbat. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, các người Do thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Thật, Ta bảo thật cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì, nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu thương Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán thục".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - -
Hoặc: Mt 6, 31-34
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?" Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Mc 4,26-29
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất, người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Ðó là lời Chúa.
Tân Niên - Lời Chúc Xuân lợi hại nhất
Ngày 31 tháng 1
Thánh Gio-an Bốt-cô, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Noi gương Đức Giê-su và để cho tình yêu hướng dẫn
Trích thư của thánh Gio-an Bốt-cô, linh mục.
Nếu chúng ta muốn tỏ ra là người tha thiết quan tâm tới lợi ích đích thực của các học sinh chúng ta, và thôi thúc chúng chu toàn bổn phận, các con đừng bao giờ quên rằng mình đang thay mặt cho cha mẹ của lớp trẻ thân yêu này, lớp trẻ đã từng là đối tượng ưu ái khiến cha luôn bận tâm, lao nhọc, học hỏi, và thực thi tác vụ linh mục. Chúng còn là đối tượng cho toàn thể dòng Sa-lê-diêng chúng ta phục vụ nữa. Do đó, nếu chúng con muốn là những người cha đích thực của các học sinh, nhất thiết chúng con phải có tấm lòng của một người cha ; và như thế, chúng con đừng bao giờ dùng tới biện pháp cưỡng chế hay ra hình phạt cách vô lý và không công bằng, cũng đừng theo lối của người làm việc miễn cưỡng, hoặc chỉ làm vừa đủ để chu toàn phận sự của mình.
Các con rất thân mến, trong công việc giáo dục lâu dài của cha, biết bao lần cha đã phải tâm niệm về chân lý cao cả này : bực tức thì bao giờ cũng dễ hơn là nhẫn nại, doạ nạt một đứa trẻ thì dễ hơn là thu phục nó. Cha còn dám nói thêm rằng : thường chúng ta dễ theo tính kiêu căng và nóng nảy mà trừng phạt những em bướng bỉnh, hơn là lấy lòng cương nghị và hiền từ mà sửa dạy và chịu đựng chúng. Lòng bác ái mà cha xin chúng con chính là đức ái mà thánh Phao-lô đã dành cho các tín hữu mới trở lại đạo Chúa. Đức ái này đã khiến thánh nhân phải nhiều phen khóc lóc van nài khi thấy họ ít vâng lời và không đáp lại lòng nhiệt thành của người.
Khi sửa phạt, thật khó mà giữ được bình tĩnh. Nhưng đó lại là điều tối cần để không ai có thể nghĩ rằng ta làm thế vì muốn thị uy hay trút cơn nóng giận.
Hãy coi các trẻ nhỏ dưới quyền chúng ta như là con cái. Hãy dấn thân phục vụ chúng theo gương Chúa Giê-su. Người đến không phải để ra lệnh nhưng để vâng phục. Các con phải cảm thấy xấu hổ khi thấy mình lộ vẻ thống trị ; và nếu có thống trị thì cũng chỉ là để phục vụ đắc lực hơn mà thôi. Chúa Giê-su đã cư xử như thế với các Tông Đồ. Người chịu đựng sự dốt nát, thô kệch, và cả lòng trung thành yếu kém của các ông nữa. Rồi khi đối xử với các tội nhân cách nhân hậu và thân mật, Người đã làm cho lắm kẻ phải ngạc nhiên, nhiều người khó chịu, nhưng cũng khiến cho biết bao người hy vọng được Thiên Chúa thứ tha. Vì thế, Đức Giê-su bảo ta hãy học nơi Người để biết sống hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Bởi vì trẻ em là con cái chúng ta, nên khi phải sửa trị lỗi lầm của chúng, ta phải tránh mọi sự nóng giận, hay ít ra phải nén lòng tới độ xem ra đã hoàn toàn dập tắt được cơn nóng giận rồi. Tuyệt đối không được để cho cõi lòng sôi sục, không được có khoé nhìn khinh bỉ, không được phép dùng lời ăn tiếng nói hạ nhục một ai. Nhưng ta hãy cứ cảm thông lúc này và hy vọng vào tương lai. Như vậy, các con mới là những người cha đích thực, và sửa dạy chúng thật sự.
Trong những trường hợp trầm trọng, ta nên khiêm hạ nài xin Thiên Chúa, hơn là tuôn ra những lời lẽ vừa khiến cho người nghe phật lòng, lại vừa không ích lợi gì cho kẻ phạm lỗi.
Các con hãy nhớ rằng giáo dục là công việc của tâm hồn, nơi chỉ có Thiên Chúa làm chủ. Thế nên ta không thể đạt được gì nếu Thiên Chúa không dạy ta nghệ thuật và không trao cho ta bí quyết giáo dục.
Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến. Hãy vun trồng tâm tình kính sợ Thiên Chúa. Như thế, ta có thể dễ dàng mở được cánh cửa của bao tâm hồn và liên kết lại với chúng ta mà ca hát, ngợi khen và chúc tụng Đấng đã muốn trở nên mẫu mực của chúng ta, đường đi của chúng ta và gương lành cho chúng ta trong mọi sự, đặc biệt trong việc giáo dục thanh thiếu niên.
XNgười ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người chạm tay vào chúng ; nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông :
Đ“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.
XAi tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.”
Đ“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.
Lạy Chúa, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh một người cha và một bậc thầy của giới thanh thiếu niên là thánh Gio-an Bốt-cô linh mục. Xin Chúa cũng đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con biết phụng sự một mình Chúa và lo cho anh em được cứu độ. Chúng con cầu xin
https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=873
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 11, 1-2. 8-19
"Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng Sáng Lập".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt. Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac, và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập. Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.
Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì. Nhờ đức tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75
Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68a).
Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.
2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài. - Ðáp.
3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Ngài cho chúng tôi được khỏi sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng tôi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh
của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 35-41
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta
hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở
dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo
Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi
sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức
Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến
sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng
đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao
các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh
hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng
lệnh Người?"
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô chỗi dậy
Hôm nay Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này vẫn được tiếp tục ở chung phụng vụ Lời Chúa hôm nay, cách riêng là bài Phúc Âm, qua sự kiện Người dẹp yên bão tố.
Thật vậy, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này đã tỏ mình ra qua sự kiện dẹp yên bão tố để cứu các môn đệ của Người, thành phần yếu đức tin cần phải mạnh tin hơn nhờ chứng kiến thấy quyền năng của Người: "Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: 'Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?'"
Căn cứ vào sự kiện xẩy ra được Phúc Âm hôm nay thuật lại là "chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'" chúng ta thấy quả thực các môn đệ đáng bị Thày của các vị quở trách: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Lời quở trách này của Người như thể Người muốn nói cùng các vị rằng: Tại sao các con lại cuống lên và quá hoảng loạn như thế. Chính Thày đang ở bên các con và ở cùng các con mà các con còn sợ và vẫn sợ hay sao. Các con không nhớ rằng Thày đã từng tỏ quyền năng thần linh của Thày ra bằng cách chữa lành đủ thứ bệnh nạn tật nguyền, thậm chí trừ được cả quyền lực của ngụy thần ma quỉ.
Phải, chắc chắn các môn đệ của Người không chối cãi được quyền năng của Thày trong việc Người chữa lành và trừ quỉ, nhưng còn bão tố dữ dội khủng khiếp trong thiên nhiên như lần này thì các vị mới gặp lần đầu tiên, nên không biết quyền năng của Thày các vị ra sao và tới đâu, liệu có thể làm chủ nổi sức mạnh cuồng phong kinh hoàng bấy giờ hay chăng thì chưa thấy, do đó để chắc ăn các vị cần phải "đánh thức Người đậy mà nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'"
Đúng là cơn bão tố quá dữ dội đến độ đã làm cho các môn đệ trở nên hoảng loạn, thậm chí các vị không còn bình tĩnh để nghĩ được rằng tại sao Thày của các vị có thể ngủ say đến thế, đến độ "những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước" mà Thày lại cứ "dựa gối mà ngủ ở đằng lái" được là làm sao? Các vị đang hết sức chống chọi với bão tố mà còn có thể bị chết thì chẳng lẽ Thày ngủ như vậy mà thoát chết được hay sao??
Tuy nhiên, dầu sao cũng nhờ tình trạng quá yếu kém đức tin của các vị mà Chúa Kitô được dịp tỏ quyền năng của Người nơi cả thiên nhiên tạo vật nữa, chứ không phải chỉ nơi loài người hay nơi ma quỉ mà thôi. Thiên nhiên tạo vật sở dĩ xẩy ra những thiên tai cũng do bởi tội lỗi của loài người, như bệnh hoạn tật nguyền cũng bởi nguyên tội, bị quỉ ám cũng bởi nguyên tội. Là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người cứu độ con người chẳng những phần hồn mà còn phần xác của họ nữa.
Chỉ vào lúc con người cảm thấy hoàn toàn bất lực, cảm thấy bất khả cứu vãn, Thiên Chúa thường mới lợi dụng để tỏ mình ra, nhờ đó đức tin của họ được gia tăng trong đời sống trần gian này và Người được họ nhận biết. Bởi thế, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: 'Hãy im đi, hãy lặng đi'. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ".
"Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý"
chẳng những nơi quyền năng của Người trong vũ trụ này, bằng việc dẹp yên
bão tố, mà còn nơi cả lòng người nữa, ở chỗ làm cho họ tin vào Người,
như trình thuật của bài Phúc Âm hôm nay. Bởi thế, chỉ có những ai tin
vào Người, khi Người tỏ mình ra cho họ, mới thấy được thực sự nhận ra
vị mà thắc mắc
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Với đức tin được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tạo nên nơi họ để nhờ đó mà họ tin vào "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này, để rồi qua "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" ấy, họ tin vào Thiên Chúa mà "Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài" nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", như câu họa chung của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy, ở chỗ, như những gì được thân phụ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã cảm nhận trong Ca Vịnh Chúc Tụng Chúa của ông ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa.
2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài.
3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Ngài cho chúng tôi được khỏi sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng tôi.