SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

M
ùa Thường Niên Tuần IV Năm C (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (trong tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật

 

Năm 2025 Lễ Đức Mẹ Dâng Con 2/2 được cử hành vào Chúa Nhật IV Thường Niên này

 

Ngày 2 tháng 2

DÂNG CHÚA GIÊ-SU TRONG ĐỀN THÁNH

lễ kính

Tiểu sử 
Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Ki-tô gặp gỡ dân thánh nơi con người cụ già Si-mê-on, Đức Ma-ri-a được thanh tẩy theo luật Mô-sê, lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.

Phụng Vụ Giờ Kinh

(Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ)

Hồng ân Chúa Thánh Thần vừa thúc đẩy,
Si-mê-on vội vã tiến lên đền.
Ông cụ già được diễm phúc vô biên
Gặp gỡ Chúa Hài Nhi, liền bồng ẵm !

Lạy Đức Ki-tô, thiều quang xán lạn,
Chúc tụng Ngài là ánh sáng thiên thu,
Đến xua tan màn đêm tối mịt mù,
Khắp thiên hạ bừng lên ngày sáng chói.

Đây Cứu Chúa, Đấng ở cùng nhân loại
Đã bước vào đền thánh tiến dâng Cha
Lễ hy sinh là Thánh Thể chói loà :
Nhân thế rõ lòng Cha yêu trọn vẹn.

Lạy Đức Ki-tô, thiều quang bất biến,
Tán dương Ngài là Ánh Sáng muôn dân,
Vị Cứu Tinh đem lửa xuống cõi trần,
Ngài thắp sáng niềm tin trong vũ trụ.

Một ngày mới bừng soi lòng ngôn sứ :
Chính mắt ông được thấy Đấng cứu đời,
Miệng khấn rằng : xin cho kẻ bề tôi,
Được nhắm mắt lìa đời, lòng thanh thản.

Hỡi Ánh Sáng khởi nguyên từ Ánh Sáng,
Hỡi Mặt Trời công chính toả vinh quang,
Chúng con mong đạt tới cõi thiên đàng
Và chung hưởng thánh nhan Ngài muôn thuở.

Đức Ki-tô là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en, ta hãy tin tưởng thưa với Người :

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Vì muốn tuân giữ luật Mô-sê, Chúa đã để cho Đức Mẹ và thánh Giu-se đem Chúa vào đền thờ dâng lên Chúa Cha, - xin dạy chúng con cũng biết cùng với Chúa dâng xác hồn khi Giáo Hội cử hành thánh lễ.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Khi ông Si-mê-on bồng ẵm Chúa trên tay, chính là lúc Chúa thân hành tìm đến với dân Chúa, - xin dạy chúng con cũng biết tìm đến với anh em.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Chúa đã cho nữ ngôn sứ An-na nhận ra Chúa là Đấng muôn dân trông đợi, - xin dạy chúng con biết cách nói về Chúa.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Chúa đã vui lòng chấp nhận thành dấu hiệu cho người đời chống báng, - xin cho muôn dân nhận biết Chúa là Đấng Cứu Độ.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch, hầu xứng đáng dâng mình trước Thánh Nhan. Chúng con cầu xin

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4

"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".

Bài trích sách Tiên tri Malakhi.

Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10

Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)

Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.

3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp. 

Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18

"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".

Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Lc 2,32

Alleluia, alleluia! - Ánh sáng đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]

"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa". 

[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]

Ðó là lời Chúa.


Grupos de Jesús – Apresentação do Senhor – A (Lucas 2,22-40) - Grupos de  Jesús - thaiestimate.com

Chúng Ta Hãy Nhận Lấy Ánh Sáng Đời Đời Rạng Chiếu

(St Sophronius, bishop, Orat 3 de Hypapante 6, 7: PG 87, 3, 3291, 3293)
 

Để tôn vinh mầu nhiệm thần linh chúng ta cử hành hôm nay đây, tất cả chúng ta hãy mau mắn đến gặp gỡ Chúa Kitô. Mọi người phải hăng hái nhập vào đoàn kiệu và cầm ánh sáng.

Những ngọn nến sáng của chúng ta là dấu hiệu tỏ cho thấy ánh quang vinh thần linh của Đấng đến để đẩy lui bóng tối tăm sự dữ, và để làm cho cả hoàn vũ này tỏa chiếu rạng ngời ánh sáng đời đời của Người. Những cây nến của chúng ta cũng chứng tỏ cho thấy linh hồn của chúng ta phải làm sao cho ngời sáng khi chúng ta đi nghênh đón Chúa Kitô.

Mẹ Thiên Chúa, Vị Trinh Nữ rất tinh tuyền, đã cầm trong đôi cánh tay của mình một thứ ánh sáng thật, và đã mang Người đến cho những ai còn nằm trong u tối. Cả chúng ta nữa cũng phải mang ánh sáng đến cho tất cả mọi người được thấy, và phải phản chiếu ánh quang của ánh sáng thật khi chúng ta mau mắn đến gặp gỡ Người.

Ánh sáng đã đến và đã chiếu tỏa trên một thế giới đầy những bóng tối tăm; Bình Minh từ trời cao đã đến viếng thăm chúng ta và chiếu sáng cho những ai còn sống trong tăm tối. Bởi thế, đây là lễ của chúng ta, và chúng ta đi theo đoàn rước cầm cây nến sáng để tỏ cho thấy rằng có một thứ ánh sáng đã chiếu rọi trên chúng ta, cũng như để tỏ cho thấy rằng vinh quang từ Người vẫn tỏa ra cho chúng ta. Bởi thế, tất cả chúng ta hãy mau mắn cùng nhau đến gặp Vị Thiên Chúa của chúng ta.

Ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi hết mọi người sinh vào trần gian. Hỡi anh em, tất cả chúng ta hãy nhờ ánh sáng này mà thắp sáng lên và tỏa chiếu ra. Tất cả chúng ta thông phần vào ánh quang rạng ngời của ánh sáng ấy, nhờ đó được tràn đầy ánh sáng để không ai còn ngồi trong tăm tối nữa. Chúng ta hãy chiếu soi cho chúng ta khi chúng ta cùng nhau đi với ông già Simêon đến gặp gỡ ánh sáng rạng ngời muôn thuở này. Hân hoan mừng rỡ với Simêon, chúng ta hãy hát lên bài thánh ca tạ ơn Thiên Chúa, Cha của ánh sáng, Đấng đã sai ánh sáng thật đến để đánh tan đi bóng tối tăm, cũng như để cho tất cả chúng ta được tham phần vào ánh rạng ngời của Người.

Qua con mắt của Simêon, chúng ta cũng được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa, ơn cứu độ Ngài đã sửa soạn cho tất cả mọi dân tộc và tỏ ra cho thấy như vinh quang của một dân tân Yến Duyên là chúng ta đây. Như Simêon đã ra đi khỏi những ràng buộc ở đời này khi ông được trông thấy Chúa Kitô thế nào, chúng ta cũng được giải thoát lập tức khỏi tình trạng tội lỗi cũ kỹ của mình như vậy.

Nhờ đức tin chúng ta cũng ẵm lấy Chúa Kitô, ơn cứu độ của Thiên Chúa là Cha, khi Người từ Bêlem đến với chúng ta. Trước kia chúng ta là Dân Ngoại, nay chúng ta trở thành dân Chúa. Mắt chúng ta đã được thấy Thiên Chúa nhập thể, và vì chúng ta đã thấy Người hiện diện giữa chúng ta, cũng như đã nhận lấy Người trong cánh tay của mình, mà chúng ta được gọi là một dân tân Yến Duyên. Chúng ta sẽ không bao giờ quên được sự hiện diện này; hằng năm chúng ta cử hành lễ này để tôn kính Người.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1332-1333)

 

ĐTC Gioan Phaolô II:

 

Bài 39 – Ngày 11/12/1996: Đức Trinh Nữ hiến dâng Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại

 

 

 

Chúa Nhật

 

(Lễ Đức Mẹ Dâng Con 2025 trên đây đã thay thế Chúa Nhật IV này rồi)


Lời Chúa


Bài Đọc I: Gr 1, 4-5, 17-19

"Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc".

Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.

Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Đừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi".

Đó là lời Chúa.

 

Đáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17

Đáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu. - Đáp.

2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác. - Đáp.

3) Bởi Ngài là Đấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Đáp.

4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài. - Đáp.

 

Bài Đọc II: 1 Cr 12, 31 - 13, 13 (bài dài)

"Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.

Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.

Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Đó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 13, 4-13

"Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.

Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Đó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có lời ban sự sống. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 4, 21-30

"Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"

Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'". Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".

Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

Đó là lời Chúa.


 


Suy niệm

 

Đức Kitô Ngôn Sứ


Hôm nay Chúa Nhật Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinhchủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục phản ảnh qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay, liên quan đến vai trò ngôn sứ của những vị được Thiên Chúa sai đến. 

Thật vậy, vai trò của bất cứ vị ngôn sứ nào được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến, không phải chỉ ở chỗ trung thực chuyển đạt tất cả những gì Thiên Chúa muốn loan báo hay nhắc nhở hoặc cảnh giác dân của Ngài, mà còn ở chỗ can trường làm chứng cho tính chất chân thật nơi những gì mình lãnh nhận để truyền đạt, và những gì mình truyền đạt một cách trung thực ấy, như kinh nghiệm lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho thấy, lại trở thành nguyên nhân tác hại chính bản thân của vị ngôn sứ, gây ra bởi thành phần được vị ngôn sứ truyền đạt không tin tưởng vào bản thân sứ giả truyền đạt và không chấp nhận sứ điệp được truyền đạt.  

Đúng thế, trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, 2 vị điển hình cho các vị ngôn sứ tiêu biểu này là Tiên Tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 và Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm.  

Trước hết, vì là một con người được Thiên Chúa tuyển chọn làm ngôn sứ của Ngài và thay Ngài mà tiên tri Giêrêmia đã được Thiên Chúa chăm sóc hết sức đặc biệt về thiêng liêng cho ngay từ khi chàng vừa mới xuất hiện trên đời này, như chính vị tiên tri đã cảm nhận trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi". 

Sau nữa, sở dĩ con người được Thiên Chúa tuyển chọn và chăm sóc hết sức đặc biệt cho ngay từ ban đầu như vậy là để con người này có thể thực thi vai trò ngôn sứ của mình một cách chân thực và hiệu năng, đúng như những gì Ngài muốn truyền đạt qua họ, như chính Ngài đã khẳng định trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc. Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi". 

Sau hết, biết được trách nhiệm nặng nề và khốn khó trở ngại trong sứ vụ làm ngôn sứ của mình và thay mình nơi một con người nào đó được mình tuyển chọn và sai đi, Thiên Chúa cũng báo trước và trấn an vị tiên tri này về một tương lai thê thảm của ngài, cũng ở trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay, như sau"Đừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cây cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi".  

Thực tế quả là đã xẩy ra đúng như thế, nhất là đối với vị tiên tri của tất cả tiên tri là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Vị Ngôn Sứ tối cao của Thiên Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy rõ điều ấy, cho thấy ngay thân phận bị chống đối và thù ghét của những ai được Thiên Chúa sai đến.  

Bình thường, theo kinh nghiệm thực tế, dân chúng cũng rất mong biết Thiên Chúa muốn gì nơi họ qua các vị tiên tri được Ngài sai đến với họ. Bởi thế, ngay từ đầu, dân chúng vẫn tỏ ra rất kính trọng và cảm phục các vị ngôn sứ, như thái độ của chung dân chúng (trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước) cũng như của dân làng Nazarét tỏ ra (Phúc Âm Chúa Nhật tuần này) ở trong hội đường, trước sự hiện diện đầy thẩm quyền của Đức Giêsu: 

"Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng... Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người" (Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước); "Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra" (Phúc Âm Chúa Nhật tuần này). 

Ấy thế mà, ngay sau đó, họ đã quay ra phản chống Người, bởi vì Người đã nói động đến họ, khi họ đang tỏ ra bàng hoàng sửng sốt và lạ lùng bỡ ngỡ về Người, một con người tầm thường trước đây ở trong khu làng của họ mà họ đã từng quen biết: "Người này không phải là con ông Giuse sao?", thế mà giờ đây bỗng nhiên và bỗng chốc lại trở thành nổi tiếng quá như vậy, đến độ "ứng nghiệm" cả những gì được Tiên Tri Isaia báo trước nữa. 

Có nghĩa là, trong chính tâm trạng đầy lạ lùng cảm phục của những người trong dân làng của Người vẫn có một cái gì đó trục trặc chưa thông suốt, chưa hoàn toàn mãn nguyện, cần được chữa trị bởi một vị tâm lý gia nào đó. Chúa Giêsu đã đóng vai tâm lý gia của họ bấy giờ, khi Người áp dụng tâm lý phổ quát trong dân gian là "bụt nhà không thiêng" ở nơi họ về Người, như được Bài Phúc Âm thuật lại thế này: 

"Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'. Người nói tiếp: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình'". 

Và sở dĩ Người trở thành dấu hiệu phản khắc và là mục tiêu cho người ta chống đối (xem Luca 2:34) như vậy là vì cái tâm lý "bụt nhà không thiêng" nơi họ đã làm thui chột mất niềm tin của họ, khiến họ không thể nhận ra thực tại thần linh, nhận ra "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét bề ngoài có vẻ thuần nhân tầm thường của Người trước mắt họ và theo kinh nghiệm đã từng sống với Người trước kia.  

Không có đức tin, con người không thể nào nhìn thấy thực tại thần linh, không thể cảm nghiệm được thực tại thần linh và không thể chấp nhận thực tại thần linh được tỏ ra cho họ và đang hiện diện giữa họ, như Chúa Giêsu ở trong hội đường Nazarét hôm ấy. Đó là lý do Chúa Giêsu đã không thể nào không đề cập đến đức tin của một số nhân vật tiêu biểu trong Cựu Ước, để giúp họ nhận biết mình hơn, nhờ đó họ được giải thoát và siêu thoát: 

"Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria". 

Câu này chính là ngòi lửa châm vào đám dầu thắc mắc đầy thành kiến của họ, và vì thế đã không tránh được một đám cháy bừng bừng hận thù bùng lên trong dân làng Nazarét của Người. Bởi vì, họ cảm thấy bị chạm tự ái dân tộc và đạo giáo nên không thể không vô cùng uất hận khi hiểu được lời một kẻ đã từng sống trong làng của mình trước đây, mới nổi tiếng một chút ở Carphanaum đã lên mặt khinh thường dân làng của mình, cho dân làng của mình có đức tin không bằng cả dân ngoại.

Tuy nhiên, tác dụng của những lời Người nói với họ ấy như "thuốc đắng dã tật" thì lại trở thành "làm ơn mắc oán". Ở chỗ, họ càng trở thành mù quáng hơn nữa, vì họ cho rằng Người đã công khai khinh bỉ họ, chê bai chỉ trích họ là thành phần không có đức tin hay yếu kém đức tin, trong khi Người chỉ là "con ông Giuse", một bác phó mộc nghèo hèn trong làng, mà lại muốn họ đối xử với Người như một trong những vị đại tiên tri ngày xưa là Elia hay Elisa. Bởi thế, không lạ gì, từ chỗ cảm tình đến chỗ phẫn uất, họ đã đi đến chỗ hết sức cực đoan như sau: 

"Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi".

 

 

Tâm trạng của dân làng Nazarét là như thế cũng chẳng có gì là lạ. Trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, qua Thư 1 gửi Giáo đoàn Corinto, đã chuẩn bệnh về thành phần như họ chẳng khác gì những đứa trẻ con, còn non nớt về kiến thức, chưa trưởng thành về đức tin, một đức tin cần phải trải qua một tiến trình từ non nớt đến trưởng thành: 


"Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết". 

 

Một khi đạt đến tầm mức trưởng thành của đức tin hay có được một đức tin chín mùi thì con người sẽ suy nghĩ, phát biểu, tác hành và phản ứng hoàn toàn khác hẳn, không còn tự nhiên nữa, không còn trẻ con nữa, mà là tràn đầy bác ái yêu thương, một thứ bác ái yêu thương là hoa trái của đức tin đồng thời cũng là tầm mức trọn hảo của đức tin, một đức bác ái được Thánh Phaolô diễn tả cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

 

"Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả. Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi". 

Phải, để làm cho chung con người, đặc biệt là dân làng của mình, quá quen với mình, có thể tiến tới chỗ tin vào mình, Chúa Giêsu không phải chỉ đóng vai trò tiên tri rao giảng cho họ chân lý: "Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất", mà còn phải đóng vai trò vương đế giải phóng nữa, một vương đế sẽ tồn tại đến muôn đời (xem Luca 1:32-33): "Bác ái không khi nào qua đi", như tình yêu bất diệt của Người, để Người có thể tỏ ra Người thực sự là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

Đó là lý do, trong khi "họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm", thì "Người rẽ qua giữa họ mà đi". Không phải vì Người sợ chết và muốn xa tránh họ, không muốn gần gũi với những kẻ mù quáng cực đoan ấy nữa, mà vì chưa đến giờ của Người - Người cần phải sống để cứu họ, để làm cho họ hoàn toàn nhận biết Người sau này, bằng chính Cuộc Vượt Qua của Người, một biến cố bất khả thiếu của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", một biến cố chứng thực Người chiến thắng tội lỗi cùng sự chết và thông ban cho nhân loại, trong đó có họ, "sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10).   

 

Chính khi Chúa Giêsu "lách qua giữa họ mà đi" cũng là cách Người tỏ mình ra là Đấng Thiên Sai, Đấng đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, và Đấng đã sai Người muốn Ngài chết cách nào thì Người muốn chết theo cách ấy, cách còn công khai hơn nữa, trước cả dân ngoại Roma lẫn Do Thái (bao gồm cả toàn dân và hội đồng đầu mục Do Thái), cách nhục nhã và khủng khiếp hơn nữa, như một tên đệ nhất tội nhân trên trần gian này. Tuy nhiên, sự kiện dân làng Nazarét của Người bách hại Người và muốn giết Người ngay từ khi Người mới xuất đầu lộ diện như thế cũng là dấu báo về cuộc khổ nạn và tử giá sau này của Người gây ra bởi chính dân Do Thái của Người bằng bàn tay dân ngoại. 

 

Sự kiện Người vừa xuất đầu lộ diện đã bị dân làng của mình bách hại và muốn sát hại còn cho thấy thân phận của Người là Vị Thiên Sai của dân Do Thái nữa. Ở chỗ, Đấng Thiên Sai là Con Thiên Chúa không phải là Đấng Thiên Sai về chính trị, đầy quyền lực, không ai thắng được, không ai dám làm gì, trái lại, chiến thắng quân thù và giải phóng dân mình, Đấng vì thế được toàn dân mộ mến và biết ơn tôn sùng. Trái lại, Đấng Thiên Sai Giêsu Nazarét đây phải là Đấng bao gồm cả thân phận bị bách hại và bị sát hại nữa. Bằng không, Người không phải là hay không còn là Đấng Thiên Sai thật sự của Thiên Chúa và do Thiên Chúa sai đến nữa. 

 

Và đó là lý do Người đã không cho thần ô uế hay ma quỉ tuyên xưng "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Marco 1:24-25), hay "Ngài là Con Thiên Chúa" (Marco 3:11-12) là những gì liên quan đến thần tính của Người. Bởi vì, không phải Người sợ đụng chạm đến giáo quyền Do Thái và thành phần trí thức Do Thái, cho bằng lời tuyên xưng này chỉ là lời tuyên xưng của tạo vật, như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng đã làm chứng cho Người, tuy nhiên, chứng từ của tạo vật không mạnh bằng và có giá trị bằng chính chứng từ do chính Thiên Chúa thực hiện, được tỏ hiện qua việc Người làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người.  

 

Vả lại, lời tuyên xưng của các thần ô uế tuy chính xác nhưng vẫn không trọn vẹn, bởi lời tuyên xưng của chúng chỉ cho thấy một chiều về một Đấng Thiên Sai quyền năng trên chúng, chứ không cho thấy một Đấng Thiên Sai khổ giá xót thương, và như thế sẽ làm cho dân chúng hiểu lầm, cứ thế mà tin vào một Đấng Thiên Sai hoàn toàn không phải là "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) như Người là và như Người tỏ mình ra. Đối với cả thành phần bệnh nhân hay tật nhân được Người chữa lành cho cũng thế, Người vẫn cấm họ không được nói ra, như trường hợp nạn nhân phong hủi (xem Marco 1:44), hay ở trường hợp nạn nhân câm điếc (xem Marco 7:36), vì Người không phải chỉ có quyền chữa lành mà còn trở thành một nạn nhân khổ giá nữa. 


Chính vì Đấng Thiên Sai của dân Do Thái phải là một Đấng Thiên Sai khổ giá nữa mà bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những tâm tình chẳng những liên quan đến trường hợp của Tiên Tri Giêrêmia mà còn đến cả trường hợp của chính Chúa Giêsu nữa, vì cả hai đều là những vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến với dân của Người, nhưng thân phận của cả hai đều thê thảm giống nhau trong khi các vị thi hành sứ vụ truyền đạt sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa, một sứ điệp bao giờ cũng phản nghịch với bản tính tự nhiên và cảm nhận trần tục của thành phần cần phải nhận biết chân lý để được cứu độ: 


1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu.  

 

2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến lũy vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác.
 

3) Bởi Ngài là Đấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa. 


4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài. 


Ngày 2 tháng 2

DÂNG CHÚA GIÊ-SU TRONG ĐỀN THÁNH

lễ kính

Tiểu sử 
Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Ki-tô gặp gỡ dân thánh nơi con người cụ già Si-mê-on, Đức Ma-ri-a được thanh tẩy theo luật Mô-sê, lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.

Phụng Vụ Giờ Kinh

(Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ)

Hồng ân Chúa Thánh Thần vừa thúc đẩy,
Si-mê-on vội vã tiến lên đền.
Ông cụ già được diễm phúc vô biên
Gặp gỡ Chúa Hài Nhi, liền bồng ẵm !

Lạy Đức Ki-tô, thiều quang xán lạn,
Chúc tụng Ngài là ánh sáng thiên thu,
Đến xua tan màn đêm tối mịt mù,
Khắp thiên hạ bừng lên ngày sáng chói.

Đây Cứu Chúa, Đấng ở cùng nhân loại
Đã bước vào đền thánh tiến dâng Cha
Lễ hy sinh là Thánh Thể chói loà :
Nhân thế rõ lòng Cha yêu trọn vẹn.

Lạy Đức Ki-tô, thiều quang bất biến,
Tán dương Ngài là Ánh Sáng muôn dân,
Vị Cứu Tinh đem lửa xuống cõi trần,
Ngài thắp sáng niềm tin trong vũ trụ.

Một ngày mới bừng soi lòng ngôn sứ :
Chính mắt ông được thấy Đấng cứu đời,
Miệng khấn rằng : xin cho kẻ bề tôi,
Được nhắm mắt lìa đời, lòng thanh thản.

Hỡi Ánh Sáng khởi nguyên từ Ánh Sáng,
Hỡi Mặt Trời công chính toả vinh quang,
Chúng con mong đạt tới cõi thiên đàng
Và chung hưởng thánh nhan Ngài muôn thuở.

Đức Ki-tô là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en, ta hãy tin tưởng thưa với Người :

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Vì muốn tuân giữ luật Mô-sê, Chúa đã để cho Đức Mẹ và thánh Giu-se đem Chúa vào đền thờ dâng lên Chúa Cha, - xin dạy chúng con cũng biết cùng với Chúa dâng xác hồn khi Giáo Hội cử hành thánh lễ.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Khi ông Si-mê-on bồng ẵm Chúa trên tay, chính là lúc Chúa thân hành tìm đến với dân Chúa, - xin dạy chúng con cũng biết tìm đến với anh em.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Chúa đã cho nữ ngôn sứ An-na nhận ra Chúa là Đấng muôn dân trông đợi, - xin dạy chúng con biết cách nói về Chúa.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Chúa đã vui lòng chấp nhận thành dấu hiệu cho người đời chống báng, - xin cho muôn dân nhận biết Chúa là Đấng Cứu Độ.

Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch, hầu xứng đáng dâng mình trước Thánh Nhan. Chúng con cầu xin

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4

"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".

Bài trích sách Tiên tri Malakhi.

Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10

Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)

Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.

3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp. 

Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18

"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".

Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Lc 2,32

Alleluia, alleluia! - Ánh sáng đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]

"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa". 

[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]

Ðó là lời Chúa.


Grupos de Jesús – Apresentação do Senhor – A (Lucas 2,22-40) - Grupos de  Jesús - thaiestimate.com

Chúng Ta Hãy Nhận Lấy Ánh Sáng Đời Đời Rạng Chiếu

(St Sophronius, bishop, Orat 3 de Hypapante 6, 7: PG 87, 3, 3291, 3293)
 

Để tôn vinh mầu nhiệm thần linh chúng ta cử hành hôm nay đây, tất cả chúng ta hãy mau mắn đến gặp gỡ Chúa Kitô. Mọi người phải hăng hái nhập vào đoàn kiệu và cầm ánh sáng.

Những ngọn nến sáng của chúng ta là dấu hiệu tỏ cho thấy ánh quang vinh thần linh của Đấng đến để đẩy lui bóng tối tăm sự dữ, và để làm cho cả hoàn vũ này tỏa chiếu rạng ngời ánh sáng đời đời của Người. Những cây nến của chúng ta cũng chứng tỏ cho thấy linh hồn của chúng ta phải làm sao cho ngời sáng khi chúng ta đi nghênh đón Chúa Kitô.

Mẹ Thiên Chúa, Vị Trinh Nữ rất tinh tuyền, đã cầm trong đôi cánh tay của mình một thứ ánh sáng thật, và đã mang Người đến cho những ai còn nằm trong u tối. Cả chúng ta nữa cũng phải mang ánh sáng đến cho tất cả mọi người được thấy, và phải phản chiếu ánh quang của ánh sáng thật khi chúng ta mau mắn đến gặp gỡ Người.

Ánh sáng đã đến và đã chiếu tỏa trên một thế giới đầy những bóng tối tăm; Bình Minh từ trời cao đã đến viếng thăm chúng ta và chiếu sáng cho những ai còn sống trong tăm tối. Bởi thế, đây là lễ của chúng ta, và chúng ta đi theo đoàn rước cầm cây nến sáng để tỏ cho thấy rằng có một thứ ánh sáng đã chiếu rọi trên chúng ta, cũng như để tỏ cho thấy rằng vinh quang từ Người vẫn tỏa ra cho chúng ta. Bởi thế, tất cả chúng ta hãy mau mắn cùng nhau đến gặp Vị Thiên Chúa của chúng ta.

Ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi hết mọi người sinh vào trần gian. Hỡi anh em, tất cả chúng ta hãy nhờ ánh sáng này mà thắp sáng lên và tỏa chiếu ra. Tất cả chúng ta thông phần vào ánh quang rạng ngời của ánh sáng ấy, nhờ đó được tràn đầy ánh sáng để không ai còn ngồi trong tăm tối nữa. Chúng ta hãy chiếu soi cho chúng ta khi chúng ta cùng nhau đi với ông già Simêon đến gặp gỡ ánh sáng rạng ngời muôn thuở này. Hân hoan mừng rỡ với Simêon, chúng ta hãy hát lên bài thánh ca tạ ơn Thiên Chúa, Cha của ánh sáng, Đấng đã sai ánh sáng thật đến để đánh tan đi bóng tối tăm, cũng như để cho tất cả chúng ta được tham phần vào ánh rạng ngời của Người.

Qua con mắt của Simêon, chúng ta cũng được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa, ơn cứu độ Ngài đã sửa soạn cho tất cả mọi dân tộc và tỏ ra cho thấy như vinh quang của một dân tân Yến Duyên là chúng ta đây. Như Simêon đã ra đi khỏi những ràng buộc ở đời này khi ông được trông thấy Chúa Kitô thế nào, chúng ta cũng được giải thoát lập tức khỏi tình trạng tội lỗi cũ kỹ của mình như vậy.

Nhờ đức tin chúng ta cũng ẵm lấy Chúa Kitô, ơn cứu độ của Thiên Chúa là Cha, khi Người từ Bêlem đến với chúng ta. Trước kia chúng ta là Dân Ngoại, nay chúng ta trở thành dân Chúa. Mắt chúng ta đã được thấy Thiên Chúa nhập thể, và vì chúng ta đã thấy Người hiện diện giữa chúng ta, cũng như đã nhận lấy Người trong cánh tay của mình, mà chúng ta được gọi là một dân tân Yến Duyên. Chúng ta sẽ không bao giờ quên được sự hiện diện này; hằng năm chúng ta cử hành lễ này để tôn kính Người.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1332-1333)

 

ĐTC Gioan Phaolô II:

 

Bài 39 – Ngày 11/12/1996: Đức Trinh Nữ hiến dâng Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại

 

 

 



Thứ Hai


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I (Năm I): Dt 11, 32-40

"Nhờ đức tin, họ chiến thắng các vương quốc. Thiên Chúa dự liệu cho chúng ta một cái gì tốt hơn".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, tôi còn phải nói gì nữa? Tôi không có đủ thời giờ thuật lại về Gêđêon, Barac, Samson, Giephtê, Ðavít, Samuel và các tiên tri. Nhờ đức tin, họ chiến thắng các vương quốc, thực thi công bình, được hưởng lời hứa, bịt miệng sư tử, dập tắt hoả hào, thoát khỏi lưỡi gươm, chế ngự bệnh tật, hùng dũng trong trận chiến; đánh đuổi các đạo quân ngoại bang, làm cho những người chết sống lại để trao trả cho các phụ nữ của họ. Có những người đành chịu hành hạ, mà không muốn được giải thoát, hy vọng được phục sinh hoàn hảo hơn. Lại có những người đành chịu nhục nhã, đòn vọt, kể cả xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, cưa xẻ, thử thách, bị giết bằng gươm. Họ mặc áo da cừu da dê, lưu lạc khắp nơi, thiếu thốn mọi điều, bị áp bức, ngược đãi. Thế gian chẳng xứng với họ. Họ lang thang trong hoang địa, trên núi non, trong hang đá, dưới hầm đất. Và tất cả họ đều nhờ bằng chứng đức tin mà lãnh nhận lời hứa tốt lành, thế mà họ chưa được lãnh nhận điều đã hứa, là vì Thiên Chúa đã dự liệu cho chúng ta một cái gì tốt hơn, kẻo họ đạt đến hoàn hảo mà không có chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 30, 20. 21. 22. 23. 24.

Ðáp: Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa (c. 25).

Xướng: 1) Lạy Chúa, vĩ đại thay lòng nhân hậu Chúa, lòng nhân hậu Ngài dành để cho những kẻ kính sợ Ngài, lòng nhân hậu Ngài ban cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay trước mặt con cái người ta. - Ðáp.

2) Chúa che chở họ dưới bóng long nhan Ngài cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ trong lều trại của Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa, vì Ngài đã tỏ lòng nhân hậu với con, trong nơi thành trì kiên cố. - Ðáp.

4) Phần con, trong lúc gian truân, con đã nói: "Con bị loại ra khỏi long nhan Ngài rồi". Nhưng Chúa đã nghe lời con khẩn nguyện, khi con lên tiếng kêu cầu tới Chúa. - Ðáp.

5) Chư vị thánh nhân của Chúa, hãy mến yêu Ngài, Ngài gìn giữ những kẻ trung thành. Nhưng Ngài trả miếng thực là đầy đủ cho những ai sử sự kiêu căng. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 5, 1-20

"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.

Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.

Ðó là lời Chúa. 



Suy niệm

 

   

Đức Kitô Trừ Quỉ

  

Ngày Thứ Hai trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, quyền uy trừ quỉ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.

Đúng thế, nếu quỉ cả không thể nào đi trừ quỉ con, vì ma quỉ không thể nào tự chia rẽ nhau, như chính Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước, và nếu loài người vốn bị ma quỉ thống trị từ sau nguyên tội không ai có thể trừ quỉ, thì ai trừ được quỉ người đó chắc chắn phải từ Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn năng mà đến, hay là chính Thiên Chúa, như trường hợp của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, trong các người bị quỉ ám được bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại, chưa có một trường hợp nào đầy kinh hoàng và thật khiếp sợ như trường hợp này, một trường hợp được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, vừa quá dữ tợn, quá mãnh liệt và quá nhiều quỉ, chứng tỏ không một con người thuần túy nào có thể trừ quỉ ngoại trừ một mình Vị Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô:

"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy".

Sự kiện "một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra" và "người đó vẫn ở trong các mồ mả" (câu này bản dịch có thể bị hiểu lầm là người bị quỉ ám  bên trong các ngôi mộ, đúng hơn là "ẩn nấp ở giữa các ngôi mộ - the man had taken refuge among the tombs") cho thấy ma quỉ đồng nghĩa với chết chóc và gây ra chết chóc (xem Gioan 8:44), mà đã là người thì tự nhiên ai cũng sợ chết và bị chết về thể lý, không ai có thể thoát chết và làm chủ được sự chết, ngoại trừ Đấng từ cõi chết sống lại là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".

Cho dù vì kiêu ngạo ngay từ ban đầu mà đệ nhất thần trời là minh thần Luxiphe đã cùng với 1/3 thần trời trở thành ma quỉ (xem Khải Huyền 12:4,7-9), chúng sau đó đã tỏ ra biết mình, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thái độ của chúng tự động tỏ ra với Đấng quyền năng hơn chúng, dù Người còn ở đằng xa, và van xin với Người là Đấng mà chúng nhận biết là ai và đừng ra tay làm khốn chúng: "Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: 'Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi'". 

Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đến để cứu độ con người được dựng nên theo hình thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) khỏi tội lỗi và sự chết gây nên bởi ma quỉ ngay từ ban đầu, khỏi tình trạng con người đang bị nô lệ ma quỉ và bị ma quỉ thống trị, làm sao có thể làm theo ý muốn gian ác hại người của chúng. Bởi thế Người đã ra tay trừ chúng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". 

Tuy nhiên, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, trước khi chúng xuất ra, "Người hỏi nó: 'Tên ngươi là gì?' Nó thưa: 'Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm'. Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy". Nếu tên của một con quỉ ám người ấy là "cơ binh" thì có thể suy ra rằng

1- Ma quỉ là một tập thể hơn là từng cá nhân, (hoàn toàn khác hẳn với con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nhờ đó trở thành từng cá nhân được Ngài yêu thương), nên chúng không thể tách lìa nhau, "trừ khử nhau... chia rẽ nhau" (Marco 3:23-24); 

2- Ma quỉ là một quyền lực mãnh liệt, quyền lực tối tăm, quyền lực sự dữ, quyền lực chết chóc, không gì có thể thắng nổi, (như ở nơi trường hợp người bị chúng ám được diễn tả trong Bài Phúc Âm hôm nay), ngoi trừ quyền năng của một mình Thiên Chúa.

Ma quỉ chẳng những là một quyền năng nhưng tự bản chất chúng vẫn sợ đau khổ, vẫn sợ bị trừng phạt, bởi thế, cho dù tự mình là một quyền lực hủy hoại, chúng cũng đã đề nghị với Đấng trừ chúng, đúng hơn là xin cùng Đấng không thể nào không trừ chúng, cho chúng nhập vào đàn heo ở gần đó để chúng tự dùng quyền năng chết chóc của mình mà thực hiện một hành động "tự tử" qua đàn heo ấy, còn hơn bị một tay cao thủ hơn mình như Chúa Kitô ra tay hạ sát cho đỡ bị nhục nhã:

"Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: 'Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo'. Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối". 

Sự kiện đám quỉ xin nhập vào đàn heo đây dường như ám chỉ là ở nơi đâu vốn sống theo xu hướng về xác thịt, về đam mê nhục dục, về tham lam hưởng thụ, về những gì xấu ra tồi bại thấp hèn đều là những chỗ của ma quỉ và giành cho ma quỉ, những chỗ hết sức thuận lợi cho ma quỉ hoành hành hơn đâu hết, những chỗ ma quỉ là tác nhân mang lại chết chóc cho những tâm hồn quay cuồng theo cuộc sống buông thả như thế... 

Trường hợp của những con người sống băng hoại buông thả ấy có thể nói còn tệ hại và nguy hiểm hơn cả của trường hợp những ai bị quỉ ám nữa, vì người bị quỉ ám hoàn toàn xẩy ra ngoài ý muốn của họ, và họ không thể tự cứu mình cho đến khi được giải cứu bởi một quyền lực thần linh của Thiên Chúa. Họ thật là đáng thương và cần cứu. Một khi được cứu và tỉnh lại, họ trở thành những con người tốt hơn trước, như trường hợp nạn nhân đương sự trong Bài Phúc Âm hôm nay: 

"Kẻ trước kia bị quỉ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng... Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị qu ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: 'Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con'. Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục".

Về phía thành phần dân chúng nói chung và chủ nhân của đàn heo bị thiệt hại nói riêng: "họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng", đến độ, họ chẳng những không tỏ ra cảm phục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", như dân làng Samaria của người phụ nữ tội lỗi đã "tuốn ra gặp Người" mà còn "tin vào Người" nữa (xem Gioan 4:30,39), và mừng cho nạn nhân bị quỉ ám vốn là người trong làng của mình, mà họ lại còn có một thái độ hoàn toàn phản ngược, ở chỗ họ đã tỏ ra sợ hãi Chúa Kitô, như thể họ sợ hãi quyền năng trừ quỉ của Chúa, sợ hãi hành động bị trừ quỉ gây thiệt hại cho họ... 

Phải chăng đó là lý do ma quỉ đông như "đạo binh" đã thích thú ở vùng lầy bại hoại này, một vùng đầy những ma quỉ đông như cả một "đạo binh", một sào huyệt của ma quỉ nên chúng không muốn rời bỏ một nơi béo bở như vậy, và "nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy"? 

Và cũng phải chăng sau khi thoát khỏi cảnh bị ma quỉ khống chế ở miền này, nạn nhân được trừ quỉ không muốn ở lại một miền đất như sào huyệt của ma quỉ ấy nữa, mà chỉ muốn theo Đấng đã trừ qủi cho mình, theo Đấng đã giải thoát mình, một trường hợp duy nhất trong Phúc Âm liên quan đến nạn nhân trừ quỉ muốn theo Chúa Kitô sau khi được trừ quỉ??

Nhất là phải chăng Chúa Giêsu không chấp nhận lời xin rất chân thành và tốt lành hiếm có này của nạn nhân bị quỉ ám được Người giải thoát là vì Người muốn anh ta trở thành tông đồ của Người và cho Người ở ngay vùng đất của ma quỉ này, một vùng đất dân địa phương ở đấy không muốn thấy sự hiện diện cứu độ của Người, sợ hãi quyền năng giải thoát của Người, nhờ đó, nhờ sự hiện diện gián tiếp của Người qua chứng nhân sống động là anh ta mà ma quỉ không dám hoành hành miền đất ấy nữa. Anh ta trở thành như một ấn tín cứu độ của Người ở vùng này và cho vùng đất vốn là của ma quỉ và thuộc về ma quỉ mà chính anh ta đã từng là ngai tòa ngự trụ của chúng giữa vương quốc của chúng ở đấy???

Trong bài giảng cho Lễ Thứ Sáu 29/1/2016 tại Nhà Trọ Thánh Matta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh một lần nữa, trong nhiều lần khác, về tình trạng tội lỗi là những gì khả chấp còn băng hoại là những gì bất khả chấp, như trường hợp của dân làng sống ở "địa hạt Giêrasa" có thái độ sợ Chúa trên đây trong bài Phúc Âm hôm nay, khi ngài kết thúc bài giảng của mình bằng lời cầu nguyện như sau:

"Lạy Chúa, xin cứu chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi bị băng hoại. Ôi Chúa, vâng, chúng con là những tội nhân, thế nhưng không bao giờ trở thành băng hoại. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn này". 

Lời cầu nguyện này của Đức Thánh Cha Phanxicô là để kết thúc bài giảng liên quan đến Bài Phúc Âm trong ngày hôm ấy (Thứ Sáu tuần trước) về một Vua Đavít đi từ tội lỗi (ngoại tình với vợ người ta) đến băng hoại (lén lút sát hại người tôi trung của mình là chồng của một người vợ vì sợ mà ăn nằm với mình), và chính vì tội lỗi của vị vua được gọi là Thánh Vương Đavít này, cho dù vua đã tỏ ra thống hối, vua vẫn phải chịu tất cả mọi hậu quả bởi đó mà ra do chính Thiên Chúa ra tay sửa phạt vua, đúng như những gì Ngài phán qua miệng Tiên Tri Nathan trong Bài Đọc 1 Thứ Bảy tuần trước:

"Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa thanh thiên bạch nhật".

 

Ngày 03.02: Thánh ANSGARIÔ, Giám mục và Thánh BLASIÔ Giám mục Tử đạo

 

Thánh ANSGARIÔ

Giám mục, tông đồ các xứ Bắc Âu (801-865)

St. Ansgar Print - Portraits of Saints

Ansgariô (hay là Anskar theo Anh ngữ) đã trở thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là “cây lao của Thiên Chúa”. Ansgario gốc người Đức, sinh tại Picardia. Cha Ngài là một viên chức trong triều đình vua Charlemagne, đã gởi Ngài theo học tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu thiếu niên đã gặp được ở đó những bậc thầy có thế giá. Các môn học trần tục làm Ngài say mê đến độ nơi tâm trí Ngài ý nghĩa tôn giáo ngày một lạc phai. Nhưng một biến cố đã đánh động Ngài mạnh mẽ, nhà vua mà Ngài biết được là rất nổi danh nơi triều đình đã chết.

Cái chết đó cho Ngài thấy được tính cách hư không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục, Ngài cũng nhớ lại rằng: hồi nhỏ khi mất mẹ, trong một giấc mơ, Ngài thấy Đức Trinh Nữ Maria hứa sẻ bảo vệ Ngài luôn mãi, nếu biết giữ gìn đức tin và lòng mến. Sau cùng Ngài cảm thấy rằng: Chúa muốn mình làm tông đồ. Từ đó Ngài không ngừng tiến tới trong việc học hành cả về đạo lý lẫn việc đời, Ngài nhiệt thành làm tất cả những gì là tốt đẹp. Những tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc tới phiên Ngài phải dạy lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt, Ngài trở thành một trong những thủ lãnh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là Corbia-Nova, được thiết lập ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học, Ngài cũng đảm nhận việc giảng dậy cho dân chúng nữa.

Vào thời này, Harold là vua miền Nam Đan mạch, khi bọn phản loạn săn đuổi, đã xin trú ngụ tại triều đình vua Lu-y đặt tại Mayence. Ong đã trở lại đạo và lãnh nhận phép rửa. Khi trở về quê hương, ông đã xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở mình. Ebbon, giám mục Reims đã dấn thân trước hết, rồi một khi gần trở lại nước Pháp, Ngài đã chỉ định Ansgario. Ansgario lên đường với một tu sĩ khác nữa. Họ làm liều đi vào miền còn hoàn toàn ngoại giáo. Những người trẻ bị bắt làm nô lệ đã trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc tông đồ thật vất vả nhọc mệt. Các Ngài bị trục xuất. Các tu sĩ trở lại lãnh trách nhiệm.

Một tòa đại sứ Thụy Điển xin các thừa sai. Lần này Ansgariora đi với một tu sĩ người Corbia. Vì người bạn đường cũ đã chết. Khi đi nagng qua biển Baltique, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột hết và bị người Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà truyền giáo tới biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các Ngài đã thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các Ngài trở về Pháp. Nhà vua đã đặt Ansgario làm tổng giám mục Hambourg bao gồm miền Scandinavia (Bắc Âu) Ansgario đi Roma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức Gregôriô IV đã đặt Ngài làm đại diện tại cả Na-uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một nhà thờ chính tòa ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia.

Người ta thấy Ngài quỳ lạy dưới chân người nghèo và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong các miền lân cận bất kể những thủ địch hung ác. Khi ấy như một đám mây người Normandie đặt Hambourg vào vòng máu lửa, Ansgario chỉ còn là một kẻ lang thang sống vất vưởng. Vharles de Chauve đã chiếm một tu viện miền Flandre là nơi Ngài đã thiết lập một trường truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu lo, Ngài đã không hề đánh mất lòng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách hại bị xua đuổi. Xứ truyền giáo Thụy Điển lại vùng lên.

Một cộng đồng ở Constane đã đặt Ansgario làm giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch, thiết lập một trung tâm tôn gíao mới, cải hóa nhà vua.

Ansgario muốn hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa bằng việc tử đạo nhưng Ngài đã qua đời êm ái tại Brême năm 865. Cuộc tử đạo của Ngài chính là cuộc chiến kiên trì suốt đời với nhiều những thất bại, lại ít có những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh hùng giám mục lang thang này đã chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc Âu.


Thánh BLASIÔ 

Giám mục Tử đạo (…. – 316)

www.bluearmy.com/wp-content/uploads/2021/02/St-...

 

Có nhiều câu chuyện vây quanh thánh Blasiô. Ngài là giám mục Sêbasta, miền Armênia; Ngài hiến cả xác hồn cho dân chúng… nhất là dân nghèo, Ngài đã học nghề thuốc, nhưng không bao giờ chữa bệnh cho ai mà không xin Chúa giúp trước đã, dường như vị y sĩ vĩ đại này muốn nói rằng: “Tôi băng bó cho họ nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ”. Ngài rao giảng, day dỗ, nhưng không có bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời Ngài.

Năm 315, một cuộc bách hại bùng ra dưới triều đại vua Luciniô. Đức giám mục giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi để trốn thoát các kẻ thù địch, Ngài ẩn mình ở hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng rễ cây và nước lã. Thú rừng thân tình bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những con bệnh tật. Mỗi ngày một đông dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài đang cầu nguyện chúng lặng lẽ không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện xong. Khi đó Thánh nhân quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật mãn nguyện trở lại sa mạc.

Agricôla, quan cai trị Cappadecia tìm thú rừng sống trong các khu rừng gần Sêbasta, để xé các Kitô hữu. Đoàn người đi săn ngạc nhiên khi thấy cả bầy sói, gấu, sư tử trong một cái hang vây quanh một người, đang cầu nguyện. Họ vội về báo tin cho Agricôla và ông này đã truyền bắt vị tu rừng này.

Thấy binh sĩ của nhà vua. Blasiô bình thản nói :- Tôi đã sẵn sàng. Đêm qua Chúa hiện ra và nói với tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy sinh của tôi.

Trên đường Ngài đi qua, dân chúng tuốn đến, trong số ấy có cả các lương dân. Họ khóc lóc xin người chúc lành. Một người mẹ đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới chân Blasiô và nhìn trời bà la : – Lạy Chúa nhân từ, xin đừng bỏ qua lời cầu của tôi tớ Ngài. Xin hãy trả lại sức khỏe cho tạo vật bé bỏng của Ngài.

Blasiô cúi xuống đứa trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời cao đã nghe Ngài, và người mẹ hân hoan đón nhận lại đứa con tràn đầy sức sống.

Khi đức Giám mục xuất hiện, Agricôla đưa nhiều hứa hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng điều này đã luống công. Thánh nhân nói : – Tôi không sợ các cực hình Ngài đe dọa vì thân xác tôi nằm trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi thì không.

Ngài đã bị đánh đập tàn nhẫn và bị tống ngục. Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an ủi khích lệ và chữa lành cho họ. Ngài đã giải cứu cho một đứa trẻ gần ngộp thở vì mắc xương cá. Vì kỷ niệm này và cũng vì lời cầu nguyện sau cùng khi đưa cổ cho lý hình, thánh Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt để xin Ngài chữa lành các bệnh nhân đau cổ họng.

Những tường thuật về các phép lạ đi kèm với cái chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các giáo phụ ưa thích. Sau mỗi cuộc tra xét với một cực hình mới lại có một phép lạ đánh dấu cuộc trở lại ngay trong phòng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là phép lạ về ngẫu tượng. Các Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đã ném xuống hồ các thần tượng của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo. Blasiô cũng bị kết án dìm vào hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt nước, rồi Ngài mời các quan tòa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ thờ. Những người nhận lời bị chết chìm ngay.

Vị tử đạo vừa mới cho thấy vinh quang Thiên Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu cực hình, Ngài vâng lời ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài. Blasiô trước khi chết, đã nài xin Chúa tỏ lòng nhân từ với những ai nhờ lời Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.

Nguồn: daminhvn.net

 

 

Thứ Ba


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 1-4

"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đầu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28 và 30. 31-32

Ðáp: Lạy Chúa, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa (c. 27b).

Xướng: 1) Tôi sẽ làm trọn những lời khấn hứa của tôi, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.

2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa, bao kẻ nằm xuống bụi tro sẽ sấp mình trước thiên nhan. Và linh hồn tôi sẽ sống cho chính Chúa. - Ðáp.

3) Miêu duệ tôi sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.

   

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 5, 21-43

"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.

Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi "Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".

Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi!", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.

Ðó là lời Chúa.




 

Suy niệm



Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinhchủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng.

Thật thế, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đã tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay ở chỗ chữa lành cho một người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm và đã hồi sinh một bé gái 12 tuổi.

Trước hết là phép lạ chữa lành người đàn bà loạn huyết 12 năm:

"Có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành'. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: 'Ai đã chạm đến áo Ta?' Các môn đệ thưa Người rằng: 'Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi Ai chạm đến Ta?' Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: 'Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh'".

Sau nữa là phép lạ hồi sinh một bé gái 12 tuổi: 

"Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: 'Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?' Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: 'Ông đừng sợ, hãy cứ tin'. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: 'Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó'. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: 'Talitha, Koumi!', nghĩa là: 'Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!' Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn".

Theo bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm thì 2 phép lạ này bao giờ cũng đi liền với nhau, nhưng có cái lạ là con số 12 trùng hợp ở giữa hai nạn nhân nhận được phép lạ của Chúa Giêsu, rồi một điều nữa là phép lạ chữa lành cho nữ nạn nhân loạn huyết 12 năm đã kéo dài thời giờ khiến bé gái 12 tuổi "đang hấp hối" không kịp chữa lành khi còn sống như người đàn bà loạn huyết 12 năm. Ngoài ra, sự kiện "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía" khiến Người không thể đi nhanh hơn cũng là nguyên nhân chậm trễ khiến Chúa Giêsu không đến kịp lúc trước khi bé gái chết. 

Tuy nhiên, vì là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Chúa Giêsu vẫn có thể tỏ mình ra một cách hữu hiệu nhất và sáng tỏ nhất vào bất cứ lúc nào, tùy từng trường hợp của mỗi người cũng như của những ai liên hệ, miễn là làm sao để mang lại lợi ích thiêng liêng tối đa chẳng những cho chính nạn nhân đương sự mà còn cho chung cả cộng đồng của họ nữa. Phải chăng đó là lý do có con số trùng hợp 12 với 12: 12 x 12 = 144, hình ảnh vuông trọn của con số đông được tuyển chọn, bao gồm cả cựu ước (12 chi tộc dân Do Thái) lẫn tân ước (12 tông đồ của Giáo Hội), như được Sách Khải Huyền đề cập tới (21:17) về một Tân Thánh Đô Giêrusalem?

Về trường hợp của người đàn bà loạn huyết 12 năm, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra ở một "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía", nhờ đó, riêng người đàn bà bị bệnh loạn huyết có thể lợi dụng dịp may hiếm quí ấy mà tự động chạm đến gấu áo của Người hầu được chữa lành, bằng không, như những lần khác, Người thường xuống thuyền để tránh đám đông thì bà ấy chẳng bao giờ có thể chạm đến Người

Và mục đích Người cố ý lên tiếng hỏi "ai đã đụng đến Tôi" một cách công khai giữa đám đông trong Bài Phúc Âm hôm nay, không phải là vì Người không biết kẻ nào đã động đến Người, hay Người muốn kẻ đụng đến Người tự thú; thực sự Người đã biết được rằng chính những gì từ Người xuất ra, (như tác dụng thần linh và ân sủng vẫn từ các Bí Tích Thánh hiện nay), và quyền lực chữa lành từ Người thông ra đó đã chữa lành con người chạm đến Người là ai; vì thế, mục đích Người lên tiếng là để cho mọi người hiện diện bấy giờ hãy lưu ý đến nạn nhân được Người chữa lành, đúng hơn đến yếu tố bà đã được chữa lành là chính "đức tin con đã chữa con" của bà, một đức tin có tác dụng chữa lành dù bề ngoài Người như thể không biết và hoàn toàn do đương sự tự động làm thôi.

Về trường hợp của bé gái 12 tuổi hấp hối và lìa đời, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra vào chính lúc em chết rồi mới rạng ngời hơn lúc em đang hấp hối, và mới đúng lúc hơn, bởi vì, lúc ấy mới là lúc có đông người thương cảm về cái chết mệnh yểu của một "lá xanh rụng xuống lá vàng trên cây" như em đến chia buồn với tang gia, đông hơn là lúc em mới hấp hối. 

Đối với Người, cái chết tự nhiên về phần xác của con người trên trần gian này, như trường hợp của bé gái 12 tuổi này, hay của Lazarô bạn thân của Người (xem Gioan 11:11), chỉ là một giấc ngủ mà thôi: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó", còn có thể thức dậy được, đúng hơn, còn có thể đánh thức dậy bằng quyền năng của Người, vì thân xác chết chóc của con người sau nguyên tội và bởi nguyên tội, nhờ quyền năng Vượt Qua của Người sau này, hay nhờ Thánh Thần của Người (xem Roma 8:11), "sẽ được sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 11:24).

Có một cái lạ trong bài Phúc Âm hôm nay về trường hợp của nữ nạn nhân bị chứng loạn huyết 12 năm, đó là sự kiện Chúa Giêsu cố ý muốn công khai hóa việc làm âm thầm kín đáo của bà để cho đám đông nhận biết quyền lực chữa lành xuất phát từ Người, trong khi đó, có những trường hợp, sau khi chữa lành xong, Người lại cấm không cho nạn nhân được chữa lành nói ra, như trường hợp của người phong hủi (xem Marco 1:44), hay trường hợp của nạn nhân câm điếc (xem Marco 7:36).

Sở dĩ Người cấm hai nạn nhân được chữa lành tiêu biểu này là vì Người không muốn tất cả sự thật về căn tính của Người bị hiểu lầm ở chỗ Người là Đấng Thiên Sai chỉ có quyền chữa lành thôi chứ không bao giờ tự bản thân Người lại trở thành nạn nhân còn đáng thương hơn cả thành phần như họ đã được Người chữa lành. Và sở dĩ Người lại cố ý cho mọi người biết thần lực xuất phát từ Người có thể chữa lành cho người nữ nạn nhân bị chứng loạn huyết 12 năm là vì nhu cầu đức tin của đám đông đi theo Người hơn là vì lợi ích của bản thân Người, một đức tin chân thành nhưng mãnh liệt họ cần phải có như người nữ bị loạn huyết 12 năm trong họ bấy giờ.

 

 


Thứ Tư


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 4-7. 11-15

"Chúa sửa dạy ai mà Người yêu mến".

Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.

Anh em thân mến, khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu và anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai mà Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con".

Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí, Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt.

Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy.

Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời.

Ðường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.

Anh em hãy sống hòa thuận với hết mọi người, hãy ăn ở thánh thiện, chẳng vậy không ai được nhìn thấy Thiên Chúa.

Anh em hãy coi chừng đừng ai để mất ơn Chúa, đừng để một rễ cay đắng nào mọc chồi gây xáo trộn và làm cho nhiều người bị nhiễm độc.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 102, 1-2, 13-14, 17-18a

Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại từ thuở nầy tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài. (17)

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể trong người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. - Ðáp.

2) Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Ngài. Ngài biết chúng tôi được luyện bằng chất gì, Ngài nhớ rằng tro bụi là chính chúng tôi! - Ðáp.

3) Nhưng lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại từ thuở nọ tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của Ngài. - Ðáp.

Alleluia: Ga 8,12

Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6,1-6

"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.

Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"

Và họ vấp phạm vì Người.

Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình".

Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin.

Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

Ðó là Lời Chúa. 



Suy niệm

 


   Đức Kitô Nazarét   


Phụng vụ lời Chúa, nhất là Bài Phúc Âm, cho Thứ Tư trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.

Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại, có nội dung phần nào giống phần đầu của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại và được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật IV đầu tuần này. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy ở cùng một địa điểm và cùng một thành phần thính giả: "Chúa Giêsu trở về quê nhà" như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nhưng khác với bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này ở chỗ không có đoạn Chúa Giêsu bị dân làng dẫn ra sườn núi để xô Người xuống cho chết như ở phần cuối của Bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi.

Tuy nhiên, cả hai bài Phúc Âm cho Chúa Nhật đầu tuần của Thánh ký Luca cũng như cho Thứ Tư hôm nay của Thánh ký Marco đều giống nhau ở phản ứng của dân chúng về Chúa Giêsu Kitô, ở chỗ, một đàng thì họ tỏ ra "sng sốt về giáo lý của Người", đàng khác, trái lại, chính vì họ cảm thấy lạ lùng "sửng sốt" như vậy về Người "nên nói rằng: 'Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?'

Thái độ ba phải của họ đã được Thánh ký Marco trong Bài Phúc Âm hôm nay kết luận là: "Và họ vấp phạm vì Người". "Vấp phạm" ở chỗ nào? Phải chăng ở chỗ họ đã phạm tội, ở chỗ họ đã tỏ ra uất hận với Người đến độ muốn sát hại Người như trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật đầu tuần?

Thế nhưng, phản ứng và hành động sát hại Chúa Giêsu Kitô đây chỉ xẩy ra sau khi Người thẳng thắn cho họ biết về tình trạng mù quáng và cứng lòng tin của họ mà thôi, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật cho biết, còn ở trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước khi Người cảnh giác họ rằng: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", thì Thánh ký Marcô đã khẳng định rằng "họ vấp phạm vì Người" rồi.

Vậy thì phải chăng không tin vào Chúa Kitô là một thái độ hay hành động hoặc trạng thái "vấp phạm". Theo nguyên tắc có thể hiểu như thế. Bởi vì, nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người..." (Gioan 1:9) thì một khi Người chưa xuất hiện thì tất cả nhân loại vẫn còn tiếp tục "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), tức là vẫn còn ở trong tình trạng "vấp phạm", cần phải được cứu độ, cần phải được giải cứu cho khỏi tình trạng bất hạnh vô phúc ấy.

Con người lại càng "vấp phạm" hơn nữa, khi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), nghĩa là khi Thiên Chúa đã "hóa thành nhục thể" nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho họ mà họ vẫn "không nhận biết Người" (Gioan 1:10) và vẫn "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11), như trường hợp điển hình là dân làng Nazarét của Người được Thánh ký Marco ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, cho dù con người không phạm một thứ tội nào đó thật sự được liệt kê trong 10 điều răn, nhưng một khi con người không chấp nhận sự thật được tỏ ra cho họ, qua tiếng lương tâm của họ, qua những chứng từ của Giáo Hội, qua những nguyên tắc luân lý bất dịch, qua Giáo Huấn chân thật của Giáo Hội v.v., thì ở một nghĩa nào đó, tự mình, họ đã ở trong tình trạng "vấp phạm" rồi vậy, như chính Chúa Kitô đã khẳng định về họ dưới đây

"Phán quyết luận phạt là thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian nhưng con người lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Hết mọi kẻ làm điều gian ác xấu xa đều ghét ánh sáng, không muốn đến gần ánh sáng bởi sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Gioan 3:19-20).

Thành phần không chấp nhận sự thật hay từ chối sự thật này sở dĩ là thành phần "vấp phạm" vì họ không muốn hoán cải đời sống, trái lại họ muốn tiếp tục sống trong tội lỗi, cho dù họ thực sự biết mình đang tội lỗi, đang sống một cách giả dối và gian ác, hoàn toàn bất khả chấp. Thậm chí chính bản thân đương sự phạm nhân cũng không thể chịu được, khi họ bị lương tâm cắn rứt hay khi họ bị đau khổ bởi tội lỗi do chính họ gây ra.

Nếu họ chấp nhận sự thật thì họ phải hoán cải. Mà hoán cải thì mất tự do phạm tội. Bởi thế, họ không ngừng trốn tránh sự thật, không nương tay đàn áp sự thật và sát hại sự thật là chính những gì giải phóng họ (xem Gioan 8:32). Điển hình và thực tế nhất là trường hợp của những con người luôn trấn an lương tâm để cố tình lao đầu theo đam mê nhục dục và tham vọng lợi lộc điên cuồng của mình, bằng mọi giá, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho tha nhân. 

Với những con người cố tình sống trong tình trạng băng hoại thối nát ấy, như Thiên Chúa không hiện hữu, hay như Thiên Chúa đã chết, như không có đời sau, như chỉ có thiên đường trần thế, như tử thi chết 4 ngày như vậy, cho dù Chúa Giêsu vẫn có thể hồi sinh như Lazarô, nhưng có những trường hợp "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này chỉ còn biết "khóc" (xem Gioan 11:39,35; Luca 19:41) mà thôi. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết lại ở chỗ: 

"Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy". 

Đúng thế, đa số thành phần dân làng ở Nazarét có "vấp phạm vì Người" chăng nữa, Người đã chẳng những không chán nản hay thất vọng, trái lại, càng vì thế Người càng phải nỗ lực rao giảng hơn nữa, ở chỗ: "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy", chẳng những để ngăn chặn tình trạng băng hoại như ở Nazarét mà còn để cứu độ những con người đáng thương khác, thật sự lầm lạc khác. 

 

 

Ngày 5 tháng 2

Thánh A-ga-ta, trinh nữ, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

A-ga-ta là một thiếu nữ quê ở Xi-xi-li-a. Chị đã chịu tử đạo ở Ca-ta-na, vào thời hoàng đế Đê-xi-ô bách hại đạo (năm 251).

Đồng bào của chị vẫn tin tưởng kêu cầu chị, nhất là những lúc núi lửa Ét-na hoạt động.

Rồi việc tôn kính chị được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh, cả ở phương Đông lẫn phương Tây.

Tay trinh nữ cầm đèn sáng chói,
Nàng bước vào tiệc cưới thiên thu,
Chính là hôn lễ Đức Vua,
Nước Trời hoan hỷ tung hô chúc mừng.

Nàng dự yến trong cung danh dự,
Sánh duyên cùng Thiên Tử quang vinh,
Chữ trinh xe kết chữ tình,
Nết na đức hạnh công trình bao năm.

Xin chỉ dạy cách ăn thói ở,
Lấy hồng ân che chở phù trì,
Mưu thù cho dẫu tinh vi,
Quyết tâm chống lại, gian nguy chẳng sờn.

Xin Đức Mẹ là gương trinh thục
Hằng cầu thay nguyện giúp chúng nhân,
Ơn thiêng Thánh Tử tuôn tràn,
Tha hương lãnh nhận muôn vàn đỡ nâng.

Lời vinh tụng, quỳ dâng lên Chúa
Đã ban cho trinh nữ thành công,
Triều thần thiên quốc một lòng,
Nghìn thu ca ngợi hát mừng Thánh Danh.

 

Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành,
đã trao ban thánh A-ga-ta làm quà tặng

Bài đọc 2 Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 5/2

Trích bài giảng của thánh Mê-tô-đi-ô Xi-cu-li, giám mục, về thánh nữ A-ga-ta.

Thưa anh chị em, những người đang nghe tôi nói, như anh chị em biết, hằng năm lễ kính nhớ thánh nữ A-ga-ta tử đạo quy tụ tất cả chúng ta về nơi đây. Thánh nữ là vị tử đạo thời xưa và đứng hàng đầu nhờ cuộc chiến đấu lừng lẫy của người. Nhưng người cũng là vị tử đạo thời nay, bởi vì giờ đây người như vẫn còn chiến thắng nhờ những phép lạ khác thường làm thành vòng hoa mỗi ngày kết trên đầu người và tô điểm cho người nên xinh đẹp.

Thánh nhân thật là trinh nữ, vì đã được sinh ra nhờ Lời của Thiên Chúa bất tử (Lời cũng vì tôi đã trải qua cái chết nơi thân xác của mình), và nhờ người Con hằng gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, như thánh Gio-an, nhà thần học nói : Những ai đón nhận Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.

Vậy người phụ nữ đồng trinh, người đã mời anh chị em đến tham dự tiệc thánh của chúng ta, người phụ nữ ấy đã đính hôn với một người duy nhất là Đức Ki-tô, nói theo kiểu thánh Phao-lô tông đồ về mối liên hệ vợ chồng.

Nhờ những hiểu biết đem lại ánh sáng, và nhờ máu thắm của Con Chiên đích thực của Thiên Chúa, người trinh nữ ấy đã làm cho cặp môi, đôi má và miệng lưỡi mình nên đỏ, nên tươi ; và nhờ tâm trí luôn tìm hiểu, người năng suy đi nghĩ lại và mang trong lòng cái chết của Đấng đã hết tình yêu mến mình, như thể Đấng ấy vừa mới đổ máu ra. Như thế, tấm áo người được mặc nhờ việc tuyên xưng đức tin, chẳng những mang dấu vết thắm đượm máu hồng không thể phai mờ của Đức Ki-tô, mà còn lưu truyền cho hậu thế kho tàng của đức đồng trinh đầy sức thuyết phục, với những màu sắc tươi đẹp, kèm theo các lời lẽ trào dâng như dòng suối không bao giờ cạn.

Vậy, thánh nữ thật là “tốt lành” vì thuộc về Thiên Chúa. Người được chính Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành trao ban làm quà tặng cho Đấng Hôn Phu, rồi cho chúng ta nhờ việc thông ban ơn lành ; nhờ đó, thánh nữ đem lại giá trị và ý nghĩa cho danh xưng A-ga-ta của mình.

Thật vậy, còn gì tốt lành hơn là sự thiện tuyệt đối ? Ai tìm được điều gì đáng ca ngợi hơn A-ga-ta ?

A-ga-ta tốt cả về danh, tốt cả về người. A-ga-ta nổi tiếng vì những việc lẫy lừng của mình, ngay danh xưng cũng cho thấy những việc lẫy lừng người đã thực hiện ; A-ga-ta lấy danh xưng mà lôi cuốn mọi người nô nức đến với mình ; người dùng gương sáng mà dạy dỗ cho mọi người cùng với mình tiến về sự thiện đích thực là một mình Thiên Chúa.

Lạy Chúa, thánh nữ A-ga-ta đã luôn luôn làm đẹp lòng Chúa, vì vừa sống cuộc đời kiên trinh, vừa can trường hy sinh tử đạo, xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu mà ban cho chúng con được ơn tha thứ. Chúng con cầu xin

Tiểu Sử

Trong lịch sử Giáo Hội, vào các thế kỷ ban đầu, trong thời kỳ Giáo Hội còn bị đế quốc Roma bách hại và sát hại suốt 3 thế kỷ đầu, đã có một số vị tử đạo nữ đồng trinh như

Thánh Cecilia tử đạo vào năm 230 lúc mới 20 tuổi và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 22/11, hoặc

Thánh Catarina thành Alexandria Ai Cập, một triết gia, tử đạo năm 305 lúc mới 18 tuổi, và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 25/11, hay

thánh Anê 12 tuổi tử đạo năm 304 và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 21/1, hoặc

Thánh Lucia tử đạo năm 304 khi thánh nữ được 21 tuổi và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 13/11, hay

Thánh Agatha hôm nay 5/2, vị thánh tử đạo năm 251 khi mới được 20 tuổi. Có thể nói 5 vị nữ tử đạo này là Ngũ Long Công Chúa Nữ Trinh của Vua Trời Cao Cả Giêsu Kitô, trong đó có 4 vị được Giáo hội kính nhớ trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể I của mình, ở sau phần truyền phép và trước Kinh Lạy Cha, theo thứ tự (được liệt kê ngay sau 2 thánh nữ tử đạo không đồng trinh vào các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội khác là Felicia và Perpetua) đó là Thánh Agatha, Lucia, Anê, Cecilia v.v.

Thường các vị tử đạo nữ, chẳng những chịu những cực hình dã man khủng khiếp chẳng thua kém gì các vị thánh tử đạo nam, như 2 thánh phó tế Laurenso năm 258 ở Roma lễ kính ngài vào ngày 10/8, và Vinh Sơn năm 304 ở Tây Ban Nha lễ nhớ ngài vào ngày 22/1, mà còn có thể chịu cực hình hơn cả các thánh tử đạo nam nữa, nếu so sánh về thể lực giữa nam mạnh nữ yếu, các vị thánh nữ thậm chí còn bị một cực hình đặc biệt nữa, hoàn toàn không có ở nơi các vị thánh nam, đó là các vị thánh nữ đồng trinh còn bị bạo quyền nham hiểm ác độc bỏ vào ổ điểm, để cố ý làm cho các vị tử đạo nữ trẻ trung xinh đẹp trở nên nhơ nhớp về xác thịt, như Thánh Anê, Thánh Lucia, nhất là Thánh Agatha chịu cực hình thật là có thể nói là vô cùng dã man khủng khiếp chưa từng thấy.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, dẫn nhập

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Agata, theo nghĩa tiếng Hy Lạp “người tốt”, là một thiếu nữ Sicilien, sinh tại Catane, dưới chân núi Etna. Được tử đạo vào năm 251 trong thời bách hại của Dèce; việc tôn kính nữ thánh từ Sicile lan tràn cả Phương Đông (Constantinople) lẫn Phương Tây (Rôma, Milan, Ravenne) từ thế kỷ thứ V, được mừng vào ngày 05.02. Tại Rôma, có một thánh đường được dâng kính thánh nữ vào thế kỷ thứ V, được gọi là Saint-Agathe-des-Goths. Vào đầu thế kỷ thứ VI, Đức Giáo Hoàng Symmaque đã đưa việc tôn kính thánh nữ vào thành thánh và cung hiến một đại thánh đường trên đường Via Aurelia cho thánh nữ. Người ta cho rằng Đức Giáo Hoàng Grégoire Cả đã đưa tên thánh nữ vào Kinh Nguyện Thánh Thể Rôma; tên thánh nữ có trong các hạnh tử đạo Hy Lạp lẫn La Tinh.

Thánh nữ Agata được tôn kính cách đặc biệt tại Catane; dân thành phố này tin rằng thánh nữ đã làm nhiều phép lạ trong thời đất nước gặp khó khăn ; họ tin rằng nhờ lời cầu bầu của thánh nữ đã cứu được thành khỏi bị núi lửa Etna bùng nổ. Agata được xem như thánh quan thầy của các cô bảo mẫu, người làm chuông, làm đồ nữ trang...Ngài được kể vào các thánh Bảo Trợ, được kêu cầu khi người ta bị bệnh đau thận. Mỹ thuật trình bày thánh nữ cầm một cái dĩa trong tay, trên có đôi vú bị cắt.

2. Thông điệp và tính thời sự

Thánh nữ Agata biết làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng việc thánh hiến sự đồng trinh và sự can đảm trong cuộc tử đạo.

a. Theo truyền thuyết, ngay từ bé, Agata đã chọn con đường tận hiến trinh khiết, hoàn toàn tự do dâng hiến cho tình yêu Chúa Kitô. Để chống lại các đòi hỏi của tổng trấn ngoại giáo Quitinien mà thánh nữ bị bắt, bị hành hình đau khổ và bị giết chết.

Thánh Méthode, giáo chủ Constantinople (+ 487), trong bài giảng ngày lễ tử đạo của thánh nữ, đã nhấn mạnh đến sự thánh hiến của thánh Agata, “đính hôn với hôn phu duy nhất là Đức Kitô... thánh nữ suy niệm và luôn chiêm ngắm cái chết của hôn phu một cách say mê”. Tình yêu nồng cháy đã làm cho thánh nữ hạnh phúc, như tên của thánh nữ, chỉ vì Thiên Chúa là nguồn mọi điều tốt lành.

b. Trong thời bách hại của Dèce, rất nhiều người được tử đạo, nhưng cũng có nhiều người chối đạo. Sự can đảm của các chứng nhân đức tin trước các lý hình nhấn mạnh đến tính chất anh hùng của hy tế và gương mẫu của họ, đã giúp đỡ rất nhiều người Kitô hữu thêm vững vàng trong đức tin, như thánh nữ Agata, theo như Hạnh tử đạo của bà, “vui tươi và chiếu sáng, bước vào tù ngục như vào một bàn tiệc.”

Thánh Méthode khuyến khích các tín hữu của ngài chạy đến với nữ thánh tử đạo, “như đang chiến thắng trận chiến hiện tại, thánh nữ Agata mời gọi mọi người đến với Bà, dạy dỗ bằng mẫu gương của mình: mọi người hãy đến với bà, đến với sự tốt lành chân thật, không gì khác hơn là chính Thiên Chúa.”

Enzo Lodi (nguồn:tgpHaNoi)

https://www.kath-vietnamesen.de/05-02-thanh-agata-trinh-nu-tu-dao-le-nho/

Agatha.jpg

ÐÓA SEN TẮM MÁU ĐÀO

            Mặc dầu đảo Sicilia là sào huyệt của Mafia và là trung tâm chuyển vận bạch phiến vào Mỹ, nhưng đó là quê hương của thánh Agata, một trinh nữ tử đạo năm 251 để bảo toàn tiết hạnh và chứng tỏ lòng trung kiên với Ðức Tin Kitô Giáo.

            Agata thuộc dòng dõi giầu  sang.  Con nhà  quý phái, được giáo dục sống đời đạo hạnh theo Ðức Tin chân chính.  Chúa lại ban cho nàng một nhan sắc tuyệt vời, dễ làm xiêu lòng người.  Ðang thời bách hại Kitô Giáo, bạo vương Ðêciô ra lệnh cho Quintianô, nơi quan trấn Sicilia, phải triệt hạ tận gốc rễ tàn tích Kitô Giáo tại đây.  Vừa đến Catania, nơi sinh trưởng của Agata, Quintianô liền nghe danh nàng.  Quan trấn hạ lệnh bắt Agata và điệu nàng vào đối chất với mình.  Vừa giáp mặt Agata, nhan sắc của nàng đã làm "phiêu hồn, lạc phách" vị quan trấn mang nhiều dục vọng đê hèn, đến nỗi thay vì chất vấn về đạo giáo, Quintianô đã đường mật dụ dỗ nàng phạm tội không chút thẹn thuồng! Nhưng ẩn sau vẻ đẹp của thân xác, Agata còn trang điểm đức trinh trong thiên thần, nàng thà chết còn hơn phạm tội mất lòng Chúa.  Thấy chiêu bài dụ dỗ không kết quả, Quintianô liền đổi giọng đe loi hăm dọa.  Nhưng Agata vẫn chai lì gan dạ, nhất định không chiều ý kẻ cuồng si.  Ðổi yêu thành ghét, Quintianô ra lệnh quẳng nàng vào "lầu xanh", nơi đây mụ tú bà Aphrôdisia cùng với mấy người con gái của bà chuyên nghề mãi dâm, ngày đêm thuyết phục nàng bằng lời nói cũng như hành động để đi theo con đường tội lỗi của họ.

            Suốt 30 ngày dài, Agata phải miễn cưỡng sống giữa căn nhà tội lỗi.  Ðây là một thử thách lớn lao đối với nàng! Manh tâm của Quintianô là lợi dụng môi trường lầu xanh để phá hủy đức Khiết Trinh của Agata và dẫn nàng tới chỗ chối bỏ Ðức tin. Nhưng ông lầm! Người trinh nữ được trang bị bằng sự  Chúa hiện diện ở mọi nơi, bằng lời cầu nguyện và bằng chay tịnh đã anh dũng chống lại mọi mưu chước kẻ dữ.  Chúa đã ban cho nàng sức mạnh chiến thắng kể thù.

            Sau 30 ngày kiên quyết không lay chuyển, Agata bị điệu tới trước mặt quan trấn, ông nói với nàng:

            -Cô là dòng dõi sang trọng mà không xấu hổ khi hạ mình sống đời đê hèn của  Kitô hữu ư?

            Agata nhanh nhẹn trả lời:

            -Sự khiêm hèn và đê tiện của người Kitô hữu còn đáng giá hơn sự giầu sang, niềm kiêu hãnh và tính tự phụ của các bậc quân vương!

            Những lời đanh thép đó đã khêu cơn giận của Quintianô, ông hạ lệnh vả mặt nàng.  Những cái tát, những cú đấm "thôi sơn" của bọn lính khiến máu hồng trào ra nơi miệng và lỗ mũi.  Dòng máu trinh trong của người trinh nữ khởi sự làm chứng nhân cho bạn Tình Giêsu.  Sau đó Agata bị tống giam trong ngục với lời đe dọa nếu không chối bỏ Ðức Tin, nàng sẽ phãi đương đầu với mọi tra tấn cực hình.

            Lời đe loi đó ứng nghiệm ngay ngày hôm sau.  Quintianô ra lệnh căng thây nàng.  Toàn thân bị hành hình bằng những thanh sắt nung đỏ. Ngực nàng bị những móc sắt xé rách tan tành.  Trước cực hình dã man đó, Agata can đảm nói với Quintianô:

            -Hỡi quan độc ác, ông đã bú sữa từ ngực thân mẫu , ông không xấu hổ khi xé rách cặp ngực của người trinh nữ không một chút xót thương ư?

            Nhưng Quitianô chẳng thẹn thuồng mà cũng chẳng xót thương.  Ông ra lệnh đưa nàng về ngục rồi bỏ nàng chềt đói tại đó.

            Ðêm ấy, thánh Phêrô Tông Ðồ hiện ra trong ngục và chữa lành các vết thương trên thân xác liễu yếu của Agata.  Thánh Tông Ðồ khen nàng đã can đảm chịu khó vì Chúa Kitô.  Nhưng cực hình khác đang chờ đón nàng.  Agata cảm thấy niềm an ủi vô bờ tràn ngập tâm can, nàng lớn tiếng chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa, nàng hiến thân chịu mọi cực hình vì yêu Ngài.

            Bốn hôm sau, Agata bị điệu ra trước mặt quan trấn, ông này vô cùng bỡ ngỡ khi thấy mọi vết thương trên thân xác nàng đã được chửa lành.  Agata nói với ông:

            -Ông hãy xem và hãy nhìn nhận sự toàn năng của Thiên Chúa, Ðấng tôi thờ kính! Ngài hồi phục bộ ngực tôi!  Tại sao ông lại muốn tôi chối bỏ ngài? Cho dù sự tra tấn dữ tợn nhất, cho dù cái chết cay cực nhất cũng không thể phân lìa tôi ra khỏi ngài.

            Nhưng lòng dạ Quintianô đã ra chai đá, những lời của Agata càng khiêu khích cơn giận của ông, ông liền ra lệnh rắc đổ than hồng và mảnh sành nhọn trên mặt đất, rồi quân lính lăn tròn thân xác trần trụi của nàng trên đó.  Toàn thân Agata bị cháy xém và rách nát, nhưng tâm hồn nàng can đảm lạ thường! Các người hiện diện mủi lòng trước gương can trường của người trinh nữ liễu yếu đào tơ.

            Trước tội ác và sự cứng lòng của Quintianô, Chúa để xẩy ra một cơn động đất rung chuyển cả thành phố.  Hai người bạn thân nhất của quan tổng trấn bị đè bẹp dưới đống gạch đổ nát.  Dân cư trong thành hoang mang sợ hãi, họ cho rằng đây chính là hình phạt nhãn tiền do sự độc ác của Quintianô kéo xuống trên họ.  Vì sợ dân chúng nổi loạn,  quan tổng trấn truyền đem Agata về ngục.  Vừa tới ngục, nàng qùy gối rồi giang tay, ngước mắt lên trời cầu nguyện:

            -Lạy Chúa, Ngài bảo vệ con từ tuổi ấu thơ, Ngài cất khỏi con tình yêu thế tục và ban ân sủng để con chịu đựng mọi cực hình, xin lắng nghe lời van xin của tớ nữ trung kiên Ngài, và xin hãy đón nhận linh hồn con.

            Với những lời nguyện cầu đó, thân xác người trinh nữ ngã gục và linh hồn nàng bay về trời.

             Sau khi chết, thánh Agata đã làm nhiều phép lạ.  Phép lạ vĩ đại nhất là che chở thành Catania khỏi hiểm họa núi lửa Etna.  Dân thành tôn nhận Người làm thánh Bổn Mạng.  Mỗi lần núi lửa, dân thành Catania lại cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ.  Ðang khi giòng phún thạch chảy nóng tiến dần về phía thành, người ta long trọng cung nghinh tấm khăn đã che phủ xác thánh người, rồi giơ cao hướng về giòng phún thạch...  Lạ thay, chẳng những nó không tiến gần thêm, mà trái lại từ từ chẩy ngược về phía núi trước con mắt ngỡ ngàng của mọi người.  Chúa đã làm những phép lạ như thế để tôn vinh tớ nữ của ngài.  Tên của thánh nữ được nhắc đến trong Kinh Nguyện Thánh Thể I.  Hàng năm Giáo Hội mừng kính Người vào ngày mồng 5 tháng 2.

Lm Nguyễn Mạnh Thư, CRM

http://www.dongcong.net/CacThanh/TruyenCacThanh/Thang2/Agata.htm

 

 

Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 18-19. 21-24

"Anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Không phải anh em tiến tới một ngọn núi có thể sờ được, hay là lửa cháy, gió lốc, mây mù, bão táp, hoặc tiếng kèn và tiếng gầm thét, khiến cho người nghe xin tha đừng nói với họ lời nào nữa. Cảnh tượng thật hãi hùng, đến nỗi Môsê thốt lên: "Tôi đã kinh khiếp và run sợ". Trái lại, anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, tiến đến muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, và đến cùng Thiên Chúa, Ðấng phán xét mọi người, đến cùng các linh hồn những người công chính hoàn hảo, đến cùng Ðấng trung gian của giao ước mới là Ðức Giêsu, và đến cùng máu đã rảy khi giao ước lên tiếng còn mạnh thế hơn máu Abel.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 9. 10-11.

Ðáp: Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài (c. 10).

Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.

2) Núi Sion là cùng kiệt phương bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Ngài, tự chứng tỏ Ngài là an toàn chiến luỹ. - Ðáp.

3) Chúng tôi đã nhìn thấy, như đã nghe kể lại, trong thành trì của Chúa thiên binh, trong thành trì của Thiên Chúa chúng tôi: Thiên Chúa kiên thủ thành đó tới muôn đời. - Ðáp.

4) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống: Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 7-13

"Người bắt đầu sai các ông đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.

Ðó là lời Chúa. 

Image result for Mk 6, 7-13

Fourth Week in Ordinary Time Thursaday | Cappie's Stuff


Suy niệm

 

  

Đức Kitô sai đi    


Hôm nay, Thứ Năm trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục được tỏ hiện trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài đọc chính yếu cho phần phụng vụ Lời Chúa mỗi ngày.

Ở chỗ, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", trong sự kiện Người "gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi", "Người (đã) ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế", và quả thực cái "quyền trên các thần ô uếnày nơi các tông đồ được Người sai đi như thế đã thực sự có tác dụng: "Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân".

Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này không phải chỉ được tỏ hiện ở thành quả gặt hái được bởi các tông đồ, mà nhất là ở những gì các tông đồ thực hiện theo lời Người căn dặn các vị nữa, bằng không, cho dù các vị có quyền năng trừ quỉ đấy, quyền năng ấy cũng không có tác dụng gì hay chẳng tác dụng là bao nhiêu từ các vị, như sau này đã có lần các vị đã không trừ được quỉ (xem Marco 9:18,28-29), nếu các vị không sống theo tinh thần được Người chỉ bảo cặn kẽ kỹ càng trong Bài Phúc Âm hôm nay trước khi các vị lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo của các vị:

"Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áoNgười lại bảo: 'Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ'".  

Trong lời hướng dẫn sai đi này, các tông đồ thừa sai truyền giáo của Người cần phải tối thiểu có một tinh thần tin tưởng vào Đấng đã sai các vị, ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục và phó mặc hơn là cân đo.

Trước hết là tinh thần tin tưởng ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục: "đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo".

Truyền giáo là một công cuộc thần linh, ở chỗ truyền đạt thần linh để có thể hiệp thông thần linh, bởi thế nó không thể nào lệ thuộc vào phương tiện, cho dù là cần thiết, thậm chí cả những gì cần thiết mà có thiếu cũng vẫn có thể truyền giáo, vẫn càng đạt hiệu năng hơn, bởi tác nhân chính yếu của công cuộc và sứ vụ truyền giáo là Thánh Thần, Đấng hoàn thành mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha, và theo mẫu gương của Chúa Kitô là Đấng "cáo có hang, chim có tổ Con Người không có chỗ dựa đầu" (Mathêu 8:20; Luca 9:58).

Truyền giáo thực sự là việc rao giảng và loan truyền tin mừng cứu độ cho nhân loại, cụ thể nhất ở nơi các vị thừa sai dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới, từ thời các tông đồ trở đi, dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, theo lệnh truyền khẩn trương bất khả châm chước của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Mathêu 28:19-20; Marco 16:16); và cũng chính vì sứ mệnh truyền giáo gắn liền với bản chất của Giáo Hội này (xem Sắc Lệnh Truyền Giáo, 2), Giáo Hội mới đã được lãnh nhận "Thánh Thần là Đấng ban sự sống" từ Cha do Chúa Kitô sai xuống với Giáo Hội từ Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 1:8).

Bởi thế, kinh nghiệm hoạt động tông đồ cho thấy có thời chúng ta làm được những gì chúng ta yêu thích, những gì mong muốn, những gì chúng ta có thừa khả năng, những gì chúng ta đã mang lại dồi dào thành quả thiêng liêng cho nhiều người, và chính bản thân chúng ta cũng đã từng được nhiều người biết đến cùng cảm phục, khi chúng ta dấn thân phục vụ hăng say, với tư cách tham gia hay đóng vai trò thực hiện những việc tông đồ giáo dân của mình, trong các giáo xứ, cộng đoàn, hội đoàn, phong trào v.v. 

Thế nhưng, kinh nghiệm sống đạo cũng cho thấy không phải là không có trường hợp người tông đồ ấy lại bị người phối ngẫu của mình ngăn cản, hay bị lòng ganh tị cạnh tranh của những ai đồng hành tông đồ với mình và của mình tẩy chay loại trừ, hoặc bị liệt giường không thể làm gì được nữa v.v., chúng ta hãy yên tâm vui lòng tuân theo Thánh ý Chúa, vì chính lúc chúng ta không làm được những gì, chỉ là phương tiện hơn là cùng đích truyền giáo ấy nữa, lại chính là lúc chúng ta trở thành đắc lực nhất, bởi bấy giờ Thiên Chúa làm trong chúng ta qua niềm tin và sức chịu đựng của chúng ta.

Chúa Kitô cũng chỉ hoàn tất mọi sự của Người như Đấng đã sai Người mong muốn trên trần gian này một cách trọn vẹn và tối hậu không phải trong thời gian Người còn có thể đi đây đi đó rao giảng tin mừng, làm phép lạ, chữa lành và trừ quỉ, mà vào chính lúc Người kể như không còn nhúc nhích gì được nữa, trên thập tự giá ở Sọ Trường Canvê.

Sau nữa là tinh thần tin tưởng ở chỗ phó mặc hơn là cân đo: "Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Bởi vì, theo tự nhiên, con người, bao gồm cả thành phần thừa sai truyền giáo, thường lưu ý đến thành quả gặt hái được từ những gì mình làm và căn cứ vào đó để định lượng mức độ thành công hay thất bại của mình, của công việc mình làm, chứ không hay ít khi hoàn toàn chú trọng đến yếu tố chính yếu là ý muốn tối hậu của Thiên Chúa. 

Điển hình nhất là chính Chúa Giêsu Kitô, Người chỉ làm sao chu toàn ý của Đấng đã sai Người mà thôi, nghĩa là việc thành công hay thất bại của Người là ở chỗ Người có hoàn thành đúng như ý muốn của Đấng đã sai Người hay chăng, chứ không phải ở chỗ cứu được tất cả mọi linh hồn hay chăng, hay có bao nhiêu kẻ đã tin vào Người, bằng không thì Ngườđã hoàn toàn thảm bại trong công cuộc cứu chuộc loài người khi Người bị chết trên thập tự giá ở Đồi Canvê.

Thành phần không tin Người, "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11) thì Người không cần phải bận tâm phán xét họ, cho bằng chính họ đã tự luận tội họ rồi: "Ai không tin đã bị phán xử rồi, vì họ không tin vào danh Người Con duy nhất của Thiên Chúa" (Gioan 3:18). Bởi vậy, hãy cứ để Thiên Chúa xét xử những ai chúng ta thấy gian ác, tội lỗi, cứng lòng, băng hoại v.v., kể cả những ai phạm đến chúng ta, đừng xét đoán họ, đừng nguyền rủa họ, đừng khinh thường họ, nhất là đừng trả đũa những ai phạm đến chúng ta, chúng ta mới thật sự là giống Chúa Kitô và mới có thể làm chứng nhân truyền đạt Người cho tha nhân một cách hiệu năng.

 

Ngày 6 tháng 2

Thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

Ngày 5 tháng 2 năm 1597, hai mươi sáu Ki-tô hữu đã bị đóng đinh thập giá ở Na-ga-xa-ki (Nhật Bản). Trong số đó có những nhà truyền giáo từ châu Âu đến như các tu sĩ dòng Tên và dòng Phan-xi-cô, nhưng còn có cả các tu sĩ Nhật Bản, như thánh Phao-lô Mi-ki (sinh khoảng năm 1564/1566) và mười bảy giáo dân gồm : các giáo lý viên, các người thông ngôn, hai bác sĩ, và cả các trẻ em nữa. Tất cả đều tươi cười, nhiều người còn ca hát khi chịu chết để làm chứng cho Chúa Ki-tô.

Image result for saint paul miki and companions

 

Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy

Bài đọc 2 giờ kinh sách 6/2

Trích truyện tử đạo của thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn do một tác giả cùng thời thuật lại.

Thật là kỳ diệu khi thấy các vị tử đạo bị treo trên khổ giá mà tất cả đều một niềm kiên trung theo lời cha Pa-xi-ô và cha Rót-ri-ghê lần lượt khuyên bảo. Cha đặc uỷ vẫn ở yên dường như bất động, mắt đăm đăm nhìn trời. Để cảm tạ lòng nhân từ của Chúa, thầy Mác-ti-nô hát mấy thánh vịnh kèm theo câu : Trong tay Ngài, lạy Chúa. Thầy Phan-xi-cô cũng lên tiếng dõng dạc tạ ơn Thiên Chúa. Thầy Gun-xan-vô thì cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng.

Phao-lô Mi-ki, người anh em của chúng tôi, khi thấy mình ở nơi cao trọng hơn hết mà trước kia chưa bao giờ được ở, trước tiên đã nói cho những người đứng chung quanh biết mình là người Nhật và thuộc dòng Tên, mình chết vì loan báo Tin Mừng và tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân cao cả đó, rồi thêm những lời sau đây : “Đã đến lúc này, tôi thiết tưởng không ai trong quý vị lại tin rằng tôi muốn che giấu sự thật. Vậy tôi xin tuyên bố cùng quý vị là không có con đường nào đưa tới ơn cứu độ, ngoài con đường các Ki-tô hữu đang đi. Vì con đường đó dạy tôi tha thứ cho kẻ thù và mọi người đã xúc phạm đến tôi, nên tôi vui lòng tha thứ cho nhà vua và mọi người đã gây ra cái chết cho tôi, và tôi xin họ hãy ao ước đón nhận bí tích Thánh Tẩy của người Ki-tô hữu.”

Rồi đưa mắt nhìn các bạn, người khuyến khích họ trong cuộc chiến đấu cuối cùng này. Trên nét mặt mọi người thấy rạng rỡ một niềm vui, nhất là niềm vui trên gương mặt Lu-y.

Khi một Ki-tô hữu nói lớn với người rằng chẳng bao lâu nữa người sẽ ở trên thiên đàng, thì các ngón tay và toàn thân người biểu lộ niềm vui chan chứa, khiến ai nấy đều đưa mắt nhìn người.

An-tôn, ở bên cạnh Lu-y mắt đăm đăm nhìn trời, sau khi kêu tên cực trọng Giê-su, Ma-ri-a, thì xướng thánh vịnh đã học được trong lớp giáo lý ở Na-ga-xa-ki : Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi. Quả vậy, trong lớp đó, để dạy giáo lý, người ta cho các trẻ em học thuộc lòng một số thánh vịnh.

Sau hết, người thì lặp lại nhiều lần “Giê-su, Ma-ri-a” với nét mặt bình thản, người thì khuyên bảo những kẻ đứng chung quanh sống sao cho xứng danh Ki-tô hữu. Với những hành vi tương tự, các ngài tỏ ra sẵn sàng chịu chết.

Bấy giờ, theo thói quen của người Nhật, bốn đao phủ rút kiếm ra khỏi bao : thấy cảnh tượng khủng khiếp đó, mọi tín hữu kêu lên : “Giê-su, Ma-ri-a”, tiếng khóc than thảm thiết tiếp theo sau vang lên thấu tận trời. Trong khoảnh khắc, các đao phủ đã kết liễu cuộc đời mỗi vị bằng một hay hai nhát kiếm.

 

6 Tháng Hai, Thánh Phaolô Miki và Các Bạn (c.1597) - Hạnh Các Thánh - Huynh  Đoàn Đa Minh Cộng Đoàn Thánh Linh

Ngày 05/02/1597, trên một chuyến tàu, Miki và 25 bạn đồng đội bị bắt và bị treo lên những cây thập tự đối diện với bờ biển. Tuy bị treo nhưng Miki và các bạn vẫn luôn vui tươi và không ngừng giảng đạo và khuyên răn những người đến xem. Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại. Ngài tha thứ cho những kẻ sỉ vả và kết án ngài. Quá tức giận, họ đã đâm ngài cùng các bạn. Phaolô Miki và các bạn được diễm phúc tử đạo. Các ngài đã bị đóng đinh, vì thế các ngài cũng được tôn vinh cùng với Ðức Kitô.

 

PHAOLÔ MIKI VÀ NHỮNG VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA NHẬT BẢN


Những ngày đầu tháng 2 năm 1597, một đoàn phạm nhân bị dẫn đi rảo qua các thành phố của Nhật Bản, ở những nơi có đông người công giáo sinh sống. Đoàn phạm nhân này là những người bất tuân lệnh truyền của Hoàng đế trong chiếu chỉ cấm đạo. Nhà cầm quyền dùng những người này trong kế hoạch hăm dọa và răn đe những người công giáo cứng đầu, là những người không chịu bỏ đạo.Thế nhưng kế hoạch này dừng như hoàn toàn thất bại. Niềm vui của các vị tử đạo khi cái chết đến gần lại thể hiện quá rõ nét, đến nỗi hàng trăm người ngoại giáo khác bị đánh động và tin theo cái tôn giáo mà những chứng nhân này đã can đảm tuyên xưng. 

Nổi lên ở trung tâm của đoàn người ấy là một chàng trai trẻ có tên là Phaolo Miki. Dù bị kệt sức, thân thể loang lổ và xấu xí, không ai nhìn vào nhóm cái vị tử đạo mà không nhận ra dáng vẻ thanh cao của chàng trai. Phaolo mang tấm áo dòng đen đơn giản một tu sĩ Dòng Tên trong chuyến hành trình đi đến cái chết, nhưng mọi người Nhật đều nhận ra rằng, nếu muốn Phaolo hoàn toàn có thể mang bộ Kimono giàu sang và mang theo bên hông mình hai thanh gươm vốn thường được đeo bởi các Samurai quý tộc. 

Phaolo Miki sinh năm 1564 tại Tokushima, thuộc đảo Shikoku. Năm tròn 4 tuổi, cả gia đình Miki mình theo đạo công giáo. Cha của Phaolo Miki là Miki Handayu một thành viên danh dự của vương triều Oda Nobunaga. Tháng 8 năm 1586, khi được 22 tuổi, Phaolo Miki vào nhà Tập Dòng Tên và bắt đầu chương trình học để chuẩn bị làm linh mục. Đúng ra, Phaolo Miki hoàn tất chương trình ngay đúng vào thời điểm mà mình bị bắt. Cái chết tước đi khỏi Phaolo vinh dự được làm vị linh mục người Nhật Bản đầu tiên, và trao tặng cho Ngài triều thiên tử đạo đầu tiên trên đất nước Nhật Bản. 

Năm mươi năm trước, khi Thánh Phanxicô Xavier gặp được một số người Nhật Bản đã được rửa tội đã quyết định khởi hành đến quần đảo Nhật Bản để truyền giáo. Sau gần hai năm, thánh Phanxicô lập được một nhóm các thừa sai cho xứ này, trước khi Ngài tiếp tục chuyến hành trình đến với đất Trung Hoa. Nhóm các thừa sai này đã gia tăng vững vàng và đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trên đất Nhật. Chưa tới 40 năm sau, đã có hơn 200.000 người công giáo trong toàn nước Nhật. Nhiều lãnh chúa và tướng lĩnh từ nhiều tôn giáo khác nhau bước vào đạo công giáo, và những kẻ thuộc quyền cũng bước theo gương của họ. 

Tuy nhiên, việc phát triển và lan rộng của đạo công giáo cũng gặp nhiều chống đối ở nhiều nơi khác nhau. Vào thế kỷ thứ 16, Nhật là một đế quốc được cai trị bởi hai thế lực tối cao là Hoàng đế, người nắm quyền về tinh thần, và các tướng quân (Shogun) là những người nắm quyền trên những lãnh địa khác nhau của đất nước. Dưới hai thế lực này, nước Nhật bị chia thành hơn 60 vương quốc và lãnh địa lớn nhỏ khác nhau. Trong nhiều vùng, đạo công giáo hoàn toàn bị cấm cách, các nhà truyền giáo luôn bị đe dọa và không được phép thực hiện bất cứ loại hình mục vụ tôn giáo nào. Trong những vùng khác của đế quốc, tiến trình truyền giáo diễn ra hết sức chậm do những chống đối từ phía các lãnh chúa, các nhà sư và những người lãnh đạo phật giáo luôn đặt những người theo đạo công giáo dưới sự đe dọa nghiêm trọng.

Năm 1582, tướng Hideyoshi lên cầm quyền thống trị toàn nước Nhật và bắt đầu cuộc bách hại hung bạo dành cho đạo công giáo. Cuộc bách hại của ông đạt đến đỉnh điểm vào năm 1587 với sắc lệnh bắt đạo nghiệt ngã.

Cuối tháng 12 năm 1596, một đạo quân của hoàng đế bao vây những căn nhà bị tình nghi ở Miyako và Osaka. Sáu vị thừa sai dòng Phanxicô, một nhóm 18 giáo dân và 2 vị thừa sai Dòng Tên bị bắt. Theo điều khoản đã được hoàng đế ban ra, những người này bị kết án xẻo tai như dấu hiệu của một sự tủi nhục, và sẽ bị đóng đinh vào thập giá ở Nagasaki. 

Ngày 5.2. 1597, trên một ngọn đồi bên ngoài thành phố Nagasaki, hai mươi sáu cây thập giá được dựng lên cho các bị tử đạo. Đó là cuộc tử đạo đầy tiếng hát và kinh nguyện. 

Khi những thánh giá của các vị tử đạo được dựng lên, Cha Peter Baptist, bề trên của dòng Phanxicô, cao giọng bắt hát bài Benedictus, trong khi ấy cả nhóm lý hình đứng lặng yên kính cẩn, cả nhóm tử đạo đồng thanh hát trọn bài ca: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người… Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn cho Vầng Đông tự chốn cao vời đến viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” Dõi mắt nhìn quanh những người bạn đồng hành của mình đang sẵn sàng cho hy lễ, Phaolo Miki thầm thĩ dâng lời nguyện cuối cùng của cuộc đời mình: “Giống Thầy mình, tôi sẽ chết trên Thập Giá. Giống như Người, con tim tôi sẽ bị xé nát bởi một lưỡi giáo. Nhờ đó, dòng máu của tôi và tình yêu của tôi sẽ tuôn chảy trên mảnh đất này và thánh hóa nó nhân danh Người.”  

Trong số các vị tử đạo có ba trẻ còn ở tuổi thiếu niên. Nhóm trẻ cũng cao giọng với bài hát Laudate Pueri, tiếng hát lịm tắt khi lưỡi giáo xuyên qua con tim của họ.

Các vị tử đạo tiên khởi trên đất Nhật được Đức Thánh Cha Urbano VIII phong chân phướng ngày 15.9.1627 và được Đức Thánh Cha Pio IX phong hiển thánh ngày 8.7.1862.

Rome of the West: Memorial of Saint Paul Miki and Companions, Martyrs

 

26 cây thập giá trên một ngọn đồi ở thành phố Nagasaki đầu năm 1597 là lễ dâng hoa trái đầu mùa của Hội Thánh Nhật Bản. Dòng Tên góp phần vào hiến tế ấy ba anh em người bản xứ: thánh Phaolô Miki, 33 tuổi, lúc ấy đang chuẩn bị chịu chức linh mục; thánh Giacôbê Kisai, 64 tuổi, tu huynh; thánh Gioan Soan, 19 tuổi, giáo lý viên đang tìm hiểu Dòng Tên. Các vị còn lại gồm 6 thừa sai dòng thánh Phanxicô và 17 giáo dân mà người trẻ nhất mới 11 tuổi.

 

Người đầu tiên loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho Nhật Bản là thánh Phanxicô Xavier. Khu vực truyền giáo này thu hút nhiều thừa sai và lớn mạnh nhanh chóng. Chỉ trong vòng 50 năm, số tín hữu đã lên đến 200 ngàn. Dòng Tên cũng thành lập một tỉnh Dòng riêng với hơn 120 anh em mà đa số là người Nhật Bản. Vào cuối thế kỷ XVI, chế độ quân phiệt ở trung ương đang cố gắng buộc các sứ quân ở các địa phương phải phục tùng để thống nhất quyền lãnh đạo đất nước trong tay  một vị tướng, nhờ đó có thể phản ứng hữu hiệu khi các đế quốc Châu Âu có ý đồ xâm lăng. Người Nhật Bản vốn thích cái gì mới, lại thấy người Châu Âu chế tạo được tàu vượt đại dương, súng bắn xa hàng loạt, nên kính nể và dễ dàng đón nhận tôn giáo do các thừa sai Châu Âu đem tới. Điều này làm cho giới cầm quyền quân phiệt lo ngại. Họ sợ người Công Giáo sẽ nghe theo các sứ quân địa phương, hoặc sẽ ủng hộ các nước Châu Âu mà chống lại họ. Để cảnh cáo và ngăn chặn, họ cho bắt mấy thừa sai cùng với một số tu sĩ và giáo dân bản xứ đem đi xử tử.

 

Thánh Phaolô Miki được rửa tội cùng với cả gia đình lúc ngài mới 5 tuổi, và gia nhập Dòng Tên lúc ngài 22 tuổi. Trong thời gian học hành, ngài đã cho thấy tài năng của một nhà giảng thuyết đầy triển vọng. Vào những tháng nghỉ học, ngài đã từng đi giảng ở những tỉnh miền nam cũng như tại kinh đô Myako. Cuối năm 1596, ngài đang học tại nhà Dòng ở thành phố Osaka thì bị bắt cùng với tu huynh Kisai và ứng sinh Gioan Soan. Ngày nay nhiều sử gia vẫn thắc mắc tại sao nhà cầm quyền lại bắt 3 tu sĩ Dòng Tên này. Riêng thánh Phaolô Miki, ngài không hề thắc mắc, trái lại cảm thấy hết sức hân hoan: “Tôi sung sướng được giống Chúa phần nào”. Cùng với cả nhóm 26 chứng nhân, ngài được dẫn lên kinh thành Myako, và cùng bị cắt tai, cắt mũi, rồi bị đem đi diễu hành cho mọi người đều thấy.

 

Nhà cầm quyền chọn Nagasaki làm pháp trường hẳn là có ý đe dọa người Công Giáo và người nước ngoài, vì đó là thành phố cảng đông người Công Giáo và người nước ngoài nhất. Trên một đỉnh đồi, người ta dọn sẵn 26 cây thánh giá. Đoàn người bị kết án tử hình chẳng những không hề tỏ ra sợ hãi mà còn luôn miệng ca hát. Người ta buộc chân tay và bụng mỗi người vào một cây thánh giá, rồi dựng lên. Hôm ấy, dân chúng đến dự rất đông. Từ trên thánh giá, 26 chứng nhân đồng thanh hát vang: “Chúng con ca ngợi Chúa là thượng đế, chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể…” Rồi thánh Phaolô Miki hùng hồn nói về Đức Kitô, kêu gọi tín hữu vững tin và mời gọi lương dân tìm hiểu đạo. Khi được lệnh, lý hình lấy giáo đâm mỗi vị hai nhát chéo xuyên qua ngực. Thánh Phaolô Miki và các bạn đã chết trên thập giá, giống Chúa Kitô, như ngài mong ước.

 

Chế độ quân phiệt Nhật Bản qua đi mà không ai thương tiếc. Trái lại, 26 cây thánh giá trên ngọn đồi thành phố Nagasaki đã vượt mọi thử thách của thời gian, nhắc nhở mọi người về tình yêu của Con Thiên Chúa xuống trần để cứu đời.

 

Lạy Thiên Chúa là nguồn sức mạnh của các Thánh, ngang qua thập giá Chúa đã thương gọi thánh Phaolô Miki và các bạn vào cõi sống. Nhờ lời các ngài cầu thay nguyện giúp, xin Chúa ban cho chúng con được can trường giữ vững đức tin mà chúng con tuyên xưng cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

https://dongten.net/2015/02/05/thanh-phaolo-miki-va-cac-ban-tu-dao-tai-nhat-ban-nam-1597-le-nho-ngay-6-thang-2/

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Phaolô Miki là một trong 3 Giêsu-hữu thuộc nhóm 26 thánh tử đạo đổ máu ngày 05.02.1597 trên đồi Tateyama, gần Nagasaki (Nhật Bản), trong đó có: 6 nhà truyền giáo Tây Ban Nha thuộc Dòng Phanxicô ; 3 giáo lý viên thuộc Dòng Tên Nhật Bản, trong số đó có Phaolô Miki, còn có 17 giáo dân người Nhật cùng tử đạo.

Phaolô Miki được nêu danh đặc biệt vì thái độ anh hùng khi ngài bị đóng đinh cùng với các bạn. Các vị này là những người tử đạo đầu tiên của miền Viễn Đông được ghi vào sách các thánh tử đạo (Martyrologium). Trong số này, cũng có các em dưới 14 tuổi: Louis, André, Antoine. Chứng nhân cuộc tử đạo này đã nói về Antoine: “Đôi mắt hướng về trời, sau khi gọi danh thánh Giêsu và Maria, em bắt đầu cất tiếng hát Thánh Vịnh: “Các em hãy ca ngợi Thiên Chúa” mà em đã học tại Nagasaki, trong trường giáo lý”.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện nhập lễ nói: Thiên Chúa là nguồn sức mạnh của các thánh ; lời kinh này đã gọi Miki và các bạn “đã vượt qua Thánh giá để đi vào sự sống”.

Em Antoine, khi bị một vị quan dụ bỏ đạo, đã nói: “Thập giá không làm tôi sợ ; tôi lại khao khát nó vì tình thương Chúa Kitô”.

Từ trên Thánh giá, Phaolô Miki đã nói với đám đông tụ họp: ”Tôi muốn nói với anh em điều này: không có con đường cứu độ nào ngoài con đường người Kitô hữu đi. Tôn giáo này dạy tôi tha thứ, tôi xin tha thứ cho nhà vua cách thật lòng và tất cả những người tạo ra cái chết của tôi, và tôi cầu nguyện để họ có thể lãnh nhận phép rửa của người Kitô hữu”.

Bài đọc một (Gl 2,19-20) nhắc lại những lời của Phaolô Miki: Tôi chịu đóng đinh vào cây Thánh giá cùng với Đức Kitô : tôi sống, nhưng không phải là tôi, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi. Từ trên cao của 26 cây Thánh giá, các thánh tử đạo ở Nagasaki đã trở thành hình ảnh sống động của Đức Kitô, Đấng kêu gọi các môn đệ đi theo Người: Nếu ai muốn theo tôi, phải bỏ mình, vác thập giá của mình và theo tôi (Mt 16,25).

b. Phaolô Miki và các bạn đã gìn giữ và tuyên xưng đức tin cho đến lúc chết. Trình thuật về cuộc tử đạo của họ, do một chứng nhân ghi lại, cho thấy hiến tế của họ như một Phụng Vụ : người ta hát Thánh Vịnh “Các em, hãy ca ngợi Chúa”; người ta kêu đến thánh danh Giêsu và Maria ; người ta đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng và người nào đó đã lập lại lời van xin của người trộm lành : Lạy Chúa, xin nhớ đến con. Cuối cùng, 4 lý hình đã chấm dứt chứng cứ anh hùng của đức tin bằng việc lấy giáo đâm vào tim, trong khi các Kitô hữu vẫn kêu lên: ”Giêsu, Maria !” Như thế đối với họ, cũng như đối với Chúa Giêsu trên đồi Calvariô: ”Tất cả đã hoàn tất” (Ga 19,30).

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-06-02-thanh-phaolo-miki-va-cac-ban-tu-dao-46872

Lạy Chúa là nguồn sức mạnh của các thánh, Chúa đã gọi thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn bước lên thập giá mà vào cõi trường sinh. Xin Chúa thương nhậm lời các ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con hằng can đảm tuyên xưng đức tin, và trung thành giữ vững đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin

Ngày 06/02: Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo


Phaolô Miki
Tu sĩ Dòng Tên
Sinh : 1564 - tại Tokushima, Nhật Bản
Tử đạo : 05.02.1597 - tại Nagasaki, Nhật Bản

 

 



Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 1-8

"Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời vẫn như thế".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, tình bác ái huynh đệ phải tồn tại trong anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần. Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như chính anh em bị tù đày chung với họ, và hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính anh em cũng đang ở trong thân xác như họ. Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng tham lam; hãy bằng lòng với những gì đang có, vì Chúa đã phán: "Ta sẽ không để mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu", đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa rằng: "Chúa là Ðấng phù trợ tôi, tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi". Anh em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay, và cho đến muôn đời vẫn như thế.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 3. 5. 8b-9abc

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin. - Ðáp.

3) Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên. - Ðáp.

4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 6, 14-29

"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

Ðó là lời Chúa. 



Suy niệm



  Đức Kitô Đầu Não   


Ngày Thứ Sáu trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay bài Phúc Âm đã chứng thực chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, với câu đầu tiên như thế này: "Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng".

Tuy nhiên, đối với chung dân chúng thì sở dĩ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trở thành "lừng lẫy danh tiếng" như thế là vì, như Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "kẻ thì nói: 'Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng'; kẻ thì bảo: 'Ðó là Êlia'; kẻ khác lại rằng: 'Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác'". Còn riêng vua Hêrôđê thì khi "nghe vậy (đã) nói: 'Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại'".

Thật ra, theo nội dung của bài Phúc Âm hôm nay thì "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" không đóng vai chủ động và tự tỏ mình ta như các bài Phúc Âm trước, mà chỉ được nói đến lúc đầu thôi rồi sau đó chỉ liên quan đến những chi tiết về sự kiện vua Hêrôđê sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vậy thôi. Thế nhưng, chính trọng sự kiện có tính cách tiêu cực như "sự cố" này cũng đã gián tiếp cho thấy Người quả thực là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

Không phải hay sao, chính Hêrôđê đã phải công nhận mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Kitô là nhân vật mà ông ta chưa bao giờ gặp mà lại rất mong muốn được gặp (xem Luca 23:8) với nhân vật đã bị ông bất đắc dĩ phải cắt thủ cấp, chỉ vì đã bị lỡ lời giữa cả một triều thần bá quan văn võ để giữ lấy thể diện của mình, ở chỗ, ông đã đồng hóa hai nhân vật đặc biệt này của ông thành một: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

Cái "đầu" của Gioan bị vua Hêrôđê chặt mất đây, trước hết, là biểu hiệu cho "chân lý" đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhân vật vốn được vua "kính nể, (vì vua) biết ngài là người chính trực và thánh thiện", hiên ngang bênh vực cho đến cùng, một "chân lý" về luân lý mà nhà vua đã bất chấp vấp phạm: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình", như thể nhà vua đã "chặt" đi "chân lý" ấy bằng đam mê nhục dục của mình, một "chân lý" được biểu hiệu nơi cái "đầu" về thể lý của nhân vật bất khuất Gioan đã bị nhà vua quả thực chặt đi để thỏa mãn ý muốn gian ác hận thù của nàng Hêrôđia là người vợ bất chính của vua, một người vợ bất chính hèn hạ vốn đã "mưu toan muốn giết ngài, nhưng không thể làm gì được", cho tới khi bất ngờ nắm được cơ hội ngàn vàng trong tay là lúc, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: 

"Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: 'Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho', và vua thề rằng: 'Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho'. Cô ra hỏi mẹ: 'Con nên xin gì?' Mẹ cô đáp: 'Xin đầu Gioan Tẩy Giả'. Cô liền vội vàng trở vào xin vua: 'Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa'. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ".

Chưa hết, cái "đầu" của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chặt mất đây còn ám chỉ chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:6) mà ngài chỉ được sai đến trước để dọn đường và để "làm chứng" cho Người (xem Gioan 1:15), Đấng là "ánh sáng chiếu trong tăm tối nhưng tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Đấng đến sau ngài nhưng lại vô cùng cao trọng hơn ngài và có trước ngài, như "đầu" của ngài, như vị thủ lãnh tối cao của ngài, đến độ ngài "không đáng cởi giây giầy cho Người" (xem Gioan 1:15,27), một "vị vua mới sinh" (Mathêu 2:2) ngày xưa đã từng bị vương phụ của Hêrôđê đương kim này bấy giờ tìm sát hại sau biến cố tam vị chiêm vương gia đến bái thờ Người ở Bêlem Xứ Giuđa mà không trở về trình báo lại cho vua ấy (xem Mathêu 2:1-18).

Như thế, sự kiện cái "đầu" của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị quyền lực chính trị đầy vô luân của dân Do Thái thời ấy chặt mất đây, đã trở thành một dấu chỉ đầy bí nhiệm ám chỉ đến cuộc tử nạn của một nhân vật sau này sẽ được một quyền lực chính trị khác, uy thế hơn, là tổng trấn Philatô ở Giuđêa tôn vương là "Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:19; Mathêu 27:37), khi vị thẩm quyền của đế quốc Rôma này, một đàng thì muốn biết "chân lý là gì?" khi tra vấn Chúa Giêsu và đối diện với Chúa Giêsu (Gioan 18:38), một đàng, cũng như Hêrôđê đang làm vua nước bị trị Do Thái (đúng hơn chỉ là một quận vương ở Galilêa thôi, chứ không còn toàn cõi Israel nữa, bởi Giuđêa bấy giờ đang bị đô hộ bởi đế quốc Roma qua Tổng trấn Philatô) bấy giờ đã lấy "đầu" Gioan Tẩy Giả chỉ vì danh dự thế giá của mình trước kia, đành phải ra lệnh đóng đanh một con người mà tự ông biết được là vô tội và tìm cách thả ra mấy lần (xem Gioan 19:4,6,10-12).

Vậy thì sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê sát hại quả thực có liên quan đến cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đấng đến sau ngài, như một dấu báo trước về Đấng mà ngài đã hai lần tuyên bố và công khai giới thiệu: ngày hôm trước với chung dân chúng - "Kìa Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), và ngày hôm sau với riêng các môn đệ của ngài - "Hãy nhìn xem kìa, Con Chiên Thiên Chúa đó" (Gioan 1:36). 

Như thế, câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của một nhà vua gian ác vô luân và bất nhân ấy dầu sao cũng có tính cách tiên tri, như trong câu của vị thượng tế Caipha thời ấy quả thực đã chất chứa tính chất tiên tri và đã thực sự hoàn toàn ứng nghiệm về nhân vật Giêsu Nazarét đã gây chấn động cả Thành Giêrusalem là Giáo Đô Do Thái giáo về sự kiện nhân vật tầm thường này, một nhân vật xuất thân từ Galilêa xa xôi là nơi chẳng có vị tiên tri nào xuất thân (xem Gioan 7:52), chẳng phải là luật sĩ hay thành phần trong hội đồng đầu mục Do Thái, nhưng đã làm cho Lazarô, một tử thi hồi sinh sau 4 ngày đã lên mùi (xem Gioan 11:43-44), rằng "các người chẳng hiểu gì hết, các người không thấy rằng thà một người chết thay cho dân chúng còn hơn là toàn dân bị hủy diệt hay sao?" (Gioan 11:50).

Thật sự câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của vua Hêrôđê, tự nó chất chứa tính chất tiên tri, mà chính người nói không hề hay biết là mình muốn nói gì và lời ấy có ý nghĩa ra sao, không phải chỉ ám cuộc tử nạn của Chúa Kitô là "đầu" tự hiến cho Giáo Hội là thân thể của mình (xem Gioan 17:19; Epheso 5:23,25-27), mà còn ám chỉ những gì vị Tiền Hô Gioan này "làm chứng" về Đấng là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian" đến sau ngài đều đúng, đều ứng nghiệm nơi Chúa Kitô, như thể "Gioan ... nay đã sống lại" nơi Chúa Kitô ở cuộc tử nạn của Người vậy, Đấng "đã được sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho chân lý" (Gioan 18:37), như chính vị tiền hô của Người cũng đã được sai đến tuy "không phải là ánh sáng" như Người nhưng cũng đã "làm chứng" cho Người "là ánh sáng đã chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5).


Thứ Bảy


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 15-17, 20-21

"Nguyện Thiên Chúa bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước, làm cho anh em xứng đáng thi hành việc thiện".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, nhờ Ðức Giêsu mà trong mọi lúc, chúng ta luôn luôn hiến dâng cho Thiên Chúa của lễ ngợi khen, tức là hoa quả của miệng lưỡi ta tuyên xưng danh Người. Anh em đừng quên công việc từ thiện và sự tương tế, vì Chúa hài lòng về những của lễ như thế. Anh em hãy vâng lời và tùng phục các vị lãnh đạo anh em, vì chính các ngài canh giữ linh hồn anh em, như những người sẽ phải trả lẽ, để các ngài hân hoan thi hành việc đó, chớ không phàn nàn, vì điều đó không có lợi gì cho anh em. Nguyện Thiên Chúa bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước vĩnh cửu, trở nên vị Mục tử cao cả, tức là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xin Người làm cho anh em trong các việc thiện, xứng đáng thi hành thánh ý Người, khi Người thực hiện trong anh em điều Người hài lòng, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng được vinh quang đến muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sỡ dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 30-34

"Họ như đàn chiên không người chăn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.

Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.

Ðó là lời Chúa. 

 

 


Suy niệm


  Đức Kitô động lòng

 

Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng, ở câu "Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều".

Đúng thế, là Đấng được sai đến và thực sự đã "đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), Chúa Giêsu không động lòng thương "họ như đàn chiên không người chăn" sao được! Đó là lý do, trong bài Phúc Âm Thứ Năm vừa rồi, Người đã sai cả các tông đồ của Người đi đến với họ để đáp ứng nhu cầu mục vụ của họ nữa, ở chỗ: "Các ngài trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân".

Cũng có thể vì thế, vì ảnh hưởng thành công của cuộc truyền giáo tiên khởi này của các tông đồ cho "các con chiên lạc nhà Yến Duyên / Israel" (Mathêu 15:24) mới xẩy ra hiện tượng "dân chúng đến tấp nập", ngay sau sự kiện "các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy", càng lúc càng đông "đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống", không tìm được một nơi kín đáo thuận lợi cho bản thân các vị sau chuyến đi mệt mỏi tuy đầy hứng thú, như chính Chúa Giêsu đã thông cảm và khuyên giục các vị: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút".

Có lẽ điều làm cho Chúa Giêsu động lòng nhất nơi dân chúng bấy giờ không phải chỉ vì họ đông đúc kéo đến với thày trò của Người, cho bằng sự kiện cho dù "các ngài (có) xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh (như thể tạm xa lánh họ để nghỉ ngơi một chút nhờ đó và sau đó có sức phục vụ họ hơn). (Nhưng khi) Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài". Có nghĩa là trong thành phần dân chúng này đã nhiều người trong họ cảm thấy nghiện thày trò của Người, không có không được, thậm chí đã quen hơi biết tiếng của các ngài, biết được cả ý định đi đâu cùng với điểm đến của các ngài nữa.

Họ tha thiết theo đuổi các ngài, một cách, chẳng những thấu biết về các ngài, mà còn hết sức mau mắn nữa, ở chỗ, cho dù "đi bộ" theo đường vòng hơn là đường thẳng như bằng thuyền theo đường thủy như thày trò các ngài, mà họ vẫn "kéo đến nơi đó (còn) tới nơi trước (cả) các ngài (nữa)". Thường bao giờ đến với Chúa Giêsu, họ cũng dẫn theo các nạn nhân bệnh hoạn tật nguyền, hay chính các nạn nhân tật bệnh này đích thân đến với Người. Vậy mà cả thành phần bệnh hoạn tật nguyền này trong dân chúng cũng có đủ sức và dư sức đến trước các ngài để nghênh đón các ngài!

Thật là cảm động. Thật là dễ thương. Thật là đáng thương. Bởi thế, mới có chuyện "lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều".

Đối với Chúa Giêsu, vì "người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra" (Matheu 4:4), và vì chỉ có "những lời Thày nói với các con toàn là thần linh và là sự sống" (Gioan 6:63) mà trước khi Người làm phép lạ bánh hóa ra nhiều nuôi họ lần thứ nhất, như đoạn Phúc Âm tiếp theo sau bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, "Người (đã) dạy dỗ họ nhiều điều".

"Nhiều điều" mà Chúa Giêsu đã muốn "dạy dỗ" cho dân chúng bấy giờ là những gì? Phải chăng về Nước Trời, bằng các dụ ngôn khác với những dụ ngôn Người đã được Người sử dụng trước đó?? Phải chăng là các mối Phúc Đức Trọn Lành như Người đã giảng dạy và được Thánh ký Mathêu ghi lại trong Phúc Âm của mình kéo dài đến 3 đoạn, từ đoạn 5 đến hết đoạn 7, hay cũng đã được Thánh ký Luca ghi lại trong Phúc Âm của ngài ở đoạn 6, những gì được cả 2 vị thánh ký này ghi lại hoàn toàn chưa hề có trong Phúc Âm của Thánh ký Marco???

Căn cứ vào đoạn Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm nay, đoạn Phúc Âm liên quan đến phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, chúng ta chẳng những biết được con số dân chúng "tấp nập kéo đến" là bao nhiêu mà còn biết cả nội dung của những gì Chúa Giêsu muốn dạy dỗ cho dân chúng bấy giờ nữa.

 Trước hết, căn cứ vào phần ăn được Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều mà còn thu lại được 12 thúng đầy thì con số dân chúng hiện diện bấy giờ là 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít, mà đàn bà con nít bao giờ cũng đông hơn gấp hai hay gấp ba đàn ông, thì con số dân chúng bấy giờ phải lên tới cả 15 - 20 ngàn người.

Sau nữa, về nội dung bài giảng của Chúa Giêsu, căn cứ vào Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, đoạn 6, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê còn dư 12 thúng đầy, và sau khi trốn lên núi để tránh cảnh dân chúng tôn vương mình, cuối cùng dân chúng cũng tìm thấy thày trò của Người thì Chúa Giêsu đã giảng dạy họ về Bánh Sự Sống là chính bản thân Người nói chung và thân xác của Người nói riêng cho những ai tin vào Người là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý": "Tôi chính là bánh sự sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Tôi ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sự sống" (Gioan 6:51).

Phải, chỉ "những lời Tôi nói với quí vị toàn là thần linh và là sự sống", và những ai khao khát lời Người, theo đuổi Người cho đến cùng như đám đông dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay mới được "Người dạy dỗ họ nhiều điều", về chính bản thân của Người, nhờ đó họ mới có thể khôn ngoan và sống trọn hảo theo đúng thân phận làm người phổ quát của họ cũng như ơn gọi riêng biệt trên đời của mỗi người trong họ.

 

Thánh Giêrônimô Emiliani và Thánh Josephine Bakhita Trinh Nữ

8/2

 

 

8 Tháng Hai
Thánh Giêrôme Emiliani
(1481 - 1537)





Năm 1528, người miền bắc Ý phải trải qua một nạn đói thê thảm do sự bóc lột của bọn quân phiệt Tây Ban Nha. Quay lại cuốn phim cảnh đói khổ của đồng bào họ, trong đầu óc người dân Ý không một ai mà không phải rùng mình kinh sợ. Những phần đất đai trù phú nhất cũng hoá hoang vu, nơi hoành hành của từng bầy sói đói. Từ năm 1528 cơn đói đã lên tới tột độ. Dân chúng trước đây vẫn không quen ăn thịt chó, mèo, chuột, nay coi đó như những món cao lương mỹ vị. Những con người sống giở chết giở vì đói lũ lượt kéo về thành Vênêtia (Venise) khiến ở đây cũng bị đói lây. Bên những bàn tay thực dân bóc lột, trước những cùng cực khốn khổ đó, người ta thấy không thiếu những bàn tay anh hùng, quảng đại, bác ái và hăng hái hoạt động, đã giang rộng ra để đón tiếp, nâng đỡ và xoa dịu những nhịp đập cồn cào của bao tử rỗng tuếch. Trong số những vị anh hùng ân nhân của nhân loại đó, phải kể vào hàng đầu, con người quý phái của thành Vênêtia là Giêrônimô Êmilianô mà chính tên theo tiếng ý là Girolamo Miani.
Phải chăng con người có đức bác ái anh hùng đó sinh ra đã sẵn có một nếp sống như thế, hay cũng đã phải ba chìm bẩy nổi rồi mới được như thế? Cứ nhìn vào con người thánh Inhaxiô vị sáng lập Dòng Tên, chúng ta đã có một câu trả lời khá đầy đủ rõ rệt.
Vênêtia, thuộc Ý, về mạn đông bắc, trên bờ biển Adriatica, là một thành phố thơ mộng “bồng bềnh” giữa làn nước biếc. Năm 1481, Vênêtia hân hạnh được đón nhận một em bé chào đời, em bé đó mai ngày sẽ là vinh dự cho Vênêtia nói riêng và cho Giáo hội Công giáo nói chung: Girolamo Miani hay Giêrônimô Êmilianô.
Lớn lên, Êmilianô gia nhập quân đội như Inhaxiô. Nhưng Inhaxiô luôn sống trong trật tự với một tinh thần kiêu hãnh sẵn có trong huyết thống Tây Ban Nha; còn Êmilianô có thể nói được lại sống thời thanh xuân bạt tử, hiếu chiến và vui chơi như bao quân nhân đồng thời đồng hương của ngài.
Khi còn là một sĩ quan đầy tự tin và khô đạo, chỉ huy một pháo đài của thành phố Venice, Giêrôme Emiliani bị bắt sau vụ tấn công của địch thủ là Liên Minh Cambrai, quân bảo hoàng của thành Castelnôvô gần Trêvi (Trévise) ngài bị bắt và bị xiềng xích. và bị nhốt trong một tháp canh. Chính trong thời gian tù đầy này, Giêrôme đã có thời giờ suy nghĩ, và ngài quyết định thoát khỏi xiềng xích ràng buộc chính mình. Ngài khước từ mọi quyến luyến của thế gian và trở về với Thiên Chúa.
 
Sau khi vượt thoát ngục tù, ngài treo xiềng xích ở nhà thờ Treviso gần đó - như để nói lên lòng biết ơn đã được tự do không những về phần xác mà còn được giải thoát phần tinh thần.

Nhân bị chiến thương mà đã xoay hẳn lại cuộc đời. Và cũng như Inhaxiô, Êmilianô vừa được Đức Mẹ cứu một cách lạ, liền đến tạ ơn Đức Mẹ thành Trêvi mà dân thành Vênêtia rất sùng mộ, và quyết tâm hiến thân phụng sự Người. Để chuộc lại quãng đời quá khứ không tốt đẹp mấy, ngài hằng ra sức thống hối và thực hành bác ái. Ngài thường nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu nhân từ, xin hãy đối xử với con như vị cứu tinh của con, chứ đừng như vị quan án công thẳng”.
Ít lâu sau Êmilianô được thăng làm thị trưởng thành phố Castelnuôvô một thời gian. Nhưng ngài đã không màng tưởng công danh, ngài lui về Vênêtia, chuyên cần giáo huấn các cháu và lo tự trau dồi học thức chuẩn bị chịu chức linh mục. Năm 1518, ngài thụ phong linh mục và từ đó tận hiến hoàn toàn cho công cuộc bác ái và kết thân với Gioan Phêrô Carapha Giám mục thành Kiêti đồng thời nhận Carapha làm cha linh hướng.
Năm 1528 một năm đói kém khủng hoảng, như đã nói trên, lại thêm bệnh truyền nhiễm lan tràn đó đây khiến tử thần càng thêm lộng hành dữ dội. Người chết đầy đường không ai chôn cất. Cha Êmilianô bán tất cả đồ đạc của ngài để cứu trợ những người đồng hương khốn khổ, đêm đêm ngài đi lượm xác chết đem chôn táng cẩn thận. Vì quá tận tâm ngài đã bị lây bệnh và cơn bệnh đã nên một dịp tập luyện rất tốt cho cuộc đời trọn lành của ngài. Được khỏi bệnh, cha bán hết mọi của tư hữu, để hoà mình hoàn toàn với những kẻ đói nghèo mà ngài yêu mến; ngài ăn vận như những người ăn mày. Nhất là khi thấy từng bầy trẻ mồ côi, vất vưởng, không ai màng đến, ngài thu tập chúng lại, lập thành cô nhi viện tại San Rocco. Ở đây ngài lo săn sóc chúng hồn xác. Ngài thật là một nhà dậy giáo lý nhiệt thành, có biệt tài về cách dậy giáo lý theo phương pháp đối thoại, đồng thời cha chăm lo dậy thủ công cho chúng. Nhờ đó ngay từ thiếu thời, chúng đã quen chịu khó để không ăn bám vào người khác như lời người cha hiền của chúng thường nhắc nhủ chúng: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, cũng như thánh Phaolô xưa thường khuyên nhủ giáo đoàn Texalonica rằng: “Ai không làm thì không được ăn” (2 Tx 3, 11)
Lòng bác ái của cha Êmilianô thực như nước triều dâng; dâng qua miền bãi biển Vênêtia, rồi tràn vào mãi trong nội địa các thị trấn Brescia, Bergame và cả Milanô nữa. Ở Brescia và Bergame ngài thiết lập nhiều cô nhi viện. Riêng ở Bergamô ngài còn lập một nhà cải huấn những thiếu nữ trụy lạc để đưa họ về đường ngay nẻo chính. Ngài còn lo khuếch trương chương trình hoạt động của mình bằng cách giáo huấn dân chúng nông thôn, săn sóc bệnh nhân. Có nhiều linh mục ưu tú và giáo dân sốt sắng cộng tác với ngài. Nhờ thế mà ngài thành lập được một tu hội, trước hết chuyên lo điều khiển các cô nhi viện do ngài sáng lập, sau đó lo cho cả những kẻ khốn khó, những người nghèo nàn, đau yếu, dốt nát. Nhân việc đặt trụ sở tại Somasca gần Bergamô năm 1532 mà dòng ngài lập mang tên là dòng Somasca và được Đức Giáo Hoàng Phaolô III chấp nhận với sắc lệnh đề ngày 05-07-1540.
Vì quá nhiệt tâm với những con bệnh dịch tễ, nên cha đã lây bệnh mà chết tại Somasca ngày 08-02-1537. Chết đi ngài không kịp chỉ ai nối vị. Vì thế các bạn ngài theo thói quen như cha vẫn làm là hỏi ý kiến nơi Carapha, bấy giờ là Hồng Y và là vị sáng lập dòng Têatinh (Théatinh). Các ngài muốn sát nhập vào dòng Têatinh và Đức Giáo Hoàng uỷ thác công việc cứu xét ý định ấy cho Đức Hồng Y Carapha. Sau bao cuộc thăm dò ý kiến đôi bên, Đức Hồng Y Carapha quyết định ưng chuẩn và được Đức Giáo Hoàng chấp thuận ngày 08-10-1546. Nhưng thực ra mãi năm 1547 mới sát nhập thực sự. Đến năm 1555 hai dòng lại tách ra và năm 1565 các tu sĩ Somasca mới có nhà chính ở nhà thờ thánh Mayô. Pavia lại đứng ra lập thành một dòng riêng biệt lấy tên là dòng “Các Giáo sĩ dòng thánh Mayơ đệ Pavia”. Dòng này hiện nay có mười nhà và tất cả đều ở trên đất Ý.

Nhân loại vẫn chưa hết sự bóc lột đói khổ, bệnh tật… Nhân loại đang chờ đợi kêu gào những bàn tay bác ái lăn xả vào mà nâng đỡ những cơ cực của họ. Chúng ta hãy noi theo tinh thần thánh Êmilianô, biết quên mình phụng sự cho hạnh phúc nhân loại, hầu làm cho đời sống của những người xung quanh ta được bớt phần đau khổ và cay cực một phần nào. Hãy rộng tay ban phát cho kẻ nghèo khó thì sẽ được Chúa thương và trả gấp lại trăm.
Xiềng xích cuối cùng của Cha Giêrôme được tháo bỏ là khi ngài lâm bệnh vì chăm sóc bệnh nhân. Ngài từ trần năm 1537 hưởng thọ 56 tuổi.
 
Ngài được phong Thánh năm 1767, và năm 1928, Ðức Piô XI đặt ngài làm quan thầy các trẻ mồ côi và các em bị bỏ rơi.
 
Lời Bàn
Trong cuộc đời chúng ta, nhiều khi phải tự "giam hãm" mình để thoát khỏi xiềng xích của cái tôi. Khi chúng ta bị "kẹt" trong những trường hợp mà mình không muốn, lúc đó chúng ta mới nhận ra sức mạnh giải thoát của một Ðấng khác. Và chỉ lúc ấy chúng ta mới có thể trở nên một người khác cho những "kẻ tù đầy" và các em "cô nhi" chung quanh chúng ta.
 
Lời Trích
"'Cha của các em cô nhi và người bảo vệ các bà goá là Thiên Chúa trong sự hiện diện thánh thiêng của Ngài. 'Thiên Chúa ban nơi trú ngụ cho những kẻ bị bỏ rơi; Ngài dẫn các tù nhân đến chỗ thành công; chỉ kẻ phản loạn mới phải ở trong phần đất khô khan' (TV 68). Chúng ta không thể quên đi số người ngày càng gia tăng vì bị gia đình và cộng đồng bỏ rơi: đó là người già, trẻ cô nhi, người đau yếu và những người bị tẩy chay. Chúng ta phải chuẩn bị để lãnh nhận nhiệm vụ mới và chức năng mới trong mọi sinh hoạt của con người, và nhất là trong tổ chức xã hội, nếu thực sự muốn thể hiện sự công bằng. Trên tất cả, hành động của chúng ta phải nhắm đến những người và những quốc gia mà, vì những hình thức đàn áp và vì yếu tính của xã hội, họ không có tiếng nói và là nạn nhân của sự bất công" (Sự Công Bằng Trong Thế Giới, Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới 1971).


http://www.sudiepchuaden.com/2018/02/thanh-gierome-emiliani.html 
và Người Tín Hữu (mầu nâu)

THÁNH JOSÉPHINE BAKHITA

Có một cô bé người dân tộc Châu Phi đang sống an vui hạnh phúc với gia đình ở một miền rừng thì bị bọn buôn người từ miền xuôi đến bắt cóc. Lúc đó em mới mười tuổi thôi. Em nói một thứ tiếng mà bọn buôn người không thể hiểu được nên chúng tự tiện đặt tên em là Duyên May (Bakhita), ra chiều em sa vào tay bọn chúng là một may mắn cho em vì em được theo chúng về thành phố sống. Chúng hành hạ em đủ trò, từ tinh thần đến thể chất. Lúc nào chúng cũng lấy xích sắt tròng vào cổ em. Sau khi chán chê, chúng mang em ra chợ, bán em làm con ở cho một tay nhà giầu. Tay này, sau khi lấy được cái gì hắn có thể, cũng chán em nốt và sang em lại cho một tay khác.

Sau cùng, may mắn cũng đến với em vì em được một người công giáo tử tế bỏ tiền ra mua, mang em về nhà sống chung với gia đình ông một thời gian. Sau đó ông này dọn nhà đi về quê và muốn trả tự do cho em. Nhưng nay em tứ cố vô thân, còn biết đi đây nữa, nên em xin ông mang em theo. Quê ông là một xứ công giáo, mọi người đều tốt với em, em được sống hạnh phúc.

Đúng thế, khi vị lãnh sự trở về Ý vì lý do chính trị thì Bakhita cũng xin tháp tùng gia đình ông. Mặc dù sau đó cô tiếp tục làm công cho một gia đình khác, cuộc đời Bakhita ở Ý là một cuộc đời hạnh phúc. Cô được đối xử tử tế và được tôn trọng.

Cô cũng làm quen với các nữ tu dòng Bác Ái Canossa ở Venice; chính họ là những người đã nói với cô về Thiên Chúa là Ðấng mà tự nhiên cô bị thu hút đến với Người. Sau nhiều tháng học hỏi, cô được tháp nhập vào Giáo Hội qua các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Rước Lễ. Cô lấy tên mới là Josephine để đánh dấu một cuộc đời mới trong Ðức Kitô.

 

Vài năm sau Josephine gia nhập tu viện Bác Ái Canossa ở Venice. Trong 50 năm tiếp đó, cô là một nữ tu nổi tiếng về đạo đức và công việc bác ái. Trong suốt cuộc đời tu trì, sơ Josephine đảm trách các công việc rất tầm thường nhưng cần thiết cho nhà dòng - nấu ăn, may vá, giữ cửa tu viện ở Schio, gần Padua. Thái độ hiền lành, hòa nhã và giọng nói êm ả của sơ là sự an ủi cho những người nghèo và người đau khổ thường đến với nhà dòng xin giúp đỡ.
 
Mặc dù tuổi tác đem lại sức khỏe yếu kém, sơ Josephine vẫn là một nhân chứng của hy vọng và thiện tâm. Trong những giờ phút cuối đời, dường như sơ sống lại những ngày kinh hoàng của đời nô lệ. Người ta nghe sơ rên rỉ nói người y tá rằng "Làm ơn nới lỏng cái xích sắt ấy một chút... nó nặng quá!"
 
Sơ được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1992. Vào năm kế đó, khi Ðức Thánh Cha thực hiện cuộc tông du sang Phi Châu, mẹ bề trên dòng Canossa đã dâng lên ngài các di tích của Chân Phước Josephine. Trong bài giảng, Đức giáo hoàng nói: "Hãy vui lên, hỡi tất cả Phi Châu! Bakhita đã trở lại với ngươi: ngài là con gái của Sudan, bị bán làm nô lệ như một món hàng, tuy thế ngài vẫn tự do: tự do của các thánh".
 
Vào tháng Mười 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài.
 
Lời Trích
"Khi nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú, tôi tự nhủ: 'Ai có thể là Chủ Nhân của những vật mỹ miều ấy?' Tôi vô cùng khát khao để thấy Người, để biết Người và để thần phục Người" (Chân Phước Josephine Bakhita).
 

 

Người Tín Hữu / Theo Vết Chân Người và http://giaophanvinhlong.net/thanh-bakhita-josephine.html