SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

M
ùa Thường Niên Tuần VI Năm C (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Ngày Thường)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


 

Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: Gr 17, 5-8

"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ðây Chúa phán: "Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5c).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.- Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 12. 16-20

"Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu Ðức Kitô được rao giảng rằng Người đã từ cõi chết sống lại, thì làm sao có người trong anh em cho rằng không có sự sống lại từ cõi chết? Vì nếu kẻ chết không sống lại, Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền, và hiện anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em. Như thế ai đã chết trong Ðức Kitô, cũng bị tiêu huỷ cả. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong cuộc đời này mà thôi, thì chúng ta là những người vô phúc nhất trong thiên hạ.

Nhưng không, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những người đã yên giấc.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 17. 20-26

"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lk 6, 17. 20-26

 

 

 

 

Suy niệm

 

 

Thật vậy, bài giảng trọn lành (theo Thánh Mathêu) cũng là bài giảng thương xót (theo Thánh Luca), được Chúa Giêsu giảng dạy cho riêng các môn đệ của Người hơn là cho chung dân chúng. Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay mở đầu, Thánh ký Luca đã viết một chi tiết rất quan trọng như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói". 

Người đã nói những gì? Trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay, trước hết, Chúa Giêsu đã nói về bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc", cho dù trái với lý lẽ tự nhiên, và bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn", bất chấp bản chất tốt lợi của chúng, trong khi đó ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu (đầu đoạn 5) chỉ có 8 Mối Phúc Thật, hoàn toàn không có 4 sự dữ tiêu cực như trong Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay.

Trước hết là bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc":

"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà  các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế".

Sau nữa là bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn":

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".

Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, thứ tự như sau: 

1- "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có";

2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê";

3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";

4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi b người ta thù ghéttrục xuất và phỉ bángvà loại trừ như kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng". 

Trước hết, chúng ta thấy thứ tự 4 thứ "phúc" và 4 thứ "khốn" có vẻ rất ăn khớp với nhau như thế này: Về 4 thứ "Phúc" - vì "nghèo" mới "đói", vì "đói" mới "khóc", vì "khóc" mới bị khinh thường "phỉ báng"; trái lại, về 4 thứ "Khốn" - nhờ "giầu" mới "no", nhờ "no" mới "cười", nhờ "cười" mới được "ca tụng". 

Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ, khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người cho là tận thế đến nơi rồi đây.  

Một điển hình có thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho những ai "no nê" đó là những ai thích thưởng thức loại bữa ăn "all you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật vậy, để có thể "ăn thả dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích, nhiều món mình thích mà giá cũng không mắc lắm hay cũng đáng, người ta, trước hết phải nhịn ăn trước đó để có sức mà thưởng thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn này đã là một cái "khốn" đầu tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn kiểu này nữa, đó là một khi ăn món này nhiều thì các món còn lại cũng ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn" thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà nó nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và là cái "khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều tôm hùm hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.

Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay được giải thoát. Thế nhưng, với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian. Họ chọn sống và vui sống theo nguyên tắc bất di bất dịch, nguyên tắc tối yếu bất khả thiếu của ơn cứu độ, đó là thà mất hết và thua thiệt tất cả trên thế gian này mà được cứu độ còn hơn được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn (xem Mathêu 16:26). Họ chính là một Lazaro bất hạnh hơn là người phú hộ may lành (xem Luca 16:19-31)

Hai thành phần được Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay: thành phần bất hạnh mà lại có phúc và thành phần may lành mà lại khốn nạn, đã được Tiên Tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy nguyên do tại sao như thế này: 

"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn". 

Phải, đúng thế, chính vì nguyên nhân phúc và khốn của hai thành phần tương phản nhau trong Bài Phúc Âm hôm nay, như Bài Đọc 1 cho thấy, là ở chỗ kẻ may lành khốn nạn do bởi "tin tưởng người đời", nghĩa là chạy theo thế gian, hoan hưởng thế gian, tôn thờ thế gian, còn người bất hạnh có phúc do bởi "tin tưởng vào Thiên Chúa", chấp nhận tất cả mọi sự theo sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài, mà Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay cũng nhấn mạnh đến niềm tin tưởng vào đời sau, niềm tin tưởng vào một Chúa Kitô Phục Sinh:  

"Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền, và hiện anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em. Như thế ai đã chết trong Ðức Kitô, cũng bị tiêu huỷ cả. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong cuộc đời này mà thôi, thì chúng ta là những người vô phúc nhất trong thiên hạ". 

Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới kêu gọi, ở câu đáp rằng: "Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa", và ở các câu xướng, đã phản ảnh những gì được tiên tri Giêmêria khẳng định trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.

 

 



Thứ Hai


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 4, 1-15. 25

"Cain xông vào giết Abel em mình".

Trích sách Sáng Thế.

Ađam ăn ở với vợ là Evà; bà mang thai, sinh ra Cain, và nói rằng: "Nhờ ơn Chúa, tôi sinh được người con". Bà sinh ra Abel là em. Abel thì chăn chiên, còn Cain thì làm ruộng. Sau một thời gian, Cain lấy hoa trái đồng ruộng dâng lên cho Chúa. Abel cũng bắt các con vật đầu đàn và lấy mỡ mà dâng lên cho Chúa. Chúa đoái nhìn đến Abel và của lễ ông dâng. Còn Cain và của lễ của ông, thì Chúa không nhìn đến, nên Cain quá căm tức và sụ mặt xuống. Chúa nói với Cain: "Tại sao ngươi căm tức, tại sao ngươi sụ mặt như thế? Nếu ngươi làm lành, sao ngươi không ngẩng mặt lên; còn nếu ngươi làm dữ, thì tội đã kề ở cửa ngươi. Lòng ganh tị thúc đẩy ngươi, ngươi phải chế ngự nó".

Cain nói cùng em là Abel rằng: "Chúng ta hãy ra ngoài". Và khi hai anh em đã ra tới đồng, thì Cain xông vào giết Abel em mình. Chúa phán cùng Cain rằng: "Abel, em ngươi đâu?" Cain thưa: "Tôi đâu có biết! Tôi có phải là người giữ em tôi đâu?" Chúa phán: "Ngươi đã làm gì? Tiếng máu em ngươi từ đất kêu thấu đến Ta. Bây giờ, ngươi bị chúc dữ trên phần đất đã mở miệng hút máu em ngươi do tay ngươi làm đổ ra. Khi ngươi trồng tỉa, đất sẽ không sinh hoa trái cho ngươi. Ngươi sẽ đi lang thang khắp mặt đất". Cain thưa cùng Chúa rằng: "Tội ác tôi quá nặng nề, đâu tôi còn đáng tha thứ. Hôm nay Chúa đuổi tôi ra khỏi mặt đất, tôi sẽ ẩn trốn khỏi mặt Chúa và tôi sẽ đi lang thang trên mặt đất, nhưng ai gặp tôi, sẽ giết tôi". Chúa bảo: "Không có vậy đâu, hễ ai giết Cain, thì sẽ bị phạt gấp bảy lần". Rồi Chúa ghi trên Cain một dấu, để ai gặp hắn, sẽ không giết hắn.

Ađam còn ăn ở với vợ, bà sinh một con trai đặt tên là Seth, bà nói: "Thiên Chúa đã ban cho tôi một đứa con trai khác thế cho Abel mà Cain đã giết".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 1 và 8. 16bc-17. 20-21

Ðáp: Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi (c. 14a).

Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. - Ðáp.

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.

3) Ngươi ngồi đâu là buông lời nói xấu anh em, làm tủi nhục cho người con cùng mẹ với ngươi. Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8, 11-13

"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mk 8, 11-13

 

 

Suy niệm

 

  

"Điềm lạ trên trời" - "Tại sao ngươi căm tức, tại sao ngươi sụ mặt như thế?"

 

 

 

Theo truyền thống và văn hóa của dân tộc mình thì trong khi người Hy Lạp (tiêu biểu cho một Âu Châu cổ xưa thiên về lý trí và khoa học) chủ trương triết lý liên quan đến lý lẽ - phải có lý mới đáng tin, thì người Do Thái (tiêu biểu cho một Á Châu đạo hạnh thiên về cảm tình và thần thiêng) chủ trương thần học liên quan đến mạc khải - phải liên quan đến thần linh mới đáng tin.

 

Đó là lý do chúng ta thấy trong khi Âu Châu thiên về khoa học thực nghiệm liên quan đến tính toán và định luật thì Á Châu thiên về đạo lý, ở chỗ có rất nhiều tôn giáo, hay nói đúng hơn, tất cả mọi thứ đạo lớn nổi tiếng trên thế giới này đều xuất phát từ Á Châu: Ấn giáo và Phật giáo từ Ấn Độ, Khổng giáo và Lão giáo từ Trung Hoa, Nhật giáo từ Nhật Bản, Do Thái giáo và Kitô giáo từ Do Thái, Hồi giáo từ thế giới Ả Rập.

 

Bởi thế chúng ta không lạ gì người Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay xin Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy điềm lạ như lòng họ mong muốn đúng như ý nghĩ của họ để nhờ đó, căn cứ vào đó, họ tin vào Người: "Các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người".

 

Tuy điềm lạ liên quan đến Đấng mạc khải thần linh và đáng tin nhưng có nguy cơ trở thành ngẫu tượng, tức trở thành một thứ mê tín dị đoan cao cấp siêu đẳng. Bởi vì con người nói chung và dân Do Thái nói riêng muốn có được một cái gì đó vững chắc để tin, như các dấu lạ hay điềm lạ, những gì họ không thể tự mình làm được và hoàn toàn vượt trên họ, chứng tỏ quyền lực thần linh ở giữa họ. 


Nhưng cái nguy cơ là ở chỗ điềm thiêng dấu lạ mà họ muốn thấy ấy có hợp với ý muốn hay ý nghĩ của họ hay chăng, tức là có đúng với đòi hỏi chủ quan của họ hay chăng thì họ mới tin, bằng không họ vẫn không tin, như trường hợp họ đã phủ nhận sự lạ Chúa Giêsu trừ quỉ vậy (xem Mathêu 12:22-24). Tức họ phải chính là chúa tạo nên các vị chúa của họ và như họ, chứ không phải chính "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) tự tỏ mình ra cho họ đúng như Ngài là.

 

Thế nên, Thánh ký Marcô đã cho chúng ta biết phản ứng của Chúa Kitô trước thành phần xin Người làm một điềm lạ nào đó để nhờ đó họ tin vào Người rằng: "Người thở dài mà nói: 'Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào'. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia".

 

Đúng vậy, chính vì tinh thần vốn tôn thờ ngẫu tượng của họ như cha ông của họ xưa mà Người "sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào", không phải vì Người không chịu làm hay không muốn làm, hoặc không làm được, trái lại, Người vẫn tiếp tục làm để tỏ mình ra cho chung dân chúng cũng như cho riêng họ, dù Người "bỏ họ đó", nhưng "lại xuống thuyền sang bờ bên kia" để tiếp tục sứ vụ và vai trò Thiên Sai Cứu Thế của mình.

 

Chính bản thân Người và các phép lạ Người làm tự bản chất đều là điềm thiêng dấu lạ, nhất là đối với những tâm hồn đơn sơ cởi mở chân thành luôn khao khát và tìm kiếm chân lý thần linh, nhưng đối với thành phần tôn thờ ngẫu tượng như thành phần duy luật giả hình biệt phái và luật sĩ Do Thái nói chung chỉ tìm kiếm bản thân mình hay những gì hợp với mình, thì hoàn toàn không phải, chính vì thế mà, ở một nghĩa nào đó, Người đã dứt khoát "sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào", hay nói đúng hơn, họ sẽ chẳng thấy một điềm lạ nào nơi Người và từ Người... "cho đến khi các ngươi treo Con Người lên" (Gioan 8:28), tức cho đến khi họ thấy được "điềm lạ tiên tri Giona" (Mathêu 12:39) là điềm lạ liên quan đến cuộc Vượt Qua của Người.

 

Hai nhân vật tiêu biểu được Sách Khởi Nguyên trong Bài Đọc 1 hôm nay là hai nhân vật có thể nói tiêu biểu cho hai thái độ đối với thần linh: thái độ hướng thượng là Thiên Chúa tối cao và thái độ hướng nội hay hướng hạ là chính bản thân mình, là chính con người mình, đó là hai anh em của nguyên tổ loài người là Cain và Abel.

 

Trong khi Abel hướng thượng là Thiên Chúa tối cao: "Abel cũng bắt các con vật đầu đàn và lấy mỡ mà dâng lên cho ChúaChúa đoái nhìn đến Abel và của lễ ông dâng", thì Cain vì hướng nội về bản thân mình là tạo vật hèn hạ nên cũng chẳng khác gì hướng hạ và do đó "Cain và của lễ của ông, thì Chúa không nhìn đến".

 

Và chính vì hướng hạ như vậy, không hoàn toàn kính sợ Chúa như Abel em mình, mà "Cain quá căm tức và sụ mặt xuống", nên chính Thiên Chúa đã vạch cho người anh này thấy tại sao Ngài không nhận của lễ của hắn bởi tinh thần hướng hạ của hắn như sau: "Tại sao ngươi căm tức, tại sao ngươi sụ mặt như thế? Nếu ngươi làm lành, sao ngươi không ngẩng mặt lên (ở đây Thiên Chúa đã rõ ràng cho thấy tính cách hướng hạ của Cain!); còn nếu ngươi làm dữ, thì tội đã kề ở cửa ngươi. Lòng ganh tị thúc đẩy ngươi, ngươi phải chế ngự nó".

 

Thế nhưng, cho dù "lòng ganh tị thúc đẩy" Cain thật sự đã "xông vào giết Abel em mình", thậm chí khi bị Thiên Chúa hạch hỏi thì còn chối bỏ những gì xấu xa của mình: "Tôi đâu có biết! Tôi có phải là người giữ em tôi đâu?", Lòng Thương Xót Chúa vẫn không bỏ rơi con người lầm lạc mù quáng này, trái lại, vẫn còn tiếp tục bảo vệ hắn và tỏ mình ra cho hắn, vì hắn dù sao vẫn là một con người, một con người đáng thương hơn cả nạn nhân em hắn nữa:

 

"'Tội ác tôi quá nặng nề, đâu tôi còn đáng tha thứ. Hôm nay Chúa đuổi tôi ra khỏi mặt đất, tôi sẽ ẩn trốn khỏi mặt Chúa và tôi sẽ đi lang thang trên mặt đất, nhưng ai gặp tôi, sẽ giết tôi'. Chúa bảo: 'Không có vậy đâu, hễ ai giết Cain, thì sẽ bị phạt gấp bảy lần'. Rồi Chúa ghi trên Cain một dấu, để ai gặp hắn, sẽ không giết hắn". 


 


Ngày 17/02: Bảy Thánh Lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ

 

Bảy anh em sáng lập dòng Tôi tớ Đức Mẹ

 

Có thể nào bạn tưởng tượng được có bảy người nổi tiếng của thành phố Saigon hoặc Hoa Thịnh Ðốn cùng tụ nhau lại, từ giã gia đình sự nghiệp và sống cô độc trong một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa không? Ðiều đó đã xảy ra trong thế kỷ XIII, ở thành phố Firenza phồn thịnh và văn vật. Lúc ấy, thành phố này tan nát vì tranh chấp chính trị cũng như vì lạc giáo Cathari (trong những điều lầm lạc, họ cho rằng ma quỷ là chúa đối nghịch và Ðức Giêsu chỉ là một thiên thần). Ðời sống luân lý thời ấy thật thấp và tôn giáo dường như không có ý nghĩa gì. Năm 1240, bảy người quý phái của Firenza cùng quyết định ra khỏi thành phố đến một nơi cô quạnh để cầu nguyện và phục vụ Thiên Chúa.  

Thâật vậy, bảy vị thánh này là bảy thương gia tên tuổi ở xứ Florence, thuộc dòng tộc Toscane, sống vào thế kỷ XIII. Sau khi được ơn soi sáng nhân ngày lễ Ðức Mẹ lên trời, bảy anh em đều có cùng một chí hướng tận hiến làm tôi Chúa và mở nước Ðức Mẹ, đã bán hết của cải phân phát cho người nghèo rồi lui về đồng quê ở trong một căn nhà tồi tàn để ngày đêm suy niệm sự thương khó Chúa Giêsu cùng những sự khổ đau của Mẹ Thánh Người.

- Cha Morandi sinh năm 1198 ở Florence, cao niên nhất và làm Bề Trên dòng trong 16 năm đầu và được Chúa gọi về ngày 01/01/1262.

- Cha Bonandi Untêmati chào đời năm 1206, tính hiền hòa và có nhiều tài. Ngài rất ưa thích đời sống thinh lặng suy niệm sự thương khó Chúa Giêsu và Ðức Mẹ. Người từ trần ngày 31/8/1257.

- Cha Monetto Antelara với trí thông minh hiếm có, ngài đã trau dồi văn chương và thần học. Ngày 20/8/1268, ngài được Chúa cất về trời.

- Cha Amideo sinh năm 1024, gia đình ngài bị tản mác vì chiến tranh. Tính tình luôn vui vẻ trẻ trung trong một tâm hồn quảng đại và trong trắng. Ngài mất ngày 18/4/1266.

- Cha Sottinêo và cha Ugucxio là hai người bạn thân thiết từ hồi thơ ấu. Sottinêo thích đời sống tĩnh mịch và suy niệm. Ugucxio yêu thích hoạt động bác ái giúp đỡ người nghèo và bệnh nhân. Cả hai là cánh tay phải của dòng và đều được Chúa cất về ngày 03/5/1282.

- Thầy Alêxu Phacônêri sinh năm 1200, trẻ tuổi nhất và sống lâu nhất trong dòng. Mặc dù được trí thông minh đặc biệt, nhưng luôn sống khiêm tốn, chân thành và trọng đức khiết tịnh. Ngài được Chúa gọi về khi đầy 110 tuổi.

Mộ các ngài được xây cất cùng một nơi và Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII đã phong các ngài lên bậc Hiển Thánh của Giáo Hội.

Dịp lễ Đức Mẹ Mông Triệu này, các ngài đã được Đức Mẹ thúc đẩy sống đời hoàn thiện. Sau khi bán hết của cải, công việc đầu tiên của họ là việc cấp dưỡng cho thân nhân (vì hai người vẫn còn lập gia đình và hai người nữa goá vợ) và phân phát cho những người nghèo hèn túng khổ và rút vào núi Senario, gần Firenza. Nơi đó “họ hoàn toàn tận hiến để phục vụ Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ Maria cách trung thành hơn”. Bản văn kể tiếp: “Để theo gương anh em, họ đón nhận thêm vài người… Tất cả tạo thành cộng đoàn Tôi Tớ Đức Mẹ, dựa trên sự khiêm nhường, sống chung theo quyết định của anh em và tuân giữ luật khó nghèo.” Bảy người cùng sống khó nghèo, khắc khổ bằng của ăn xin hằng ngày. Các ngài chọn luật dòng thánh Âu-tinh và thành lập dòng “Tôi tớ Đức Mẹ” . Mục đích của dòng là rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh và sự thương khó của Mẹ Maria.

Một người tu dòng này kể lại công cuộc lập dòng như sau: Đó là bảy người rất đáng kính trọng mà Đức Mẹ kết hợp lại thành một nhóm bảy ngôi sao, vì họ hợp nhất nhau cả hồn xác. Ngài đã dùng họ để khởi sự dòng tôi tớ Ngài.

Khi tôi vào dòng, không ai trong số bảy người đó còn sống, trừ một người tên A-lê-xi-ô. Đức Mẹ đã muốn để anh sống đến bây giờ hầu chúng tôi có thể biết về nguồn gốc dòng tu nhờ anh kể lại. Như chính tôi đã kinh nghiệm và thấy tận mắt đời sống của anh A-lê-xi-ô bấy giờ, không những có sức khuyến khích người ta nhờ gương sáng, mà còn làm cho người ta nhận ra được đời sống trọn lành của anh, của các bạn đồng nghiệp với anh và của dòng.

Được Chúa soi sáng và được Đức Mẹ thúc đẩy cách đặc biệt, khi đã quyết định sống thành cộng đồng, các anh bỏ nhà cửa và gia quyến; để lại cho họ những gì là cần thiết, còn bao nhiêu thì phân phát cho kẻ nghèo. Rồi các anh tìm những người có ý kiến hay, có đời sống tốt, có gương sáng đẹp để bày tỏ dự tính mình cho họ.

Thế là anh em trèo lên đỉnh núi Sê-na-ri-ô, dựng một cái nhà nhỏ theo ý mình, rồi đưa nhau lên ở trên đó. Tại đây, anh em mới nhận ra rằng không những mình phải nên thánh mà cũng còn phải chiêu mộ đồng nghiệp để phát triển dòng mới mà Đức Mẹ đã dùng mình để khởi công. Thế nên, sau khi đã quyết định nhận thêm người, anh em đã rước thêm một ít người khác và làm cho dòng to lớn thêm. Tất cả mọi công việc ấy, trước là do Đức Mẹ dựng lên, sau là nhờ tinh thần khiêm nhường của anh em; thành tựu nhờ anh em đồng tâm nhất trí, và bảo tồn được nhờ đức khó nghèo.

Cộng đoàn huynh đệ này, người Florence gọi là “Những Kẻ phục vụ – Servites”, dần dần nảy sinh thành một Dòng tôn giáo, dựa theo luật thánh Augustinô, thích ứng với các sống hiện tại của họ. Dòng Tôi Tớ Đức Bà được Hội Thánh công nhận vào năm 1304 và cả bảy bị thành lập được phong thánh vào năm 1888 do Đức Giáo Hoàng Léô XIII. Dòng đã dần dần thiết lập rộng ra tại các nước Pháp và Đức.

Mặc dầu dòng gặp trăm bề khó khăn lúc ban đầu, nhưng dòng đã thực sự phát triển mạnh mẽ.

Ngày nay Dòng Tôi Tớ Đức Bà có mặt trên Mỹ châu, Nam Phi, Australia và vùng Ấn Độ. Sống thành những cộng đoàn nhỏ, các tu sĩ này đáp ứng các đòi hỏi hiện tại: Giáo xứ, dạy dỗ, tuyên úy…

Nhà dòng đã chọn bốn đặc điểm sau đây làm quy luật sống:

Đặc điểm thứ nhất là về đời sống Hội Thánh: Cả bảy anh em đều nhất quyết giữ mình độc thân hoặc đời sống khiết tịnh trọn đời, mặc dầu có người chưa lập gia đình, người thì đã thành hôn, người khác lại đã thoát khỏi vướng bận phu thê vì lẽ bạn mình đã chết.

Điểm thứ hai liên hệ đến sự phồn vinh của thị xã: Là vì trong bảy anh em, người làm thương mại, kẻ trao đổi hàng hoá, người lại làm nghề buôn. Nhưng khi đã tìm được ngọc quý tức là dòng tu, thì không những anh em phân phát tất cả tài sản cho kẻ nghèo, mà còn vui vẻ dâng mình phục vụ Thiên Chúa và Đức Mẹ cách trung thành.

Điểm thứ ba là lòng kính mến Đức Mẹ. Ở Phơ-lô-răng, bấy giờ có một hội kính Đức Mẹ, thành lập đã từ xưa. Vì lẽ sự cổ xưa ấy, cũng như vì sự đông đảo và thánh thiện của những người trong hội, hội vượt xa các hội khác và được coi là hội lớn của Đức Mẹ. Bảy anh em trước khi đến sống chung với nhau, đã ở trong hội này, họ tỏ ra yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt.

Điểm thứ tư là về đời sống thiêng liêng. Họ yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Họ quy hết mọi việc về Người, theo đúng như thứ tự đòi buộc. Họ tôn vinh Người trong tư tưởng, lời nói và việc làm.

Cả bảy vị thánh lập dòng đã được Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII tôn phong Hiển thánh, dịp lễ mừng 50 năm linh mục của ngài.

Cuộc sống của bảy vị lập dòng Tôi Tớ Đức Bà, ngoài những điểm khác, đặc biệt là tình yêu trìu mến với Đức Trinh Nữ Maria, và qua Mẹ, là Đức Giêsu. Theo linh đạo của dòng, tình yêu phải được sống trong tiếng thưa Vâng của Đức Maria, theo gương Mẹ đã trao ban suốt cuộc đời, đặc biệt dưới chân Thánh Giá.

Đời sống cộng đoàn được các thánh lập Dòng dựa trên sự khiêm tốn, hoà thuận, nghèo khó, luôn thực tập tình yêu đối với Thiên Chúa trên hết mọi sự, đồng thời phục vụ các Kitô hữu. Tình yêu đã nối kết họ giữa nhau và với Thiên Chúa, thúc đẩy họ đến với các thành thị loài người, thường trong thời gian huynh đệ tương tàn (thời của họ). Các tu sĩ dòng Tôi Tớ Đức Bà trở thành những người đi kiến tạo hoà bình và phục vụ kẻ khốn khổ.

Ơn gọi của bảy vị thánh lập Dòng để sống một cuộc đời anh hùng thánh thiện, đã thúc đẩy họ từ bỏ tất cả. “Và khi họ tìm được viên ngọc quí, không những họ chia sẻ tài sản cho người nghèo, mà còn tận hiến cách vui vẻ cho Thiên Chúa và cho Đức Trinh Nữ Maria để phục vụ thật trung thành”. Phúc Âm Thánh lễ gợi lên dụ ngôn người buôn ngọc quí (Mt13,44-46), trong khi bài đọc một nhắc đến đời sống cộng đoàn của bảy vị. Họ sống trên núi Senario cuộc sống cộng đoàn và cầu nguyện của Tông đồ xưa ở Giêrusalem, một lòng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đức Giêsu (Cv 1,12-14).

Lạy Thiên Chúa từ bi, Chúa đã ban cho bảy vị thánh lập dòng Tôi Tớ Đức Mẹ lòng yêu mến nồng nàn, khiến các ngài sùng kính Đức Mẹ và nhiệt thành củng cố đức tin của dân Chúa. Xin cũng ban cho chúng con một lòng yêu mến nồng nàn như vậy (Lời nguyện Nhập lễ, lễ bảy thánh lập dòng tôi tớ Đức Mẹ).

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp




 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 6, 5-8; 7, 1-5.10

"Ta sẽ huỷ diệt khỏi mặt đất loài người mà Ta đã dựng nên"

Trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa thấy tội ác loài người lan tràn trên mặt đất, mọi tư tưởng trong lòng đều luôn luôn hướng về đàng xấu, nên Chúa lấy làm tiếc vì đã tạo dựng loài người trên mặt đất, Người đau lòng mà nói: "Ta sẽ huỷ diệt khỏi mặt đất loài người mà Ta đã dựng nên, từ loài người đến loài vật, từ rắn rết đến chim trời, vì Ta lấy làm tiếc đã tạo dựng nên chúng". Nhưng ông Noe được ơn nghĩa trước mặt Chúa.

Chúa phán cùng Noe rằng: "Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào trong tàu, vì trong thế hệ này, Ta chỉ thấy có ngươi là công chính trước mặt Ta. Trong các súc vật thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con đực bảy con cái, còn trong các loài vật không thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ hai con đực hai con cái. Nhưng các chim trời, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con trống bảy con mái, để bảo tồn nòi giống các loài ấy trên mặt đất, vì còn bảy ngày nữa, Ta sẽ cho mưa trên mặt đất suốt bốn mươi đêm ngày, và Ta sẽ huỷ diệt khỏi mặt đất tất cả các loài Ta đã dựng nên". Vậy Noe thi hành mọi điều Chúa đã truyền dạy. Và sau bảy ngày, nước lụt đã xảy đến trên đất.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 28, 1a và 2. 3ac-4. 3b và 9b-10.

Ðáp: Chúa sẽ chúc phúc cho dân Người trong cảnh thái bình (c. 11b).

Xướng: 1) Các con cái Thiên Chúa, hãy dâng kính Chúa, Hãy dâng kính Chúa vinh quang xứng với danh Người, hãy mang lễ phục thánh để thờ lạy Chúa. - Ðáp.

2) Tiếng Chúa vang dội trên mặt nước, Chúa ngự trên muôn ngàn sóng nước. Tiếng Chúa phán ra trong uy quyền, tiếng Chúa phán ra trong oai vệ. - Ðáp.

3) Thiên Chúa oai nghiêm làm cho sấm sét nổ ran, và trong thánh đài của Chúa mọi người kêu lên: Vinh quang Chúa ngự trị trong cơn hồng thủy, và Chúa làm vua ngự trị tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8, 14-21

"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh". Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng". Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?"

Ðó là lời Chúa.

 

Parroquia Santa Rosa de Lima - Chajarí - Evangelio según San Marcos 8,14-21.  Los discípulos se habían olvidado de llevar pan y no tenían más que un pan  en la barca. Jesús

 

 

Suy niệm


 

 "Men biệt phái và men Hêrôđê" - "Ta lấy làm tiếc đã tạo dựng nên chúng"

 

Chính vì thành phần các tông đồ vô học hay ít học, đa số là dân chài lưới bình dân và là giới hạ lưu trong xã hội Do Thái thời bấy giờ mà các vị dễ bị mặc cảm trước và bị ảnh hưởng bởi thành phần có hạng trong dân, thành phần trí thức, thành phần dạy luật cho dân là biệt phái và luật sĩ. Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Ba Tuần VI hôm nay đã cho thấy rõ điều đó. Và cũng chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nhận xét về các vị rất đúng: "Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe?... Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?"

Thật vậy, trong khi Chúa Giêsu cẩn thận căn dặn các vị về gương mù gương xấu đặc biệt của thành phần biệt phái chỉ sống giả hình là những gì các tông đồ cần phải tránh, không được theo: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê", thì các vị lại hiểu theo nghĩa đen, lại tưởng nghĩ một cách sai lạc đi: "Tại mình không có bánh".

Đúng thế, các vị đã hiểu theo nghĩa đen lời căn dặn của Chúa Giêsu liên quan đến "men" là chất được dùng để làm "bánh". Tức là nếu các vị "có bánh" thì Thày của các vị đã không nói đến "men", dù là "men" của ai, của bất cứ ai, bao gồm cả "men" của người biệt phái hay của phái Hêrôđê, vì hai thành phần này dầu sao cũng là những người sử dụng men để làm bánh như chung dân gian thôi. Bởi vậy, các tông đồ mới suy ra "tại mình không có bánh"!

Và chính vì thế nên Chúa Giêsu mới chứng tỏ cho các vị biết các vị đã hiểu lầm lời căn dặn rất quan trọng của Người. Ở chỗ, Người nhắc lại 2 lần Người đã làm phép lạ bánh hóa ra nhiều ngay trước mắt của các vị, đến độ các vị còn nhớ rõ và trả lời vanh vách hai câu hỏi gợi nhớ của Người: "'Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?' Các ông thưa: 'Mười hai thúng'. - 'Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?' Họ thưa: 'Bảy thúng'".

Đó là lý do ngay sau hai câu trả lời rất chính xác của các vị thì Người đã trách các vị rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem (đặc biệt là những gì Chúa Giêsu đã làm qua hai lần Người hóa bánh ra nhiều), có tai mà không nghe? (cũng qua hai lần Người đã bảo các vị lo cho dân chúng ăn và thu lại các mẩu bánh vụn còn dư)".

Như thế có thể suy ra rằng, chính lúc Chúa Giêsu bảo các tông đồ hãy tránh làm một điều tiêu cực là bắt chước hay bị nhiễm lây gương mù gương xấu của thành phần biệt phái giả hình thì trong lời căn dặn này của Người còn bao gồm một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, đó là Người có ý khuyên các vị hãy sống trung thực như một chứng nhân của Người bằng đức bác ái yêu thương như Người thì các vị có thể tiếp tục phép lạ hóa bánh ra nhiều như Người đã làm cho dân chúng ăn no nê đến độ còn dư, để nhờ đó mà cung cấp sự sống thần linh, sự sống đời đời, sự sống viên mãn cho con người ta, vì Người quả thực là "Bánh Sự Sống" (Gioan 6:35), một Tấm Bánh Bẻ Ra, một Tấm Bánh được làm nên bởi men "yêu thương đến cùng" (Gioan 13:1) của Người, ở chỗ "hiến mạng sống mình cho chiên được sống và sống viên mãn" (Gioan 10:10).

Nếu thế gian "không thể nào không có gương mù" (Mathêu 18:7) thì gương mù, ở cấp độ cao nhất của nó, chính là tội lỗi của con người, là tình trạng xấu xa của con người, bất xứng với nhân phẩm cùng nhân cách làm người của họ nói chung và với ơn gọi cùng thân phận làm con cái Thiên Chúa của họ là thành phần Kitô hữu nói riêng.

Bởi thế, gương mù gương xấu là những gì hoàn toàn và tuyệt đối bất xứng với Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng dựng nên loài người là để được hiệp thông thần linh với Ngài, là nên trọn lành như Ngài (xem Mathêu 5:48), cần phải hủy diệt đi, đúng hơn cần phải được thanh tẩy (nên mới liên quan đến nước, hình ảnh báo trước Phép Rửa cứu độ), như Ngài đã thực hiện trong thời tổ phụ Noe xưa, được Sách Khởi Nguyên thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Thiên Chúa thấy tội ác loài người lan tràn trên mặt đất, mọi tư tưởng trong lòng đều luôn luôn hướng về đàng xấu, nên Chúa lấy làm tiếc vì đã tạo dựng loài người trên mặt đất, Người đau lòng mà nói: 'Ta sẽ huỷ diệt khỏi mặt đất loài người mà Ta đã dựng nên, từ loài người đến loài vật, từ rắn rết đến chim trời, vì Ta lấy làm tiếc đã tạo dựng nên chúng'".

"Ta lấy làm tiếc đã tạo dựng nên chúng" trong lời Thiên Chúa phán với tổ phụ Noe đây không có nghĩa là Ngài đã làm gì sai trái, đã dựng nên những gì tự bản chất vốn hư hỏng, nghĩa là Ngài là Đấng chẳng những thiếu khôn ngoan mà còn bất hảo, trái lại, sau khi nói câu này xong, Ngài đã thực hiện một hành động đầy khôn ngoan và toàn thiện của Ngài, đó là hủy diệt những gì xấu xa nơi riêng loài người và chung sinh vật, nhưng vẫn bảo tồn chúng để tiếp tục tạo nên cho chúng những gì mới mẻ hơn, xứng đáng hơn với Ngài, chứ không hoàn toàn hủy diệt chúng đi cho tới muôn đời khỏi Thánh Nhan vô cùng uy nghi cao cả của Ngài.

Đó là lý do trước khi thanh tẩy thế gian cho khỏi gương mù là tội lỗi xấu xa bất xứng để cho chúng được tái sinh tốt đẹp hơn đúng như dự án thần linh tạo dựng của mình, Ngài đã bảo tổ phụ Noe rằng: "Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào trong tàu... Trong các súc vật thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con đực bảy con cái, còn trong các loài vật không thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ hai con đực hai con cái. Nhưng các chim trời, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con trống bảy con mái, để bảo tồn nòi giống các loài ấy trên mặt đất..." 

 

Thứ


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 8, 6-13. 20-22

"Ông nhìn thấy mặt đất đã khô ráo".

Trích sách Sáng Thế.

Sau bốn mươi ngày, Noe mở cửa sổ tàu mà thả một con quạ. Nó bay đi bay về cho đến khi nước trên mặt đất khô cạn thì mới không bay về nữa. Sau con quạ, ông cũng thả một con chim bồ câu, để thử coi nước trên mặt đất đã cạn chưa. Nhưng nó không tìm được chỗ đậu, nên trở về với ông trong tàu, vì nước còn đầy khắp mặt đất. Ông giơ tay bắt nó đem vào tàu. Chờ bảy ngày nữa, ông lại thả chim bồ câu ra khỏi tàu. Ðến chiều, nó bay trở về, mỏ ngậm một cành ô liu xanh tươi. Vậy ông Noe hiểu rằng nước trên mặt đất đã khô cạn. Nhưng ông còn đợi thêm bảy ngày nữa, ông thả chim bồ câu ra, và nó không trở về.

Ngày thứ nhất tháng thứ nhất, năm ông Noe được sáu trăm lẻ một tuổi, thì nước trên mặt đất đã rút đi. Noe dỡ mui tàu và nhìn thấy mặt đất đã khô ráo. Noe dựng một bàn thờ tế lễ Chúa; ông bắt các gia súc và chim chóc thanh sạch mà dâng làm của lễ toàn thiêu trên bàn thờ. Thiên Chúa hưởng mùi thơm tho và nói: "Từ nay trở đi, chẳng bao giờ vì cớ nhân loại mà Ta chúc dữ trái đất nữa, vì tâm tình và tư tưởng lòng con người đã nghiêng chiều về đàng trái từ niên thiếu. Vậy Ta sẽ không còn tiêu diệt mọi sinh vật như Ta đã làm. Từ đây, bao lâu còn vũ trụ, thì mùa gieo mùa gặt, giá rét nắng nôi, mùa hạ mùa đông, đêm và ngày vẫn còn tiếp diễn".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 14-15. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Con lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con? Con sẽ lãnh chén cứu độ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.

2) Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. Trước mặt Chúa thật là quý hoá, cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. - Ðáp.

3) Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giêrusalem hỡi. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8, 22-26

"Người mù khỏi hẳn và thấy được mọi vật rõ ràng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: "Ngươi có thấy gì không?" Anh nhìn lên và trả lời: "Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi". Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: "Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

Suy niệm

 

 

"Tôi thấy người ta đi lại như cây cối" - "một cành ô liu xanh tươi"

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Tư tuần VI Thường Niên hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù ở Betsaida. Thế nhưng, cách thức chữa lành của Người trong trường hợp này thật là đặc biệt, bao gồm những cử chỉ và tiến trình của một việc chữa trị (treatment) hơn là chữa lành (healing) đùng một cái là xong, chẳng hạn bằng một lời truyền.  

Dân chúng thì vẫn cứ tưởng như thế, cứ tưởng Chúa Giêsu đầy quyền năng chỉ cần một cử chỉ đơn giản nào đó là nạn nhân liền được khỏi, như họ đã từng chứng kiến ở những trường hợp khác, thậm chí chỉ cần sờ vào gấu áo của Người cũng được khỏi như trường hợp của người đàn bà bị loạn huyết 12 năm trong Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần IV Thường Niên 2 tuần trước.   

Đó là lý do Thánh ký Marco đã cho chúng ta thấy chi tiết về khuynh hướng "mì ăn liền" này nơi dân chúng: "Người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy", không phải để chúc lành suông cho nạn nhân bị mù này, mà là để chữa lành cho con người mù lòa bất hạnh đáng thương ấy. Tuy nhiên, chắc họ cũng lấy làm lạ là lần này Đấng mà họ tin tưởng đầy quyền năng chữa lành ấy lại tác hành một cách lạ lùng. Ở chỗ: 

"Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: 'Ngươi có thấy gì không?' Anh nhìn lên và trả lời: 'Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi'. Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: 'Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai'". 

Trong trường hợp chữa lành cho nạn nhân mù ở Betsaida này, Chúa Giêsu không dùng cả cử chỉ lẫn lời nói "Ephrata - Hãy mở ra" như trong lần Người chữa lành người điếc là nạn nhân Người cũng dẫn ra khỏi đám đông và cũng lấy tay chạm đến cả tai lẫn lưỡi của nạn nhân điếc, như bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần V Thường Niên thuật lại. Lần này Chúa Giêsu chỉ dùng đến cử chỉ chính yếu là "đặt tay" mà thôi, mà lại phải đặt đến 2 lần mới xong. Tại sao thế? 

Tại vì tùy theo người và tùy theo bệnh mà chữa lành. Thật ra không phải là Chúa Giêsu không thể chữa lành cho nạn nhân mù này bằng việc Người đặt tay lần thứ nhất hay chỉ cần một lần đặt tay duy nhất. Người chỉ muốn cho thấy rằng việc chữa lành của Người nơi con người và đối với con người là một tiến trình, từ chưa trọn: "'Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi'", đến viên trọn: "anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng.

Tiến trình chữa lành nơi nạn nhân bị mù ở Betsaida trong bài Phúc Âm hôm nay được Chúa Giêsu cố ý làm như thế nên mới hỏi chính nạn nhân đương sự: "Ngươi có thấy gì không?", xem nhãn quan của anh ta được tiến triển từ mù lòa đến chỗ được thấy ra sao cho đến khi hoàn toàn bình thường. Không phải là Người không biết đến mức độ nhãn quan của anh ta sau lần đặt tay đầu tiên của Người, vì Người biết được những gì xuất phát từ Người (xem Marco 5:30) nhưng Người cố ý để anh ta tự cho biết và nhận định về tình trạng của anh ta rồi Người mới chữa tiếp, để anh ta có thể nhìn thấy được tất cả sự thật chẳng những về ngoại cảnh nói chung mà nhất là sự thật về tha nhân nói riêng. 

Thật vậy, đầu tiên nạn nhân bị mù ở Betsaida chỉ "thấy người ta đi lại như cây cối" sau đó mới thấy con người ta thật sự là con người với nguyên vẹn hình hài của họ chứ không phải "như cây cối" nữa, nhờ đó anh ta cũng "thấy được mọi vật rõ ràng" đúng như bản chất và giá trị của chúng, chứ không còn lẫn lộn giữa người với vật hay giữa vật với người nữa, như thực tế làm người và sống đạo vẫn cho thấy, nhiều khi thậm chí chúng ta còn coi vật hơn người, còn coi tha nhân đồng loại như một cơ phận của một bộ máy kinh tế sản xuất v.v. 

Tuy nhiên, để được hoàn toàn sáng mắt nhờ đó có thể thấy được tất cả sự thật về tạo vật chung quanh mình và nhất là về chính bản thân mình, con người cần được chữa lành, bởi chính Thần Linh của Thiên Chúa qua việc đặt tay của Chúa Giêsu. Đúng thế, sở dĩ nạn nhân bị mù trong bài Phúc Âm hôm nay chưa được hoàn toàn chữa lành là vì Chúa Giêsu chưa đặt tay của Người lên mắt của anh ta, lần đầu Người mới "đặt tay trên anh" để "hỏi" mà thôi chứ chưa trực tiếp "đặt tay trên mắt người mù".

Lần đặt tay trên mình nạn nhân mà hỏi theo sau cử chỉ "phun nước miếng vào mắt anh" và tác dụng của việc phun của Người cùng với nước miếng của Người mới chỉ làm cho anh ta "thấy người ta đi lại như cây cối" mà thôi, và vì thế cần phải kèm theo cả cử chỉ "đặt tay lên mắt người mù" nữa thì nạn nhân mới hoàn toàn được chữa lành, được thấy tất cả sự thật, như các vị tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, cho dù "các con đã được thanh sạch nhờ lời Thày (mà "nước miếng" phun ra từ miệng của Người trong bài Phúc Âm hôm nay là tiêu biểu)" (Gioan 15:3), nhưng vẫn chưa đủ, vẫn cần phải có "Thần Chân Lý" là Đấng (được thông ban từ việc "đặt tay" của Chúa Kitô "đầy ân sủng và chân lý" - Gioan 1:14) "dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13).

Hình ảnh nạn nhân mù được Chúa Giêsu chữa lành trong Bài Phúc Âm hôm nay đã được ẩn ý trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua câu chuyện hậu biến cố lụt đại hồng thủy thời tổ phụ Noe. Loài người nói chung, bởi nguyên tội, đã như bị mù về tâm linh ngay từ thời niên thiếu, nghĩa là sau thời "nhân chi sơ tính bản thiện" là thời con người bấy giờ chưa đủ trí khôn suy nghĩ hầu như chẳng biết và ý thức gì về tội lỗi, cho đến thời niên thiếu khi có trí khôn thì trở thành gian ác không nhiều thì ít, như chính Thiên Chúa đã nhận định: "tâm tình và tư tưởng lòng con người đã nghiêng chiều về đàng trái từ niên thiếu".

Tác động Chúa Giêsu "phun nước miếng vào mắt" nạn nhân bị mù mang ý nghĩa thanh tẩy cái mù lòa của con người, hay ý nghĩa chiếu soi vào bóng tối của con người, cũng đã được chất chứa nơi việc Thiên Chúa thanh tẩy sinh vật của Người nói chung và con người gian ác nói riêng bằng nước, bằng một trận đại hồng thủy, một cuộc đại hồng thủy chỉ hoàn toàn chấm dứt khi tổ phụ Noe "thả chim bồ câu ra khỏi tàu. Ðến chiều, nó bay trở về, mỏ ngậm một cành ô liu xanh tươi", một con "chim bồ câu" tiêu biểu cho Thần Linh của Thiên Chúa và "cành oliu xanh tươi" ám chỉ sự sống, cả hai đều phản ảnh việc Chúa Giêsu đặt tay của Người lên mắt của nạn nhân mù lòa, một tác động Thần Linh đã mang lại sự sống mới cho nạn nhân.


Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 9, 1-13

"Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất".

Trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa chúc phúc cho Noe và con cái ông. Người phán bảo rằng: "Các ngươi hãy sinh sản ra nhiều cho đầy mặt đất. Mọi thú vật dưới đất, mọi chim chóc trên trời, cùng mọi động vật trên mặt đất và mọi loài cá dưới biển đều phải kính sợ các ngươi: Tất cả đều được giao phó trong tay các ngươi. Tất cả những động vật còn sống đều là thức ăn của các ngươi, cũng như Ta ban cho các ngươi mọi thứ rau đậu xanh tươi, ngoại trừ thịt còn ứ máu thì các ngươi đừng ăn, vì Ta sẽ đòi giá máu sinh mạng của các ngươi. Ta sẽ đòi giá máu các ngươi do muông thú sát hại, do tay con người và do tay anh em sát hại. Hễ ai làm đổ máu người, thì máu nó cũng sẽ phải do người mà đổ ra, vì loài người được tác tạo giống hình ảnh Thiên Chúa. Các ngươi hãy sinh sản ra nhiều cho đầy mặt đất".

Thiên Chúa lại phán cùng ông Noe và con cái ông rằng: "Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi, như chim chóc, gia súc, tất cả những thú vật đang sống trên mặt đất với các ngươi, những gì ra khỏi tàu và toàn thể thú vật trên mặt đất. Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi; nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa".

Và Thiên Chúa phán: "Ðây là dấu chỉ giao ước ký kết giữa Ta với các ngươi, và tất cả sinh vật đang ở với các ngươi và sau này mãi mãi. Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 101, 16-18. 19-21. 29 và 22-23

Ðáp: Từ trời cao Chúa đã nhìn xuống trần thế (c. 20b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài, khi Chúa sẽ tái lập Sion. Chúa xuất hiện trong vinh quang xán lạn, Chúa sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van. - Ðáp.

2) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã nhìn xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

3) Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ được an cư, và miêu duệ chúng sẽ tồn tại trước thiên nhan, để người ta truyền bá danh Chúa tại Sion, và lời khen ngợi Ngài ở Giêrusalem, khi chư dân cùng nhau quy tụ và các vua nhóm họp để phụng thờ Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8, 27-33

"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Mk 8, 27-33

 

Suy niệm

 

 

 

"Thày là Đức Kitô" - "dấu chỉ giao ước ký kết giữa Ta với các ngươi"

 

 

 

Vấn đề chính yếu của Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Năm tuần VI Thường Niên hôm nay là vấn đề nhận biết căn tính của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, một nhận thức vô cùng quan trọng đối với nền tảng đức tin Kitô giáo. Vì nếu nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét không phải "là Đức Kitô", nghĩa là không phải là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái thì Người cũng không phải là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, mà chỉ là một vị giáo tổ thuần nhân như Đức Phật Thích Ca sáng lập Phật giáo hay Nhà Tiên Tri Muhammed sáng lập Hồi giáo, hoặc như Khổng Tử với Khổng giáo hay Lão Tử với Lão giáo thôi.

 

Chính nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đã sống cả cuộc đời trần gian của mình để chứng thực mình, bằng lời nói, việc làm, nhất là bằng chính biến cố Vượt Qua tột đỉnh của mình, "là Đức Kitô" (Marco 8:29), "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), "đã đến trong thế gian" (Gioan 11:27). Đó là "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) về một con người mang tên Giêsu ở Nazarét, con ông Giuse và bà Maria, một chân lý vô cùng quan trọng liên quan đến thực tại thần linh về nhân vật lịch sử thần linh này: Ngài là ai? Đó là lý do: "Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: 'Người ta bảo Thầy là ai?'"

 

Đây là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất Chúa Giêsu tự động hỏi, đúng hơn trắc nghiệm thành phần môn đệ được Người tuyển chọn làm tông đồ để trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người xem các vị ý thức về Người ra sao hay tới đâu. Thật vậy, sau một thời gian được sống gần gũi với Người, được tận mắt xem thấy Người cùng với các việc Người làm lẫn thái độ Người sống, tận tai nghe Người giảng dạy và tận tay được đụng chạm đến Người (xem 1Gioan 1:1-2), chính các tông đồ (chứ không phải "người ta bảo Thày là ai?") đã được Người trắc nghiệm và được các vị trả lời qua vị đại diện tông đồ đoàn là Thánh Phêrô rằng: "Thày là Đức Kitô".

 

Hình như câu tuyên xưng này của tông đồ Phêrô rất chính xác rồi, nên "Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả", như các tông đồ đã quả thực nhận thức không sai. Đúng thế, việc Chúa Giêsu trắc nghiệm các tông đồ về căn tính chân thực vô cùng quan trọng của Người không phải là để các vị loan báo thực tại thần linh này, loan truyền chân lý cứu độ về Người này, mà là để cho Người tiếp tục tỏ mình ra cho các vị hơn nữa, tỏ cho các vị thấy một mầu nhiệm về Người, một mầu nhiệm vô cùng kinh hoàng mà Người không thể tiết lộ cho các vị biết cho đến sau khi trắc nghiệm các vị, một mầu nhiệm liên quan đến chính căn tính "là Đức Kitô" của Người, những gì vừa được các vị xác tín và chí lý tuyên xưng.

 

Mầu nhiệm kinh hoàng khủng khiếp đối với thành phần tông đồ theo Người đó là: "Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó". Chính vì là một mầu nhiệm hết sức kinh hoàng khủng khiếp đối với các tông đồ như thế mà các vị chẳng hiểu gì hết, tá hỏa tam tinh lên khi vừa nghe xong, nhất là người tông đồ Phêrô hăng máu nhất, vị đã tỏ ra hoảng hốt tới độ "kéo Người lui ra mà can trách Người".

 

Không ngờ, vị tông đồ đầy thành tâm thiện chí này và cả các tông đồ khác lại càng bàng hoảng sửng sốt hơn khi chính hành động đầy kính mến của các ngài, qua tông đồ Phêrô, tỏ ra muốn bảo vệ Người, muốn điều tốt nhất cho Người, lại bị Người thậm tệ quở trách như chưa bao giờ thấy: "Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: 'Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người'". Như thể các vị vừa vấp phạm một điều gì dữ dằn quá sức tưởng tượng, đến độ đã trở thành "Satan" trước nhan Người. Nghĩa là các vị đã cám dỗ Người (vì "Satan là tên cám dỗ cả và thế gian" - Khải Huyền 12:9) làm những gì trái ngược với Cha Người là Đấng đã sai Người, một điều quá cấm kỵ đối với Người, Đấng từ trời xuống thế gian không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (xem Gioan 6:38).

 

Thật ra, xét theo lý lẽ trần gian thì tông đồ Phêrô cũng chẳng sai gì, bởi theo ngài, cũng như bất cứ một người bình thường nào, đã là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai từ Thiên Chúa mà đến thì phải là Đấng có quyền năng vô địch, có thể giải thoát dân của Người khỏi lầm than khốn khó, khỏi cảnh làm nô lệ ngoại bang, như thời các Quan Án xưa sau khi dân vào Đất Hứa và trước thời kỳ quân chủ của dân Do Thái. Đằng này, Đấng Thiên Sai như được ngài tuyên xưng và được Thày công nhận như thế mà lại được chính Thày tiết lộ cho biết rằng chính bản thân Người "sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi" nghĩa là gì, không thể nào chấp nhận được.

 

Đúng thế, tông đồ Phêrô bị Thày nặng lời khiển trách chỉ "vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người", mà "việc loài người" thì bao giờ cũng tầm thường, thậm chí hầu như lúc nào cũng phản ngược lại với ý muốn tuyệt đối tối cao, khôn ngoan thượng trí và toàn thiện toàn ái của Thiên Chúa, một ý muốn chỉ nhắm đến chỗ cứu độ loài người, tìm hết cách làm sao để loài người có thể được hiệp thông thần linh với Ngài theo đúng dự án thần linh tạo dựng của Ngài.

 

Đó là lý do, theo dự án thần linh tạo dựng của mình, việc Thiên Chúa thanh tẩy loài người gian ác cùng với sinh vật trên đất vào thời tổ phụ Noe bằng nước lụt đại hồng thủy đã được tiếp nối ngay bằng một giao ước tràn đầy hy vọng và sự sống, với cả loài người lẫn sinh vật như được Sách Khởi Nguyên trong Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại, đúng như câu Đáp Ca hôm nay cảm nhận: "Từ trời cao Chúa đã nhìn xuống trần thế":

 

"Thiên Chúa chúc phúc cho Noe và con cái ông. Người phán bảo rằng: 'Các ngươi hãy sinh sản ra nhiều cho đầy mặt đất. Mọi thú vật dưới đất, mọi chim chóc trên trời, cùng mọi động vật trên mặt đất và mọi loài cá dưới biển đều phải kính sợ các ngươi: Tất cả đều được giao phó trong tay các ngươi... Các ngươi hãy sinh sản ra nhiều cho đầy mặt đất'. Thiên Chúa lại phán cùng ông Noe và con cái ông rằng: 'Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi, như chim chóc, gia súc, tất cả những thú vật đang sống trên mặt đất với các ngươi, những gì ra khỏi tàu và toàn thể thú vật trên mặt đất. Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi; nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa'. Và Thiên Chúa phán: 'Ðây là dấu chỉ giao ước ký kết giữa Ta với các ngươi, và tất cả sinh vật đang ở với các ngươi và sau này mãi mãi. Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất'".

 

Phải chăng "cái mống trên trời sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất" được Thiên Chúa hứa sau lụt đại hồng thủy đây, một hiện tượng được gọi là cầu vồng về thể lý vẫn còn cho tới ngày nay sau những trận mưa lớn kéo dài, ám chỉ Thánh Giá cứu độ của Chúa Kitô, Đấng "sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại", như chính "Người công khai tuyên bố các điều đó" trong Bài Phúc Âm hôm nay...

 


Thứ Sáu


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 11, 1-9

"Ta hãy xuống coi và tại đó Ta làm cho ngôn ngữ chúng lộn xộn".

Trích sách Sáng Thế.

Lúc bấy giờ toàn thể lãnh thổ có một tiếng nói duy nhất và một ngôn ngữ như nhau. Khi con cháu ông Noe từ phương đông tiến đi, họ đã gặp một cánh đồng tại đất Sinêar và họ cư ngụ ở đó. Những người này nói với nhau rằng: "Nào, bây giờ chúng ta đi làm gạch và đốt lửa để nung". Và họ dùng gạch thay thế cho đá và nhựa thay thế cho xi măng. Họ còn nói: "Nào, bây giờ chúng ta hãy xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời. Và chúng ta hãy tạo cho ta một tên tuổi để chúng ta khỏi bị tản lạc ra khắp mặt địa cầu".

Chúa ngự xuống để quan sát thành trì với cây tháp mà con cái loài người đang xây. Và Chúa phán: "Này coi, chúng nó hợp thành một dân tộc duy nhất và kia là điều chúng đã khởi công. Giờ đây không có gì ngăn cản chúng thi hành điều chúng đã dự tính. Ta hãy xuống coi và tại đó Ta làm cho ngôn ngữ chúng lộn xộn, để người này không còn hiểu tiếng nói của người kia". Và Chúa đã làm cho họ tản mát xa chỗ đó để tràn ra khắp mặt địa cầu. Họ đã thôi việc xây dựng thành trì. Bởi thế, người ta đã gọi chỗ đó là "Babel", vì chính tại chỗ đó, Chúa làm cho ngôn ngữ của toàn thể lãnh thổ hoá ra lộn xộn. Và cũng tại đó, Chúa đã làm cho người ta tản mát ra khắp mặt địa cầu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 10-11. 12-13. 14-15

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: 1) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Ngài còn mãi đời nọ sang đời kia. - Ðáp.

2) Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Từ trời cao Chúa nhìn xuống, Ngài xem thấy hết thảy con cái loài người. - Ðáp.

3) Từ cung lâu của Ngài, Ngài quan sát hết thảy mọi người cư ngụ địa cầu. Ngài đã tạo thành tâm can bọn họ hết thảy; Ngài quan tâm đến mọi việc làm của họ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8, 34-39

"Ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình. Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì? Và người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình? Ai hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh".

Và Ngài nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong số những kẻ có mặt đây, có người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến trong quyền năng".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

Suy niệm

 

 

Bóng thánh giá đã xuất hiện ngay từ ban đầu trong vườn địa đường, ngay trước cả nguyên tội!

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Sáu tuần VI Thường Niên hôm nay thuật lại lời Chúa Giêsu khẳng định với "dân chúng cùng các môn đệ" của Người về điệu kiện ắt có và đủ, bất khả thiếu và bất khả phân ly để nhờ đó họ có thể xứng đáng làm môn đệ của Người và theo Người cho tới cùng, bằng không chắc chắn họ sẽ đứt gánh giữa đường một cách nào đó và vào một lúc nào đó. Điều kiện tối căn bản và cần thiết đó là: "Ai muốn theo Tôi thì hãy từ bỏ chính bản mình đi và vác thập giá của mình mà theo Tôi".

 

Thật ra chính bản thân của con người chẳng những không có gì là xấu đến độ phải bỏ đi, trái lại, mà còn là một yếu tố bất khả thiếu để làm nên con người, để là một con người. Bởi vì, bản thân đó chính là cái tôi của từng cá thể con người, một bản ngã đặc thù duy nhất trên trần gian này, hoàn toàn khác với bất kỳ một ai được sinh ra trên đời này, từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế. Và chính cái tôi đặc thù ấy, cái bản ngã duy nhất ấy trên trần gian được coi là căn tính của từng cá thể con người ấy mà họ mới là hình ảnh Thiên Chúa là vị Thiên Chúa duy nhất.

 

Nếu con người không có bản ngã, không có cái tôi thì cũng chẳng khác gì loài vật, một tập thể bao gồm cả đống hay cả đoàn sinh vật hổ lốn, nhìn con nào cũng như nhau, và con người hổ lốn như con vật như thế sẽ chẳng có trách nhiệm gì về việc mình làm, và việc họ làm sẽ chẳng có giá trị nhân bản... Vậy thì tại sao Chúa Giêsu lại bảo những ai muốn theo Người cần phải "bỏ chính bản thân mình" đi như thế?

 

Xin thưa, là vì bản thân của chung con người và của từng bản vị con người chẳng những được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa duy nhất mà còn được dựng nên tương tự như Ngài nữa (xem Khởi Nguyên 1:26,27), nghĩa là bản thân của con người chẳng những là một cá thể duy nhất mà còn là một cá thể có khả năng hiệp thông nữa mới hoàn toàn trọn vẹn đạt đến tầm vóc làm người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Thiên Chúa chân thật duy nhất nhưng cũng là Vị Thiên Chúa hiệp thông thần linh 3 Ngôi.

 

Thế nhưng, thực tế cho thấy, ngay từ ban đầu, thậm chí ngay trước cả nguyên tội, loài người, ở một nghĩa nào đó, đã theo chiều hướng nội, nghĩa là chỉ biết đến cái duy nhất vị kỷ của mình (hướng nội cũng là hướng hạ, hướng băng hoại) hơn là mối hiệp thông yêu thương (hướng ngoại cũng là hướng thượng, hướng thăng hóa). Đó là lý do ngay từ ban đầu, vì hướng nội và hướng hạ như thế mà con người, nơi hai nguyên tổ của mình, đã thực sự bị mất đi sự sống thần linh chân thật, nơi việc bất tuân phục ý muốn toàn thiện vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương của Thiên Chúa Hóa Công.

 

Phải "bỏ chính bản thân mình đi" là ở chỗ đó, ở chỗ bỏ ý riêng của mình để tuân theo ý muốn của Thiên Chúa, ngay trước cả nguyên tội. Sau nguyên tội lại càng phải "bỏ chính bản thân mình đi" hơn nữa, bởi cái bản thân của con người ấy đã trở thành xấu xa và mù tối gây ra bởi nguyên tội, đầy những đam mê nhục dục và tính mê nết xấu là hậu quả của nguyên tội và làm mầm mống tội lỗi, càng bất xứng với Thiên Chúa, và càng không thể nào hiệp thông thần linh như Chúa muốn và với Thiên Chúa vô cùng toàn thiện và toàn ái.

 

Như thế, nếu "bỏ chính bản thân mình đi" ở chỗ theo Thánh ý tối cao của Thiên Chúa toàn thiện hơn là ý riêng của mình chỉ là một tạo vật hèn hạ bất toàn thì không phải là một việc tự diệt hơn là hoán cải, mà thành quả là được thăng hóa, là "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), là "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24), là "đi từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng" (1Phêrô 2:9).

 

Tuy nhiên, theo bản tính tự nhiên, ý riêng của con người hầu như bao giờ cũng khác với Ý Chúa thậm chí còn phản lại Ý Chúa nữa, bởi thế, làm theo Ý Chúa hơn là ý riêng của mình bao giờ cũng tạo nên những cây thập tự giá, về hình thức là hai cây gỗ dọc ngang, cây dọc ám chỉ ý muốn của Thiên Chúa và cây ngang tiêu biểu cho ý muốn của con người. Như thế chúng ta thấy ở ngay trong vườn địa đường và ngay từ ban đầu, ngay trước cả nguyên tội, đã xuất hiện bóng thánh giá, ở chỗ: lệnh cấm của Thiên Chúa và ý con người không muốn tuân theo lệnh của Ngài.

 

Và đó là lý do để "bỏ chính bản thân mình đi" cũng chính là "vác thập giá của mình" vậy. Đến đây chúng ta mới thấy được cái chí lý của lời Chúa Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Người, muốn làm môn đệ của Người cần phải vừa "bỏ chính bản mình" vừa phải "vác thập giá của mình" nữa: "Ai muốn theo Tôi thì hãy từ bỏ chính bản mình đi và vác thập giá của mình mà theo Tôi".

 

Chính vì "bỏ chính bản thân mình đi" ở chỗ theo Thánh ý tối cao của Thiên Chúa toàn thiện hơn là ý riêng của mình chỉ là một tạo vật hèn hạ bất toàn mà việc "bỏ chính bản thân mình đi" này mới mang lại thành quả là sự sống: "ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình", thoát được cái hậu quả chết chóc và tự diệt, đúng như những gì Chúa Giêsu cảnh báo trong chính lời Người mời gọi theo Người ở bài Phúc Âm hôm nay: "ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".

 

Trường hợp điển hình về cái hậu quả tai hại cho những "ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất" được Sách Khởi Nguyên ở Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại liên quan đến Tháp Babel và con cháu của tổ phụ Noe: "Lúc bấy giờ toàn thể lãnh thổ có một tiếng nói duy nhất và một ngôn ngữ như nhau. Khi con cháu ông Noe từ phương đông tiến đi, họ đã gặp một cánh đồng tại đất Sinêar và họ cư ngụ ở đó. Những người này nói với nhau rằng: 'Nào, bây giờ chúng ta đi làm gạch và đốt lửa để nung'".

 

Con cháu của tổ phụ Noe đã "muốn cứu mạng sống mình" ở chỗ: "Nào, bây giờ chúng ta hãy xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời. Và chúng ta hãy tạo cho ta một tên tuổi để chúng ta khỏi bị tản lạc ra khắp mặt địa cầu", thì lại bị "mất" một cách oan khiên nghiệt ngã đầy thảm hại: "Chúa ngự xuống để quan sát thành trì với cây tháp mà con cái loài người đang xây. Và Chúa phán: 'Này coi, chúng nó hợp thành một dân tộc duy nhất và kia là điều chúng đã khởi công. Giờ đây không có gì ngăn cản chúng thi hành điều chúng đã dự tính. Ta hãy xuống coi và tại đó Ta làm cho ngôn ngữ chúng lộn xộn, để người này không còn hiểu tiếng nói của người kia'. Và Chúa đã làm cho họ tản mát xa chỗ đó để tràn ra khắp mặt địa cầu".

 

"Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất", như trường hợp của con cháu của tổ phụ Noe trong Bài Đọc 1 hôm nay quả thực đã ứng nghiệm lời Thánh Vịnh ở Bài Đáp Ca câu 2 hôm nay: "Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Ngài còn mãi đời nọ sang đời kia", và bởi thế mà chúng ta cần phải dâng lời nguyện sau đây của câu Alleluia hôm nay: "Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia" (TV 118:27).

 




Thánh Phêrô Đamianô – Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh  
(1007-1072)

 

21-02

PeterDamian.jpg

 

ĐTC Biển Đức XVI: 9/9/2009 bài 88 - Thánh Phêrô Đamianô

 

Ngài sinh năm 1007 ở Ravenna, mồ côi cha mẹ khi còn nhỏ và sống với người anh ruột nhưng bị đối xử như người đầy tớ. Khi mới lớn một chút, ngài đã bị sai đi chăn heo. Một người anh khác, là giáo trưởng ở Ravena, thấy thương hại chú em bơ vơ nên đem ngài về nuôi nấng cho ăn học tử tế. Có lẽ vì nhớ ơn dưỡng dục của người anh này mà Phêrô đã lấy tên người anh, là Damian, thành tên của mình.


Phêrô là một học sinh có năng khiếu và sau đó trở thành một giáo sư nổi tiếng. Trong thời gian này, Phêrô cố làm quen với sự chay tịnh, sự cầu nguyện và ngài mặc áo nhặm bên trong áo thường để chống với các cám dỗ của lạc thú và mưu chước ma quỷ.


Sau một thời gian, ngài quyết tâm từ bỏ thế gian để sống đời ẩn tu với các tu sĩ Biển Ðức thuộc nhánh cải cách của Thánh Romuald ở Fonte Avellana. Các vị ẩn tu thường sống từng đôi trong một cái am cách xa nhau, để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng, với cuộc sống rất khắc khổ. Vì quá hăng say trong sự cầu nguyện và ngủ quá ít nên không bao lâu Phêrô bị bệnh mất ngủ trầm trọng. Ngài phải thận trọng kềm chế và săn sóc chính mình. Vì lý do đó, ngài dành nhiều thời giờ để nghiên cứu Kinh Thánh, và trở nên một thi sĩ sáng tác thơ đạo cũng nổi tiếng như trong văn chương đời trước đây.


Do một quyết định của toàn thể các vị ẩn tu, ngài phải chịu trách nhiệm lãnh đạo Cộng Ðoàn khi vị bề trên qua đời. Do đó, sau khi vị tu viện trưởng từ trần khoảng năm 1043, Phêrô đã dẫn dắt gia đình thánh thiện này với sự khôn ngoan và đạo đức. Ngài cũng thành lập thêm năm tu viện ẩn cư khác. Ngài duy trì tinh thần ẩn dật, bác ái và khiêm nhường. Nhiều vị ẩn tu dưới sự dẫn dắt của ngài là các ngôi sao sáng của Giáo Hội, kể cả Thánh Ðaminh Loricatus, Thánh Gioan ở Lodi là người kế vị ngài trong chức vụ tu viện trưởng ở Holy Cross.


Có lẽ vì là trẻ mồ côi và bị đối xử thật tệ hại khi còn nhỏ nên Phêrô Damian thật tốt với người nghèo. Trong các bữa ăn, lúc nào cũng có một hay hai người nghèo ăn chung với ngài, và đích thân ngài lo lắng cho nhu cầu của họ.


Trong nhiều năm, Phêrô Damian thường giúp các Giáo Hoàng trong công việc hòa giải giữa các tu hội kình chống nhau, hoặc giữa giáo sĩ, viên chức chính phủ và Tòa Thánh. Năm 1057, Ðức Giáo Hoàng Stephanô IX thuyết phục ngài từ bỏ đời ẩn dật và đặt ngài làm Giám Mục-Hồng Y của Ostia.


Ngài tích cực tẩy trừ nạn buôn bán chức vụ trong Giáo Hội, khuyến khích các linh mục sống độc thân, và thúc giục các linh mục triều sống thành cộng đoàn, giữ chương trình cầu nguyện. Ngài ao ước phục hồi sự kỷ luật nguyên thủy của các tu sĩ và linh mục, cảnh cáo họ về việc di chuyển không cần thiết, vi phạm đức khó nghèo và sống quá thoải mái. Ngài viết thư khiển trách Ðức Giám Mục Florence về việc chơi cờ, và Ðức Giám Mục Besancon về việc để giáo sĩ ngồi khi đọc thánh vịnh trong Kinh Nhật Tụng.


Ngài viết rất nhiều thư. Khoảng 170 lá hiện vẫn còn. Chúng ta cũng còn 53 bài giảng của ngài và bảy tiểu sử ngài viết. Ngài thích viết về gương mẫu và chuyện thật hơn là lý thuyết. Các bản văn phụng vụ của ngài cho thấy ngài có phong cách của một nhà văn.


Ngài thường xin Ðức Giáo Hoàng cho ngài từ chức Giám Mục-Hồng Y của Osia, và sau cùng Ðức Alexander II đồng ý với điều kiện là bất cứ khi nào cần ngài sẽ sẵn sàng làm việc trở lại.


Khi trở lại công việc ở Ravenna, ngài bị sốt nặng. Ngài từ trần ngày 22 tháng 2 năm 1072 với các tu sĩ đang vây quanh và đọc kinh Nhật Tụng. Ngài được chôn cất trong nguyện đường của tu viện. Thánh tích của ngài được chuyển dời vài lần. Lần di chuyển sau cùng vào năm 1898 ngài được an nghỉ trong nguyện đường kính Thánh Peter Damian của nhà thờ chính tòa Faenza, nước Ý Đại Lợi.

 

Ngài không được chính thức phong thánh nhưng Đức Giáo Hoàng Leo XII cho phép tôn kính ngài năm 1823 và tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 27 tháng 9 năm 1828.

https://dongten.net/2020/02/20/hanh-cac-thanh-20-02-thanh-phero-damiano-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-%E2%80%A81007-1072/

 

Vị tu sĩ và Hồng Y sẽ nắm giữ một vai trò hàng đầu trong Ktô giáo này chào đời năm 1007 tại Ravenne, trong một gia đình nghèo túng, đến nỗi một trong số các anh Ngài đã phải thốt lên khi Ngài sanh ra: - "Chỉ còn thiếu nỗi bất hạnh này nữa thôi. Sao lại phải có nhiều người thừa hưởng cái di sản nhỏ nhoi này vậy". Và người mẹ kiệt sức đã không muốn cho đứa trẻ sơ sinh bú sữa mà thất vọng bỏ mặc nó. Một bà hàng xóm giảng giải cho bà rằng: - "Những con báo con hùm không bỏ con chúng, trong khi chúng ta là những người Kitô hữu lại bỏ rơi con cái mình sao ? Đứa trẻ mà người ta xua đuổi này, một ngày kia biết đâu lại chẳng là niềm hân hạnh của gia đình ?"

 

Người đàn bà can đảm này không tin lời mình nói lắm, nhưng đã cung ứng những săn sóc đầu tiên cho đứa bé nghèo khổ. Người mẹ mắc cỡ nên âu yếm ẵm lấy đứa trẻ. Bà đặt tên là Phêrô.

 

Năm năm sau, Phêrô mồ côi cha mẹ, người được trao cho người anh đã giận dữ đón nhận cuộc sinh hạ của Ngài. Bị đối xử như người làm thuê Ngài phải chăn heo, ngủ chuồng của súc vật, mặc rách rưới và ăn bánh đen. Một ngày kia nhặt được đồng tiền, của trời ơi ngạc nhiên đối với đứa trẻ không hề ăn hàng, Ngài mang tiền đi xin lễ cho cha mẹ. Chính vì vậy mà dường như cha mẹ đã chúc lành cho cả đời đứa trẻ, con mình.

 

Đamianô, người anh cả của Ngài đã làm linh mục đưa Ngài về Ravenna ở với mình. Anh cho Ngài ăn học và Phêrô đã tỏ ra thông minh, đến nỗi Ngài đã sớm trở thành giáo sư. Đứa trẻ bị khinh miệt ngày trước, bây giờ dạy học tại Parma rồi tại Ravenna. Để bày tỏ lòng biết ơn với người anh cả, Ngài nhận tên mình là Phêrô Đamiano. Ngài được may mắn về mọi mặt. Nhiều gia đình quí, phải gọi Ngài tới ở. Song những thành công không làm cho Ngài thôi cầu nguyện ăn chay. Dưới bộ áo ngoài, Ngài mặc một chiếc áo nhặm.

 

Trước danh tiếng ngày càng gia tăng, Ngài tự nhủ: - Ích lợi gì nếu tôi dính bén vào được của cải chóng qua này? Bởi vì một ngày kia, tôi sẽ phải giã từ tất cả, tại sao ngay từ bây giờ tôi không hiến dâng chúng cho Thiên Chúa ?

 

Thế là Ngài từ bỏ cuộc sống dễ dãi và gia nhập dòng Camaldules, Ngài chọn cái gì nặng nhọc nhất và lui vào vô tịch ở nhà dòng Phonte Avellna. Đời khổ hạnh và cầu nguyện sắp biến Ngài thành một vị thánh lớn. Ngài chỉ muốn khiêm tốn vâng phục và thống hối, nhưng trong khi ẩn mình đi, thì năm 1043, vì vâng lời, Ngài đã được đặt làm tu viện trưởng. Khi đó, Ngài tăng số các tu sĩ, lập nhiều tu viện, giúp đỡ các dòng khác. Ý kiến của Ngài luôn hướng thượng, đến nỗi người ta nói rằng: Ngài được Thánh Thần soi sáng.

 

Giáo hội đang trải qua một thời u buồn và người tu sĩ nghèo khổ hôm qua sắp giữ một vai trò lớn lao làm giảm bớt đau đớn của Roma. Những nết xấu bỉ ổi đè nặng trên triều đại Giáo hoàng. Lời nói của Thánh Thần lẫn sự hiện diện của Ngài chưa đủ, Ngài viết một tác phẩm, "cuốn sách về thành Gomorrha", để lột trần những lạm dụng đang làm cho Giáo hội phải tủi hổ. Còn chính Ngài, để làm cân bằng cho sự yếu đuối của những giám mục bất xứng, đã tự mình đền tội đánh đòn hàng ngày đến độ chảy máu, dành giờ để hát mười thánh vịnh như Ngài đã khuyên nhủ các tu sĩ. Ngài ăn chay ba ngày mỗi tuần.

 

Phêrô Đamianô đã muốn là một tu sĩ rốt cùng suốt đời. Nhưng năm 1057, Đức Stephanô IX đã đặt Ngài làm Hồng Y giám mục Ostia. Ngài phản đối, nhưng Đức Thánh Cha khi giảng giải cho Ngài đã cầm tay xỏ nhẫn và đeo thánh giá cho Ngài. Trách vụ giao phó cho Ngài thật lớn lao. Phêrô Damianô hiến trọn tâm hồn cho gia đình mới rộng lớn này. Ngài đón nhận mọi khó khăn, chiến đấu chống các lạc giáo, chấm dứt các xáo trộn của Giáo hội Milanô dẹp tan những bất đồng với xã hội giáo hoàng. Những lo lắng mệt nhọc không cản trở Ngài sẵn sàng hiến dâng đời mình, dù chỉ cho một linh hồn thôi.

 

Dù kiệt sức, Ngài vẫn dậy sớm để giải tội, không nản lòng, Ngài săn sóc những người bất hạnh, phân phát áo mặc bánh ăn cho họ, thăm viếng các bệnh nhân. Mỗi ngày để nhắc lại tình yêu của Chúa Kitô, Ngài rửa chân cho 12 người nghèo. Đối với những người về quê lập nghiệp, Ngài gửi đồ trợ giúp họ, Ngài nhân hậu đồng đều đối với những người giàu có, những người cũng gặp khó khăn và cố gắng làm cho họ sống bác ái vị tha hơn. Thư từ còn làm cho ảnh hưởng của Ngài lan rộng hơn.

 

Sau bao nhiêu nhọc mệt và phục vụ, Phêrô trở nên già nua, Đức Thánh cha cho phép Ngài trở lại với nếp sống nhà dòng, Ngài đã muốn căn phòng xấu nhất, ăn thứ bành dành cho heo, hành hạ mình bằng dây lưng sắt, tìm đền bù cho các tội nhân và thánh hóa mình hơn nữa. Ngài nói:

 

- Một chiến sĩ của Chúa Kitô phải biết mình có thể tiến đến đâu trên đường nhân đức.

 

Phêrô Đamianô đã định ngày thứ sáu phải được thánh hiến bằng chay tịnh và thống hối, để kính nhớ Chúa Giêsu đã chịu chết trên thánh giá, và ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, Đấng mà Ngài đã soạn một bản kinh Nhật tụng để chúc khen.

 

Tuy đã cao niên, nhưng khi Đức Thánh Cha xin Ngài làm đại diện cho mình tại Pháp. Thánh nhân lên đường ngay. Ngài viếng thăm nhiều địa phận, dẹp tan nhiều cuộc cãi vã, đi tới tận Nước Đức, hoà giải nhà vua với vợ mình là hoàng hậu Berthe, mẹ vua xin được Ngài hướng dẫn. Rồi Ngài tiêu diệt các bè rối tại Florence và mang an bình lại cho Ravenna. Phêrô Đamianô lên cơn sốt ở Faenza. Tu viện Nữ Vương các thánh thiên thần tiếp đón Ngài, Ngài đã qua đời năm 1072 đang khi xin các tu sĩ vây quanh mình đọc kinh nhật tụng. Chính Ngài đã trước tác mộ bia của mình như sau : - "Mọi cái hôm nay đều phải qua đi để cho điều tồn tại mãi mãi tới gần. Hãy mộ mến những sự trên trời hơn những sự dưới đất, mộ mến điều tồn tại hơn cái rữa tàn. Ước gì tinh thần bạn đạt tới những đỉnh cao, tới được những nơi phát ra sự sống bạn".

http://conggiao.info/thanh-phero-damiano-giam-muc-tien-si-1007-1072-d-13910

II. BÀI HỌC

Bài học quí giá nhất khi đọc lại cuộc đời thánh thiện của các vị thánh đối với chúng ta là bàn tay của Thiên Chúa qua việc gìn giữ Giáo Hội của Người.

Thánh Phêrô Đamianô sống vào lúc Giáo Hội gặp nhiều phong ba bão tố. Hai vết thương đã đục khoét và làm bạc nhược sức sống của Giáo hội hơn cả là: “Tội buôn bán đồ thánh và đời sống phóng túng của hàng giáo sĩ. Tội xấu xa đó còn len lỏi vào cả ngai tòa thánh Phêrô do con người phóng túng của Biển đức X “.

Chúng ta có thể tưởng tượng Giáo hội thời kỳ ấy lâm vào một tình trạng rối ren, suy đồi đến mức nào không ?

Trong khoảng từ năm 1045- 1049, nghĩa là chưa đầy năm năm mà ngôi tòa thánh Phêrô đã có tới sáu lần thay ngôi đổi chủ.

Ấy là chưa kể đến những chuyện giáo chủ giả danh, những tội “buôn thần bán thánh”, những thói ăn chơi đàng điếm của hàng giáo sĩ và giáo dân… Hoàn cảnh đồi bại đó đã là nguyên cớ thúc đẩy bao người ly khai với Giáo hội để lập thành những bè đảng và giáo phái. Nhắc lại trang sử đen tối đó chính là thức tỉnh mối đau lòng của những tâm hồn đạo đức và có tâm huyết như Đamianô, nhưng đồng thời cũng khơi thêm ngọn lửa mến yêu và tin tưởng của chúng ta đối với Giáo hội, vì biết rằng “nếu Giáo hội chỉ là một tổ chức hoàn toàn nhân loại khác, thì chính những đớn hèn và đồi bại của hàng giáo sĩ đã giết chết Giáo hội từ lâu không để Giáo hội tồn tại đến ngày nay “. Nhưng sở dĩ trải qua bao cuộc thăng trầm cũng như qua bao cơn bách hại mà Giáo hội còn sống và trẻ trung là vì Giáo hội còn có Chúa ở với để nâng đỡ phù trì; vì Giáo hội còn là một tổ chức của Chúa, như lời Chúa Giêsu đã phán trước khi về trời: “Ta sẽ ở với các con cho đến tận cùng nhân thế”.

Chính vì thế mà chúng ta hãy hết lòng yêu mến Giáo Hội và tin vào Tình thương của Chúa và luôn góp phần nhỏ bé của chúng ta vào việc làm cho Giáo Hội của Chúa mỗi ngày mỗi thánh thiện và tốt đẹp hơn.

Lễ cung hiến Đền thờ vừa mới xây xong, Đức Giám mục chủ sự nêu đích danh từng người đã cộng tác cách này hay cách khác vào công việc chung. Khi ngài vừa dứt lời và sắp ban phép lành thì một em bé đứng gần bên nói lớn:

  • Thưa Đức cha, con cũng góp phần xây cất đền thờ này.

Bình tĩnh, Đức Giám mục hướng về em hỏi:

  • Con đã đóng góp bằng cách nào ?

Được khuyến khích bởi sự chú ý của Đức Giám mục, em bé mạnh dạn trả lời:

- Thưa Đức cha, mỗi buổi trưa con đều đem cơm cho ba con xây đền thờ này.

Đức Giám mục và toàn thể cộng đoàn vỗ tay hoan hô sự đơn sơ và ý nghĩ ngộ nghĩnh của em. Rồi cộng đoàn đồng ý là em cũng góp phần vào việc chung dù không phải là công việc quan trọng và cực nhọc, nhưng với hạn tuổi cho phép, em đã góp phần của mình và đáng được ghi danh cám ơn như những người khác.

Mỗi người chúng ta, trong mọi hoàn cảnh đều có thể góp phần của mình vào công việc chung của Thiên Chúa, để xây dựng Giáo hội và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa mà mỗi người Kitô là một viên gạch đủ loại lớn nhỏ. Đền thờ này đã bị rạn nứt bởi những chia rẽ, những thiếu sót, những tội lỗi của các thành phần Dân Chúa, của mỗi người chúng ta. Vậy mỗi người đều có bổn phận góp phần mình để tái thiết sự hiệp nhất của Giáo hội.

Không một đóng góp chân thành nào dù nhỏ mọn đến đâu mà không được Thiên Chúa ghi công, và ân sủng của Thiên Chúa sẽ làm cho những đóng góp đó trổ sinh những hoa trái tốt đẹp.

Mỗi người môn đệ Chúa Kitô chúng ta là thành phần của xã hội và do đó được mời gọi đóng góp tích cực xây dựng xã hội ngày thêm tốt đẹp hơn. Chúng ta không thể tiêu cực chỉ trích những tệ đoan xã hội, nhưng hãy tích cực đóng góp vào những công việc tốt để xây dựng. Những đóng góp đó có được nhìn nhận và ghi công hay không, điều này không quan trọng, nhưng sẽ là điều đáng buồn nếu người môn đệ của Chúa không trở thành “Ánh sáng”, thành “Muối đất”, thành “Men” trong bột. Để xây dựng một xã hội mà trong đó con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình hơn.

Không trổ sinh hoa trái tốt lành người Kitô có thể không còn là người Kitô đích thực nữa, chỉ “hữu danh vô thực” mà thôi. Lời Chúa quở trách những người Pharisêu sống đạo giả hình đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27).

Lạy Chúa, xin giúp con canh tân đời sống, và dấn thân hết khả năng để làm ích cho Giáo hội, và phục vụ xã hội con đang sống vì tình yêu Chúa.

Xin đừng để ai sút tài kém đức vì chịu ảnh hưởng của con; đừng để ai vì đồng hành với con mà không còn trong trắng, chân chất, dịu dàng và cao quý như trước.

Xin cho con luôn nhớ rằng: điều vĩ đại nhất con có thể làm cho Chúa là con đối xử tốt với anh chị em con. Amen.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-21-02-thanh-phero-damiano-53738


 

 

Thứ Bảy


(Hôm nay, PVLC năm 2025 được át đi bởi Lễ Kính Ngai Tòa Thánh Phêrô - ở dưới PVLC Thứ Bảy này)

 

 

Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Dt 11, 1-7

"Nhờ đức tin, chúng tôi hiểu rằng vũ trụ do lời Thiên Chúa mà cấu thành".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Ðức tin là nền tảng của những điều hy vọng, là bằng chứng cho những thực tại vô hình. Quả thật, nhờ đức tin mà các tiền nhân đã được một bằng chứng. Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ do lời Thiên Chúa mà cấu thành, nên cái gì hữu hình là bởi vô hình mà có. Nhờ đức tin mà Abel đã dâng lên Thiên Chúa của lễ hoàn hảo hơn của lễ Cain, và bởi đức tin mà ông được chứng thực là công chính; Thiên Chúa đã làm chứng cho lễ vật của ông. Bởi đức tin đó, cho dầu ông đã chết, ông vẫn còn lên tiếng. Nhờ đức tin, Henoch được cất lên nơi khác, để ông khỏi thấy sự chết; người ta không còn gặp ông nữa, vì Thiên Chúa đã cất ông lên nơi khác: trước khi được cất đi nơi khác, ông được làm chứng là người đẹp lòng Chúa. Vậy không có đức tin, thì không thể đẹp lòng Chúa, vì chưng ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin có Thiên Chúa, và Người thưởng công cho những kẻ tìm kiếm Người. Nhờ đức tin, Noe được Chúa cho biết những điều chưa hề thấy, nên ông sợ hãi và đóng tàu để cứu sống gia đình ông. Nhờ đức tin đó mà ông đã lên án thế gian, và được nên người thừa hưởng sự công chính bởi đức tin.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 10-11

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (c. 1b).

Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều diệu kỳ của Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 1-12

"Người biến hình trước mặt các ông".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.

Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" Và các ông hỏi Người: "Tại sao các biệt phái và luật sĩ lại nói Êlia phải đến trước đã?" Người đáp: "Êlia phải đến trước để sửa lại mọi sự, và như có lời chép về Con Người rằng 'Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ'. Vậy Thầy bảo cho các con hay: Êlia đã đến rồi và chúng xử với người mặc ý chúng, như đã chép về người".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for jesus transfiguration on the mountain


Suy niệm

 

 

"Một đám mây bao phủ" ... "bằng chứng cho những thực tại vô hình"

    

 

Sau khi đã tiết lộ cái thâm cung bí sử rùng rợn nhất đối với các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này liên quan đến một Đức Kitô khổ nạn và tử giá, cũng như sau khi khẳng định điều kiện đầy gian nan khốn khó để có thể xứng đáng và khả năng theo làm môn đệ của mình ở Bài Phúc Âm Thứ Sáu hôm qua, Chúa Giêsu, trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã dường như muốn trấn an các vị, bằng cách tỏ vinh quang của Người ra cho các vị thấy qua 3 vị tông đồ đại diện là Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi cao, như được Thánh ký Marco thuật lại như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế".

 

Biến cố biến hình toàn thân, chứ không phải chỉ "hiển dung" (như một số người ngày nay thích sử dụng từ ngữ có vẻ mới lạ có tính chất văn vẻ hay hay này) về khuôn mặt của Chúa Giêsu mà thôi, là một dấu báo về cuộc phục sinh vinh hiển của Người, một cuộc phục sinh chỉ xẩy ra sau cuộc khổ nạn và tử giá của Người, để nhờ đó, Người có thể tỏ hiện trọn vẹn tất cả quyền năng thần linh của Người ra ở chỗ chiến thắng tội lỗi và sự chết, thậm chí, vì Người từ kẻ chết hay từ cõi chết sống lại mà Người còn biến đổi tối tăm thành ánh sáng và sự chết thành sự sống nữa, chứ không phải, qua mầu nhiệm nhập thể của mình, Người chỉ là "ánh sáng chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5).

 

Đó là mục đích và tất cả ý nghĩa của Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm bao gồm cả khổ giá và phục sinh, hoàn toàn ứng nghiệm những gì Thánh Kinh báo trước về Đấng Thiên Sai Giêsu hay về Đức Giêsu Kitô, như chính Chúa Kitô Phục Sinh đã sử dụng chứng lý Thánh Kinh để làm cho các tông đồ chân nhận việc sống lại của Người khi Người hiện ra với các vị, bao gồm cả thành phần 2 môn đệ đang trên đường đi về làng Emmau lẫn các vị tông đồ ở Nhà Tiệc Ly lần đầu tiên vào tối ngày thứ nhất trong tuần:

Với 2 môn đệ về làng Emmau: "Bấy giờ Ðức Giêsu nói với hai ông rằng: 'Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?' Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh".

Với các tông đồ ở Nhà Tiệc Ly: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm".

Chính vì biến cố biến hình trên núi ám chỉ mầu nhiệm vượt qua đúng như lời Thánh Kinh liên quan đến lề luật và các ngôn sứ như thế mà trong khi biến hình mới có hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước xuất hiện, một liên quan đến lề luật là Moisen và một liên quan đến tiên tri là Elia: "Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu".

Cũng chính vì biến cố biến hình trên núi ám chỉ mầu nhiệm vượt qua đúng như lời Thánh Kinh là những gì được Thiên Chúa ấn định như thế và sẽ xẩy ra đúng như vậy mà Thiên Chúa đã phải đích thân lên tiếng chứng thực Đấng Thiên Sai của Ngài, một Đấng Thiên Sai Vượt Qua từ khổ giá đến vinh quang phục sinh, qua sự kiện được Thánh ký Marco ghi nhận trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: 'Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người'".

"Đám mây bao phủ các ngài" đây biểu hiệu cho Chúa Thánh Thần, Đấng "bao phủ bà" (Luca 1:35), Đấng cũng đã đậu trên Chúa Giêsu ở Sông Jordan khi Người lãnh nhận Phép Rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (xem Gioan 1:33; Marco 1:10). Vì Thánh Thần là Thần Chân Lý dẫn vào tất cả sự thật (xem Gioan 16:13) mà "từ đám mây có tiếng phán", để chứng tỏ Người thực sự là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, "là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Gioan 1:34).

Như thế, với sự hiện diện của Thần Chân Lý ở biến cố biến hình kèm theo tiếng phán ra đã cho thấy tất cả những gì Người nói về Người (như bài Phúc Âm liên quan đến cuộc vượt qua của Người hôm Thứ Năm vừa rồi) và tỏ mình ra cho các tông đồ (như trong biến cố biến hình trong bài Phúc Âm hôm nay) đều chân thực và chắc chắn sẽ xẩy ra đúng như vậy theo như Thánh Kinh đã tiên báo, chẳng những đáng tin tưởng chấp nhận mà còn cần phải tin tưởng chấp nhận nữa, nhưng phải là một đức tin như Bài Đọc 1 hôm nay định nghĩa và xác quyết:

"Ðức tin là nền tảng của những điều hy vọng, là bằng chứng cho những thực tại vô hình... Không có đức tin, thì không thể đẹp lòng Chúa, vì chưng ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin có Thiên Chúa, và Người thưởng công cho những kẻ tìm kiếm Người".

 

 

Ngày 22 tháng 2

LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊ-RÔ, TÔNG ĐỒ

lễ kính

 

Image result for Mt 16, 13-19

 

Được đặt trong nhà thờ chính toà của giáo phận, toà của một vị giám mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục. Lễ kính Tông toà thánh Phê-rô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Ki-tô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phê-rô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ Đoàn. Lòng tin của thánh Phê-rô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người.

Phụng Vụ Giờ Kinh

Mừng chư vị công hầu vương bá,
Chốn triều đình Vua Cả Giê-su,
Chính Người đã huấn luyện xưa,
Sai làm nghĩa vụ Tông Đồ khắp nơi.

Thành Sa-lem trên trời oai vọng,
Quý ngài là nền móng cao sang,
Thánh đô nhận ngọc dát vàng,
Con Chiên toả ánh hào quang bốn bề.

Này Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa,
Đang thiết tha cảm tạ quý ngài,
Lời vàng quy tụ về đây,
Máu đào thánh hiến từ ngày khởi công.

Thời gian lúc tới vòng viên mãn,
Khi Vua Trời xử án muôn dân,
Quý ngài vinh hiển vô ngần,
Được ngồi xét xử gian trần với Vua.

Nay cả dám cậy nhờ thế lực,
Xin cầu thay nguyện giúp sớm chiều,
Để bao nhiêu hạt giống gieo,
Kho trời thu lượm bấy nhiêu lúa vàng.

Dâng Thánh Tử, Đấng từng chọn lựa,
Quý ngài làm sứ giả Vua Cha,
Ban đầy thánh sủng Ngôi Ba,
Này câu chúc tụng ngợi ca muôn đời.

Chúa Cha đã cho chúng ta được thừa hưởng gia tài cao quý do các Tông Đồ để lại, vì thế, ta hãy cảm tạ Người và tung hô :

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã xây dựng Hội Thánh trên nền tảng các Tông Đồ, - đó là nhiệm thể chúng con đang xây dựng.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban Lời hằng sống do các Tông Đồ rao giảng, - đó là ánh sáng và niềm vui của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Tẩy và Hoà Giải do các Tông Đồ loan báo, - đó là kho tàng ơn tha thứ của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Thể do các Tông Đồ truyền lại, - đó là sức mạnh và nguồn sống của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh tông đồ Phê-rô, xin gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan. Chúng con cầu xin

 

Ngày 22 tháng 2

Lễ Lập Tông Tòa Thánh Phêrô

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: 1 Pr 5, 1-4

"Là kỳ lão và nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, tôi xin gởi lời khuyên bảo đến bậc Kỳ Lão trong anh em. Tôi là một Kỳ Lão như các ngài, là một nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô, một kẻ sẽ được thông phần vinh quang sắp được tỏ bày. Hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa nơi anh em, hãy trông nom nó, không phải bằng cách miễn cưỡng, mà là sẵn sàng theo thánh ý Chúa; không phải để trục lợi, mà là do tình nguyện; không phải như người chuyên chế lộng hành, nhưng phải nên gương sáng cho đoàn chiên. Và khi thủ lãnh các đấng chăn chiên xuất hiện, anh em sẽ nhận lãnh triều thiên vinh quang bất diệt.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3. 4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Ðáp.

2) Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 16, 18

Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy, và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-19

"Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!" Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".

Ðó là lời Chúa.

 

Kính Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ

 

Phụng vụ muốn dùng ngày lễ hôm nay để tôn kính tòa thánh Phêrô đồng thời cũng tôn kính cá nhân Ðức Giáo Hoàng, vị đại diện Chúa Kitô trên trần gian, là đấng kế vị liên tục của vị thủ lĩnh đầu tiên mà Chúa Giêsu đã trao cho trọng trách chăn dắt các chiên con và chiên Mẹ của Ngài. Bởi đó, Ðức Giáo Hoàng đã trở thành vị mục tử tối cao hướng dẫn toàn thể Giáo Hội. Chính vì thế thánh lễ này là một lời tuyên xưng trọng thể quyền tối thượng của Ðức Giáo Hoàng ở Rôma.

Trong nhiều thế kỷ trước, có hai lễ riêng biệt: một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiôkia, một để kính tòa thánh Phêrô ở Rôma. Nhưng vì cả hai lễ đều mang một ý nghĩa như nhau nên ngày nay phụng vụ đặt chung vào một lễ: "Lễ kính tòa thánh Phêrô".

Ðây là một dịp Giáo Hội kêu mời giáo dân hãy cầu nguyện nhiều cho Ðức Thánh Cha trước những khó khăn lớn lao mà ngài phải đương đầu trong thế giới hôm nay.

 

 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô Giảng Lễ Ngai Tòa Phêrô Thứ Hai 22/2/2016

 

Dẫn nhập. Vào lúc 10 giờ 30 sáng Thứ Hai 22/2/2016, Thánh Lễ trọng kính Ngai Tòa Thánh Phêrô - The Chair of Peter, được Giáo Triều Rôma, bao gồm cả ngành quản trị, cử hành như là Ngày Mừng Năm Thánh Tình Thương của mình. Đức Thánh Cha chủ tế Thánh Lễ và giảng lễ. Nghi thức bước qua Ngưỡng Cửa Thánh ở Đền Thờ Thánh Phêrô được bắt đầu tuần hành từ Sảnh Đường Phaolô VI từ 8 giờ 30 bao gồm cả một bài suy niệm của Cha Marko Ivan Rupnik, SJ. Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô.

 

"Các mục tử, trước hết và trên hết,

cần phải theo gương mẫu chính Thiên Chúa là Đấng chăm sóc đàn chiên của Ngài...

Sự trung thành mà chúng ta cần có đó là trung thành tác hành theo cõi lòng của Chúa Kitô".

 

Phụng Vụ Thánh Lễ Ngai Tòa Phêrô thấy chúng ta qui tụ lại để cử hành Năm Thánh Thương Xót như là một cộng đồng phục vụ của Giáo Triều Rôma, của Ngành Quản Trị và của các cơ cấu liên hệ với Tòa Thánh Rôma. Chúng ta đã bước qua Cửa Thánh và tiến đến mộ của Tông Đồ Phêrô để tuyên xưng đức tin của chúng ta, và Lời Chúa hôm nay đặc biệt làm sáng tỏ các cử chỉ của chúng ta.

"Vào lúc này đây Chúa Giêsu đặt vấn đề với hết từng người chúng ta rằng: 'Thế nhưng các con bảo Thày là ai?' Một câu hỏi rõ ràng và trực tiếp không thể nào tránh né và trung lập, cũng không thể nào trì hoãn trả lời hoặc đẩy nó cho ai khác. Đây không phải là vấn đề tra hỏi mà là vấn đề đầy những yêu thương! Tình yêu của Vị Sư Phụ duy nhất của chúng ta, Đấng hôm nay đây kêu gọi chúng ta hãy lập lại niềm tin tưởng của chúng ta nơi Người, nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa và là Chúa của đời sống chúng ta. Và người đầu tiên được kêu gọi để lập lại việc tuyên xưng đức tin của mình là vị Thừa kế Thánh Phêrô, vị mang trách nhiệm củng cố anh em mình".

"Chúng ta hãy để cho ân sủng lại khuôn đúc chúng ta để chúng ta tin tưởng, và mở miệng chúng ta ra để chúng ta có thể trọn vẹn tuyên xứng đức tin mà chiếm lấy ơn cứu độ. Vậy chúng ta hãy lập lại lời của Thánh Phêrô như là của chúng ta: 'Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống' Chớ gì tâm tưởng của chúng ta và ánh mắt của chúng ta gắn chặt vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng là nguyên thủy và là cùng đích của hết mọi hoạt động Giáo Hội. Người là nền tảng, chứ không phải một ai khác. Người là 'đá' chúng ta cần phải xây dựng trên đó. Thánh Âu Quốc Tinh nhắc lại điều này một cách rõ ràng khi ngài viết rằng Giáo Hội, cho dù có bị chao đảo bởi những biến động lịch sử cũng không sụp đổ, vì Giáo Hội được xây dựng trên đá là những gì làm nên danh xưng của Thánh Phêrô. Không phải đá xuất phát từ tên của Thánh Phêrô mà tên của ngài xuất phát từ đá, như tên Đức Kitô không xuất phát từ Kitô hữu mà Kitô hữu từ Đức Kitô. Đá là Đức Kitô, một nền tảng mà cả Thánh Phêrô cũng được xây trên đó".

"Từ việc tuyên xưng đức tin, đối với mỗi người chúng ta, xuất phát công việc đáp ứng tiếng gọi của Thiên Chúa. Các mục tử, trước hết và trên hết, cần phải theo gương mẫu chính Thiên Chúa là Đấng chăm sóc đàn chiên của Ngài... Chúng ta, được kêu gọi làm Mục Tử trong Giáo Hội, cũng cần phải để cho dung nhan của Thiên Chúa là Vị Mục Tử Nhân Lành chiếu tỏa chúng ta, thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta và phục hồi chúng ta, hoàn toàn được đổi mới nơi sứ vụ của chúng ta. Ở cả những chỗ làm việc của mình nữa chớ gì chúng ta cảm thấy, vun trồng và thực hành một cảm quan mục vụ mạnh mẽ, nhất là đối với những ai chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Chớ gì không một ai cảm thấy bị bỏ rơi và bị xử tệ mà ai cũng cảm thấy, đặc biệt là ở nơi đây, việc yêu thương chăm sóc của Vị Mục Tử Nhân Lành".

"Chúng ta được kêu gọi trở thành các cộng tác viên của Thiên Chúa vào một công việc chính yếu và đặc thù đó là làm chứng bằng đời sống của chúng ta cho quyền lực của thứ ân sủng biến đổi và cho quyền lực của Vị Thần Linh canh tân. Chúng ta hãy để Chúa giải phóng chúng ta cho khỏi mọi khuynh hướng tách chúng ta khỏi yếu tính của sứ vụ chúng ta, và chúng ta hãy tái nhận thức vẻ đẹp của việc chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Đức tin cho thừa tác vụ này rất ăn khớp với lòng thương xót chúng ta muốn cảm nghiệm. Thật vậy, trong Thánh Kinh, việc trung thành và lòng thương xót là những gì bất khả phân ly. Ở đâu có điều này thì ở đó cũng có điều kia, và chính ở bản chất hỗ tương và bổ khuyết này của cả hai mà chúng ta có thể thấy chính sự hiện diện của Vị Mục Tử Nhân Lành. Sự trung thành mà chúng ta cần có đó là trung thành tác hành theo cõi lòng của Chúa Kitô. Như chúng ta đã nghe nơi những lời của tông đồ Phêrô,chúng ta cần phải chăn dắt đàn chiên của chúng ta bằng một tấm lòng quảng đại và trở thành gương mẫu cho tất cả đàn chiên. Nhờ đó, 'khi Vị Mục Tử Chính xuất hiện', chúng ta mới có thể lãnh nhận 'triều thiên vinh quang không bao giờ tàn phai'".

https://zenit.org/articles/popes-homily-for-jubilee-of-the-curia-feast-of-chair-of-st-peter/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)

 

View of the Vatican basilica from a roof near saint Peter square in Rome

Nhân ngày Lễ Ngai Tòa Thánh Phêrô là lễ liên quan trực tiếp đến vai trò của Vị Giáo Hoàng,

vị thừa kế Thánh Phêrô đồng thời cũng là vị đại diện của Chúa Kitô trên trần gian,

chúng ta nên ôn lại một chút về lịch sử của các vị giáo hoàng đặc biệt, ở những điểm sau đây:.

Trước hết là số vị kế vị Thánh Phêrô (successor of Peter), cho đến Đức Giáo Hoàng Phanxicô là vị thứ 265,

và như thế là có 266 vị giáo Hoàng, đại diện Chúa Kitô trên trần gian (vicar of Christ) bao gồm cả Thánh Phêrô;

Sau nữa là 3 giáo triều lâu nhất lịch sử của Giáo Hội là giáo triều Thánh Phêrô 34 năm,

từ năm 33 khi Chúa Giêsu Thăng Thiên cho đến năm 67 khi ngài tử đạo ở Roma, rồi đến giáo triều chân phước Piô IX 32 năm (1846-1878),

và thứ ba là giáo triều Đức GH Gioan Phaolô II 26 năm rưỡi, từ ngày 16/10/1978 đến mùng 2/4/2005. Già tuổi nhất là Đức GH Lêo XIII - 93 tuổi.

Sau hết là quốc tịch của các ĐGH: 196 vị Ý quốc, trong đó có 88 vị ở Roma, chỉ có 70 vị ngoài Ý quốc, trong đó có ĐGH GP II, từ Balan duy nhất, sau 455 năm toàn Ý quốc.

Nếu kể đến các vị giáo hoàng giả thì có tất cả 42 vị, từ năm 199 cuối thế kỷ thứ 2 cho tới năm 1449 giữa thế kỷ thứ 15.

Nếu kể đến các vị giáo hoàng được phong hiển thánh có 84 vị, và vào ngày 27/4/2014 2 vị được phong 1 lúc là GPII và Gioan XXIII, chân phước 9 vị,

như Đức Pio IX, đáng kính 2 vị (Pio XII và GP I), đầy tớ Chúa 2 vị