SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

Tuần 
Bát Nhật Giáng Sinh 
25/12 - 1/1


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




25/12 - Thứ

 

Đại Lễ Giáng Sinh

 

 


Phụng Vụ Giờ Kinh

 

 

Lời Cầu và Lời Nguyện Phụng Vụ Giờ Kinh Sách Lễ Giáng Sinh

 

Ðức Kitô đã rời bỏ địa vị ngang hàng cùng Thiên Chúa, để mặc lấy phận làm nô lệ và chịu thử thách trăm bề như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ta hãy tha thiết nguyện xin Người:

Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người,

xin phù hộ chúng con.

Lúc vào đời, Chúa khai mạc một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên các ngôn sứ đã loan báo thuở xưa,  - xin cho Giáo Hội Chúa luôn tươi trẻ, hầu thích nghi với mọi thời đại.

Chúa đã mang thân xác yếu hèn của nhân loại,  - xin làm cho người mù được thấy, kẻ đau yếu mau lành, tâm hồn đau khổ được an vui.

Chúa sinh ra trong cảnh nghèo hèn,  xin ủi an kẻ cơ bần đói rách.

Chúa giáng sinh đem hoan lạc đến cho mọi người vì phúc trường sinh Chúa đã hứa,  - xin cho những ai đang hấp hối được vui mừng và hy vọng đạt tới quê Trời.

Chúa xuống trần gian để dẫn đưa mọi người về Thiên Quốc,  - xin cho những kẻ đã qua đời được chung hưởng vinh quang với Chúa.

Lạy Chúa, hằng năm Chúa khơi dậy trong lòng chúng con niềm hoan hỷ trông chờ ơn cứu độ. Giờ đây, chúng con đang vui vẻ đón mừng Con Một Chúa đến cứu chuộc chúng con, thì ngày sau, khi thấy Người đến xét xử, xin cho chúng con khỏi run sợ hãi hùng. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.

 

 

Muôn lạy Đức Ki-tô,
Đấng cứu nhân độ thế,
Là Con Một Chúa Cha
Trước ngàn muôn thế hệ.

Này con cái ngửa trông
Ánh huy hoàng Thánh Phụ,
Ôi nguồn sáng vô cùng,
Xin nghe lời than thở.

Xin nhớ lại hôm xưa
Mặc xác phàm nhân loại,
Chúa chẳng nệ sinh ra
Bởi Nữ Trinh khả ái.

Chúng con mừng kỷ niệm
Ngày có một không hai
Từ lòng Cha thánh thiện
Chúa nhập thể cứu đời.

Ngày bảo chứng tình thương
Chúa bước vào cõi thế,
Trời đất nối đại dương,
Hoan ca nào xiết kể.

Chúng con nhờ phước cả
Máu thánh rửa tội tình
Hát lên bài cảm tạ
Mừng ngày Chúa giáng sinh.

Xin quỳ dâng Thánh Tử
Sinh bởi Đức Nữ Vương,
Cùng Thánh Thần, Thánh Phụ
Vinh phúc cõi thiên đường.

 

Đức Ki-tô đã rời bỏ địa vị ngang hàng cùng Thiên Chúa, để mặc lấy phận làm nô lệ và chịu thử thách trăm bề như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ta hãy tha thiết nguyện xin Người :

Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người,
xin phù hộ chúng con.

Lúc vào đời, Chúa khai mạc một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên các ngôn sứ đã loan báo thuở xưa, - xin cho Giáo Hội Chúa luôn tươi trẻ, hầu thích nghi với mọi thời đại.

Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người,
xin phù hộ chúng con.

Chúa đã mang thân xác yếu hèn của nhân loại, - xin làm cho người mù được thấy, kẻ đau yếu mau lành, tâm hồn đau khổ được an vui.

Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người,
xin phù hộ chúng con.

Chúa sinh ra trong cảnh nghèo hèn, - xin ủi an kẻ cơ bần đói rách.

Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người,
xin phù hộ chúng con.

Chúa giáng sinh đem hoan lạc đến cho mọi người vì phúc trường sinh Chúa đã hứa, - xin cho những ai đang hấp hối được vui mừng và hy vọng đạt tới quê trời.

Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người,
xin phù hộ chúng con.

Chúa xuống trần gian để dẫn đưa mọi người về thiên quốc, - xin cho những kẻ đã qua đời được chung hưởng vinh quang với Chúa.

Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người,
xin phù hộ chúng con.

Lạy Chúa, hằng năm Chúa khơi dậy trong lòng chúng con niềm hoan hỷ trông chờ ơn cứu độ. Giờ đây, chúng con đang vui vẻ đón mừng Con Một Chúa đến cứu chuộc chúng con, thì ngày sau, khi thấy Người đến xét xử, xin cho chúng con khỏi run sợ hãi hùng. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

Hỡi các Ki-tô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 25/12 Bài đọc 2

Trích bài giảng của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng.

Anh chị em thân mến,

Hôm nay, Đấng cứu độ chúng ta đã giáng sinh, chúng ta hãy vui mừng. Chúng ta không được phép buồn khi mừng ngày sự sống xuất hiện. Ngày kỷ niệm này phá tan sự sợ hãi trước cái chết và ban cho chúng ta niềm hân hoan được sống đời đời.

Không ai bị gạt ra khỏi niềm hân hoan đó, vì mọi người đều có chung một lý do để vui mừng. Chúa chúng ta là Đấng huỷ diệt tội lỗi và sự chết, vì Người không thấy ai vượt qua được tình trạng này, nên đã đến để giải cứu mọi người. Thánh nhân hãy mừng vui vì ngày khải hoàn đã gần tới. Tội nhân hãy hân hoan vì được mời gọi đón nhận ơn thứ tha. Người ngoại giáo hãy phấn khởi vì được mời gọi đến hưởng sự sống.

Thật vậy, khi thời gian tới hồi viên mãn đúng như kế hoạch cao sâu huyền nhiệm của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để con người được giao hoà với Đấng Tạo Hoá ; như thế, ma quỷ là kẻ gây ra sự chết, sẽ bị đánh bại do chính bản tính mà nó đã thắng.

Khi Chúa sinh ra, các thiên thần nhảy mừng và ca hát : Vinh danh Thiên Chúa trên trời ; lại loan báo : Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Quả thế, các vị ấy nhìn thấy Giê-ru-sa-lem thiên quốc được thành hình với đủ dân tộc trần gian. Trước công trình kỳ diệu của tình yêu Thiên Chúa, các thiên thần cao sang còn hân hoan vui mừng, thì loài người hèn hạ phải vui mừng biết bao nhiêu.

Vì vậy, anh chị em thân mến, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa Cha nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Do lòng thương vô tận, Thiên Chúa Cha đã yêu mến, đã thương xót chúng ta ; dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô, để trong Đức Ki-tô, chúng ta trở nên một thụ tạo mới, một công trình mới.

Bởi thế, chúng ta hãy cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó ; khi đã được tham dự vào mầu nhiệm Giáng Sinh của Đức Ki-tô, chúng ta hãy từ bỏ lối sống theo xác thịt.

Hỡi các Ki-tô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây, bạn đã được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đừng để mình bị thoái hoá qua việc trở lại với lối sống bất xứng đã qua. Bạn hãy nhớ ai là đầu của bạn, và bạn là chi thể của thân mình nào. Hãy nhớ rằng bạn đã được cứu thoát khỏi quyền lực tối tăm, đã được đưa vào trong ánh sáng và Nước Thiên Chúa.

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, bạn đã trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần. Bạn đừng xua đuổi vị khách quý trọng như thế do những hành động xấu xa của bạn, đừng để mình lại rơi vào ách nô lệ ma quỷ, vì giá chuộc bạn là chính Máu Đức Ki-tô.

Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu, lại còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa ; xin ban cho chúng con được chia sẻ chức vị làm con Chúa với Đức Ki-tô là Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

Đông đoài nam bắc trong bốn cõi,
Lời ca vang dội khắp gần xa :
Ki-tô Thiên Tử nay giáng thế,
Làm con Trinh Nữ Ma-ri-a.

Đấng đã tạo thành nên thế giới,
Đành mang thân phận kẻ tôi đòi,
Một mai cứu khỏi vòng hư hoại,
Con người hèn mọn ấy chúng tôi.

Ân sủng Thánh Linh đổ dạt dào
Xuống lòng Trinh Nữ tự trời cao.
Tấm thân trong trắng giờ mang nặng
Ơn cả diệu huyền quá thẳm sâu.

Có biết đâu rằng một trái tim
Bỗng nên điện ngọc rất êm đềm.
Ngai vàng Thượng Đế ôi Trinh Nữ
Trở nên Mẹ Chúa bởi lòng tin.

Bà hạ sinh con, người con ấy,
Đã được sứ thần nói tiên tri,
Rồi cả Gio-an trong dạ mẹ
Cũng cảm biết Người thuở thai nhi.

Khi Mẹ đặt nằm xuống nắm rơm,
Máng cỏ làm nôi cũng chẳng buồn,
Chim trời cá nước Người nuôi sống,
Giờ đây chút sữa đã là ngon.

Rộn rã tưng bừng đoàn thiên sứ
Dâng Chúa lời ca tận thinh không,
Đây Ngôi Chúa Tể đây Mục Tử,
Thương tỏ mình ra với mục đồng.

Muôn tiếng ngợi khen dâng kính Chúa
Giáng trần sinh bởi Mẹ Đồng Trinh,
Ngài cùng Thánh Linh và Thánh Phụ
Thiên thu hiển trị cõi thiên đình.

 

Ngôi Lời đã có từ muôn thuở, nhưng vì ta, đã giáng trần như con người hữu hạn. Nào ta hoan hỷ tung hô :

Chúa đã đến rồi, địa cầu hãy vui lên !

Lạy Chúa Ki-tô là Ngôi Lời vĩnh cửu, đã giáng trần cho trái đất đượm nhuần hoan lạc, - xin cho lòng chúng con hoan hỷ vui mừng vì được Chúa viếng thăm.

Chúa đã đến rồi, địa cầu hãy vui lên !

Lạy Đấng cứu chuộc chúng con, khi giáng trần, Chúa đã tỏ cho chúng con thấy lòng Chúa Cha thật là trung tín, - xin giúp chúng con giữ lời đã cam kết khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.

Chúa đã đến rồi, địa cầu hãy vui lên !

Lạy Vua Cả trời đất, Chúa đã sai sứ giả loan báo hoà bình cho nhân loại, - xin giữ gìn chúng con được vui sống trong bình an của Chúa.

Chúa đã đến rồi, địa cầu hãy vui lên !

Lạy Chúa là cây nho đích thực, Chúa Cha đã đem trồng nơi trần thế, để chúng con hưởng hoa trái trường sinh, - xin làm cho chúng con được gắn liền với Chúa để đừng trở nên những cành nho không trái.

Chúa đã đến rồi, địa cầu hãy vui lên !

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ánh sáng mới của Ngôi Lời nhập thể đã tràn ngập chúng con, và chiếu giãi niềm tin vào tận tâm hồn. Giờ đây, xin Chúa cũng làm cho ánh sáng ấy rực lên trong mọi sinh hoạt của chúng con. Chúng con cầu xin

 

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa


 Lễ Nửa Ðêm

 Bài Ðọc I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)

"Chúa ban Con của Người cho chúng ta".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]

Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là "Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình". Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13

Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.

3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.

4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

 Bài Ðọc II: Tt 2, 11-14

"Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.

Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.

Ðó là lời Chúa.

 Alleluia: Lc 2, 10-11

Alleluia, alleluia! - Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. - Alleluia.

 Phúc Âm: Lc 2, 1-14

"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.

Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.

Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".

Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Lễ Rạng Ðông

 

Bài Ðọc I: Is 62, 11-12

"Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 96, 1 và 6. 11-12

Ðáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.

Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.

2) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người! - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Tt 3, 4-7

"Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.

Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 2, 14

Alleluia, alleluia! - Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 2, 15-20

"Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.

Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Lễ Ban Ngày

 

Bài Ðọc I: Is 52, 7-10

"Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!

Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6

Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 1, 1-6

"Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.

Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con"? Rồi Chúa lại phán: "Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta". Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: "Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!"

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}

"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".

Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.

Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.

Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".

Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14

"Ngôi Lời đã làm Người và ở cùng chúng ta"

Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.

Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy niệm

 

Emmanuel Giáng Sinh



Nếu Đại Lễ Phục Sinh được bắt đầu vào Lễ Vọng Phục Sinh cũng là Lễ Đêm Phục Sinh, thì Đại Lễ Giáng Sinh cũng chính thức được bắt đầu với Lễ Đêm Giáng Sinh, thời điểm vừa kết thúc Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh đồng thời cũng bắt đầu Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, từ chính Đại Lễ Đêm Giáng Sinh kéo dài tới hết Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, thời điểm mở đầu cho một năm mới. 


Nếu Đại Lễ Phục Sinh, ngoài Lễ Vọng Phục Sinh hay Lễ Đêm Phục Sinh còn có Lễ Sáng và Lễ Chiều, mỗi lễ đều có một bài Phúc Âm thích hợp cho từng thời điểm trong ngày của lễ, thì Đại Lễ Giáng Sinh, ngoài Lễ Đêm Giáng Sinh, cũng có Lễ Rạng Đông và Lễ Ban Ngày nữa.


Nếu Tuần Bát Nhật Phục Sinh từ chính Đại Lễ Phục Sinh, hay từ Lễ Vọng cũng là Lễ Đêm Phục Sinh, có chung một chủ đề "Thày là sự sống lại" (Gioan 11:25), thì Tuần Bát Nhật Giáng Sinh từ chính Đại Lễ Giáng Sinh, hay từ Lễ Đêm Giáng Sinh, cũng có chung một chủ đề "Lời... ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14).


Nếu cả Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh có chủ đề "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), và chung Mùa Vọng đã theo chủ đề "Lời đã hóa thành nhục thể" thì chung Mùa Giáng Sinh (thậm chí kéo dài hết Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, từ 5 đến 9 tuần), bắt đầu từ Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, phụng vụ lời Chúa sẽ theo chủ đề "Lời ... ở cùng chúng ta". 


Thật vậy, phụng vụ Lời Chúa, bao gồm cả các Bài Đọc 1 và 2, nhất là các Bài Phúc Âm, của các Lễ Nửa Đêm, Lễ Rạng Đông và Lễ Ban Ngày, đều nói lên chủ đề "Lời ... ở giữa chúng ta", Đấng đã được chung phụng vụ Lời Chúa và riêng các Bài Phúc Âm trong Tuần Bát Nhật trước Giáng Sinh đã nói đến.


Trước hết, ở các bài Phúc Âm cho các Lễ của Đại Lễ Giáng Sinh này, chủ đề "Lời... ở cùng chúng ta" được trình thuật lại thứ tự như sau. 


Trong bài Phúc Âm Lễ Nửa Đêm: "Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán".


Trong bài Phúc Âm Lễ Rạng Đông"Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: 'Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết'. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ".


Trong bài Phúc Âm Lễ Ban Ngày"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý".


Sau nữa, ở các Bài Đọc 1 cho các Lễ của Đại Lễ Giáng Sinh này, chủ đề "Lời... ở cùng chúng ta" được trình thuật lại thứ tự như sau. 


Trong Bài Đọc 1 Lễ Nửa Đêm: "Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là 'Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình'. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó".


Trong Bài Đọc 1 Lễ Rạng Đông"Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi".


Trong Bài Đọc 1 Lễ Ban Ngày: "Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".


Sau hết, ở các Bài Đọc 2 cho các Lễ của Đại Lễ Giáng Sinh này, chủ đề "Lời... ở cùng chúng ta" được trình thuật lại thứ tự như sau. 


Trong Bài Đọc 2 Lễ Nửa Đêm: "Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người..."


Trong Bài Đọc 2 Lễ Rạng Đông"Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người..."


Trong Bài Đọc 2 Lễ Ban Ngày"Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ".


So với Bài Phúc Âm của từng thời điểm Lễ Giáng Sinh (Nửa Đêm, Rạng Đông và Ban Ngày) thì Bài Đọc 1 và Bài Đọc 2 không rõ nét cho lắm về chủ đề "Lời... ở cùng chúng ta". Vì hai Bài Đọc 1 và Bài Đọc 2 được Giáo Hội chọn đọc hợp với Bài Phúc Âm của từng Lễ, cũng như Bài Đáp Ca ngay sau Bài Đọc 1 thường được Giáo Hội chọn đọc hợp với nội dung của Bài Đọc 1 hơn Bài Đọc 2 và hơn cả Bài Phúc Âm.


Tuy nhiên, phụng vụ Lời Chúa được Giáo Hội chọn đọc cho từng thời điểm của Lễ Giáng Sinh lại rất ăn khớp với nhau, và phụng vụ Lời Chúa của cả 3 thời điểm của Lễ Giáng Sinh cũng hết sức mật thiết liên hệ với nhau.


Trước hết là phụng vụ Lời Chúa Thánh Lễ Giáng Sinh Nửa Đêm: "Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta" (Bài Đọc 1), đó là "Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người..." (BàĐọc 2), dưới hình thù của "con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ" (Bài Phúc Âm).


Sau nữa là phụng vụ Lời Chúa Thánh Lễ Giáng Sinh Rạng Đông: "Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến" (Bài Đọc 1), vì Người là "Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người" (Bài Đọc 2), và Người đến để "tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người" ra cho chúng ta thấy như một "Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ" (Bài Phúc Âm).


Sau hết là phụng vụ Lời Chúa Thánh Lễ Giáng Sinh Ban Ngày: "Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Ngài trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta(Bài Đọc 1), chứ không phải chỉ riêng dân Do Thái, bằng cách, "trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ" (Bài Đọc 2), Người Con này chính là "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể" (Bài Phúc Âm)Đấng mà "mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không lấn át được sự sáng" (Bài Phúc Âm).


Cuối cùng, căn cứ vào phụng vụ Lời Chúa của từng lễ, phụng vụ Lời Chúa ở cả 3 thời điểm Nửa Đêm, Rạng Đông và Ban Ngày của Lễ Giáng Sinh cũng có một liên hệ chặt chẽ với nhau như thế này: "Ơn cứu độ xuất phát từ những người Do Thái" (Gioan 4:22), theo ý nghĩa phụng vụ Lời Chúa Lễ Nửa Đêm và Lễ Rạng Đông, nhưng lại là một ơn cứu độ phổ quát cho chung nhân loại và toàn thể vũ trụ, như ý nghĩa của phụng vụ Lời Chúa Lễ Ban Ngày. Đó là lý do diễn tiến của 3 Bài Phúc Âm từ dân Do Thái tới dân ngoại như sau:  

 

Ở bài Phúc Âm Lễ Đêm biến cố "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) xẩy ra ở Do Thái: bao gồm thời gian (thời Hoàng Đế Rôma Cêsa Augustô đang cai trị cả dân Do Thái), đến không gian (tại quê quán của Vua Đavít là Bêlem Xứ Giuđêa) cũng như đến nhân gian (là các mục đồng canh đêm được Thiên Thần báo tin).  

 

Ở bài Phúc Âm Lễ Rạng Đông, biến cố Giáng Sinh bắt đầu tỏ rạng hơn nữa, nhờ thành phần chứng nhân Do Thái mục đồng: "Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ... Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ" cho dân chúng quanh vùng. 

 

Ở bài Phúc Âm Lễ Ban Ngày, biến cố Giáng Sinh trở thành phổ quát rạng ngời sáng tỏ như ban ngày: "Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không át được sự sáng... Ánh sáng thật sáng soi mọi người đã đến trong thế gian".


Chiều hướng Ơn Cứu Độ xuất phát từ dân Do Thái đến toàn thế giới và vũ trụ theo phụng vụ Lời Chúa của 3 thời điểm cử hành Lễ Giáng Sinh đều được phản ảnh hết sức rõ ràng nơi chung 3 Bài Đáp Ca và riêng 3 câu đáp: 


"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11)" (Lễ Nửa Đêm), "Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta" (Lễ Rạng Đông), "Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta" (Lễ Ban Ngày).


Hai câu Đáp Ca tiêu biểu nhất cho chiều hướng Ơn Cứu Độ phổ quát đã xuất phát từ dân Do Thái theo phụng vụ Lời Chúa cho 3 thời điểm khác nhau của cùng một Đại Lễ Giáng Sinh đã thực sự được tóm gọn trong câu thứ 2 và thứ 3 của Bài Đáp Ca Lễ Ban Ngày như sau:


"Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel" (câu 2)


"Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!" (câu 3).


Là Kitô hữu, chúng ta đã thực sự lãnh nhận Ơn Cứu Độ bởi Mẹ Giáo Hội nơi Phép Rửa thánh tẩy tái sinh, chúng ta đã sống Ơn Cứu Độ này như thế nào? 


Kitô hữu chúng ta có cảm thấy niềm vui vì mình đã được cứu độ hay chăng, có cảm thấy niềm vui vì mình đã được Thiên Chúa đoái thương cứu độ nơi Con của Ngài hay chăng??


Nếu chưa thì tại sao: bởi chưa thấy được tất cả ý nghĩa thiết yếu và giá trị vô cùng cao quí của Ơn Cứu Độ, hay bởi chưa cảm nghiệm được tất cả hay phần nào tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa đối với chung nhân loại cũng như đối với từng người chúng ta???


Nếu rồi thì Kitô hữu chúng ta, nhờ được gặp gỡ Chúa Kitô nơi Phép Rửa, nơi Bí Tích Hòa Giải, nơi Bí Tích Thánh Thể, nơi cảm nghiệm thần linh trong cuộc đời của mình, bằng một đời sống nội tâm như Mẹ Maria trong Bài Phúc Âm Lễ Rạng Đông: "ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng", mà nhờ cuộc gặp gỡ thần linh này bản thân của chúng ta được biến đổi, đến độ chúng ta không thể nào không loan báo Tin Mừng Giáng Sinh như các mục đồng trong Bài Phúc Âm cũng của Lễ Rạng Đông: "tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy" hay chăng? 


Thế nhưng làm sao để có được cảm nghiệm thần linh "Emmanuel - Thiên Chúa ở giữa chúng ta" (Mathêu 1:23; xem Gioan 1:14)? 


Nếu Thiên Chúa là Đấng đã biết rằng loài người tạo vật vô cùng thấp hèn chúng ta không thể nào tự mình lên trời để biết được Ngài là ai và như thế nào, nhờ đó chúng ta có thể được hiệp thông thần linh với Ngài đúng như ý định tạo dựng của Ngài đối với chúng ta, nên Ngài đã phải hạ giáng xuống với chúng ta nơi Lời Nhập Thể của Ngài, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1;18), thì loài người chúng ta không cần phải vươn mình lên trời để tìm Ngài nữa, mà là cần phải hạ mình xuống, "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), mới có thể gặp được Ngài nơi Con Người Giêsu Kitô, "một con trẻ được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ", như được cho thấy trong bài Phúc Âm lễ Rạng Đông.


Thật vậy, Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể đã hạ giáng làm người nghèo khổ, chúng ta không thể gặp Ngài nơi giầu sang phú quí! Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể đã hạ giáng làm người tuân phục, chúng ta không thể nào gặp Ngài nơi kiêu căng tự ái!! Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể đã hạ giáng làm người phục vụ, chúng ta không thể nào gặp Ngài nơi hưởng thụ vị kỷ!!! 


Tại sao Thiên Chúa lại yêu thương loài người vô cùng thấp hèn và tội lỗi chúng ta, từ hư vô mà có, chẳng là gì trước nhan Thiên Chúa vô cùng cao cả và thiện hảo như thế và đến thế, nếu không phải chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta một cách nhưng không và vô cùng nhân hậu hay sao? 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô đã có được một cảm nghiệm rất chính xác rằng: "Giáng Sinh thật sự là lễ của tình thương vô cùng của Thiên Chúa" (Huấn Từ Chúc Mừng Giáng Sinh Giáo Triều Rôma, Thứ Hai 21/12/2015, và ngài đã chứng minh cảm nghiệm này của mình bằng trích dẫn lời của một vị Giáo Phụ dưới đây:) 

"Còn tình thương nào cao cả lớn lao được tỏ ra cho những con người bất hạnh chúng ta hơn tình thương khiến Đấng Tạo Dựng nên các tầng trời ngự xuống giữa chúng ta, và khiến Đấng Tạo Dựng nên trái đất này mặc lấy thân xác chết chóc của chúng ta chứ? Cũng chính tình thương ấy đã khiến cho Vị Chúa này của thế giới mặc lấy bản tính của một người tôi tớ, để tự mình là bánh, Người muốn chịu đói; tự mình thỏa thuê, Người muốn chịu khát; tự mình quyền năng, Người cảm thấy yếu hèn; tự mình là ơn cứu độ, Người muốn cảm thấy được thương tích của chúng ta, và tự mình là sự sống, Người muốn chết đi. Người làm tất cả những điều ấy để làm dịu đi cái đói của chúng ta, làm nhẹ bớt niềm trông mong của chúng ta, để kiên cường nỗi yếu hèn của chúng ta, để tẩy xóa tội lỗi của chúng ta và để thắp lên đức bác ái của chúng ta" (Thánh Âu Quốc Tinh: Sermo CCVII, 1 [PL 38, 1042]).   

Một trong những cảm nghiệm sâu xa thấm thía nhất về mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh có thể nói là chính yếu và tiêu biểu nhất của Công Đồng Chung Vaticanô II, đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một triết gia về nhân bản, trích dẫn phải nói là nhiều nhất đó là câu sau đây trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội "Vui Mừng và Hy Vọng - Gaudium et Spes", đoạn 22:  

 

"Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Adam con người đầu tiên đã là hình bóng của Adam sẽ đến, là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Adam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ... Là 'hình ảnh của Thiên Chúa vô hình' (Col 1,15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi".


26/12 Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh

THÁNH TÊ-PHA-NÔ, TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI

lễ kính

 
Thánh Tê-pha-nô là vị tử đạo tiên khởi, đứng đầu danh sách bảy phó tế, những người giúp các Tông Đồ trong những công việc vật chất. Người cũng đã tham gia công tác loan báo Tin Mừng và chết ở Giê-ru-sa-lem, để lại gương mẫu cho những ai muốn trở thành nhân chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh, muốn noi gương cuộc Thương Khó của Chúa.

 

Bài đọc 1Cv 6,8 - 7,2a.44-59

Cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô

Trích sách Công vụ Tông Đồ.

6 8 Ông Tê-pha-nô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. 9 Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Ky-rê-nê và A-lê-xan-ri-a, cùng với một số người gốc Ki-li-ki-a và Tiểu Á, đứng lên tranh luận với ông Tê-pha-nô. 10 Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông. 11 Bấy giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng : “Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông Mô-sê và Thiên Chúa.” 12 Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. 13 Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng : “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. 14 Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giê-su người Na-da-rét sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Mô-sê đã truyền lại cho chúng ta.” 15 Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông Tê-pha-nô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.

7 1 Bấy giờ vị thượng tế hỏi ông Tê-pha-nô : “Có đúng như vậy không ?” 2a Ông đáp : “Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây : 44 Khi ở trong sa mạc, cha ông chúng ta có Lều chứng ước, như Đấng phán với ông Mô-sê đã truyền phải làm theo kiểu mẫu ông đã thấy. 45 Lều ấy, cha ông chúng ta đã kế thừa, và đã cùng với ông Giô-suê, đem vào đất chiếm được của các dân ngoại mà Thiên Chúa đã đuổi đi khuất mắt các ông. Lều ở lại đó cho đến thời vua Đa-vít. 46 Vua này đẹp lòng Thiên Chúa và đã xin được tìm một ngôi nhà cho Thiên Chúa của Gia-cóp. 47 Nhưng chính vua Sa-lô-môn mới xây nhà cho Người. 48 Tuy nhiên, Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra, như lời ngôn sứ đã nói :

49Chúa phán : Trời là ngai của Ta,
còn đất là bệ dưới chân Ta.
Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào,
và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi ?

 

 

 

50Chẳng phải chính tay Ta đã làm nên mọi sự ấy sao ?

51 Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. 52 Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến ; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. 53 Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ.”

54 Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Tê-pha-nô.

55 Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa. 56 Ông nói : “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” 57 Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông 58 rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô. 59 Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng : “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con.”

 

Xướng đáp

XKhi người tôi tớ Chúa là thánh Tê-pha-nô bị người Do-thái ném đá, thánh nhân thấy trời rộng mở, người đã thấy và đã đi vào.

ĐHạnh phúc thay ai được trời rộng mở đón tiếp.

XKhi đá rơi như mưa làm thánh nhân quỵ ngã, một luồng ánh sáng xuyên qua các tầng mây đến chiếu toả trên người.

ĐHạnh phúc thay ai được trời rộng mở đón tiếp.

Bài đọc 2

Lấy đức ái làm vũ khí

Trích bài giảng của thánh Phun-gien-xi-ô, giám mục Rút-pê.

Hôm qua chúng ta vừa mừng Vua vĩnh cửu của chúng ta sinh ra trong thời gian. Hôm nay chúng ta mừng một chiến sĩ của Người vinh thắng khải hoàn sau khi đã trải qua cuộc thương khó.

Thật vậy, hôm qua Vua của chúng ta, mặc lấy xác phàm, ra khỏi cung lòng Trinh Nữ, đã đoái thương viếng thăm trần gian. Hôm nay một chiến sĩ ra khỏi lều thân xác, được lên trời thật vinh hiển cao sang.

Vua chúng ta là Đấng cao cả, mà vì chúng ta, Người đã đến một cách khiêm tốn. Người không thể đến với hai bàn tay không. Người đã đem đến cho các chiến sĩ của Người một hồng ân trọng đại. Nhờ hồng ân đó, không những Người làm cho họ nên giàu sang sung túc, nhưng còn làm cho họ nên mạnh mẽ để bách chiến bách thắng. Vì Người đã đem đến cho họ hồng ân đức ái, hồng ân này sẽ giúp con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.

Vậy điều gì Người đã đem đến thì Người đã phân phát, nhưng không vì thế mà Người nghèo đi. Trái lại, Người vừa làm cho tình trạng nghèo khó của các tín hữu nên giàu có một cách lạ lùng, trong khi Người vẫn giữ cho các kho tàng của Người đầy tràn luôn luôn, không hề suy giảm.

Như thế, đức ái đã đưa Đức Ki-tô từ trời xuống đất, thì cũng chính đức ái đã nâng thánh Tê-pha-nô từ đất lên trời. Đức ái đã có trước nơi Đức Vua, thì cũng chính đức ái tiếp tục rạng ngời nơi người chiến sĩ.

Vậy để xứng đáng đón nhận triều thiên -như ý nghĩa tên của người-, thánh Tê-pha-nô đã lấy đức ái làm khí giới, và ở đâu người cũng chiến thắng nhờ chính khí giới ấy. Vì yêu mến Thiên Chúa, thánh nhân không lùi bước trước những người Do-thái hành hạ người. Vì yêu mến tha nhân, người đã cầu nguyện cho những kẻ ném đá người. Vì yêu mến, người tranh luận với những người lầm lạc để họ biết đường sửa chữa. Vì yêu mến, người cầu nguyện cho những kẻ ném đá người để họ khỏi bị phạt.

Tin tưởng vào sức mạnh của đức ái, người đã thắng ông Sao-lô hung bạo. Ở dưới đất, thánh Tê-pha-nô bị ông Sao-lô bách hại thì nay ở trên trời, người lại có ông Sao-lô là bạn chung phần hạnh phúc. Những con người mà trước kia người đã dùng lời răn đe để cảm hoá nhưng không được, thì nay người muốn chinh phục nhờ lời cầu nguyện phát xuất từ lòng bác ái thánh thiện và kiên trì.

Và giờ đây thánh Phao-lô đang cùng thánh Tê-pha-nô vui mừng, cùng thánh Tê-pha-nô hưởng vinh quang sáng láng của Chúa Ki-tô, cùng thánh Tê-pha-nô hoan hỷ, cùng thánh Tê-pha-nô cai trị. Nơi thánh Tê-pha-nô đã đi tới trước vì bị Phao-lô ném đá chết, thì Phao-lô cũng đã theo được đến đó, nhờ có những lời cầu nguyện của thánh Tê-pha-nô trợ giúp.

Anh em thân mến, đây là cuộc sống thật trong đó thánh Phao-lô không còn hổ thẹn vì đã giết thánh Tê-pha-nô, nhưng thánh Tê-pha-nô thì lại vui mừng vì thánh Phao-lô được chung phần hạnh phúc, bởi vì chính đức ái đem lại niềm vui cho cả hai. Lòng mến nơi thánh Tê-pha-nô đã thắng được sự bạo tàn của người Do-thái, còn lòng mến nơi thánh Phao-lô đã che phủ được muôn vàn tội lỗi. Nhờ lòng mến, cả hai đều đáng được hưởng Nước Trời.

Vậy lòng mến là nguồn mạch và căn nguyên của mọi điều thiện hảo, là nơi nương ẩn an toàn, là đường dẫn lên trời. Ai bước đi trong lòng mến sẽ không bị lạc đường, không phải sợ hãi. Lòng mến hướng dẫn, lòng mến che chở, lòng mến dẫn tới đích.

Anh em thân mến, Đức Ki-tô đã dựng lên cái thang đức mến, nhờ đó bất cứ người Ki-tô hữu nào cũng có thể lên tới trời. Vì thế anh em hãy can đảm giữ lấy đức mến tinh tuyền, hãy thực thi đức mến với nhau, và hãy cùng tiến lên trời nhờ tăng triển trong lòng mến.

Xướng đáp

XHôm qua Chúa sinh xuống trần gian, để thánh Tê-pha-nô được sinh ra trên trời.

ĐThiên Chúa đã đi vào trần thế, để con người được lên chốn trời cao.

XVua chúng ta mặc lấy xác phàm trong lòng Trinh Nữ, ngày hôm qua ngự đến viếng thăm nhân trần.

ĐThiên Chúa đã đi vào trần thế, để con người được lên chốn trời cao.

Lạy Chúa, thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên đã biết cầu nguyện cho những kẻ bách hại mình như Chúa Ki-tô dạy. Hôm nay mừng kỷ niệm thánh nhân bước vào trời vinh hiển, chúng con nài xin Chúa ban ơn để chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà yêu thương ngay cả địch thù. Chúng con cầu xin

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Cv 6,8-10

"Kìa tôi xem thấy trời mở ra"

Bài trích sách Tông Ðồ Công Vụ.

Trong những ngày đó, Têphanô đầy ân sủng và sức mạnh, làm nên những điều kỳ diệu và những phép lạ cả thể trong dân.

Bấy giờ, có nhóm người kia, thuộc Hội đường, mệnh danh là "của những người Tự Do, người Xirênê và Alexandria", và những người khác từ xứ Cilicia và Á đông, đã nổi dậy.

Họ tranh luận với Têphanô, nhưng họ không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh Thần vẫn giúp cho ông nói.

Nghe ông nói, họ phát điên lên trong lòng, và họ nghiền răng phản đối ông.

Nhưng Têphanô, đầy Thánh Thần, nhìn lên trời, đã xem thấy vinh quang của Thiên Chúa, và Ðức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa.

Ông đã nói rằng:

"Kìa, tôi xem thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa".

Bấy giờ họ lớn tiếng kêu la và bịt tai lại, và họ nhất tề xông vào ông.

Khi lôi ông ra ngoài thành, họ ném đá ông.

Và các nhân chứng để áo của họ dưới chân một người thanh niên tên là Saolê.

Rồi họ ném đá Têphanô, đang lúc ông cầu nguyện rằng:

"Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận tâm hồn tôi".

Thế rồi ông quì gối xuống, lớn tiếng kêu lên rằng:

"Lạy Chúa, xin đừng trách cứ họ về tội lỗi nầy".

Nói xong câu đó, ông đã an giấc trong Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Ðáp Ca: Tv. 30,3cd 4, 6ab và 8a, 17 và 21ab

Ðáp: Lạy Chúa, tôi xin phó mạng sống tôi trong tay Chúa.

Xướng 1) Xin Chúa nên núi đá tôi nương náu, và nên thành trì cứu thoát tôi, bởi Chúa là núi đá và là thành trì của tôi, vì danh Chúa, xin dẫn đàng chỉ lối cho tôi. - Ðáp.

2) Tôi phó mạng sống tôi trong tay Chúa, Lạy Chúa là Thiên Chúa trung tín, xin cứu thoát tôi.

3) Còn tôi, tôi trông cậy nơi Chúa, tôi hân hoan vui mừng vì lòng từ bi Chúa. - Ðáp.

4) Xin Chúa tỏ mặt nhân lành với tôi tớ Chúa, và lấy lòng thương xót Chúa cứu thoát tôi. Chúa che chở những ai nấp dưới nhan thánh Chúa khỏi mưu chước của loài người. Chúa giấu họ trong nhà Chúa khỏi miệng lưỡi gian ngoa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv. 117, 26a và 27a

Alleluia, alleluia - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến; Chúa là Thiên Chúa đã soi sáng chúng ta. Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10,17-22

"Không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha"

Bài trích Phúc âm theo Thánh Matthêô.

Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:

"Chúng con hãy coi chừng người đời.

Họ sẽ nộp chúng con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn chúng con nơi hội đường.

Vì Ta, chúng con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân.

Nhưng khi người ta nộp chúng con, chúng con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha chúng con sẽ nói thay cho.

Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết.

Vì Ta, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

 

 

Thánh Stephanô Phó Tế Tử Đạo

 

ĐTC Biển Đức XVI - Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 10/1/2007

Bài 28 trong loạt bài Giáo Lý về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

 

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Sau những ngày lễ, chúng ta trở lại với loạt bài giáo lý của chúng ta. Tôi đã suy niệm với anh chị em về các hình ảnh của 12 Tông Đồ và về Thánh Phaolô. Từ đó chúng ta đã bắt đầu chia sẻ về các hìn h ảnh khác thuộc Giáo Hội sơ khai. Bởi vậy, hôm nay, chúng ta muốn suy niệm về Thánh Stêphanô, vị Thánh được Giáo Hội mừng kính ngay sau Lễ Giáng Sinh. Thánh Stêphanô là vị tiểu biểu nhất của một nhóm 7 đồng bạn. Truyền thống thấy nơi nhóm này hạt giống của thừa tác vụ phó tế sau này, mặc dù chúng ta cần  phải xác nhận là dan h xưng này không có trong sách Tông Vụ. Dù sao đi nữa, tầm quan trọng của Thánh Stêphanô đã hiển nhiên ở sự kiện là, trong cuốn sách quan trọng này, Thánh Luca đã giành riêng 2 đoạn cho ngài.

 

Trình thuật của Thánh Luca bắt đầu bằng việc cho thấy tình trạng ngầm chia rẽ xẩy ra nơi Giáo Hội tiên  khởi Giêrusalem, ở chỗ, Giáo Hội này hoàn toàn được làm nên bởi các Kitô hữu gốc Do Thái (Jewish), thế nhưng, trong số thành phần Kitô hữu này một số là dân bản xứ ở đất Yến Duyên (Israel) và được gọi là những “Người Do Thái” (Hebrews), trong khi các người khác xuất thân từ niềm tin Do Thái thời Cựu Ước thuộc cộng đồng Do Thái nói tiếng Hy Lạp và được gọi là những “Người Theo Văn Hóa Hy Lạp” (Hellenists). Bởi thế mà vấn đề đã diễn ra là thành phần thiếu thốn nhất trong số những người Do Thái theo văn hóa Hy Lạp, nhất là nữ giới góa bụa không được trợ giúp gì về xã hội, có nguy cơ bị bỏ rơi trong việc trợ giúp về dưỡng thực hằng ngày của họ.

 

Để thắng vượt những khó khăn này, các vị tông đồ, để duy trì cho các vị việc cầu nguyện và thừa tác v ụ lời Chúa như là công việc chính yếu của các vị, đã quyết định bổ nhiệm “7 nam nhân có tiếng tốt, đầy Thần Linh và khôn ngoan” vào nhiệm vụ ấy, tức là, vào việc phucï vụ bác ái xã hội. Như Thánh Luca viết, theo chiều hướng mục tiêu ấy và trước lời mời gọi của các vị tông đồ, các môn đệ đã tuyển chọn ra 7 người nam. Chúng ta thấy tên tuổi của các vị. Đó là: ‘Stêphanô, một con người đầy đức tin và Thánh Thần, cũng như Philip, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas, và Nicholas ở Antiokia, một người trở lại Do Thái Giáo. Họ trình cho các vị tông đồ những nam nhân ấy và được các vị tông đồ nguyện cầu và đạt tay trên họ’ (Acts 6:5-6).

 

Cử chỉ đặt tay có một số ý nghĩa. Theo Cựu Ước  thì cử chỉ này trước hết có ý nghĩa truyền đạt một nhiệm vụ quan trọng, như Moisen đã làm cho Gioduệ (x Num 27:18-23) để ủy thác cho việc thừa kế mình. Theo đó, Giáo Hội Antiôkia cũng sử dụng cùng một cử chỉ này để sai Thánh Phaolô và Barnabas đi truyền giáo cho các dân tộc trên thế giới (x Acts 13:3). Chi tiết về việc đặt tay như vậy cũng được đề cập tới, ở trường hợp Timôthêu, để truyền đạt một nhiệm vụ chính thức, trong hai bức thư gửi Thánh Phaolô gửi cho ngài (x 1Tim 4:14; 2Tim 1:6). Sự kiện của việc đặt tay là một hành động quan trọng, một hành động được thi hành sau khi nhận thức, là điều được suy diễn từ những gì đọc thấy ở bức thư thứ nhất gửi cho Timôthêu: ‘Đừng vội vàng hấp tấp trong việc đặt tay, cũng đừng can dự vào tội lỗi của kẻ khác’ (5:22).

 

Bởi thế, chúng ta thấy rằng cử chỉ đặt tay xẩy ra theo ý nghĩa của một dấu hiệu bí tích. Trong trường hợp của Thánh Stêphanô và đồng bạn của ngài thì đây thật sự là một việc các vị tông đồ chính thức chính thức truyền đạt một nhiệm vụ, đồng thời các vị cũng cầu xin ơn ban  để thi hành nhiệm vụ ấy.

 

Điều quan trọng ở đây đó là, ngoài những việc phục vụ bác ái, Thánh Stêphanô cũng thi hành cả công việc truyền bá phúc âm hóa nữa nơi thành phần đồng hương của mình, thành phần được gọi là ‘Những Người theo Văn Hóa Hy Lạp’. Thật vậy, Thánh Luca đã nhấn mạnh đến sự kiện là Thánh Stêphanô, ‘đầy ân sủng và quyền  năng” (Acts 6:8), đã nhân danh Chúa Giêsu, trình bày cho thấy một dẫn giải mới  về Moisen cũng như về chính Luật của Thiên Chúa, đọc lại Cựu Ước theo chiều kích loan báo cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Việc đọc lại Cựu Ước này, một việc đọc lại theo chiều kích Kitô học, đã làm bừng lên các phản ứng nơi người Do Thái cho rằng những lời lẽ của ngài là phạm thượng (x Acts 6:11-14). Bởi thế mà ngài bị kết tội bị ném đá. Và Thánh Luca đã để lại cho chúng ta bài nói cuối cùng của vị thánh này, một tổng luận cho việc ngài rao giảng.

 

Như Chúa Giêsu đã giải thích cho các môn đệ đi Emmau rằng toàn thể Cựu Ước đều nói về Người, về thập giá của Người và về cuộc phục sinh của Người thế nào thì cũng thế, Thánh Stêphanô, theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã đọc toàn thể Cựu Ước theo cái then chốt Kitô học. Ngài đã chứng minh rằng mầu nhiệm thập giá là tâm điểm của lịch sử cứu độ đã được trình thuật trong Cựu Ước, ngài thực sự chứng tỏ rằng Chúa Giêsu, Đấng tử giá và phục sinh, là ‘đền  thờ’ mới và đích thực.

 

Chính việc ‘phủ nhận’ này đối với đền thờ và việc tôn thờ ở đền thờ đã mang lại bản án cho Thánh Stêphanô, vị mà lúc ấy – Thánh Luca cho chúng ta biết rằng – ngước mắt lên trời đã thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Chúa Giêsu ở bên hữu Thiên Chúa. Và khi nhìn lên trời, lên Thiên Chúa và Chúa Giêsu, Thánh Stêphanô đã nói: ‘Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con người đứng bên  hữu Thiên Chúa’ (Acts 7:56). Cuộc tử đạo của ngài thực sự giống với Cuộc Khổ Nạn của c hính Chúa Giêsu, khi ngài trút linh hồn mình cho Chúa và nguyện cầu ơn thứ tha cho những ai sát hại ngài (x Acts 7:59-60).

 

Vị trí xẩy ra cuộc tử đạo của Thánh Stêphanô ở Giêrusalem theo truyền thống ở ngay bên  ngoài Cổng Damasco phía bắc, nơi thực sự có một ngôi thánh đường Thánh Stêphanô hiện ở đó, gần ‘Trường Thánh Kinh’ nổi tiếng của tu sĩ Dòng Đaminh. Cuộc sát hại Thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Kitô Giáo, đã mở màn cho một cuộc bách hại ở địa phương đối với thành phần  môn đệ Chúa Giêsu (x Acts 8:1), một cuộc bách hại đầu tiên được chứng thực trong lịch sử của Giáo Hội. Nó là một cơ hội cụ thể trong việc xua đẩy nhóm Kitô hữu Hebrew-Hellenist chạy thoát khỏi Giêrusalem và tản mát đi khắp nơi. Bị tống khứ khỏi Giêrusalem, họ trở thành các nhà truyền giáo lưu động. ‘Bấy giờ nhữn g ai bị tản mát đã ra đi rao giảng Lời Chúa’ (Acts 8:4). Cuộc bách hại ấy và việc phân tán kèm theo đã trở thành cuộc truyền  giáo. Nhờ đó, Phúc Âm đã được truyền bá ở Samaria, Phoenicia và Syria, cho đến khi tiến đến một thành phố lớn là Antiôkia, nơi mà theo Thánh Luca, Phúc Âm được truyền giảng cho dân ngoại (x Acts 11:19-20) và cũng là nơi danh xưng ‘Kitô hữu’ được vang lên lần đầu tiên (x Acts 11:26).

 

Thánh Luca đặc biệt cho rõ là những ai ném đá Thán h Stêphanô ‘đã đặt án xống của mình ở dưới chân một con người trẻ gọi là Saulê’ (Acts 7:58), cũng là con người từ một kẻ bách hại trở thành một v ị Tổng Đồ Phúc Âm long danh. Điều này có nghĩa là con người trẻ Saulê chắc chắn d0ã nghe thấy việc rao giảng của Thánh Stêphanô  và đã biết được những gì c hính yếu. Và Thánh Phaolô có lẽ trong số những ai theo dõi và lắng nghe bài diễn từ n ày ‘đã tỏ ra điên tiết lên’ và ‘nghiến răng tức giận ngài’ (Acts 7:54). Như thế chúng ta có thể thấy được những diệu kỳ của Đấng Quan Phòng Thần Linh, ở chỗ, Saulê, một đối thủ cứng lòng trước nhãn quan của Thánh Stêphanô, sau cuộc hội ngộ với Chúa Kitô phục sinh trên đường đi Damascô, đã tiếp tục việc dẫn giải Cựu Ước theo chiều kích Kitô học được vị tử đạo tiên khởi này thực hiện, một cách sâu xa hơn và trọn vẹn hơn, nhờ đó đã trở thành ‘Vị Tông Đồ Dân Ngoại’. Thánh Phaolô dạy rằng lề luật được nên trọn nơi thập giá của Chúa Kitô. Và niềm tin vào Chúa Kitô, mối hiệp thông với tình yêu Chúa Kitô, thực sự là những gì làm trọn toàn lề luật. Đó là nội dung của việc Thánh Phaolô rao giảng. Như thế, ngài cho thấy rằng vị Thiên Chúa của Abraham đã trở thành v ị Thiên Chúa của tất cả mọi người. Và tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, như con cái của Abraham, đều trở thành những kẻ chung phần vào các lời hứa. Nhãn quan của Thánh Stêphanô đã được nên trọn nơi việc truyền giáo của Thánh Phaolô.

 

Câu truyện về Thánh Stêphanô đã dạy cho chúng ta nhiều điều. Chẳng hạn, nó dạy chún g ta rằng chúng ta không b ao giờ được tách rời việc dấn thân  làm việc bác ái xã hội với việc can đảm truyền bá đức tin. Ngài là một trong 7 người đã được ủy thác trước hết là đức bác ái. Thế nhưng, cũng không thể nào tách biệt bác ái khỏi việc rao giảng. Bởi thế, bằng đức bác ái, ngài đã loan truyền Chúa Kitô chịu đóng đanh, cho đến độ chấp nhận cả việc tử đạo. Đây là bài học đầu tiên chúng ta có thể học nơi hình ảnh Thánh Stêphanô: Bác ái và việc rao giảng bao giờ cũng đi với nhau.

 

Thánh Stêphanô nói với chúng ta trước hết về Chúa Kitô, về Chúa Kitô tử giá và phục sinh như là tâm điểm của lịch sử cũng như của đời sống chúng ta. Chúng ta có thể hiểu rằng Thập Giá bao giờ cũng chiếm chỗ chính yếu trong đời sống của Giáo Hội cũng như trong cuộc sống riêng tư của chúng ta. Khổ nạn và bách hại không bao giờ thiếu nơi lịch sử của Giáo Hội. Và chính vì bách hại, theo câu nói long dan h của giáo phụ Tertulliano, trở thành nguồn mạch truyền giáo cho các tân Kitô hữu. Tôi xin trích lại những lời của ông: ‘Chúng tôi tăng triển hết mọi lúc chúng tôi được gặt hái bởi quí ngài: Máu của Kitô hữu là một thứ hạt giống’ ("Apologetico" 50,13: "Plures efficimur quoties metimur a vobis: semen est sanguis christianorum").

 

Thế nhưng, trong cả đời sống của chúng ta nữa, thập giá, một thập giá không bao giờ vắng vóng, trở thành một phúc lành. Và, khi chấp nhận thập giá, biết rằng nó trở thành và là một phúc lành, chúng ta  cảm thấy được niềm vui của Kitô Giáo, thậm chí trong những lúc khó khăn. Giá trị của chứng từ này là những gì bất khả thay thế, vì Phúc Âm dẫn đến với Người và Giáo Hội được nuôi dưỡng bởi Người. Thánh Stêphanô dạy chúng ta hãy học lấy những bài học ấy, ngài dạy chúng ta hãy mến yêu thập giá, vì nó thực sự là đường lối nhờ đó Chúa Giêsu luôn làm cho mình tái hiện diện nơi chúng ta. 

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo Zenit ngày 10/1/2007

 


Suy niệm

 

Emmanuel "Con Người bên hữu Thiên Chúa"


Theo lịch trình phụng niên, ngay sau Đại Lễ Giáng Sinh ngày 25/12 là Lễ Thánh Stephano Tử Đạo, 26/12, trước cả Lễ Tông Đồ Gioan 27/12 là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 19:26; 20:2; 21:7,20). 


Phải chăng 2 vị thánh này được Giáo Hội cố ý sắp xếp lễ kính vào hai ngày ngay sau Đại Lễ Giáng Sinh, căn cứ vào phụng vụ Lời Chúa cho mỗi lễ kính từng vị, bởi vì hai vị là hai nhân chứng liên quan đến Ngôi Vị có hai bản tính của Chúa Giêsu: Thánh Stephanô là nhân chứng về nhân tính của Chúa Kitô và Thánh Gioan Tông Đồ là nhân chứng về thần tính của Người.


Đúng thế, Sách Tông Vụ trong Bài Đọc 1 hôm nay đã thuật lại chẳng những lời chứng của vị phó tế tử đạo tiên khởi về nhân tính của Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa Làm Người, là"Kìa, tôi xem thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa", mà còn việc chứng của ngài nữa: "Lạy Chúa, xin đừng trách cứ họ về tội lỗi nầy", một hành động tha thứ cho kẻ sát hại mình như chính Chúa Kitô đã thực hiện trên cây thập tự giá (xem Luca 23:34).


 

Nếu Chúa Kitô giáng sinh làm người là "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) nơi bản thân của Người là hiện thân đích thực của tình thương Thiên Chúa, qua lời nói và việc làm của Người, nhất là qua cuộc Vượt Qua của Người, thì Vị Phó Tế Tử Đạo tiên khởi Stephano trong lịch sử Kitô giáo được Giáo Hội kính ngay sau Đại Lễ Giáng Sinh đây thật sự là phản ảnh trung thực và sống động về Người.


Thị kiến của vị tử đạo trước cơn hận tức đến tột độ của thành phần đám đông đối phương và ngay trước khi ngài bị ném đá chết: "Kìa, tôi xem thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa", một lời chứng đã khiến cho thành phần đối chất với ngài không thể cầm mình được nữa: "Bấy giờ họ lớn tiếng kêu la và bịt tai lại, và họ nhất tề xông vào ông. Khi lôi ông ra ngoài thành, họ ném đá ông", vì lời chứng này cho rằng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, hay là Thiên Chúa đã hóa thân làm người bị họ phủ nhận nhưng Người quả thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, một lời chứng đã cho thấy ngài quả thực, đúng như Sách Tông Vụ trong Bài Đọc 1 hôm nay ghi nhận: "đầy ân sủng và sức mạnh, làm nên những điều kỳ diệu và những phép lạ cả thể trong dân" và "đầy Thánh Thần, nhìn lên trời, đã xem thấy vinh quang của Thiên Chúa, và Ðức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa". 


Tức là thánh nhân đã đạt đến tầm mức kết hiệp nên một với Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người và đang ở bên hữu Cha, Đấng cũng đã sai Thánh Thần của Người từ Cha xuống trên Giáo Hội là chứng nhân của Người trên thế gian này cho tới tận cùng trái đất (xem Tông Vụ 1:8), qua các phần tử của Giáo Hội mà Vị Thánh Phó Tế Tử Đạo Stephano là chứng nhân tiêu biểu và tiên khởi.


Thế nhưng, để đạt tới trình độ thực sự trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người, bất cứ một Kitô hữu môn đệ nào của Người nói chung và Thánh Stephanô nói riêng cũng cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Người, tức để cho Người hoàn toàn chiếm đoạt và sống trong mình, như thể "sự sống mà tôi đang sống không phải là tôi sống nữa song Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), nhờ đó họ mới có cùng một tâm tình, tác hành và phản ứng như Chúa Kitô và với Chúa Kitô.


Lòng tin tưởng nơi các môn đệ của Chúa Kitô và của các môn đệ Người được tỏ ra rõ ràng nhất và mãnh liệt nhất là khi các vị bị bách hại và sát hại nhưng vẫn cương quyết trung thành với Người cho đến cùng, theo đúng như những lời cảnh báo và trấn an của chính Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay: 


"Chúng con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp chúng con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn chúng con nơi hội đường. Vì Ta, chúng con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân. Nhưng khi người ta nộp chúng con, chúng con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha chúng con sẽ nói thay cho. Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết. Vì Ta, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng sẽ được cứu rỗi".


Bài Đáp Ca hôm nay là một tâm tình tin tưởng của thành phần chứng nhân như Thánh Stephano, Vị Tử Đạo tiên khởi của Giáo Hội Chúa Kitô:


1) Xin Chúa nên núi đá tôi nương náu, và nên thành trì cứu thoát tôi, bởi Chúa là núi đá và là thành trì của tôi, vì danh Chúa, xin dẫn đàng chỉ lối cho tôi. 


2) Tôi phó mạng sống tôi trong tay Chúa, Lạy Chúa là Thiên Chúa trung tín, xin cứu thoát tôi.


3) Còn tôi, tôi trông cậy nơi Chúa, tôi hân hoan vui mừng vì lòng từ bi Chúa. 


4) Xin Chúa tỏ mặt nhân lành với tôi tớ Chúa, và lấy lòng thương xót Chúa cứu thoát tôi. Chúa che chở những ai nấp dưới nhan thánh Chúa khỏi mưu chước của loài người. Chúa giấu họ trong nhà Chúa khỏi miệng lưỡi gian ngoa.



 

Lễ Thánh Gioan Tông Đồ - 27/12 Thứ Sáu

 

Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: 1 Ga 1, 1-4

"Chúng tôi loan truyền cho anh em điều chúng tôi đã nghe và đã thấy".

Bắt đầu thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, điều đã có từ thuở ban sơ, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã ngắm nhìn và tay chúng tôi đã sờ đến về Ngôi Lời hằng sống: là sự sống đã tỏ hiện, và chúng tôi đã từng thấy, chúng tôi làm chứng và chúng tôi loan truyền cho các con sự sống đời đời đã có nơi Chúa Cha và đã tỏ hiện cho chúng ta. Ðiều chúng tôi đã thấy và đã nghe, thì chúng tôi loan truyền cho các con, để các con hiệp nhất với chúng tôi, và chúng ta hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô, Con của Người. Chúng tôi viết các điều này để các con vui mừng và niềm vui của các con được trọn vẹn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 11-12

Ðáp: Người hiền đức, hãy vui mừng trong Chúa (c. 12a).

Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.

2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.

3) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy vui mừng trong Chúa và hãy ca tụng thánh danh Người. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang của các tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 2-8

"Môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna chạy đến gặp Simon Phêrô và môn đệ kia mà Chúa Giêsu yêu, bà nói: "Người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để đâu".

Bấy giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người, không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ.

Bấy giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin.

Ðó là lời Chúa.

My Reflections...: Reflection for December 27, Thursday; Feast of Saint  John, Apostle and evangelist: John 20:1a, 2-8

 

Peter and John Go to the Empty Tomb

 

 

 

Suy niệm

 

Emmanuel - Sự Sống đời đời nơi Chúa Cha

 

 

Bao giờ cũng thế, năm nào cũng vậy, theo sự sắp xếp đầy ý nghĩa của Giáo Hội, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ luôn được Giáo Hội cử hành vào ngày 27/12 trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, một trong 5 thánh lễ Giáo Hội cố ý sắp xếp vào Tuần Bát Nhật Giáng Sinh: Lễ Thánh Stephano Tử Đạo ngày 26/12, ngày 27/12 Lễ Thánh Gioan Tông Đồ, 28/12 Lễ Các Thánh Anh Hài, Lễ Thánh Gia vào Chúa Nhật trong Tuần Bát Nhật (nếu không có Chúa Nhật này, như năm 2016, vì Chúa Nhật cuối Tuần Bát Nhật chính là ngày 1-1, Lễ Mẹ Thiên Chúa, thì mừng vào ngày 30/12), và Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1 ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật. Tất cả đều ở bậc Lễ Kính (có Kinh Vinh Danh), trừ Lễ Mẹ Thiên Chúa ở bậc lễ trọng buộc.

 

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Lễ Thánh Gioan Tông Đồ lại được Giáo Hội sắp xếp vào Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, nhất là tại sao vị tông đồ tự nhận mình là "người môn đệ  được Chúa Giêsu yêu" này (xem Gioan 13:23; 19:26; 20:2; 21:7), có nghĩa là gần gũi nhất hay thân mật nhất với Chúa Kitô như thế, mà Giáo Hội vẫn cử hành lễ kính ngài sau lễ kính Phó Tế Tử Đạo Tiên Khởi Stephano?

 

Trước hết, về lý do tại sao Lễ Thánh Gioan Tông Đồ lại được Giáo Hội sắp xếp vào Tuần Bát Nhật Giáng Sinh là bởi vì vị tông đồ này, vị tông đồ khẳng định rằng thành phần "không công nhận Chúa Kitô sinh ra bởi xác thịt" (2Gioan 7) là phản kitô, đã tin Chúa Kitô Phục Sinh ngay vừa khi thấy dấu chứng phục sinh, so với tông đồ Phêrô, như được chính ngài thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Bấy giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người, không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ. Bấy giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin".

 

Tin Chúa Kitô phục sinh từ trong kẻ chết, từ trong một thân xác đã thật sự chết như chính mắt ngài đã chứng kiến thấy khi được đứng kề thập giá Chúa Kitô với Mẹ Chúa Giêsu (xem Gioan 19:25), chính là tin "Chúa Kitô đã đến trong xác thịt". Và chỉ có duy một mình người môn đệ được Chúa Giêsu yêu này (trong tất cả tông đồ đoàn) mới đích thân thấy được, nếu không muốn nói được tham dự một phần nào vào Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, một cuộc vượt qua từ cõi chết (trên Đồi Canvê) sang cõi sống (trong ngôi mộ trống), mà cũng chỉ có mình ngài mới có thể minh chứng và loan truyền Tin Mừng Sự Sống là những gì chính ngài đã viết trong đoạn mở đầu Phúc Âm của ngài ở Bài Đọc 1 hôm nay rằng:

 

"Ðiều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã trở nên hữu hình, Chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Ðiều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Ðức Giêsu Kitô, Con của Người".

 

Sau nữa, về lý do tại sao vị tông đồ tự nhận mình là "người môn đệ  được Chúa Giêsu yêu" này (xem Gioan 13:23; 19:26; 20:2; 21:7), có nghĩa là gần gũi nhất hay thân mật nhất với Chúa Kitô như thế, mà Giáo Hội vẫn cử hành lễ kính ngài sau lễ kính Phó Tế Tử Đạo Tiên Khởi Stephano, là vì được sắp xếp sau không có nghĩa là kém hơn, như trường hợp loài người được tạo dựng sau cùng vào ngày thứ sáu trong 6 ngày tạo dựng chẳng những không phải là loài kém nhất mà lại là loài nhất đẳng tạo vật được Thiên Chúa dựng nên.

 

Thế nhưng, nếu Thánh Gioan Tông Đồ, theo vai trò của ngài liên quan đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Chúa Kitô thật sự là hơn Thánh Stephano Phó Tế Tử Đạo Tiên Khởi thì hơn ở chỗ nào?

 

Vẫn biết Phó Tế Stephano Tử Đạo Tiên Khởi không phải là tông đồ như Thánh Gioan nhưng tự việc tử đạo của ngài cũng cho thấy về tinh thần ngài quả thực là tông đồ của Chúa Kitô, vì tông đồ theo nghĩa Hy Lạp là làm chứng. Vị phó tế này tuy không được đích thân chứng kiến thấy Chúa Kitô khổ giá và tử nạn như Thánh Gioan Tông Đồ, nhưng nếu ngài không hiệp nhất nên một với Chúa Kitô thì ngay trước khi chết ngài sẽ không được thị kiến thấy nhân tính của Chúa Kitô nơi hình ảnh "Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa", và đồng thời ngài cũng không thể nào có một tác động giống hệt Chúa Kitô trước khi chết bởi tay kẻ thù mình là tác động xin tha cho kẻ thù của mình, như Bài Đọc 1 ở Sách Tông Vụ hôm qua cho thấy.

 

Tuy nhiên, dầu sao vị phó tế tử đạo tiên khởi này cũng chỉ được xem thấy và làm chứng cho một Chúa Kitô đến trong xác thịt bằng chính máu của mình, còn Thánh Gioan Tông Đồ được hơn ở chỗ tham dự vào chính biến cố Vượt Qua, đến độ, có thể nói chính vì đã tử đạo bởi ngài đã yêu với tất cả đớn đau đến tột cùng trước cuộc khổ giá của Thày vào chính lúc được thông phần ấy mà chỉ một mình ngài trong tông đồ đoàn là không tử đạo bằng máu của bản thân mà thôi.

 

Chưa hết, Thánh Gioan Tông Đồ còn hơn vị phó tế tử đạo tiên khởi ở chỗ người môn đệ được Chúa Giêsu yêu này đã thị kiến thấy, qua thị kiến Khải Huyền, vương quốc của Thiên Chúa trị đến, như được chính Chúa Giêsu ám chỉ về ngài qua câu nói: "có mấy người trong các con ở đây sẽ không chết cho tới khi thấy Con Người đến trong vương quốc của Người" (Mathêu 16:28; xem Marco 9:1; Luca 9:27).

 

Căn cứ vào nội dung của Phúc Âm thứ tư, so với bộ Phúc Âm Nhất Lãm 3 cuốn trước đó, thì phải nói rằng tác giả của cuốn Phúc Âm thứ tư này thật sự đã được chiêm nghiệm thần tính của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, một thần tính được Chúa Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), "hằng ở cùng Cha tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), như "ánh sáng thế gian... ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12).

 

Tuy nhiên, theo dự án thần linh cứu độ của Thiên Chúa thì tất cả đều bổ túc cho nhau. Bởi thế, có thế nói, Thánh Gioan Tông Đồ và Thánh Stephano Phó Tế Tử Đạo Tiên Khởi được Giáo Hội sắp xếp về phụng vụ như thể song song với nhau và bổ túc cho nhau. Lễ kính Thánh Stephano là vị tử đạo làm chứng cho một Chúa Kitô đến trong xác thịt, còn Thánh Gioan Tông Đồ là người môn đệ làm chứng cho "Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, và chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).

 

 

Thứ Tư 5/7/2006

 

Bài 14

 

 

Tông Đồ Gioan, con ông Giêbêđê

 

ĐTC Biển Đức XVI - Bài Giáo Lý 14 về Giáo Hội Tông Truyền - Thứ Tư 5/7/2006

 

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Chúng ta giành cuộc gặp gỡ hôm nay để nhắc lại một phần tử khác thuộc tông đồ đoàn, đó là tông đồ Gioan, con ông Giêbêđê, và là người an hem của tông đồ Giacôbê. Tên của ngài, một tên Do Thái tiêu biểu, nghĩa là ‘Cha ban ân huệ của Ngài’. Ngài bấy giờ đang vá lưới trên bờ Biển Galilêa, khi Chúa Giêsu gọi ngài cùng với người anh em của ngài (x Mt 4:21; Mk 1:19).

 

Gioan bao giờ cũng thuộc về một nhóm giới hạn được Chúa Giêsu cho đi theo với Người vào một số trường hợp.

 

Ngài ở bên cạnh Phêrô và Giacôbê khi Chúa Giêsu vào nhà của tông đồ Phêrô để chữa lành cho người mẹ vợ của anh (x Mk 1:29); với hai vị kia, ngài đã theo Thày vào nhà của người trưởng hội đường là Gairô có đứa con gái được hồi sinh (x Mk 5:37); ngài theo Người khi Người lên núi để biến hình (x Mk 9:2); ngài ở bên cạnh Người ở Núi Cây Dầu khi đứng trước Đền Thờ Giêrusalem uy nghi Người đã nói một bài về việc kết liễu của thành phố này và của thế giới (x Mk 13:3); và sau hết, ngài gần Người trong Vườn Nhiệt khi Người ẩn mình nguyện cầu cùng Cha trước cuộc Khổ Nạn (x Mk 14:33). Trước Lễ Vượt Qua một chút, khi Chúa Giêsu chọn hai môn đệ đi dọn chỗ cho Bữa Tiệc Ly, Người đã úy thác việc này cho ngài và Phêrô (x Lk 22:8).

 

Vị trí nổi nang trong nhóm 12 này, ở một nghĩa nào đó, là những gì dễ hiểu thôi, sáng kiến được mẹ của ngài một ngày kia đã thực hiện, đó là bà đến với Chúa Giêsu để yêu cầu cho hai đứa con trai của bà là Gioan và Giacôbê được ngồi một đứa bên phải và một đức bên trái Người trong Nước Trời (x Mt 20:20-21). Như chúng ta đều biết, Chúa Giêsu đã trả lời bằng việc ngược lại đặt câu hỏi là Người yêu cầu họ dửa soạn mà uống chén chính Người sắp uống (x Mt 20:28).

 

Với những lời lẽ ấy, Người muốn mở mắt hai người môn đệ này ra, dẫn họ đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm về con người của Người, phác họa ơn gọi sau này trong việc trở thành những chứng nhân của Người cho đến tận tuyệt hy sinh. Thật vậy, sau đó ít lâu, Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ là Người không đến để được hầu hạ mà là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người (x Mt 20:28).

 

Vào những ngày sau Phục Sinh, chúng ta thấy những người con của Giêbêđê đi đánh cá cùng với Phêrô và những vị khác cả đêm mà chẳng bắt được gì. Sau khi được Đấng Phục Sinh can thiệp thì mẻ cá lạ đã xẩy ra: ‘người môn đệ được Chúa Giêsu yêu’ đã là người đầu tiên nhận ra Chúa và chỉ Người cho Phêrô (x Jn 21:1-13).

 

Trong Giáo Hội ở Giêrusalem, Gioan chiếm được một vị thế quan trọng trong việc lãnh đạo nhóm Kitô hữu tiên khởi. Thật vậy, Thánh Phaolô đã đặt ngài giữa những vị được thánh nhân gọi là ‘trụ cột’ của cộng đồng ấy (x Gal 2:9). Cùng với Thánh Phêrô, ngài nhận được lời mời gọi của Giáo Hội Giêrusalem trong việc khẳng định với những ai chấp nhận Phúc Âm ở Samaria, cầu nguyện cho họ để họ được lãnh nhận Thánh Linh (x Acts 8:14-15).

 

Chúng ta đặc biệt cần nhớ lại những gì ngài đã nói, cùng với Phêrô, trước Hội Đồng Do Thái, trong cuộc xử án, đó là: ‘chúng tôi không thể không nói về những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe’ (Acts 4:20). Việc thẳng thắn tuyên xưng niềm tin của mình vẫn là một mẫu gương và là một lời cảnh giác cho tất cả chúng ta, để chúng ta sẵn sàng cương quyết tuyên bố việc chúng ta gắn bó với Chúa Kitô bất khả lay chuyển, đặt đức tin của chúng ta trước bất cứ thứ tính toán hay lợi lộc phàm trần nào.

 

Theo truyền thống thì Gioan là ‘người môn đệ yêu dấu’, vị trong Phúc Âm thứ tư dựa đầu mình vào ngực của Thày trong Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:21), đứng dưới chân cây thập giá với Mẹ của Chúa Giêsu (x Jn 19:25), và sau cùng là chứng nhân cho cả ngôi mộ trống cũng như việc hiện diện của Đấng Phục Sinh (x Jn 20:2,21:7).

 

Chúng ta biết rằng việc nhận định này ngày nay là những gì được các nhà chuyên môn đang tranh luận, vì một số trong họ thấy nơi ngài cái nguyên mẫu của một người môn đệ của Chúa Giêsu. Bỏ qua việc dẫn giải để làm sáng tỏ trường hợp này, chúng ta cảm thấy cần phải rút ra cho mình một bài học quan trọng cho đời sống của chúng ta, đó là Chúa Kitô muốn làm cho mỗi người chúng ta thành một người môn đệ sống thân tình riêng tư với Người.

 

Để làm điều này, việc theo đuổi Người và bề trong lắng nghe Người vẫn chưa đủ; mà còn cần phải sống với Người và như Người nữa. Điều này chỉ trở thành khả dĩ trong môi trường của mối liên hệ thật là thân tình nghĩa thiết, được thấm đậm bằng một lòng hoàn toàn tin tưởng một cách nồng nàn tha thiết. Đó là những gì xẩy ra giữa bạn bè với nhau: đó là lý do tại sao Chúa Giêsu một ngày kia đã nói: ‘Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu… Thày không còn gọi các con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết được những gì chủ mình đang làm, mà là bạn hữu, vì tất cả những gì Thày đã nghe nơi Cha Thày thì Thày đã tỏ cho chúng con biết’ (Jn 15:13,15).

 

Trong cuốn ngụy “Tông Vụ Gioan” thì vị tông đồ này, không được thấy như là vị thành lập các Giáo Hội, thậm chí không phải là hướng dẫn viên cho một cộng đồng đã được thiết lập, nhưng là một nhân vật lưu động, một truyền đạt viên đức tin trong cuộc tiếp xúc với ‘các linh hồn có khả năng hy vọng và được cứu độ’ (18:10,23:8). Ngài được thúc đẩy bởi niềm ước muốn nghịch thường trong việc làm cho những gì vô hình được thấy. Thật vậy, Giáo Hội Đông Phương gọi ngài chỉ là một ‘Thần Học Gia’, tức là con người có thể nói bằng những ngôn từ có thể diễn đạt những sự thần linh, cho thấy một đường lối mầu nhiệm đến với Thiên Chúa bằng việc gắn bó với Chúa Giêsu.

 

Việc sùng mộ Tông Đồ Gioan là những gì được xác nhận ở thành Êphêsô, nơi, theo truyền thống cổ xưa, ngài đã sống một thời gian dài, chết vào tuổi rất già, dưới thời hoàng đế Trajan. Ở Êphêsô, hoàng đế Justinian, vào thế kỷ thứ 6, đã xây một đền thờ lớn để tôn kính ngài, nơi vẫn còn những thứ hư hại đáng kể ở đó.

 

Chính ở Đông phương, ngài đã và đang được đặc biệt sùng kính. Nơi các hình ảnh theo lễ nghi Byzantine, ngài được phác vẽ là người rất già và đang say sưa chiêm niệm, với một thái độ của một người đang mời gọi hãy thinh lặng.

 

Thật thế, không biết phản tỉnh thích hợp, không thể tiến tới mầu nhiệm cao cả về Thiên Chúa và về mạc khải của Ngài. Điều này cho thấy là những năm trước đây, Đức Thượng Phụ Hoàn Vũ ở Constantinople là Athenagoras, vị đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ôm hôn ở cuộc gặp gỡ không thể quên được, đã khẳng định là: ‘Gioan nằm ở tâm điểm linh đạo cao cả nhất của chúng tôi. Như ngài, thành phần thinh lặng biết rằng việc nhiệm mầu trao đổi cõi lòng là những gì gợi lên hình ảnh của Gioan và lòng của họ cảm thấy bừng nóng lên’ (O. Clement, "Dialoghi con Atenagora," Turin, 1972, p. 159).

 

Xin Chúa Kitô giúp chúng ta đặt mình nơi học đường của tông đồ Gioan để học được bài học lớn lao về tình yêu, nhờ đó chúng ta cảm thấy được Chúa Kitô yêu thương ‘cho đến cùng’ (Jn 13:1) và sống cuộc đời vì Người.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/7/2006

 

 

 

Tông Đồ Gioan, Một Thần Học Gia

 

ĐTC Biển Đức XVI - Bài Giáo Lý 15 về Giáo Hội Tông Truyền - Thứ Tư 9/8/2006

Anh Chị Em thân mến,

 

Trước những ngày nghỉ này, tôi đã bắt đầu phác tả những hình ảnh nho nhỏ về 12 Tông Đồ. Các Tông Đồ là những người đồng hành của Chúa Giêsu, những người bạn của Chúa Giêsu. Cuộc hành trình của các vị với Chúa Giêsu không phải chỉ là một cuộc hành trình về thể lý từ Galilêa tới Giêrusalem, nhưng là một cuộc hành trình nội tâm làm cho các vị biết tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô, không phải một cách dễ dàng gì, vì các vị cũng là người như chúng ta.

 

Thế nhưng, chính vì lý do này, lý do vì các vị là những người đồng hành của Chúa Giêsu, là những người bạn của Chúa Giêsu, thành phần học biết tin tưởng trong cuộc hành trình không quá dễ dàng mà các vị cũng là hướng đạo viên cho chúng ta, giúp chúng ta nhận biết Chúa Giêsu Kitô, yếu mến Người và tin tưởng nơi Người.

 

Tôi đã nhận định về 4 trong 12 vị Tông Đồ là Simon Phêrô, Anrê, người an hem của ngài; Giacôbê, người anh em của Thánh Gioan; và Giacôbê ‘Hậu’ là vị đã viết một Bức Thư chúng ta thấy trong tân Ước. Và tôi đã bắt đầu nói về Thánh Ký Gioan, qui tụ những sự kiện thiết yếu về cuộc đời của vị Tông Đồ này, trong buổi Giáo Lý cuối cùng trước những ngày nghỉ đây.

 

Giờ đây tôi muốn chú trọng tới nội dung của giáo huấn ngài dạy. Các bản văn chúng ta muốn khảo sát hôm nay, bởi thế, chính là cuốn Phúc Âm và những Bức Thư mang tên của ngài.

 

Một đặc tính nổi bật hiện lên nơi các bản văn của Thánh Gioan đó là tình yêu. Không phải tình cờ mà tôi muốn mở đầu cho bức Thông Điệp đầu tiên của tôi bằng những lời của vị Tông Đồ này: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (Deus caritas est); ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ’ (1Jn 4:16). Thật là khó mà tìm thấy những bản văn như thế này nơi các tôn giáo khác. Bởi vậy mà những lời như thế này mang chúng ta tới chỗ đối diện với một yếu tố thực sự là đặc thù của Kitô Giáo.

 

Dĩ nhiên Thánh Gioan không phải là vị tác giả duy nhất từ thời bắt đầu Kitô Giáo nói về tình yêu. Vì đây là một cấu trúc thiết yếu của Kitô Giáo mà tất cả mọi tác giả Tân Ước đều nói về nó, mặc dù bằng những cách nhấn mạnh khác nhau.

 

Giờ đây nếu chúng ta dừng lại để suy niệm về đề tài này của Thánh Gioan thì bởi vì ngài đã nói lên những tính chất chính yếu của nó một cách cương quyết và sâu sắc. Bởi vậy mà chúng ta tin vào lời của ngài. Một điều chắc chắn đó là ngài không trình bày về bản chất của tình yêu một cách trừu tượng, triết học và thậm chí thần học.

 

Không, ngài không phải là một lý thuyết gia. Thật vậy, tự bản chất của mình, tình yêu chân thực không bao giờ chỉ là những gì có tính cách suy đoán, mà thực hiện một liên hệ một cách trực tiếp, cụ thể và thậm chí khả chứng với con người thực. Bởi vậy mà Thánh Gioan, vị Tông Đồ và là người bạn của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta thấy được các yếu tố của tình yêu, nói đúng hơn, thấy được những giai đoạn của tình yêu Kitô Giáo, một tiến trình được đánh dấu bằng ba thời điểm.

 

Thời điểm thứ nhất liên quan tới chính Nguồn Mạch của tình yếu được vị Tông Đồ này cho thấy là Thiên Chúa, khi khẳng định ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 4:8,16). Thánh Gioan là tác giả Tân Ước duy nhất cống hiến cho chúng ta định nghĩa về Thiên Chúa. Chẳng hạn ngài nói rằng: ‘Thiên Chúa là thần linh’ (Jn 4:24) hay ‘Thiên Chúa là ánh sáng’ (1Jn 1:5). Ở đây ngài được minh tri công bố rằng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’.

 

Hãy chú ý là: ngài không chỉ chủ trương rằng ‘Thiên Chúa yêu thương’, hay tệ hơn nữa rằng ‘tình yêu là Thiên Chúa’! Nói cách khác, Thánh Gioan không chỉ diễn tả tác động của Thiên Chúa mà còn đi sâu tới tận gốc rễ của tình yêu nữa.

 

Ngoài ra, ngài không có ý qui một phẩm tình thần linh cho một thứ tình yêu chung chung và thậm chí phi ngôi vị; ngài không đi từ tình yêu tới Thiên Chúa, nhưng trực tiếp hướng về Thiên Chúa để xác định bản tính của Ngài bằng một chiều kích yêu thương vô cùng.

 

Làm như thế, Thánh Gioan muốn nói rằng cấu trúc thiết yếu của Thiên Chúa là tình yêu và bởi đó, tất cả mọi hoạt động của Thiên Chúa đều xuất phát từ yêu thương và thấm đẫm yêu thương, ở chỗ, tất cả những gì Thiên Chúa làm, Ngài đều làm vì yêu thương và với yêu thương, cho dù chúng ta không luôn luôn có thể hiểu ngay được đó là tình yêu, một tình yêu chân thực.

 

Tuy nhiên, đến đây, không thể nào không tiến thêm một bước nữa để giải thích rằng Thiên Chúa đã cụ thể bày tỏ tình yêu của Ngài bằng việc đi vào lịch sử của loài người qua Con Người của Chúa Giêsu Kitô, nhập thể, tử nạn và phục sinh vì chúng ta.

 

Đó là thời điểm thiết yếu thứ hai của tình yêu Thiên Chúa. Ngài không chỉ tuyên bố bằng lời nói, nhưng, chúng ta có thể nói, thực sự dấn thân mình và ‘đã phải trả giá’ bằng bản thân mình.

 

Đúng như những gì được Thánh Gioan viết, “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian”, tức là tất cả chúng ta, “mà Ngài đã ban Người Con duy nhất của Ngài’ (Jn 3:16). Bởi thế, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là những gì được cụ thể hóa và biểu lộ nơi tình yêu của chính Chúa Giêsu.

 

Thánh Gioan còn viết: ‘Vì đã yêu thương những kẻ thuộc về mình trên thế gian, Người đã yêu thương họ đến cùng’ (Jn 13:1). Vì tình yêu nguyên tuyền và trọn vẹn này mà chúng ta được thực sự cứu khỏi tội lỗi, như Thánh Gioan còn viết: ‘Hỡi con cái bé nhỏ của tôi… nếu có ai phạm tội thì chúng ta có một vị biện hộ trước Cha là Chúa Giêsu Kitô công minh chính trực; Người là sự đền bồi tội lỗi của chúng ta, không phải chỉ tội lỗi của chúng ta mà thôi còn tội lỗi của cả thế gian nữa’ (1Jn 2:1-2; x 1Jn 1:7).

 

Đó là cách thức tình yêu của Chúa Giêsu vươn tới chúng ta, ở chỗ, tuôn đổ Máu của Người cho phần rỗi của chúng ta! Kitô hữu, thinh lặng chiêm ngưỡng trước ‘cái thái quá’ của tình yêu này, không thể nào lại không suy nghĩ đến việc đáp ứng sao cho cân xứng. Tôi nghĩ mỗi một người trong chúng ta, luôn luôn và liên tục, cần phải tự vấn về điều này.

 

Việc tự vấn này dẫn chúng ta tới thời điểm thứ ba của năng lực yêu thương, đó là từ thành phần thụ nhân của một thứ tình yêu đi trước và trổi vượt trên chúng ta, chúng ta được kêu gọi hãy quyết tâm thực hiện một đáp đền chủ động, một đền đáp muốn thích đáng thì chỉ có thể là một đáp đền bởi yêu thương.

 

Thánh Gioan nói về một ‘giới luật’. Thật vậy, ngài đã đề cập tới những lời này của Chúa Giêsu: ‘Thày ban cho các con một giới luật mới, đó là các con hãy yêu thương nhau; như Thày đã yêu thương các con thế nào, các con cũng hãy yêu thương nhau như thế’ (Jn 13:34).

 

Chúa Giêsu muốn nói tới cái mới mẻ này ra sao? Nó nằm ở sự kiện là Người không lấy làm hài lòng khi lập lại những gì đã được Cựu Ước đòi hỏi và là những gì chúng ta đã đọc thấy trong các Phúc Âm khác: ‘Các người phải yêu thương tha nhân như bản thân mình’ (Lev 19:18; x. Mt 22:37-39; Mk 12:29-31; Lk 10:27).

 

Nơi qui luật cổ xưa thì tiêu chuẩn này được căn cứ vào con người (‘như bản thân mình’), trong khi đó, nơi qui luật được Thánh Gioan nói tới, Chúa Giêsu cho thấy Con Người của Người như là lý do và là tiêu chuẩn cho tình yêu của chúng ta: ‘như Thày đã yêu thương các con’.

 

Chính vì thế mà tình yêu trở thành Kitô Giáo thực sự, ở chỗ, theo cả nghĩa nó phải được hướng về tất cả mọi người bất phân biệt, và trên hết, nó cần phải thực hiện bất chấp những hậu quả thái quá của nó, không có một giới hạn nào ngoài việc trở thành vô hạn.

 

Những lời ấy của Chúa Giêsu, ‘như Thày đã yêu thương các con’, cũng đồng thời vừa mời gọi chúng ta vừa làm cho chúng ta day dứt; chúng là mục đích của Kitô học có vể bất khả đạt, thế nhưng đồng thời chúng cũng là một kích thích không cho phép chúng ta thu mình lại nơi những gì chúng ta có thể chiếm đạt. Nó không cho phép chúng ta hài lòng với những gì chúng ta là mà thôi thúc chúng ta cứ tiến tới với đích điểm ấy.

 

Trong cuốn Gương Chúa Giêsu, một cuốn sách quí về tu đức nhỏ có từ cuối Thời Trung Cổ, tác giả viết về vấn đề này như sau: ‘Tình yêu của Chúa Giêsu là những gì cao quí và rộng lớn: nó thôi thúc chúng ta thực hiện những việc cao cả, và tác động chúng ta luôn mong muốn những gì là trọn lành. Tình yêu sẽ những gì hướng thượng chứ không bị gò bó vào những vật hạ đẳng. Tình yêu là những gì thanh thoát trước tất cả mọi chi phối trần gian…. Vì tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa và không thể nghỉ yêu ngoài ở nơi Thiên Chúa hơn là nơi những tạo sinh. Người yêu là kẻ bay, chạy và hớn hở, họ tự do thanh thoát chứ không bị cầm giữ. Họ ban tặng tất cả cho mọi người mà lại có tất cả trong mọi sự, vì họ nghỉ yên trong một sự thiện tối hậu trên tất cả mọi sự thiện, Đấng mà từ Ngài xuất phát tất cả mọi sự thiện’ (Thomas Kempis, The Imitation of Christ, Book III, Chapter V, 3-4).

 

Còn lời nhận định nào hay hơn về ‘giới luật mới’ được Thánh Gioan nói tới đây? Chúng ta hãy cầu cùng Cha để có thể cho dù bao giờ cũng là kẻ bất toàn chúng ta vẫn có thể sống giới răn mới này mạnh mẽ tới độ chúng ta có thể chia sẻ nó với những ai chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống của chúng ta.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2006/documents/hf_ben-xvi_aud_20060809_en.html

 

 

 

 

 

 

CÁC THÁNH ANH HÀI, TỬ ĐẠO: 28/12 Thứ Bảy

lễ kính

Ít là từ thế kỷ thứ VI, Hội Thánh mừng kính các thánh Anh Hài trong Mùa Giáng Sinh. Các thánh trẻ, bị vua Hê-rô-đê giết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những kẻ được cứu chuộc.


 

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 1, 5 - 2,2

"Máu Chúa Giêsu Kitô rửa chúng tôi sạch mọi tội lỗi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, đây là sứ điệp chúng tôi nhận được bởi Chúa, và chúng tôi loan truyền cho các con: Thiên Chúa là sự sáng và nơi Người không có sự tối tăm nào. Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi thông hảo với Người, mà chúng tôi đi trong đường tối tăm, thì chúng tôi nói dối, và chúng tôi không thực thi chân lý. Nếu chúng tôi đi trong ánh sáng, cũng như chính Người ở trong ánh sáng, thì chúng tôi có sự thông hảo với nhau; và máu Chúa Giêsu Kitô Con Người rửa chúng tôi sạch mọi tội lỗi.

Nếu chúng tôi nói rằng mình không có tội, thì chúng tôi lừa dối mình, và trong người chúng tôi không có chân lý. Nếu chúng tôi xưng tội mình ra, thì Người là Ðấng trung thành và công chính, sẽ tha tội cho chúng tôi, và rửa sạch chúng tôi khỏi điều gian ác. Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi không phạm tội, thì chúng tôi coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng tôi.

Các con thân mến, cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội, nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Ðức Giêsu Kitô, Ðấng công chính làm trạng sư nơi Ðức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta, không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 123, 2-3. 4-5. 7b-8

Ðáp: Hồn chúng tôi như chim non, thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim (c. 7a).

Xướng: 1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bừng bừng giận dữ chúng tôi. - Ðáp.

2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi, bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi. - Ðáp.

3) Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; tinh binh các Ðấng Tử Ðạo ca ngợi Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 2, 13-18

"Hêrôđê giết hết các con trẻ ở Bêlem".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập".

Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

 


 

Suy niệm

 

   

Chưa biết nói mà đã biết tuyên xưng Chúa Ki-tô

Phụng Vụ Giờ Kinh Bài đọc 2

Trích bài giảng của thánh Quất-vun-đê-ô, giám mục.

Một trẻ thơ mới chào đời : đó là Vua Cao Cả. Các nhà chiêm tinh từ miền xa xôi tới. Các ông đến thờ lạy Đấng lúc này đang nằm trong máng cỏ, nhưng lại là Vua trời đất. Khi nghe các nhà chiêm tinh báo tin có vị Vua Cao Cả đã chào đời, vua Hê-rô-đê dao động. Và để khỏi mất ngôi vua, ông đã muốn thủ tiêu Người. Giả như ông tin Người thì ở dưới thế này ông đã được sống yên ổn, và trong cuộc sống mai sau ông sẽ được hiển trị muôn đời.

Hỡi vua Hê-rô-đê, ông sợ điều chi khi nghe tin Vua Cao Cả chào đời ? Người đâu có đến để lật đổ ông, nhưng để chiến thắng ma quỷ. Nhưng nào ông có hiểu điều ấy nên đã dao động và giận dữ. Và để thủ tiêu một đứa trẻ ông đang tìm, ông đã nhẫn tâm giết bao đứa trẻ khác.

Tình thương của các bà mẹ đang khóc than, nỗi đau đớn của những người cha mất con đã chết, và tiếng thét gào rên rỉ của các hài nhi cũng không làm cho ông chùn bước. Ông sát hại những tấm thân bé bỏng vì nỗi sợ hãi đã giết chết tâm hồn ông. Ông cứ tưởng rằng nếu thực hiện được điều ông muốn là ông sẽ có thể sống lâu, đang khi ông lại tìm giết chính Đấng ban sự sống ?

Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng, tuy nhỏ bé nhưng cao cả, đang nằm trong máng cỏ lại làm rung động ngai báu của ông. Người hoạt động qua ông mà ông đâu biết những ý định của Người, và Người giải thoát những tâm hồn đang bị ma quỷ giam cầm. Người đón nhận con cái của thù địch và kể chúng vào số con cái của Người.

Các trẻ em đã chết vì Chúa Ki-tô mà không biết. Cha mẹ các em than khóc các em đã chết vì đạo : Chúa Ki-tô đã làm cho các em, tuy chưa biết nói, mà cũng trở thành những chứng nhân anh dũng của Người. Hãy xem Đấng đến để hiển trị, đã hiển trị như thế nào. Này đây Đấng giải phóng đã hoàn thành công cuộc giải phóng, và Đấng Cứu Độ đã mang lại ơn cứu độ.

Còn ông, hỡi Hê-rô-đê, vì không biết điều đó nên ông đã dao động và giận dữ. Ông đâu có biết : chính khi nổi giận vì một em bé, ông đã suy phục em bé đó rồi.

Ôi ! Hồng ân cao cả ! Các em bé đã có công trạng nào để chiến thắng như thế ? Các em chưa biết nói mà đã biết tuyên xưng Chúa Ki-tô ! Chân tay yếu ớt, các em chưa đủ sức xông ra chiến trường, thế mà các em lại được lãnh nhận ngành thiên tuế dành cho người chiến thắng vinh quang !

 

 

Lạy Chúa, các thánh Anh Hài đã không dùng lời nói, nhưng dùng chính cái chết của mình mà tuyên xưng danh Chúa, xin cho chúng con biết lấy cả cuộc đời mà minh chứng niềm tin như chúng con vẫn tuyên xưng ngoài miệng. Chúng con cầu xin

 

 

 

 

Emmanuel - Một Hài Nhi bị lùng giết   


 

Cũng vẫn theo lịch trình phụng niên thì sau Lễ Thánh Stephanô 26/12 và Lễ Thánh Gioan Tông Đồ 27/12 là đến Lễ Các Thánh Anh Hài 28/12, một bộ ba lễ được Giáo Hội cố ý xếp trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và ngay sau Đại Lễ Giáng Sinh. 


Biến cố các trẻ em Do Thái vô tội bị sát hại được Giáo Hội mừng kính hôm nay như Các Thánh Anh Hài, những em bé đã chết thay cho Hài Nhi Giêsu và chết vì Hài Nhi Giêsu, đã được Thánh ký Mathêu thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau:


"Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: 'Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người'. Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: 'Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập'. 


"Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa". 


Căn cứ vào bài Phúc Âm được Thánh ký Mathêu thuật lại trên đây thì thời điểm các Thánh Anh Hài bị Vua Hêrôđê sát hại vào khoảng sau thời gian 2 năm Hài Nhi Giêsu được hạ sinh ở Bêlem. Nghĩa là Hài Nhi Giêsu sau khi được hạ sinh vẫn còn ở Belem chứ không trở về Nazarét ngay. 


Chắc có lẽ vì Người còn non nớt nên cha mẹ của Người không muốn Người phải sớm bị gian nan khốn khó cùng với cha mẹ từ Belem ở miền nam nước Do Thái để vượt khoảng đường trường 70 - 80 dặm (120 cây số từ Nazarét tới Giêrusalem và 10 cây số từ Giêrusalem tới Belem) đi bộ trở về Nazarét ở miền bắc nước Do Thái, với một thời gian cả tuần lễ lâu la, phải đi từ từ chầm chậm vì có con thơ.


Và như thế, thời gian ba chiêm vương gia Đông phương đến bái thờ Người tại Belem phải xẩy ra mãi sau này, chứ không ngay sau khi Người được hạ sinh mấy ngày hay mấy tuần hoặc mấy tháng, mà có thể là cả năm hay hơn vậy nữa, vì đường đi vừa dài lại vừa bị lạc. 


Chắc chắn bấy giờ, khi ba chiêm vương gia Đông phương này tới thì Hài Nhi Giêsu không còn ở ngoài hang lừa máng cỏ bất đắc dĩ như chính đêm Người được hạ sinh nữa, mà là ở một nơi nào đó, như trọ nhờ ở nhà của một người có lòng hảo tâm nào đó thuộc khu vực Belem chẳng hạn. Đó là lý do, Thánh ký Mathêu cho biết là "khi tiến vào nhà, họ thấy con trẻ với Mẹ của Người" (Mathêu 2:11).


Thế nhưng, dù cha mẹ trần gian của Con Trẻ Thần Linh có chăm lo gìn giữ cho Người không vội trở về nhà của ông bà ở Nazarét xa xôi, Cha trên trời của Người, Đấng đã sai Người, lại bắt Ngôi Con nhập thể làm người của Ngài phải trải qua một khoảng đường còn xa xôi vất vả hơn khoảng cách từ Belem về Nazarét nữa, tức là từ Belem sang Ai Cập, về hướng Tây Nam, trải qua một khoảng đường dài hơn gấp đôi (175 dặm hay 281.6 cây số): từ Belem đến biên giới Ai Cập là 75 dặm (hay 120.7 cây số), và từ biên giới Ai Cập đến khu vực chung sống của dân Do Thái ở Ai Cập là 100 dặm (hay 160.9 cây số).


Về lý do tại sao Thánh Gia phải chạy trốn, Phúc Âm đã cho biết: - là vì Vua Hêrôđê tìm sát hại Con Trẻ, và tại sao Vua Hêrôđê lại tìm giết Hài Nhi Giêsu - là vì Người là "vua của người Do Thái mới sinh" (Mathêu 2:2), theo như ba chiêm vương gia dò hỏi ở Giêrusalem sau khi các vị bị lạc mất ngôi sao lạ để biết nơi mà "đến triều bái Người" (Mathêu 2:2). 


Phải chăng nhân vật Hêrôđê tìm sát hại Hài Nhi Giêsu ấy là tên phản kitô đầu tiên trong lịch sử loài người, một con người chủ trương "không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt" (xem 2Gioan 7 và 1Gioan 2:22), hoàn toàn phản ảnh tinh thần và đường lối của Con Khủng Long ngay từ ban đầu: "Bấy giờ Con Rồng đứng trước người nữ sắp sinh con rình chực nuốt người con của người nữ khi bé được sinh ra" (Khải Huyền 12:4).


Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao trong biến cố thoát chạy này Thánh Gia không chọn con đường gần (từ Belem về Nazarét) mà là con đường xa (từ Belem sang Ai Cập) để trốn chạy Vua Hêrôđê như thế? Tất nhiên là vì lệnh báo của trời cao qua giấc mộng của Thánh Giuse, như bài Phúc Âm cho biết, và cũng theo cùng bài Phúc Âm hôm nay, thì chỉ sau khi sang Ai Cập rồi Thánh Gia mới về Nazarét. Thế nhưng tại sao Thiên Chúa lại cố ý muốn chung Thánh Gia và Con của Ngài sang Ai Cập trước khi trở về Nazarét??


Tại vì để cho Lời Kinh Thánh được nên trọn, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "Ta đã gọi Con Ta ra khỏi Ai Cập" (Hosea 11:1). Vì Ai Cập là nơi dân Do Thái đã sống cuộc đời làm tôi kéo dài 430 năm (xem Xuất Hành 12:40) từ khi gia đình 70 người của tổ phụ Giacóp vì nạn đói hoành hành đã phải sang lánh nạn dưới thời quan đệ nhị Giuse, người con trai thứ 11 của vị tổ phụ này (xem Khởi Nguyên 3 đoạn 45, 46 và 47). Chính Thiên Chúa đã muốn đại gia đình của vị tổ phụ này sang Ai Cập, sống nhờ đất nước này mà phát triển về dân số để thành như một quốc gia, sau đó chính Ngài sẽ mang họ về mảnh đất mà Ngài đã hứa cùng tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 46:3-4; 12:7).


Ngoài ra, nếu biến cố "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai Cập" liên quan đến sự kiện các con trai đầu lòng của dân Ai Cập bị thiên thần sát hại vào ban đêm thế nào thì các bé trai ở Belem cũng bị Vua Hêrôđê sát hại, khiến Hài Nhi Giêsu phải lánh sang Ai Cập cho tới khi được gọi ra khỏi đất Ai Cập, qua mộng báo cho dưỡng phụ Giuse của Người (xem Mathêu 2:19), để trở về đất Do Thái như thể mang dân Ai Cập về nguồn cứu độ của và với dân Do Thái vậy. 

 

 

Thế nhưng, để thực hiện một biến cố cho Lời Kinh Thánh được nên trọn như thế, biến cố "Ta gọi con ta ra khỏi Ai Cập", mà chẳng lẽ cần đến bao nhiêu là mạng sống hài nhi vô tội hay sao? Chỉ cần Thiên Thần báo mộng cho Thánh Giuse là Thiên Chúa muốn Thánh Gia sang Ai Cập một thời gian rồi trở về Nazarét cũng được vậy, đâu cần phải liên quan đến mạng sống của bằng ấy hài nhi. Tuy nhiên, biến cố các hài nhi ở Belem bị sát hại cũng là biến cố cần phải nên trọn theo Lời Thánh Kinh như trong bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa" (Giêrêmia 31:15). 


Như thế, biến cố Vua Hêrôđê tìm sát hại Chúa Giêsu, khiến Người phải trốn sang Ai Cập, và vì thế các hài nhi khác bị giết chết thay cho Người hoàn toàn là do Thiên Chúa sắp xếp theo ý định thần linh đầy mầu nhiệm của Ngài, một mầu nhiệm liên quan đến cả phần rỗi của dân Do Thái lẫn dân ngoại. Ở chỗ, máu của các hài nhi đổ ra thay cho Hài Nhi Giêsu, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, xuất thân từ đất nước và dân tộc Do Thái nhưng để cứu độ toàn thể nhân loại bằng giá máu mạng sống của mình, một nhân loại được tiêu biểu nơi ba vị chiêm vương gia tìm đến với Người cũng như nơi dân Ai Cập. Như thế, máu vô tội của các hài nhi Bêlem là dấu báo trước máu cứu độ trần gian của Chúa Kitô vậy.


Đáp Ca cho Thánh Ca Tin Mừng Giờ Phụng Vụ Kinh Sáng đã cảm nhận về thân phận cùng diễm phúc của các hài nhi Belem bị sát hại, chết thay cho Hài Nhi Giêsu và chết vì Hài Nhi Giêsu như sau:


Bao trẻ thơ măng sữa

chết bởi tay bạo chúa hung tàn!

Bao hài nhi vô tội

bị sát hại vì danh Ðức Kitô,
nay được đi theo Người
là Con Chiên vô tỳ tích.
Miệng các em chẳng ngớt tung hô:
Lạy Chúa, Ngài vinh hiển muôn đời!

Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Thư 1 của Thánh Gioan, cũng đã nói đến máu cứu độ của Chúa Kitô ngay trong Lễ Các Thánh Anh Hài này, vì, như trên đã cảm nhận, máu của Các Thánh Anh Hài như báo trước máu cứu độ vô giá của Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai (của Do Thái / "chúng ta") cũng chính là Đấng Cứu Độ (của dân ngoại / "thế gian"): "chúng ta có Ðức Giêsu Kitô, Ðấng công chính làm trạng sư nơi Ðức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta, không nguyên đền tội chúng ta (ám chỉ Do Thái) mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian (ám chỉ Dân Ngoại)".

Bài Đáp Ca hôm nay như vang vọng tâm tình của Các Thánh Anh Hài, những trẻ thơ vô tội ở Belem xưa, tuy chưa ý thức được ý nghĩa sâu xa của số phận bị sát hại oan uổng của mình là được chết cho Đấng Cứu Thế và báo trước cuộc đổ máu của Người, nhưng chính máu của các vị thánh Anh Hài này đã là một dấu chứng hùng hồn cho một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa Hóa Công là Đấng Quan Phòng mọi sự cho vinh danh của Ngài và phần rỗi nhân loại:

1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bừng bừng giận dữ chúng tôi. 

2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi, bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi. 

3) Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất. 

Lời nguyện Phụng Vụ Giờ Kinh Sách, Kinh Sáng và Kinh Trưa Lễ Các Thánh Anh Hài: 

Lạy Chúa, các thánh Anh Hài đã không dùng lời nói, nhưng dùng chính cái chết của mình mà tuyên xưng danh Chúa. Xin cho chúng con biết lấy cả cuộc đời mà minh chứng niềm tin như chúng con vẫn tuyên xưng ngoài miệng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen

 

 

 

 

Lễ Thánh Gia - Chúa Nhật 29/12

 

 

 

Lời Chúa


Bài Ðọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a

"Ai kính sợ Chúa, thì thảo kính cha mẹ".

Trích sách Huấn Ca.

Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.

Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người (x. c. 1).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. - Ðáp.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đoàn con! - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Cl 3, 12-21

"Về đời sống gia đình trong Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.

Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Cl 3, 15a. 16a

Alleluia, alleluia! - Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 2, 41-52

"Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.

Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại.

Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói.

Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.

Ðó là lời Chúa.


 


Suy niệm


 

Emmanuel - Một thiếu nhi đầy ân sủng và chân lý    



Theo lịch trình phụng niên, Chúa Nhật trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh là Lễ Thánh Gia. Sau Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1062 - 8/12/1965), nhất là từ năm 1970 là năm canh tân phụng vụ theo công đồng này được bắt đầu áp dụng, thì như thế. 


Tuy nhiên, trước Công Đồng Chung Vatican, Lễ Thánh Gia được cử hành vào Chúa Nhật trong Tuần Bát Nhật Lễ Hiển Linh, thời điểm hiện nay Giáo Hội cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, và Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, trước công đồng này được cử hành vào ngày kết thúc Tuần Bát Nhật Hiển Linh là ngày 13/1 (vì Lễ Hiển Linh bao giờ cũng được mừng vào ngày 6/1), như Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc Tuần Bát Nhật Giáng Sinh hiện nay vậy, một lễ trước công đồng được cử hành vào ngày 11/10, ngày khai mạc Công Đồng Chung Vaticanô II năm 1962. Nếu Lễ Giáng Sinh rơi vào chính Chúa Nhật thì Lễ Thánh Gia được cử hành vào ngày 30/12.


Sở dĩ có sự chuyển đổi về thời điểm các lễ trong phụng niên như vậy là vì ý nghĩa của mỗi lễ và mối liên hệ giữa các lễ với nhau. Chẳng hạn như nếu Lễ Giáng Sinh được cử hành vào ngày 25/12 thì lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả phải cử hành vào ngày 24/6, trước 6 tháng, vì vị thánh này được thụ thai trước Chúa Kitô 6 tháng (xem Luca 1:36); hay vì Lễ Mẹ Vô Nhiễm được cử hành vào ngày 8/12, nên Lễ Sinh Nhật của Mẹ phải được cử hành vào ngày 8/9, tức trước 9 tháng, ám chỉ Mẹ Maria được đặc ân vô nhiễm ngay từ khi hoài thai trong lòng thai mẫu, tức được Thiên Chúa gìn giữ khỏi nguyên tội, và chính vì thế, Lễ Mẹ Vô Nhiễm bao giờ cũng được cử hành ở thời điểm đầu Mùa Vọng như thể Mẹ là Rạng Đông (vì Mẹ được hưởng trước Ơn Cứu Chuộc của Chúa Kitô Con Mẹ) báo hiệu Mặt Trời Công Chính là Chúa Kitô sắp Giáng Sinh để cứu chuộc loài người.


Lễ Thánh Gia hôm nay cũng thế, sở dĩ được Giáo Hội cử hành vào Chúa Nhật trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, thay vì Chúa Nhật trong Tuần Bát Nhật Hiển Linh, phải chăng ám chỉ một mối liên hệ mật thiết giữa mầu nhiệm Giáng Sinh và mầu nhiệm Thánh Gia, ở chỗ, Hài Nhi Giêsu, Vị Thiên Chúa hóa thân làm người nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) không phải là một nhân vật huyền thoại của dã sử, cũng không phải là một sinh vật có thật xuất thân từ một hành tinh nào đột nhiên xuất hiện trên trái đất này, mà là một nhân vật lịch sử thật sự, được sinh ra có cha có mẹ, trong một gia đình Do Thái.


Phụng Vụ Lời Chúa theo chu kỳ phụng niên Năm C cho Chúa Nhật Lễ Thánh Gia hôm nay tập trung vào vai trò của cả cha mẹ lẫn con cái theo tinh thần đức tin kính sợ Thiên Chúa. (Xin lưu ý là phụng niên chu kỳ cho cả 3 năm A-B-C đều giống nhau ở Bài Đọc 1 và 2 cùng Bài Đáp Ca, nhưng Năm B và Năm C có thể thay đổi Bài Đọc 1 và 2cùng Bài Đáp Ca. Chẳng hạn Năm C Bài Đọc 1 có thể thay bài Sách Samuel quyển 1 đoạn 1:20-22,24-28, đoạn về bé Samuel được sinh ra bởi bố mẹ son sẻ và được bố mẹ dâng lại cho Thiên Chúa trong Đền Thờ ở Siloe)


Trước hết, ở Bài Đọc 1, Sách Huấn Ca dường như nhấn mạnh đến vai trò của con cái đối với cha mẹ của mình, nhất là đối với người cha, nhiều hơn là vai trò của cha mẹ đối với con cái, nguyên bài như sau:


"Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ. Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi".


Ở đây, trong Bài Đọc 1 này, chúng ta thấy phận sự của người con cần phải có đối với chung cha mẹ của mình và nhất là đối với riêng người cha là nhân vật chính trong gia đình. Ở chỗ: "Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài", và ở chỗ: "Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người".


Phận vụ của con cái cần phải có đặc biệt đối với riêng người cha trong Bài Huấn Ca ở Bài Đọc 1 hôm nay có vẻ trọng cha giảm mẹ như thế không phải chỉ là một thứ tập tục phản ảnh văn hóa phụ hệ (nói chung, bao gồm nhất là Á Đông chúng ta) thời ấy, mà còn phản ảnh một mạc khải thần linh rất sâu xa về vai trò của Thiên Chúa là Cha được mạc khải trong Cựu Ước, một Vị Thiên Chúa là Cha tỏ ra chăm sóc cho dân Do Thái chẳng khác gì như một người mẹ (xem Isaia 49:15). 


Đó là lý do ngay trong chính Bài Đọc 1 hôm nay, có một câu bao gồm cả cha lẫn mẹ như sau: "Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ". Có nghĩa là dân Do Thái tuân giữ luật Chúa truyền và trung thành với giao ước của Ngài là làm những gì đẹp lòng Ngài là Đấng đã tận tâm tận lực chăm sóc cho họ suốt giòng lịch sử cứu độ của họ. Có thể nói, Thiên Chúa đóng vai trò là Cha khi tự động yêu thương dân Do Thái, sinh ra họ bằng cách lập giao ước với họ qua tổ phụ Abraham của họ, và tiếp tục đóng vai trò làm mẹ khi ở với họ, chăm sóc họ, dìu dắt họ và thứ tha cho họ.


Nếu Bài Đọc 1 nhấn mạnh đến vai trò của người con đối với cha mẹ thì Bài Đáp Ca lại chú trọng đến người chồng đối với vợ cũng là người cha đối với con cái trong gia đình, mà nếu người chồng và người cha này biết kính sợ Chúa thì thật là phúc lộc biết bao:


1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. 


2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. 


3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đoàn con! 


Ở Bài Đọc II, trong Thư gửi cho Kitô hữu thành Colose, Thánh Phaolô, ở câu kết thúc, đã bao gồm cả 3 vai trò chứ không nhấn mạnh đến 1 vai trò nào:


"Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt".


Tuy nhiên, trong chính câu khuyên nhủ này, chúng ta cũng thấy vị thế của người chồng nổi hơn người vợ. Ở chỗ, người vợ được nhắc đến đầu tiên về phận sự phải có đối với chồng mình. Trong Thư Êphêsô (5:21-25) cũng thế, Thánh Phaolô cũng khuyên nhủ vợ trước chồng: 


"Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh..." 

Ở đây cũng thế, vấn đề có vẻ trọng nam khinh nữ, nặng chồng nhẹ vợ, như trong chính những lời lẽ của Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước trên đây, cách riêng Bài Đọc 1 hôm nay và Đoạn Thư Epheso trên đây, không phải chỉ là những gì phản ảnh một thứ văn hóa cổ hủ ngày xưa, mà còn có lý do sâu xa xuất phát từ chính mạc khải Thánh Kinh và liên quan tới phẩm chất của phái tính nam nữ nữa.

Đúng thế, trong Thư gửi cho Timôthêu (đoạn 2 câu 11-15), 
Thánh Phaolô dường như đã cho biết lý do tại sao nữ giới cần phải tuân phục chồng mình trước, như sau:

"Khi nghe lời dạy dỗ, đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng. Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy, hay thống trị đàn ông, trái lại họ phải thinh lặng, vì A-đam được tạo dựng trước, rồi mới đến E-và. Cũng không phải A-đam đã bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ. Tuy nhiên, người đàn bà sẽ được cứu nhờ sinh con cái, nếu kiên trì giữ đức tin, đức mến và sự thánh thiện, với lòng đơn sơ giản dị".

Bởi thế giáo huấn của Thánh Phaolô trong Tân Ước hay của Bài Huấn Ca trong Cựu Ước trong phần Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Lễ Thánh Gia hôm nay không phải là những gì chỉ thuần phản ảnh nền văn hóa xa xưa mà còn phản ảnh chính mạc khải Thánh Kinh nữa, có nghĩa là vẫn có giá trị giáo huấn thần linh như thường. 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, theo Thánh ký Luca cho chu kỳ phụng niên Năm C, liên quan đến sự kiện Thiếu Nhi Giêsu được cha mẹ của Người tìm thấy ở trong Đền Thờ Giêsurusalem sau 3 ngày thất lạc, thì vai trò của người mẹ cũng là người vợ trong gia đình được gọi là Thánh Gia, một gia đình mô phạm cho tất cả mọi gia đình của xã hội loài người nói chung và Kitô hữu nói riêng, lại chiếm địa vị ưu thế và chủ động hơn người chồng và người cha. 

Ở chỗ chỉ có người mẹ lên tiếng với người con chứ không phải người cha: "Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: 'Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con'". Ở đây cũng thế, bề ngoài có vẻ Mẹ Maria lấn lướt Thánh Giuse, nhưng thật ra, theo mạc khải, vì Thiếu Nhi Giêsu chính là Người Con được Mẹ thụ thai và hạ sinh "bởi Thánh Linh" (Mathêu 1:20), nên Mẹ cảm thấy Mẹ đóng vai chính và có trách nhiệm với Con hơn Bõ Giuse của Người. Chưa nói đến nỗi đớn đau của Mẹ như chết khi vắng bóng Người Con Thần Linh chí thánh chí tôn của lòng mẹ kính mến trên hết mọi sự 3 ngày trời, một tình yêu mến mà Thánh Giuse không thể nào cảm thấy như Mẹ và bằng Mẹ, so với mối liên hệ giữa ngài với Chúa Giêsu như Mẹ.


Thật ra Mẹ Maria đã biết Thiếu Nhi Giêsu Con Mẹ là Thiên Chúa nhập thể, một Ngôi Vị Thần Linh có 2 bản tính, thiên tính và nhân tính. Thế nhưng, về nhân tính, Người giống như mọi người mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Nghĩa là, về thể lý cũng được thụ thai, cưu mang, hạ sinh, bú mớm, tăng trưởng, và về tâm lý cũng cần phải được học hỏi bởi Mẹ và Thánh Giuse, vị thì dạy Thánh Kinh cho Người, vị thì dạy nghề thợ mộc cho Người. Vì có trách nhiệm làm cha làm mẹ nên các ngài vẫn phải đi tìm Người khi không thấy Người đâu, cho dù có biết rằng Người là Thiên Chúa không thể nào lạc được, và dù có lạc cũng tự biết đường về một cách an toàn và chính xác, về một thôn làng hẻo lánh vô danh tiểu tốt để sống một cuộc đời ẩn dật ở đó 30 năm trường, gấp 10 lần 3 năm tỏ mình ra trong tất cả thời gian 33 năm Người sống trên dương thế ngắn ngủi của Người.

Về phần của Thiếu Nhi Giêsu, Người vẫn là con của cả hai, của cả Mẹ của Người lẫn Bõ Giuse của Người, cho dù Thánh Giuse của Người không phải là cha ruột của Người. Bởi thế, Bài Phúc Âm đã ghi lại lời Người thưa cùng cả cha lẫn mẹ (cha trước mẹ sau) của Người như sau: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?" 

Chưa hết, dù là Con Thiên Chúa, là Đấng vô cùng hoàn hảo và khôn ngoan hơn cha mẹ trần gian của mình một trời một vực, đến độ câu trả lời đơn sơ của Người là một thiếu nhi mới 12 tuổi mà "hai ông bà không hiểu", như Phúc Âm hôm nay cho biết, và một hình ảnh khác nữa được Phúc Âm hôm nay thuật lại chỉ nói lên một chút xíu của tất cả sự thật về Người: "hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại", Người vẫn sống trọn thân phận của một người con trong gia đình, như câu áp kết của Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà", khiến Mẹ của Người phải "ghi nhớ những việc đó trong lòng".

Ôi, một mẫu gương làm con tuyệt vời và lý tưởng là chừng nào. Một Thiên Chúa Hóa Công toàn năng và thượng trí trong thân phận làm người đã chẳng những trở thành con cái của loài người về thể lý, được thụ thai, cưu mang, hạ sinh, chăm sóc và dưỡng dục, mà còn sống trọn thân phận làm con của mình về phương diện luân lý, bằng việc ngoan ngoãn tuân phục cha mẹ của mình. Đó là lý do Bài Phúc Âm đã kết thúc ở câu: "Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta".

Lạy Thiếu Nhi Giêsu là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng (con)" (Gioan 1:14), đã vâng phục cha mẹ trần gian của mình, xin cũng hoán cải chúng con trở nên như những trẻ nhỏ như Chúa đối với cha mẹ của chúng con cũng như với các vị bề trên được Chúa gửi đến chăm sóc và dẫn dắt chúng con thay Chúa. Amen.


Thánh Thi trong Giờ Kinh Sách của Lễ Thánh Gia đã cảm nghiệm và diễn tả chung Thánh Gia và riêng Chúa Giêsu Nazarét thật là tuyệt vời như sau:


Ngất ngây êm đềm khi tưởng nhớ

Ngôi nhà nếp sống kẻ thường dân,

Giêsu Cứu Chúa, Người trầm lặng,

Vui cảnh đơn sơ thú thanh bần.

 

Học nghề thợ mộc với cha nuôi,

Tháng năm khôn lớn, ẩn xa đời,

Ðồng lao cộng tác, Người chia sẻ

Nước mắt mồ hôi của kiếp người.

 

Ðăm đăm khóe mắt, nhìn không mỏi,

Hạnh phúc một đời cạnh chồng con,

Bà phải gian nan mà sung sướng,

Mối tình thắm thiết, chẳng hao mòn.

 

Thánh Gia từng trải nỗi lầm than,

Xin dủ tình thương kẻ cơ hàn,

Ðoái lại gian trần đầy đau khổ,

Cho người kêu khấn được ủi an.

 

Muôn tâu Thánh Tử, Ngài giáng thế

Nêu tấm gương đời thật trắng trong,

Cùng với Thánh Linh và Thánh Phụ

Vinh quang hiển trị mãi vô cùng.

 


Lời Cầu và Lời Nguyện Phụng Vụ Giờ Kinh Chiều II Lễ Thánh Gia

 

Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng hữu, đã chấp nhận sống trong một gia đình dương thế. Ta hãy thờ lạy Người mà thân thưa:

Lạy Chúa là Vị Cứu Tinh nhân loại,

Chúa đã nêu gương cho người thế học đòi.

Chúa đã vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse cách lạ lùng, - xin dạy chúng con biết kính phục những nhà lãnh đạo chân chính.

Chúa đã nhiệt tình lo công việc Chúa Cha, - xin dạy các gia đình cũng nhiệt tâm phụng thờ Chúa Cha như vậy.

Chúa đã hằng thảo kính cha mẹ và được cha mẹ mến yêu, - xin cho mọi gia đình chúng con được êm ấm thuận hoà, thấm nhuần tình tương thân tương ái.

Chúa đã để cha mẹ phải lo lắng kiếm tìm đang khi Chúa ở lại Giêrusalem, - xin dạy chúng con biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa.

Chúa đã cho Ðức Mẹ và thánh Giuse được chung hưởng vinh phúc trên trời, - xin đón nhận anh chị em chúng con đã qua đời vào hàng chư thánh hiển vinh.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao Thánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con cũng biết học đòi mà ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời. Chúng con cầu xin vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. 

  

 

 


Ngày 29/12

 

(Năm 2024 ngày 29/12, ngày thứ 5 trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh lại là Chúa Nhật 1 sau Lễ Giáng Sinh,

Giáo Hội cử hành Lễ Thánh Gia như PVLC trên đây rồi, không phải PVLC dưới đây trong những năm không bị trùng hợp này)


Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 2, 3-11

"Ai thương yêu anh em mình thì ở trong sự sáng".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy, và nhờ điều đó mà chúng ta biết được chúng ta ở trong Người. Ai nói mình ở trong Người, thì phải sống như Người đã sống.

Các con thân mến, đây không phải là một giới răn mới mà cha viết cho các con, nhưng là giới răn cũ các con đã có từ ban đầu. Giới răn cũ đó, là lời các con đã nghe rồi. Nhưng đây cha lại viết cho các con một điều răn mới, là điều chân thật nơi Người và nơi các con, vì tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi.

Ai nói mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh em mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết mình đi đâu, vì tối tăm đã làm mù mắt họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 5-6

Ðáp: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.

3) Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. Sáng láng và oai nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai báu. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta. Những ai tiếp nhận Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 2, 22-35

"Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".

Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy niệm


 

Emmanuel - Ánh sáng chiếu soi lương dân và vinh quang của Israel Dân Chúa



Sau 3 lễ được Giáo Hội cố ý sắp xếp ngay sau Đại Lễ Giáng Sinh là Lễ Thánh Stephanô 26/12, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ 27/12 và Lễ Các Thánh Anh Hài 28/12, thì đến các ngày còn lại trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, bao gồm cả Lễ Mẹ Thiên Chúa là ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh theo phụng niên của Giáo Hội cũng là ngày mở màn cho một năm mới của trần gian.


Bài Phúc Âm hôm nay cũng chính là bài Phúc Âm cho Lễ Chúa Giêsu được hiến dâng trong đền thờ ngày 2 tháng 2 hằng năm, thời điểm sau 40 ngày Người được hạ sinh. Tuy nhiên, bài Phúc Âm này vẫn được Giáo Hội chọn đọc cho ngày 29/12 hôm nay trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh có một ý nghĩa khác, không phải là ý nghĩa về biến cố hiến dâng mà là ý nghĩa về mầu nhiệm giáng sinh. 


Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay được trích từ Phúc Âm Thánh Luca 2:22-35, không bao gồm câu 21 ngay trước đó, câu cũng ở ngay sau đoạn Phúc Âm Lễ Rạng Đông Giáng Sinh (Luca 2:15-20) về sự kiện các mục đồng đến thăm Hài Nhi Giêsu, đó là câu: "Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ".


Bởi vì câu Phúc Âm về biến cố cắt bì này không thích hợp với ý nghĩa của ngày 29/12 trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh hôm nay. Nhưng nguyên bài Phúc Âm hôm nay về biến cố hiến dâng sau 40 ngày lại thích hợp với mầu nhiệm Giáng Sinh. Là vì trong bài Phúc Âm này, ở đoạn cuối, có hai câu liên quan đến chính bản thân của Hài Nhi Giêsu, cũng như liên quan đến cả thân phận Mẹ của Người nữa: 


"Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa... Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".

Đúng thế, bài Phúc Âm hôm nay, 29/12, chất chứa hai câu Phúc Âm then chốt này là bài Phúc Âm ngay sau Lễ Các Thánh Anh Hài, một lễ không phải chỉ tưởng kính các hài nhi Belem đã chết thay và chết vì Hài Nhi Giêsu mà còn liên quan đến biến cố Thánh Gia thoát chạy sang Ai Cập lánh nạn nữa, một biến cố lánh nạn xẩy ra ngay sau sự kiện ba chiêm vương gia Đông phương đến bài thờ Hài Nhi Giêsu, "vua của người Do Thái mới sinh" (Mathêu 2:2)

Nghĩa là biến cố tị nạn sang Ai Cập sau biến cố ba chiêm vương gia Đông phương tìm đến triều bái Hài Nhi Giêsu có liên quan đến thành phần dân ngoại, tức liên quan đến vai trò cứu độ của Hài Nhi Giêsu, một nhân vật lịch sử tuy mang huyết thống Do Thái nhưng mang sứ mệnh cứu độ chung nhân loại là loài tạo vật có bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội nhưng đã được Người mặc lấy và sử dụng như phương tiện và bí tích cứu độ trần gian.

Nếu biến cố ba chiêm vương gia đông phương theo ngôi sao lạ tìm đến bài thờ Hài Nhi Giêsu là "vua của người Do Thái mới sinh" tiêu biểu cho lòng con người khao khát thần linh và mong đợi một Đấng Tối Cao của mình, thì biến cố Hài Nhi Giêsu từ đất Do Thái sang nước Ai Cập tiêu biểu cho hành động thần linh như muốn đáp ứng nguyện vọng cứu độ của con người. 

Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) nơi Hài Nhi Giêsu thì nhân vật lịch sử Giêsu Thần Linh này chính là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), chiếu soi từ dân Do Thái và từ đất Do Thái. 

Đó là lý do, "được Thánh Thần thúc giục", vị tư tế lão thành Simeon trong Bài Phúc Âm hôm nay chẳng những đã tự động "vào đền thờ" ngay chính lúc "cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy", mà còn nhận biết ngay Con Trẻ Thần Linh này nữa và nói những lời tiên tri hoàn toàn chính xác về thân phận của Người cũng như của Mẹ Người: "Chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dânlà ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".

Tuy nhiên, vị tư tế lão thành hằng trông đợi Đấng Thiên Sai mà ông bấy giờ đã được diễm phúc "ẵm lấy Người trên cánh tay mình" không phải chỉ dừng lại ở chỗ nhận biết mà còn nói tiên tri về việc thực hiện ơn cứu độ này nữa, để nhờ đó mang lại phần rỗi cho "muôn dân" hay "lương dân", đó là: "Con Trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối". 

Mà quả thực đã xẩy ra đúng như vậy, với biến cố đầu tiên là "Con Trẻ này" vừa mới được sinh ra còn non nớt đã phải thoát chạy sang Ai Cập, một thoát chạy có vẻ thua kém và đầu hàng trước quyền lực của trần gian, không thể tự cứu được mình, nhưng lại là một thoát chạy mang ý nghĩa "chiếu soi các lương dân" nơi đất nước Ai Cập là quốc gia tiêu biểu vốn có một liên hệ mật thiết với lịch sử cứu độ của dân Do Thái trong Cựu Ước. 

Và trong cuộc thoát chạy của "Con Trẻ này", cho dù có được Bõ Giuse của Người đóng vai chính thực hiện chăng nữa, nhưng phải nói chỉ có Mẹ của Người, một đệ nhất tạo vật về ân sủng, một tạo vật thân mật với Người nhất, hơn hết mọi tạo vật, hiểu Người nhất và kính mến Người nhất, không có một tạo vật nào sánh bằng, mới đau khổ nhất, đau khổ hơn ai hết, đau khổ khôn cùng khi thấy "Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35) của mình còn non nớt như vậy mà đã bắt đầu phải chịu cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người, một cuộc khổ nạn và tử giá sau này chính Mẹ sẽ đồng công cộng tác khi đứng dưới chân thập giá của Người (xem Gioan 19:25), quằn quại khổ đau "như bị gươm sắc thâu qua lòng", đúng như lời của vị tư tế lão thành Simeon tiên báo trong Bài Phúc Âm hôm nay. 

Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Thư 1 của Thánh Gioan, tiếp ngay sau Bài Đọc 1 hôm qua, Lễ Các Thánh Anh Hài, cũng cho thấy ý nghĩa của Lễ Các Thánh Anh Hài có liên quan đến hôm nay và ngày mai, vì ngày mai phụng vụ Lời Chúa vẫn tiếp tục cả Bài Đọc 1 hôm nay lẫn Bài Phúc Âm hôm nay.

Căn cứ vào mối liên hệ về phụng vụ Lời Chúa từ hôm qua đến hôm nay trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh thì câu chính yếu của Bài Đọc 1 hôm nay là câu "tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi. Ai nói mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh em mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết mình đi đâu, vì tối tăm đã làm mù mắt họ".

"Sự sáng đã soi đến rồi" đây chính là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) nơi Hài Nhi Giêsu, và vì thế đã làm cho "tối tăm đang qua đi", (chứ không phải là đã qua đi). "Tối tăm đang qua đi" là vì những ai tin vào Người, không phải chỉ ở chỗ "nhận biết Người" và "chấp nhận Người" (Gioan 1:10-11) nơi Phép Rửa theo nghi thức, mà nhất là còn phải sống bác ái yêu thương nữa, bằng không họ "vẫn còn ở trong tối tăm", vì Người không phải chỉ là "ánh sáng thế gian" chiếu soi vậy thôi mà là "ánh sáng sự sống / ánh sáng ban sự sống" (Gioan 8:12): "Thày là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6). 

Đó là lý do "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 19:26; 20:2; 21:7,20) đã chí lý nhắc nhở và huấn dụ các Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô là thành phần chứng nhân của Người, "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14) phản ảnh Người "là ánh sáng thế gian" rằng: "Ai nói mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh em mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết mình đi đâu, vì tối tăm đã làm mù mắt họ".

Vì "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) nơi Hài Nhi Giêsu, "là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân" như thế mà "toàn thể địa cầu... hãy loan truyền ơn Người cứu độ", đúng như cảm nhận hân hoan chúc tụng của Bài Đáp Ca hôm nay:  

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. 

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

3) Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. Sáng láng và oai nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai báu. 


Khi thời gian đến hồi viên mãn
thì sự viên mãn của Chúa cũng xuất hiện

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 29/12 - Bài Đọc 2)

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Người đã cho chúng ta được đầy tràn an ủi trong cuộc lữ hành, trong nơi lưu đày và khốn cùng này.

Trước khi Thiên Chúa biểu lộ lòng nhân hậu, thì lượng từ bi của Người vẫn còn là điều bí ẩn. Thật vậy, lòng từ bi của Thiên Chúa trước đây vẫn có, bởi vì lòng thương xót của Thiên Chúa đã có từ muôn thuở. Nhưng làm sao biết được lượng từ bi đó bao la như vậy ? Thiên Chúa hứa ban lượng từ bi, nhưng con người không cảm nghiệm được, và vì thế có nhiều người không tin. Thật vậy, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng miệng các ngôn sứ mà phán dạy. Người phán : Kế hoạch Ta định làm cho các ngươi là kế hoạch bình an thịnh vượng, chứ không phải tai ương. Nhưng con người có thể đáp ứng được gì khi họ chỉ gặp thấy bất hạnh chứ không biết đến bình an. Cho đến bao giờ, các ngươi còn nói : bình an, bình an, đang khi chẳng có bình an ? Vì thế, sứ giả bình an đã than khóc : Lạy Chúa, ai sẽ tin điều chúng con đã nghe ? Nhưng giờ đây, ước gì con người tin vào điều mình thấy, bởi vì chứng cớ của Thiên Chúa thật đáng cậy tin. Thật vậy, để cả những đôi mắt âu lo cũng có thể nhìn thấy được, Người đã dựng lều của Người ở giữa vầng thái dương.

Này đây, Thiên Chúa không còn chỉ hứa, nhưng đã gửi bình an đến ; Người không còn trì hoãn, nhưng đã ban ; Người không còn tiên báo, nhưng đã thực hiện. Điều này giống như một cái bao đựng đầy tình thương xót do Thiên Chúa Cha gửi đến trần gian, và cuộc Thương Khó sẽ xé toang cái bao đó ra để giá chuộc chúng ta được đổ tràn ra bên ngoài. Cái bao đó tuy nhỏ, nhưng đầy. Một con trẻ đã được ban tặng cho ta, nhưng nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện. Khi thời gian đến hồi viên mãn thì sự viên mãn của thần tính cũng xuất hiện. Sự viên mãn này xuất hiện trong xác phàm, để ngay cả loài mang xác phàm cũng nhìn thấy, và để khi Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu thì phàm nhân nhận ra lượng từ bi của Người. Khi Thiên Chúa bày tỏ lòng nhân hậu, thì lượng từ bi của Người không còn bí ẩn nữa. Thiên Chúa còn có thể bày tỏ lượng từ bi cách nào được, hơn là nhận lấy xác phàm của tôi ? Phải thể xác của tôi, chứ không phải của A-đam, nghĩa là không phải thể xác đã có trước khi sa ngã.

Có chi tỏ rõ lòng thương xót của Thiên Chúa cho bằng việc Người nhận lấy chính sự khốn cùng của ta ? Có chi tỏ rõ lòng nhân hậu tràn trề cho bằng việc Ngôi Lời Thiên Chúa đã vì ta mà nên rơm nên cỏ ? Lạy Chúa, con người có là chi mà Chúa cần biết đến ? Phàm nhân đáng là gì mà Chúa phải lưu tâm ? Ở đây, con người phải để tâm suy nghĩ xem Thiên Chúa chăm sóc mình như thế nào. Ở đây, con người phải tìm hiểu xem Thiên Chúa suy tưởng và cảm nghĩ thế nào về họ. Hỡi con người, điều đáng quan tâm không phải là điều bạn đang chịu đựng, nhưng là điều Ngôi Lời đã chịu đựng. Cứ xem Người đã nên như thế nào vì bạn thì cũng thấy được Người yêu quý bạn như thế nào, để nhờ nhân tính của Người, bạn nhận ra được lượng từ bi của Người. Thật vậy, Người càng tỏ ra yếu hèn trong nhân tính, thì lại càng tỏ ra lớn lao về lòng nhân lành. Người càng tỏ ra hèn hạ vì tôi, lại càng đáng tôi quý mến. Thánh Tông Đồ đã nói : Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người. Lượng từ bi và lòng yêu thương của Thiên Chúa thật là rõ ràng, thật là cao cả. Người đã cho chúng ta bằng chứng hùng hồn về lượng từ bi của Người, khi ân cần ban cho con người được mang danh hiệu của Thiên Chúa.

 


29/12 Thánh Tôma Becket, giám mục, tử đạo (1118-1170)

 

TOMA-BECKET.jpg

 

Thánh Toma Becket sinh ra tại Luân Đôn năm 1118. Cha Ngài, ông Gibert Becket, là một hiệp sĩ người Normandy, đã trở thành thương gia giàu có ở Luân Đôn. Mẹ Ngài cũng là người Normandy. Ngài có ít là hai chị em mà một người sau này làm tu viện trưởng Barking. Ngài thừa hưởng từ người mẹ lòng đạo đức, lòng sùng kính Đức Mẹ và lòng quảng đại đối với người nghèo khó. Từ người cha, Toma Becket thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng người cao ráo, đẹp trai, hấp dẫn và thông minh.

 

Ngài theo học ở cả hai trường đại học Luân Ðôn và Paris. Sau cái chết của người cha, gia đình bị khánh tận, Ðức Tổng Giám mục Canterbury, là người đã từng sai ngài đến Rôma một vài lần, đã cấp dưỡng và cho ngài theo học giáo luật. Năm 1154 ngài lên chức Tổng Phó tế, phục vụ cho Giáo phận Canterbury. Sau khi theo học tại Oxford, Đức Tổng giám mục Cantebury là Thaobald đã triệu mời Ngài làm quản trị, lo những chuyện liên hệ với Roma.

 

Năm 1155, lúc mới 37 tuổi, ngài được Vua Henry II - là bạn ngài - chọn làm Thủ tướng nước Anh, là nhân vật quyền thế thứ nhì, chỉ sau nhà vua. Lúc đó, Ngài nổi tiếng vì lối sống xa hoa và phung phí, Ngài thường khoe khoang, ngựa giòng chim ưng, chó quí là bạn thân của Ngài. Bù lại sự xa hoa này, Ngài đã tỏ ra quảng đại nhiều với những hy sinh thầm kín. Ngài cũng rất hiếu chiến và dùng đến các quyền hạn của hoàng tử mình, Ngài đã tỏ ra có giá trong một trận chiến gần Toulouse. Ngài còn tự lượng sức trong một trận chiến đấu đơn với một hiệp sĩ danh tiếng người Pháp.

 

Tổng giám mục Theobald qua đời, và Toma được chọn làm kế vị bất kể sự chống đối Chúa hàng giáo sĩ khi thấy "một người thế tục và ồn ào như vậy" được đưa lên tòa giám mục. Vua Henry chọn ngài làm Giám mục Chính tòa Canterbury thì cuộc đời ngài thay đổi hoàn toàn. Trong khi đó, chính Toma Becket đã tiên báo cho nhà vua biết rằng: - "Thưa Ngài, nếu Chúa cho phép tôi làm Tổng giám mục Canterbury, tôi sẽ hết được Ngài sủng ái. Ngài sẽ đòi tôi nhiều điều, và Ngài đã làm nhiêu điều chống lại Giáo hội mà tôi sẽ không thể chịu nổi. Tình cảm của Ngài sẽ sớm đổi thành thù hận không chấm dứt nổi.

 

Nhưng nhà vua vẫn muốn thấy Ngài lên ngai giám mục. Ngày 3 tháng sáu năm 1162, Toma Becket đã thụ phong linh mục và ngày hôm sau được tấn phong giám mục. Kẻ nô bộc của các hoàng tử đã trở thành nộ bộc của Giáo hội, và chỉ còn muốn giữ vẻ xa hoa bên ngoài, Ngài trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ nghèo và xa cách đối với người giàu. Những nhưng điều lo ngại của thánh nhân không tự biện minh mãi được. Các hiệp sĩ gọi Ngài là kẻ bội phản. Toma Becket đã trả lời cho một người trong bọn họ : "Nếu đôi tay này không phải là đôi tay của một linh mục thì ông phải biết".

 

Vua Henri II bóp nghẹt sự tự do của các tác viên Giáo hội, muốn bắt chàng giáo sĩ nước Anh phải phục thẩm quyền các tòa án hoàng gia, tước đoạt kho tàng của dân nghèo. Trước ý muốn của nhà vua, các vị giám mục ngập ngừng, nhiều vị khứng chịu. Nhưng Tổng giám mục Canterbury không để mình bị quyến rũ. Tức giận, nhà vua triệu vời các giám mục vương quốc lại.

 

Trong căn phòng tụ họp, hiện ra những con người mang khí giới như s ẵn sàng tiêu diệt các Ngài. Các giám mục và các lãnh Chúa kinh hoàng khấn nài xin vị giáo chủ nhượng bộ.

 

Để cứu những người chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đã xin hoãn lại để nghiên cứu vấn đề. Ngài viết thư cho đức Thánh Cha xin phán định. Đức Thánh Cha đã kết án tất cả những ai đã phát thệ. Thế là Toma Becket đã rút lại lời một cách cao thượng. Nhà vua bắt bớ Ngài. Đáp lại các lời tố cáo, Ngài tỏ ra cương quyết và luôn giữ được tâm hồn thanh thản. Thất vọng nhà vua hô hoán : - "Hoặc là ta mất ngôi, hoặc là con người ấy không còn là tổng giám mục nữa".

 

Trong một công đồng ở Nerthampton năm 1164, Ngài lại tỏ ra chống đối và khi bị đe dọa đếng mạng sống hoặc tù tội. Một đêm kia, Ngài đã tàng hình để thoát thân. Lang thang nhiều ngày, Ngài tới bờ biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận Ngài đang lúc mệt nhọc đến đứt hơi và đưa qua Pháp.

 

Vua Lu-y VII đã hân hạnh tiếp đón vị tổng giám mục Caterbury, ông nói : - "Nước Pháp có thói quen nuôi dưỡng bảo vệ những người chịu đau khổ, nhất là những người bị lưu đày vì công chính".

 

Vị giáo chủ lưu ngụ tại tu viện Pontiguy và tăng gấp nếp sống khắc khổ, đến nỗi có thể nói được đây là cuộc "Hoán cải thứ nhì, từ đạo đức tới thánh thiện". Ngài có giờ để cầu nguyện và suy gẫm. Ngài tuân theo luật và nếp sống của tu viện. Dầy vậy cuộc trả thù của nhà vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ và bạn hữu Ngài bị tước hết tài sản, bị trục xuất tới số 400 người. Họ buộc lòng phải đến với Ngài, làm thành một đoàn người đáng thương. Toma Becket rất nhiệt thành năng đỡ người nghèo. Lần này bất lực vì không thể giúp đỡ được những người thân yêu nhất đang bị khổ cực vì mình. Sau cùng, vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt mọi nhà dòng Xitô, nếu một nhà dòng Xitô nào còn tiếp tục dung duõng Ngài. Toma Becket liền đến một nữ tu viện Bênedictô ở Sens. Những năm tháng đau khổ và trơ trọi nối tiếp nhau.

 

Trong khi đó, nhà vua bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao hòa với vị Tổng giám mục vào những tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ hòa hoãn chẳng dễ gì. Nhưng vị giáo chủ đã nói với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của mình rằng : - "Dù có biết chắc mình sẽ bị chặt thành trăm mảnh, tôi vẫn trở về. Đã sáu năm rồi, đoàn chiên của tôi vắng bóng chủ chăn".

 

Ngài tạo thêm nhiều thù địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những vị giám mục muốn chống đối lại Ngài. Khi tới Canterbury, dân chúng chen lẫn nhau giữa những khúc thánh ca và những hồi chuông đổ dồn để đến lãnh phép lành của Ngài. Những lời đầu tiên Ngài nói trên tòa giảng là : - "Tôi đã tới để chịu chết giữa anh em".

 

Nhà vua tức giận với cuộc trở về khải hoàn này của Toma Becket, một con người không thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Giáo hội. Người ta nghe thấy vua Henri kêu lớn : - "Không có được lấy một người trong số những kẻ hèn ta nuôi dưỡng đây gỡ cho chúng ta người giáo sĩ ngạo mạn này sao ?"

 

Khi ấy có bốn hiệp sĩ đi Canterbury. Họ gặp vị giáo chủ trong căn phòng gần nhà thờ chính tòa với các linh mục và tu sĩ. Họ nhục mạ Ngài, nhưng Ngài nói : - "Đừng mất thời gian đe dọa tôi. Để sát cánh chiến đấu, các người sẽ thấy tôi luôn luôn ở trong trận chiến của Chúa".

 

Các hiệp sĩ hùng hổ đi ra. Các giáo sĩ trách Ngài làm cho họ phải chết. Toma Becket không trốn tránh, Ngài nói với họ : - "Tất cả chúng ta hoặc phải chết. Đừng để sự sợ hãi làm cho chúng ta xa rời sự công chính. Tôi sẵn sàng chết vì tình yêu Chúa mà những người này giết tôi không phải vì tình yêu như vậy".

 

Và khi nghe bước chân và tiếng kêu của các hiệp sĩ có võ trang, Ngài leo lên thang nhà thờ chính tòa Ngài nói: - "Tôi ra tiền tuyến".

 

Trả lời cho những lăng nhục, Ngài nói: - "Tôi không phải là kẻ phản bội, nhưng là một linh mục. Tôi sẵn sàng vì Danh đấng đã lấy máu cứ chuộc tôi ... Nhưng vì Danh Thiên Chúa, đừng động tới những người này của tôi".

 

Dựa lưng vào cột, Đức Tổng giám mục chống lại những người muốn đưa Ngài đi, đẩy những người tấn công ngã soài xuống đất : "Tôi không đi đâu hết, hãy làm việc đó ở đây đi".

 

Những người khác ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú mình cho Chúa và Giáo hội : "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa".

 

Hai nhát gươm tiếp liền. Toma Becket ngã xuống miệng còn nói : - "Vì danh Chúa Giêsu và vì Giáo hội, tôi bằng lòng chịu chết". Và Ngài nằm chết cạnh bàn thờ.

 

Trong kịch bản "Cuộc thảm sát trong nhà thờ chính tòa", xuất bản năm 1935, văn sĩ Thomas Eliot đã dựng lại cuộc tử đạo của thánh Thomas Becket như sau:

Khi được báo tin là những kẻ muốn giết ngài đang kéo đến nhà thờ chính tòa, từ trong thánh đường, ngài đã ra lệnh cho những người trung thành với ngài như sau: "Hãy kéo cửa lên, hãy mở rộng cửa ra, tôi không muốn rằng nơi cầu nguyện và là cung thánh phải biến thành một pháo đài. Nhà thờ bảo vệ các tín hữu theo cách thế của nó, chứ không như gỗ đá, bởi vì gỗ đá sẽ sụp đổ, còn nhà thờ thì tồn tại, nhà thờ cần phải được mở ra, ngay cả cho kẻ thù, anh em hãy mở rộng cửa".

Khi thấy một số người còn chần chờ và muốn tử thủ, ngài đã khuyên mọi người hãy có cái nhìn siêu nhiên và chiến đấu bằng khí giới siêu nhiên, ngài nói:"Chúng ta đã chiến đấu chống lại quái vật và chúng ta đã chiến thắng, chúng ta cần phải chinh phục duy chỉ bằng sự đau khổ mà thôi. Đây là chiến thắng dễ dàng nhất, đây là giờ khải hoàn của Thập Giá, tôi ra lệnh cho anh em hãy mở cửa".

Cuộc tử đạo của thánh Tôma Becket như được ghi lại trên đây nêu bật ý nghĩa đích thực của mọi cuộc tử đạo: tử đạo là chết vì yêu thương và yêu thương ngay cả kẻ thù của mình. Thánh Becket đã muốn nói lên ý nghĩa ấy khi kêu gọi những kẻ trung thành với ngài hãy mở cửa nhà thờ chính tòa. Ngài đã nói:"Nhà thờ cần phải được mở ra ngay cả cho những kẻ thù của chúng ta". 

Trước cái chết anh dũng của Đức Tổng Giám mục Tôma Becket, Vua Henry II hối hận, tổ chức lễ quốc tang cho ngài. Nhà vua đã thống hối công khai bên mộ Ngài và những gì khiến thánh nhân chịu khổ đã được sua sai nhờ cái chết của Ngài. nhưng người kế vị là Henry VIII đã chiếm đoạt ngôi mộ ấy, và tẩu tán các thánh tích của ngài. Chỉ ba năm sau (1173), ngài được phong thánh và ngôi mộ của ngài trở thành điểm hành hương của Anh Quốc. Cái chết của Đức tổng giám mục làm chấn động lương tâm toàn thể Chân Au. Các phép lạ được phổ biến trên mộ Ngài. Đức Alexander III năm 1173 đã phong Ngài làm thánh tử đạo. Canterbury trở thành nơi hành hương thứ nhì sau Rôma.

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp

 

 

 


30/12 - Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 2, 12-17

"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì tồn tại muôn đời".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Hỡi các con, ta viết cho các con, vì tội lỗi các con được tha vì danh Người.

Hỡi các phụ huynh, ta viết cho các con, vì các con đã nhận biết Ðấng vẫn có từ ban đầu.

Hỡi các thiếu niên, ta viết cho các con, vì các con đã chiến thắng quỷ dữ.

Hỡi các trẻ nhỏ, ta viết cho các con, vì các con đã nhận biết Chúa Cha.

Hỡi các thanh niên, ta viết cho các con, vì các con dũng cảm, và lời Thiên Chúa vẫn ở trong các con, và các con đã chiến thắng quỷ dữ.

Các con đừng yêu mến thế gian và những điều thuộc về thế gian. Nếu ai yêu mến thế gian thì lòng mến của Chúa Cha không có trong kẻ ấy. Vì mọi sự ở trong thế gian là đam mê của xác thịt, đam mê của con mắt, và kiêu căng vì của cải, những điều đó không phải bởi Chúa Cha, nhưng bởi thế gian mà ra. Và thế gian qua đi với đam mê của nó. Còn ai thực hiện thánh ý Thiên Chúa, thì tồn tại muôn đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 7-8a. 8b-9. 10

Ðáp: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan! (c. 11a).

Xướng: 1) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang; hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. - Ðáp.

2) Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa, mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan.- Ðáp.

3) Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị. Người dựng vững địa cầu cho nó khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 2, 36-40

"Bà đã nói về Người với tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy niệm


 

 Emmanuel - một con trẻ đầy ân sủng và chân lý



Hôm nay là ngày 30/12, tức là ngày thứ 6 trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Cả Bài Đọc 1 lẫn Bài Phúc Âm đều tiếp theo những gì của Bài Đọc 1 và Bài Phúc Âm hôm qua.


Bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến thân phận và sứ vụ Thiên Sai Cứu Thế của Hài Nhi Giêsu như "ánh sáng đã chiếu soi các lương dân". Bài Phúc Âm hôm nay, phần đầu có dính dáng tới "bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên", một trong những con người tiêu biểu trong dân Do Thái đang thiết tha trông đợi Đấng Thiên Sai, như vị tư tế lão thành Simeon ở bài Phúc Âm hôm qua, bằng đời sống thánh đức và trung tín của bà: "Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa". 


Nhưng ở phần cuối, nhất là ở câu cuối của Bài Phúc Âm, lại liên quan trực tiếp đến nhân vật chính của "bà tiên tri Anna" này, một Vị mà bà đã được ơn nhận biết để có thể "nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel".


Thật vậy, "Trẻ Giêsu" này, như "ánh sáng đã chiếu soi các lương dân" qua miệng của vị tư tế lão thành Simeon ở Bài Phúc Âm hôm qua, trong bài Phúc Âm hôm nay, như ánh sáng mỗi ngày một rạng ngời, khi Hài Nhi Giêsu ấy về cả thể lý lẫn tâm lý và đạo lý mỗi ngày một "lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người", cho đến khi Người chính thức xuất hiện sau 30 năm ẩn dật ở Nazarét, nhất là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra qua Cuộc Vượt Qua của Người.


 đây chúng ta thấy rõ ràng là có một mâu thuẫn giữa Phúc Âm của Thánh ký Mathêu và Thánh ký Luca về chi tiết áp cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét".


Căn cứ vào câu này, nhất là chi tiết "trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarétthì trong thời gian 40 ngày sau khi hạ sinh, Hài Nhi Giêsu đã ở Nazarét với cha mẹ của Người rồi, chứ không phải vẫn còn ở Belem, như bài Phúc Âm Lễ Các Thánh Anh Hài hôm 28/12 được Thánh ký Mathêu thuật lại cho biết rằng Vua Hêrôđê đã sát hại các trẻ em ở Belem từ 2 tuổi trở xuống. 


Cũng có thể lắm. Vì Vua Hêrôđê cứ tưởng Hài Nhi Giêsu vẫn còn ở Belem nên ra lệnh sát hại tất cả mọi bé trai từ 2 tuổi trở xuống ở Belem bấy giờ, trong khi đó Người đã về và đang ở Nazarét từ hồi nào rồi, và chờ cho tới ngày thanh tẩy người mẹ cũng là ngày dâng người con trai đầu lòng cho Chúa theo luật 40 ngày sau khi sinh, thì trở lại Giêrusalem để hoàn tất lề luật, sau đó về lại Nazarét.


Tuy nhiên, nếu Thánh Gia bấy giờ ở Nazarét thì đâu cần phải chạy thoát sang Ai Cập mà làm gì, bởi Vua Hêrôđê chỉ sát hại các con trẻ ở Belem thôi chứ không phải ở Nazarét. Vậy thì nếu Thánh ký Mathêu trình thuật đúng thì Thánh ký Luca ghi nhận một chi tiết không đúng hay sao? 


Thưa, không phải vậy, cả hai đều đúng. Thánh ký Luca cũng đúng nữa. Ở chỗ, ngài viết Phúc Âm sau Thánh ký Mathêu và Thánh ký Marcô, có thể ngài thấy những chi tiết về thời thơ ấu của Chúa Giêsu ở hai phúc âm trước ngài chưa đầy đủ thì ngài bổ túc thêm cho trọn vẹn, nhất là các biến cố bất khả thiếu như biến cố Truyền Tin Lời Nhập Thể, Biến Cố Mẹ Maria Thăm Viếng mẹ con Thai Nhi Gioan Tẩy Giả, Biến Cố Giáng Sinh và Mục Đồng đến kính viếng, Biến Cố Cắt Bì và Dâng Con, Biến Cố Thánh Gia lên Đền Thờ dự Lễ Vượt Qua và tìm thấy Thiếu Nhi Giêsu. 


Biến Cố Dâng Con trong Đền Thờ và Biến Cố Tìm Thấy Con cũng trong Đền Thờ Giêrusalem được Thánh ký Luca tường thuật sát liền với nhau, như thể không có chuyện Thánh Gia ở bên Ai Cập một tí nào hết, vì Thánh ký Mathêu đã thuật lại biến cố ấy rồi. Bởi vậy, sau biến cố Dâng Hài Nhi Giêsu trong Đền Thánh Giêrusalem ngài cho biết là về Nazarét thôi chứ còn đi đâu nữa, nếu Thánh Gia không ghé đến thăm Belem và ở lại Belem cho tới khi được báo mộng trốn sang Ai Cập như Thánh ký Mathêu thuật lại.


Như thế, nếu ghép các mảnh trình thuật của 2 vị thánh ký này lại với nhau về thời thơ ấu của Chúa Giêsu liên quan đến biến cố hiến dâng và lánh nạn thì diễn tiến các biến cố sẽ xẩy ra thứ tự như sau: 1- Biến cố dâng Hài Nhi Giêsu - ở Phúc Âm Thánh ký Luca hôm qua và hôm nay; 2- Biến cố thoát chạy sang Ai Cập cho đến khi Vua Hêrôđê chết thì trở về Nazarét - ở bài Phúc Âm Thánh Mathêu Lễ Thánh Anh Hài. 


Vậy khoảng thời gian 12 năm giữa biến cố Dâng Con và Thấy Con ở Phúc Âm Thánh Luca là khoảng thời gian Hài Nhi Giêsu trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu cùng với cha mẹ của Người ở bên Ai Cập, tuy không hoàn toàn trọn cả 12 năm, có thể từ khi Hài Nhi Giêsu được khoảng 2 tuổi cho đến khi Vua Hêrôđê qua đời, trong vòng mấy tháng đến mấy năm, (tùy theo ngày tháng được các sử gia tính hơi lẫn lộn về thời điểm qua đời của vị vua này), nhưng điểm hội tụ giống nhau về không gian của cả hai Thánh Ký Mathêu và Thánh Ký Luca ở đây là "Nazarét", một Nazarét ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu sau biến cố Thánh Gia tị nạn bên Ai Cập và ở Phúc Âm Thánh ký Luca sau biến cố Dâng Con. 


Bài Đọc 1 hôm nay, Tông Đồ Gioan ngỏ lời cùng các thành phần độc giả khác nhau, đặc biệt là giới trẻ: "thiếu niên", "trẻ nhỏ" và "thanh niên". Bởi vì 3 thành phần này liên quan đến Hài Nhi Giêsu như được Bài Phúc Âm hôm nay ghi nhận rằng: "lớn lên, thêm mạnh mẽ (về thể lý), đầy khôn ngoan (về tâm lý), và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người (về đạo lý)", và tầm vóc này của Con Thiên Chúa làm người đây được phản ảnh nơi việc "chiến thắng quỉ dữ" của thành phần "thiếu niên", nơi việc "nhận biết Chúa Cha" của thành phần "trẻ nhỏ", cũng như nơi việc "dũng cảm... chiến thắng quỉ dữ" của thành phần "thanh niên" trong Bài Đọc 1 hôm nay. 


Đúng thế, về nhân tính, Ngôi Vị Thần Linh Giêsu cũng cần phải phát triển về mọi phương diện, như ánh sáng mỗi ngày một sáng tỏ cho tới chính ngọ là thời điểm Người tỏ hết mình ra qua Cuộc Vượt Qua của Người, nhờ đó Người hoàn tất sứ vụ Thiên Sai Cứu Thế của Người, để mang lại Ơn Cứu Độ cho cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, nghĩa là cho toàn thể nhân loại.


Thế nhưng, muốn chấp nhận Ơn Cứu Độ vô cùng cao quí và vô giá của Người, nghĩa là muốn được sự sống đời đời, thì theo Bài Đọc 1 hôm nay, ở đoạn cuối cùng, về phần tiêu cực, "đừng yêu mến thế gian và những điều thuộc về thế gian", bởi vì "mọi sự ở trong thế gian là đam mê của xác thịt, đam mê của con mắt, và kiêu căng vì của cải, những điều đó không phải bởi Chúa Cha", nên chắc chắn và vĩnh viễn "thế gian qua đi với đam mê của nó", bởi đó, về phần tích cực, chi bằng hãy "thực hiện thánh ý Thiên Chúa" mới là những gì làm cho họ "tồn tại muôn đời".


Vì chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng chân thật duy nhất và thiện hảo trên hết mà những ai "thực hiện thánh ý Thiên Chúa" mới là những gì làm cho họ "tồn tại muôn đời", họ cần phải có cùng một tâm tình với Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:


1) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang; hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. 


2) Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa, mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan.


3) Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị. Người dựng vững địa cầu cho nó khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. 


 

Ngôi Lời làm người để chúng ta được tham dự
vào thần tính của Người

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 30/12 - Bài Đọc 2)

Trích khảo luận Chống lạc thuyết của thánh Hi-pô-ly-tô, linh mục.

Chúng ta tin, không phải vì những lời hão huyền thuyết phục, không phải vì những dao động nhất thời của con tim lôi cuốn, cũng không vì những lời êm dịu, hùng hồn mê hoặc, nhưng vì chúng ta đón nhận những lời phát xuất từ quyền năng của Thiên Chúa, và do đó, chúng ta không chối bỏ đức tin của mình.

Thiên Chúa đã truyền những điều đó cho Ngôi Lời, và Ngôi Lời công bố, nhờ vậy, Người cứu nhân loại khỏi tội bất tuân. Người không ép buộc họ làm nô lệ, nhưng kêu gọi để họ tự do và tuỳ ý lựa chọn.

Vào thời sau hết, Chúa Cha đã sai Ngôi Lời đến ; Người không còn muốn phán dạy qua các ngôn sứ, cũng không muốn để cho lời giảng dạy được hiểu cách lờ mờ. Chúa Cha đã sai Ngôi Lời đến, để thế gian nhìn thấy Ngôi Lời và được cứu độ.

Chúng ta biết rằng Ngôi Lời đã nhận lấy xác phàm từ Đức Trinh Nữ và Người vừa mang lấy vừa đổi mới con người cũ. Chúng ta biết Ngôi Lời đã làm người, có cùng một thể chất như chúng ta, vì nếu không cùng một thể chất, thì thật là vô ích khi Người truyền cho chúng ta noi gương Người như một vị Thầy. Nếu con người đó có một bản tính khác, thì sao Người lại truyền cho tôi phải làm những điều Người đã làm, đang khi tự bản tính tôi vốn mỏng giòn yếu đuối ? Và như thế, Người tốt lành, công chính làm sao được ?

Để cho ta thấy rõ Người không khác chúng ta, Người cũng đã cam chịu vất vả, đói khát ; Người đã ngủ nghỉ, đã không từ chối chịu đau khổ, đã chịu chết rồi sống lại cách tỏ tường. Trong tất cả những điều đó, Người đã cống hiến nhân tính của Người như của lễ đầu mùa, để khi gặp đau khổ, bạn không ngã lòng, nhưng nhìn nhận mình chỉ là người phàm, và trông đợi Thiên Chúa ban ơn cho bạn như đã ban cho Con của Người.

Khi nhận biết Thiên Chúa chân thật, bạn sẽ có thân xác bất tử, không hư hoại cùng với linh hồn. Bạn sẽ được sống trong Nước Trời, vì khi còn sống ở trần gian, bạn đã nhận biết Vua trên trời. Bạn sẽ là người nhà của Thiên Chúa và là người đồng thừa tự với Đức Ki-tô. Bạn sẽ không còn bị trói buộc trong dục vọng, đau khổ hay bệnh tật, vì bạn đã trở nên một vị thần.

Những đau khổ bạn chịu trong thân phận làm người, tất cả đều do Thiên Chúa gửi đến, vì bạn là người ; còn những gì thuộc về Thiên Chúa, thì Người đã hứa ban cho bạn khi bạn được thần hoá và trở nên bất tử. Vì thế, khi nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo nên bạn, bạn hãy biết chính mình, bởi vì biết Chúa và được Chúa biết là một hồng ân dành cho người được Thiên Chúa mời gọi.

Vậy, anh em đừng chống đối lẫn nhau, cũng đừng ngại nhường nhịn nhau. Vì Đức Ki-tô là Thiên Chúa trên hết mọi sự, Đấng đã quyết định thanh tẩy mọi người khỏi tội lỗi, bằng cách canh tân con người cũ. Ngay từ đầu, Người đã gọi con người là hình ảnh của Người, và khi cho họ nên giống Người, Người tỏ lòng yêu quý bạn biết chừng nào. Khi bạn tuân giữ các điều răn trọng đại của Người, và hết sức noi gương Người là Đấng tốt lành, thì bạn sẽ nên giống như Người và được Người quý trọng. Thiên Chúa không phải là kẻ ăn xin, nhưng vì muốn cho danh Người được tôn vinh mà Người làm cho bạn thành một vị thần.

 

 


31/12 - Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 2, 18-21

"Các con được Ðấng Thánh xức dầu, và các con biết mọi sự".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Hỡi các con, đây là giờ sau hết. Các con đã nghe biết là sẽ có Phản-Kitô đến, thì nay đã có nhiều Phản-Kitô xuất hiện, do đó chúng ta biết rằng đây là giờ sau hết. Họ ở giữa chúng ta mà ra, nhưng không thuộc về chúng ta, vì nếu họ thuộc về chúng ta, thì họ vẫn còn ở với chúng ta. Như vậy để chứng tỏ rằng không phải tất cả mọi người đều thuộc về chúng ta.

Còn các con, các con được Ðấng Thánh xức dầu, và các con biết mọi sự. Ta viết cho các con, không phải vì các con không biết sự thật, nhưng vì các con biết sự thật, và phàm là dối trá thì không (thể) do sự thật mà có.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2. 11-12. 13

Ðáp: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người, ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. - Ðáp.

2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui, các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.

3) Trước nhan Thiên Chúa, vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh, và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

 

Alleluia: Dt 1, 2

Alleluia, alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1, 1-18

"Ngôi Lời đã làm người".

Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác.

Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Planeten der erde 3d und der fantasie mit hellem stern | Kostenlose Foto


Suy niệm


  Emmanuel - Lời đã hóa thành nhục thể   


Hôm nay là ngày 31/12, ngày cuối cùng trong một năm về dân sự, cũng là ngày thứ 7 trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Trong khi Bài Đọc 1 tiếp theo những gì của Bài Đọc 1 hôm qua thì Bài Phúc Âm hoàn toàn khác hẳn, bài Phúc Âm trích lại tất cả đoạn nhập đề Phúc Âm của Thánh ký Gioan về "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14).


Vấn đề đầu tiên được đặt ra ở đây là tại sao vào chính ngày cuối năm dân sự mà Giáo Hội lại chọn đọc một bài Phúc Âm có câu mở đầu hoàn toàn có ý nghĩa ngược lại, đó là câu: "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa"? Một đàng thì cuối năm theo dân sự nhưng lại "từ nguyên thủy" theo phụng vụ vào ngày 31/12 nghĩa là gì? 


Ý nghĩa của vấn đề này có thể hiểu như sau: 1- thời gian một khi đi đến tận cùng thì trở về nguồn cội, về lại với nguyên thủy; 2- một ngày đối với Thiên Chúa được bắt đầu từ "một buổi tối và một buổi sáng" (Khởi Nguyên 1:5,8,13,19,23), chứ không phải từ sáng đến tối theo thể lý - phải chăng đó là lý do Lễ Chúa Nhật hằng tuần được bắt đầu từ chiều tối hôm trước, và Đại Lễ Giáng Sinh và Đại Lễ Phục Sinh được bắt đầu từ na đêm, hay Lễ Mẹ Thiên Chúa là ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh lại là ngày đầu năm dương lịch; 3- dù thời gian có qua đi những Thiên Chúa vẫn muôn đời tồn tại vô cùng vô tận. 


Đúng thế, bài Phúc Âm cho ngày cuối cùng của một năm dân sự này về Ngôi Lời, một Ngôi Lời hằng hữu, một Ngôi Lời nhập thể và một Ngôi Lời thông ban.


Một Ngôi Lời hằng hữu: "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không át được sự sáng".


Đoạn đầu tiên trong 3 đoạn mở đầu của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: trước hết là bản tính thần linh của Lời - ở chỗ Lời có trước thời gian (chứ không phải Lời được tạo dựng trong thời gian), Lời hiện hữu nơi Thiên Chúa (vì Lời là chính ý nghĩ về mình của Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa) và Lời là chính Thiên Chúa (Đấng tự hữu, hiện hữu và hằng hữu); sau nữa, chính vì bản tính thần linh của mình như thế mà Lời chính là nguyên lý tạo dựng nên mọi sự và là nguyên lý cho sự hiện hữu của tất cả mọi sự không phải là Thiên Chúa hay ngoại tại với Thiên Chúa; và sau hết cũng chính vì bản tính thần linh của mình mà Lời có sự sống thần linh để có thể tỏ mình ra và thông ban.


Một Ngôi Lời tỏ mình"Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra".


Vì Lời, đối ngoại, là "sự sáng chiếu soi trong u tối" mà "Người vẫn ở trong thế gian", qua các nguyên tắc bất biến về luân lý hay qua các mầm mống thần linh nơi các đạo giáo, và cho dù "thế gian đã do Người tác tạo", nhưng "thế gian đã không nhận biết Người". Đối với dân riêng Do Thái của mình, "Người đã đến nhà các gia nhân Người", ở chỗ Người đã tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, nhưng tiếc thay "các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người", thậm chí còn sát hại Người nữa. Trái lại, "kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa", nghĩa là được tái sinh bởi trời: "do Thiên Chúa mà sinh ra".


Một Ngôi Lời thông ban: "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.... Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta"


"Khi đến thời gian viên trọn" (Galata 4:4) thì "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể" là Đức Giêsu Kitô, "và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi" như một Hài Nhi Giêsu ở Belem, một Thiếu Nhi ở Giêrusalem, một Thanh Niên ở Nazarét, một Đấng Thiên Sai đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ, không phải để luận tội mà là để cứu độ, nhờ đó "chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý", Đấng "tỏ Cha ra" bằng việc tuân phục ý Cha là Đấng đã sai Người, "để khi hoàn tất Người đã trở nên căn nguyên cứu độ cho những ai tín phục Người" (Do Thái 5:9). 


Bài Đọc 1 hôm nay, 31/12, khác hẳn với Bài Phúc Âm cùng ngày hôm nay, ngày cuối cùng của năm dương lịch, ở chỗ, ngay câu mở đầu của Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan, là thế này: "Hỡi các con, đây là giờ sau hết", mà ngày 31/12, ngày cuối cùng của một năm là tiêu biểu.


Thế nhưng, làm sao biết được "đây là giờ sau hết", nếu không phải, như Bài Đọc 1 hôm nay tiết lộ và khẳng định, có thể căn cứ vào hiện tượng "đã có nhiều Phản-Kitô xuất hiện, do đó chúng ta biết rằng đây là giờ sau hết". Thành phần "phản kitô" này là ai, nếu không phải là những người "xuất phát từ hàng ngũ của chúng ta nhưng không thuộc về chúng ta", bởi họ "chối bỏ Chúa Kitô đến trong xác thịt" (2Gioan 7), tức chối bỏ "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14). 


Hiện tượng xuất hiện "kitô giả" hay "phản kitôlà thành phần chối bỏ Chúa Kitô, chối bỏ sự thật, là hiện tượng chẳng những cho thấy ngày cùng tháng tận mà còn cho thấy càng tiến đến ngày cùng tháng tận con người càng sống trong tăm tối, và vì thế họ càng phải được soi sáng bởi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9) là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), Đấng "đã có từ nguyên thủy", Đấng bất biến cho dù thế gian có qua đi, và là Đấng sẽ canh tân tất cả mọi sự thành một trời mới đất mới là nơi Thiên Chúa muôn đời ngự trị (xem Khải Huyền 21:1-5), nơi không còn đêm và cửa không bao giờ đóng (xem Khải Huyền 21:25).


Vì Thiên Chúa là Đấng hiện hữu, không bao giờ qua đi, luôn mới mẻ, nhất là cho những ai cởi mở đón nhận Ngài và đáp ứng tác động thần linh của Ngài, mà Ngài phải được vũ trụ và địa cầu cùng nhau ngợi khen chúc tụng, như trong Bài Đáp Ca hôm nay:


1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người, ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. 


2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui, các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. 


3) Trước nhan Thiên Chúa, vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh, và chư dân cách chân thành.

 

Sinh nhật của Chúa là khởi đầu của hoà bình

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 31/12 - Bài Đọc 2)

Trích bài giảng của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng.

Con Thiên Chúa uy nghi cao cả đã chẳng coi khinh tình trạng trẻ thơ. Với thời gian, trẻ thơ đã lớn, đã đạt tới mức trưởng thành. Sau khi Người đạt được chiến thắng hoàn toàn nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì tất cả mọi hành động của kiếp người hèn hạ Người đã chấp nhận vì yêu thương chúng ta, đã trở thành quá khứ. Tuy nhiên, ngày lễ hôm nay nhắc lại cho chúng ta những biến cố đầu tiên của Đức Giê-su sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Khi mừng kính ngày giáng sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta cũng mừng chính nguồn gốc của mình.

Thật vậy, ngày Đức Ki-tô giáng sinh cũng là ngày dân Ki-tô hữu khởi đầu. Mừng sinh nhật của đầu là mừng sinh nhật của thân thể.

Dĩ nhiên mỗi người được mời gọi theo phiên thứ của mình. Con cái của Hội Thánh xuất hiện vào những thời điểm khác nhau. Nhưng vì toàn thể các tín hữu đều sinh ra từ giếng nước thánh tẩy, đều cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó, cùng sống lại với Người trong mầu nhiệm Phục Sinh, cùng được đặt với Người bên hữu Chúa Cha trong mầu nhiệm Thăng Thiên, thì tất cả cũng được sinh ra cùng với Người trong mầu nhiệm Giáng Sinh này.

Người tín hữu thuộc bất cứ phần đất nào trên thế giới, đã được tái sinh trong Đức Ki-tô sau khi từ bỏ đường tội lỗi của con người cũ, thì cũng nhờ được tái sinh mà trở nên người mới. Người ấy không còn thuộc dòng giống cha ông theo huyết nhục, nhưng thuộc dòng tộc Đấng Cứu Thế là Đấng đã trở nên con của loài người để chúng ta được làm con cái Thiên Chúa.

Thật vậy, nếu Người không tự hạ mình và xuống với chúng ta, thì không ai có thể nhờ công nghiệp của riêng mình mà đến với Người được.

Chúa ban cho ta một ân huệ vừa lớn lao, vừa huy hoàng như thế, thì chúng ta phải mừng kính sao cho xứng hợp. Quả vậy, như lời thánh Tông Đồ, chúng ta đã nhận được không phải tinh thần thế tục, nhưng là Thánh Thần phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những hồng ân Người ban tặng. Chúng ta chỉ có thể tôn thờ Người cách xứng hợp khi ta dâng cho Người những gì Người đã ban cho ta.

Vậy, trong kho tàng Thiên Chúa đã rộng ban, chúng ta có thể tìm thấy điều gì xứng hợp để mừng kính ngày lễ này cho bằng sự bình an đã được các thiên thần công bố trong ngày Chúa giáng sinh ? Đây chính là sự bình an sinh ra những con cái của Thiên Chúa, sự bình an nuôi dưỡng tình yêu, tạo nên sự hợp nhất, cho các thánh được nghỉ yên, dẫn tới chỗ cư ngụ muôn đời. Việc chính của bình an, hoa quả đặc thù của bình an là tách biệt con người ra khỏi thế gian mà cho kết hợp với Thiên Chúa.

Vậy, những người được sinh ra không phải do khí huyết, cũng không phải do ý muốn tự nhiên của con người, hoặc do ý muốn của phái nam, nhưng do chính Thiên Chúa, phải dâng lên Chúa Cha sự đồng tâm nhất trí của những người con xây dựng hoà bình. Tất cả những ai được Thiên Chúa nhận làm con, hãy cùng nhau tìm đến với vị Trưởng Tử của tạo thành mới ; Người đã đến không phải để làm theo ý riêng mình, nhưng là để làm theo ý Đấng đã sai mình. Những người được Chúa Cha cho thừa hưởng ân huệ làm con không phải là những người bất hoà, chia rẽ, nhưng là những người có cùng một tâm tình, có cùng một tình yêu. Được tái tạo theo một hình ảnh duy nhất, họ phải có tâm hồn tương xứng với hình ảnh ấy.

Sinh nhật của Chúa là khởi đầu của hoà bình, như lời thánh Tông Đồ : Chính Người là bình an của chúng ta, Người đã liên kết đôi bên. Dù chúng ta là dân Do-thái hay dân ngoại, nhưng chính nhờ Người, tất cả chúng ta được liên kết trong một thần khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.

 

31/12 Thánh Silvestrê I, Giáo Hoàng (270-335)

 

Ngày 31/12: Thánh Silvester I, Giáo Hoàng (270-335)

 

 

Các thánh là những người đã sống cuộc đời của Chúa Giêsu. Các Ngài mỗi lúc mỗi gọt dũa, mỗi đục đẽo, mỗi khắc chạm để càng ngày càng giống Chúa Giêsu.

 

THÁNH SILVESTRÊ

 

Thiên Chúa chọn lựa một con người theo cái nhìn, theo con mắt, theo sự phán đoán của Người. Không ai có quyền bắt Chúa phải chọn người này hay người kia. Thiên Chúa tuyển lựa con người vì Ngài yêu mến con người, Ngài hoàn toàn tự do để chọn lựa, để tuyển chọn một con người. Thánh Silvestrê, sinh tại Roma vào năm 270. Khi vua Constantinô trở lại, Giáo Hội được an bình và tự do hoạt động, tự do loan báo Tin Mừng. Vào năm 314, quyền hành đạo, phát triển đạo được vua Constantinô chấp thuận. Thế là một giai đoạn đen tối, cấm cách, bắt bớ đạo đã chấm dứt. Giáo hội thoát khỏi cảnh lầm than, u tối của sự bách hại. Hai thế kỷ bắt đạo, giết người có đạo đã được đóng lại trên toàn nước La Mã. Năm 314, cha Silvestrê đã được bầu vào ngôi vị Giáo Hoàng với tên là Silvestrê I. Thánh nhân có cái nhìn rộng, óc cầu tiến, Ngài đã thay đổi nhiều chuyện trong Giáo Hội, tổ chức Hội thánh cho có nề nếp, qui củ. Thánh nhân sửa đổi giáo luật, luật lệ, chú ý đặc biệt tới phụng vụ và các tổ chức nghi lễ. Thánh nhân khuyến khích, động viên hàng giáo sĩ và giáo dân xây dựng nhiều thánh đường, trong số đó phải kể đến thánh đường thánh Phêrô tại Roma và thánh đường Chúa Cứu Thế tại Latran.

 

MỘT CUỘC ÐỜI THÁNH THIỆN VÀ THÀNH CÔNG

 

Thánh nhân đã điều khiển Giáo Hội suốt 22 năm ròng. Ngài đã sống một đời sống thánh thiện, luôn nhắm tới việc bảo vệ Giáo hội, củng cố lòng tin của anh em. Thánh Silvestrê I đã thành công lớn khi Ngài chống lại bè rối Ariô và bảo vệ thiên tính của Chúa Giêsu trong công đồng chung đầu tiên cho toàn thể Giáo Hội ở Nicée. Thánh Silvestrê I đã qua đời vào ngày 31/12/335. Chúa thưởng công cho Ngài và nâng Ngài lên bậc hiển thánh để toàn Giáo Hội mừng kính Ngài.

Lạy Chúa, xin nhận lời thánh Silvestrê I Giáo Hoàng khẩn nguyện mà ban ơn trợ giúp dân Chúa, và đưa từ cuộc sống chóng qua đời này đến cuộc sống bất tận đời sau( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Silvestrê I, Giáo Hoàng ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang%2012/Sylvester.htm

 

Thánh Giáo Hoàng Sylvester I (c. 335)

Không có ai ngoài vị giáo hoàng này là người có thể duy trì sự độc lập cần thiết cho Giáo Hội khi phải đối diện với nhân vật quyền thế là Hoàng Ðế Constantine.

Lược sử

Khi nghĩ đến vị giáo hoàng này chúng ta phải nghĩ đến Sắc Lệnh Milan, sự xuất hiện của Giáo Hội sau những năm tháng trốn tránh trong hang toại đạo, các vương cung thánh đường như Đền Thánh Gioan Latêranô, Đền Thánh Phêrô, Công Đồng Nicea và các biến cố quan trọng. Nhưng hầu hết các biến cố này được hoạch định và xảy ra là nhờ Hoàng Đế Constantine.
Có nhiều truyền thuyết về con người đức giáo hoàng vào thời điểm cực kỳ quan trọng này, nhưng rất ít sự kiện có thể xác định được về phương diện lịch sử. Chúng ta biết chắc là triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 đến khi ngài từ trần năm 335, sau 22 năm lèo lái con thuyền Hội Thánh. Tìm hiểu ẩn ý của lịch sử, chúng ta biết chắc là không có ai ngoài vị giáo hoàng này là người có thể duy trì sự độc lập cần thiết cho Giáo Hội khi phải đối diện với nhân vật quyền thế là Hoàng Đế Constantine. Các giám mục thời ấy nói chung vẫn trung thành với Tòa Thánh và có lúc cũng phải xót xa cho Đức Sylvester vì phải thi hành những chương trình quan trọng của Giáo Hội dưới sự thúc giục của Constantine.

Suy niệm 1: Giáo hoàng

Ngài là người kế nhiệm giáo hoàng Miltiades và là vị giáo hoàng thứ 33 của giáo hội Công giáo. Năm sinh của ngài không được xác định, hình như ngài được sinh tại Sant’Anglo a Scala, Avellino và mất vào ngày 31 tháng 12 năm 335. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ngài lên ngôi năm 314 và ở ngồi trong 21 năm 11 tháng. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định triều đại của ngài bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 314 tới ngày 31 tháng 12 năm 335. Ngài được suy tôn là thánh và được tôn kính cả ở giáo hội Rô-ma và giáo hội chính thống phương Đông. Ngày lễ kính của ngài ở Giáo hội Rô-ma là ngày 31 tháng 12 và ở giáo hội chính thống là ngày 2 tháng 1.

Khi đối diện với sự chỉ trích, một nhà lãnh đạo cần có sự khiêm tốn và can đảm để có thể nhường bước cho các biến cố xảy ra theo tiến trình của lịch sử, một khi sự khẳng định quyền bính của mình chỉ dẫn đến những căng thẳng và xung đột không cần thiết. Thánh Giáo Hoàng Sylvester đã dạy một bài học quý báu cho các vị lãnh đạo Giáo Hội, các chính trị gia, các bậc làm cha mẹ và những người có thẩm quyền.

* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn gia tăng lời cầu nguyện cho các vị chủ chăn và hằng vâng phục các ngài.

Suy niệm 2: Sắc Lệnh Milan

Khi nghĩ đến vị giáo hoàng này chúng ta phải nghĩ đến Sắc Lệnh Milan.

Không phải ngẫu nhiên mà hoàng đế Constantine trở lại Công Giáo. Có một giai thoại lưu truyền nhiều nhất: Vào 1 đêm trong trận Milvia Bridge. Ông nhìn thấy một chữ thập đang cháy trên bầu trời cùng với dòng chữ: Với tín hiệu này, con sẽ chiến thắng. Không biết ông đã biến đổi như thế nào, chỉ biết rằng ông trở thành người cống hiến cho Giáo Hội Công Giáo những tiến bộ vượt bậc.

Một trong những hành động tích cực nhất là Sắc Lệnh Milan. Với sắc lệnh này, các Kitô hữu được tự do, sự xuất hiện của Giáo Hội sau những năm tháng trốn tránh trong hang toại đạo nay được công nhận như một tôn giáo hợp lệ. Sắc Lệnh này còn mang lại các tài sản của Giáo Hội bị sung công trong suốt thời gian biến loạn.

* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng chính sách tự do tôn giáo để sống đạo thật tốt và hết mình.

Suy niệm 3: Công Đồng Nicea

Công Đồng Nicea và các biến cố quan trọng được hoạch định và xảy ra là nhờ Hoàng Đế Constantine.

Ngày 20 tháng 5 năm 325, công đồng Nicea được triệu tập theo lệnh của hoàng đế Constantinus. Giáo hoàng Sylvester I vì già yếu không thể đến được đã cử hai đức ông Vitus và Vincentius làm đại diện. Đây được coi là Công đồng chung đầu tiên của Giáo hội công giáo. Công đồng này quy tụ gần 300 giám mục phương Đông và chỉ có 4 giám mục phương Tây.
Công đồng đã soạn thảo một bản tuyên xưng đức tin (là bản sẽ trở thành Kinh Tin Kính Nicêa), trong đó có tuyên bố rằng Con của Thiên Chúa là đồng bản tính (homoousios,

 consubstantialis) với Đức Chúa Cha. Trong các quyết định khác của công đồng, quyết định quan trọng nhất là xác định các khu vực lớn của Giáo hội. Trong đó cho các Giám mục thành Alécxănđơri và thành Antiốt được toàn quyền cai trị địa hạt của họ, cũng như Giám mục thành Lamã được toàn quyền cai trị địa hạt của mình.

* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống niềm tin hằng tuyên xưng trong kinh Tin Kính Nicêa.

Suy niệm 4: Hoàng Đế Constantine

Hầu hết các biến cố này được hoạch định và xảy ra là nhờ Hoàng Đế Constantine.

Có nhiều truyền thuyết về mối quan hệ giữa giáo hoàng Sylvester với hoàng đế Constantine. Những truyền thuyết chủ yếu được nêu lên trong “Vita beati Sylvestri”, xuất hiện ở phía Đông bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Syriac; và trong “Constitutum Sylvestri” bằng tiếng tiếng Latin. Tiêu biểu về một bản văn mà ngày nay đã được xếp vào hàng ngụy thư được gọi là Donation de Constantin (Sự biếu tặng của Constantinô hay của dâng do Constantinô cho Đức Sylvester) thuật lại món quà mà Constantine đã tặng cho Đức Giáo Hoàng là thành phố Rôma và toàn thể phương Tây.

Trong văn kiện này có điều khoản quan trọng sau đây: “Đức Thánh Cha là đấng thừa kế Thánh Phê-rô sẽ được tôn vinh lên bậc cao cả trong đế quốc chúng ta và còn cao cả hơn ngôi báu thế gian. Đức Thánh Cha cai quản các giám mục ở Antioch, Alexandria, Constantinople và Jerusalem” (The Faith, a history of christianity, Brian Monahan, trang 217, 362). Nó đã được xác định là một sắc lệnh giả được tạo nên vào thế kỷ thứ VIII vào khoảng giữa 752 và 777. Nhằm biện minh cho sự thành lập nước các Giáo Hoàng.

* Lạy Chúa Giêsu, xin cho các nhà cầm quyền biết ân huệ nhận được từ Chúa (Ga 3,27;19,11) để phục vụ đúng ý Chúa.

Suy niệm 5: Truyền thuyết

Có nhiều truyền thuyết về con người đức giáo hoàng.

Một truyền thuyết nữa là việc Đức Sylvester đã rửa tội cho Constantin tại Giêrusalem trong dịp thánh hiến Giáo Đường Mộ Thánh nhưng điều này đã được chứng mình là Constantine chỉ được rửa tội trên giường bệnh khi sắp chết và do một Giám mục Arien chứ không phải do giáo hoàng Sylvester. Truyền thống thời trung đại, nhất là được truyền lại bởi Truyền thống vàng cho một giải thích là: hoàng đế khắp mình bị một bệnh hủi không thể chữa được và chính khi Sylvester rửa tội ông bằng cách dìm vào trong một bể bơi mà ông đã được chữa khỏi bệnh hủi và điều đó có nghĩa rằng ông phải bảo vệ đức tin Kytô giáo.

Người ta cũng quy cho ngài những phép lạ khác nữa thí dụ như đã làm cho một con bò mộng sống lại và đã thuần hóa một con rồng.

* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng nếu có phép lạ xảy ra thì cũng hoàn toàn do Chúa ban (Mc 16,17;Lc 9,1).

Suy niệm 6: Triều đại giáo hoàng

Triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 đến khi ngài từ trần năm 335.

Trong thời gian làm giáo hoàng của Sylvester, các vương cung thánh đường như Ðền Thánh Gioan Lateran, Ðền Thánh Phêrô trên đồi Vatican đã được xây dựng theo lệnh của hoàng đế Constantine. Ngoài ra còn có thánh đường Santa Croce ở Giesusalem, và một số nhà thờ nơi hầm mộ các vị tử đạo. Ngài là vị giám mục đầu tiên của Rô-ma đã dùng danh xưng “Pope”, có nghĩa là “Cha” và được ghi nhận là vị giáo hoàng đầu tiên đội mũ ba tầng. Tuy nhiên điều này rất khó xác minh. Truyền thống cho rằng, giáo hoàng Sylvester I đã ấn định ngày Chúa Nhật là ngày nghỉ việc dành để tưởng niệm Chúa Phục Sinh và đã cho đặt mão gai có đinh sắt trên các tượng chịu nạn.

Năm 321, nổ ra cuộc khủng hoảng của lạc thuyết Arius. Arius là một người xứ Libya. Ông này thụ phong linh mục năm 310 và được cử coi sóc xứ Baucalis, ngoại ô thánh Alexandria. Giáo thuyết của Arius cho rằng Thiên Chúa không thể thông bản tính của mình cho ai được và tất cả mọi vật ngoài Thiên Chúa đều là thụ tạo, trong đó có cả Đấng Kitô ngôi hai Thiên Chúa. Theo Arius, Chúa Kitô không phải là Thiên Chúa, không ngang hàng, không đồng bản tính với Ngôi Cha. Ngài chỉ là một tạo vật hoàn hảo nhất, có trước thời gian, nhưng không phải vô thủy vô chung. Ngài được đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Năm 322, công đồng miền Alexandria đã kết án Arius, khiến ông phải đến trú ngụ ở Cesarea (Palestina). Tại đây, ông được sự ủng hộ của giám mục Eusebius. Cuộc tranh luận lại nổ ra.

Để nhấn mạnh đến sự liên tục của Chức Thánh, sách nhật tụng mới đây trong phần tiểu sử các giáo hoàng thường chấm dứt với con số thống kê quan trọng. Về ngày lễ Thánh Sylvester, sách viết: “Ngài chủ tọa bảy lần tấn phong mà trong đó ngài đã tạo được 42 linh mục, 25 phó tế và 65 giám mục cho một vài giáo phận.” Quả thật, Đức Thánh Cha là tâm điểm của hệ thống bí tích trong Giáo Hội, là yếu tố cốt yếu cho sự hiệp nhất của Giáo Hội.

* Lạy Chúa, xin nhận lời thánh Silvestrê I Giáo Hoàng khẩn nguyện mà ban ơn trợ giúp dân Chúa, và đưa từ cuộc sống chóng qua đời này đến cuộc sống bất tận đời sau (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Silvestrê I, Giáo Hoàng).

Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ

http://cadoanol.bplaced.net/ngay-3112-thanh-giao-hoang-sylvester-i-c-335/


 

Cuối tuần Bát Nhật Giáng Sinh

THÁNH MA-RI-A, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI: 1/1 Thứ Bảy

lễ trọng

 

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Thánh thi Giờ Kinh Sách  

Gốc tổ Giesê có một cành

Một cành trĩu nặng trái thơm xinh:

Một bà mẹ trẻ sinh Con Chúa,

Sau trước một bề vẫn đồng trinh.

 

Ðấng đã tác thành nên ánh sáng

Mà nay sinh xuống giữa hang lừa,

Cùng Cha tạo dựng trời vô hạn,

Giờ Mẹ đặt nằm quấn tã thưa.

 

Người đem luật pháp đến cho đời,

Huấn giới mười điều dạy khắp nơi,

Cam phận nhân sinh trong cõi thế,

Người vâng luật lệ mãi không thôi.

 

Hào quang cứu độ nay tràn tới

Quét sạch đêm đen, diệt tử thần,

Muôn nước, muôn dân, nào hội lại

Kính thờ Con Chúa xuống trần gian.

 

Giêsu Cứu Chúa, Con Trinh Mẫu,

Ngàn vạn lời ca chúc tụng Ngài,

Thánh Phụ, Thánh Thần, muôn nhân hậu,

Xin cùng thượng tiến nhạc thiên thai.

 

Nhờ Đức Ma-ri-a, Ngôi Lời nhận lấy bản tính của chúng ta

(Giờ Kinh Sách Bài Đọc 2)

Trích thư của thánh A-tha-na-xi-ô, giám mục.

Ngôi Lời đã nhận lấy dòng giống Áp-ra-ham, như thánh Tông Đồ nói, bởi thế Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, và phải mang lấy một thân xác giống chúng ta. Vì vậy, cần phải có Đức Ma-ri-a để từ nơi Mẹ, Ngôi Lời nhận lấy một thân xác và Người hiến dâng thân xác ấy như của riêng mình để chúng ta được hưởng nhờ. Nhắc đến việc Người giáng sinh, Kinh Thánh viết : Bà đã lấy tã bọc con ; và đã công bố : phúc cho bà mẹ đã cho Người bú mớm, đã hạ sinh người con đầu lòng làm của lễ hiến dâng. Thiên sứ Gáp-ri-en đã thận trọng và khôn ngoan truyền tin cho Đức Mẹ, thiên sứ không nói trống rằng : Đấng sẽ sinh ra nơi bà, kẻo có người lầm tưởng có một thân xác từ bên ngoài được đưa vào trong lòng Đức Mẹ. Nhưng thiên sứ nói : Đấng bà sẽ sinh ra, để người ta tin rằng Đấng được sinh ra đã xuất phát bởi chính Đức Mẹ.

Tất cả sự kiện xảy ra như thế để khi Ngôi Lời nhận lấy bản tính chúng ta và hiến dâng làm hy tế, thì Người nhận lấy hết làm của mình, và Người mặc cho chúng ta bản tính của Người, do đó thánh Phao-lô đã có thể nói được rằng : cái thân sẽ hư nát này phải mặc lấy sự bất diệt ; cái thân sẽ chết này phải mặc lấy sự bất tử.

Những điều này không phải là giả tưởng như có một số người nghĩ. Dứt khoát là không. Nhưng khi Đấng Cứu Độ đã thật sự làm người, thì từ lúc đó con người toàn diện nhận được ơn cứu độ. Ơn cứu độ chúng ta không hề là chuyện giả tạo, hoặc chỉ dành cho thân xác mà thôi, nhưng là ơn cứu độ thật sự cho con người toàn diện, nghĩa là cho cả hồn lẫn xác. Ơn cứu độ này xuất phát từ chính Ngôi Lời.

Vì vậy, Đấng do Đức Ma-ri-a sinh ra quả là người thật, xét theo bản tính như Kinh Thánh dạy, và thân xác của Chúa là một thân xác đích thực. Tôi nói : đó là một thân xác đích thực vì thân xác ấy cũng giống như thân xác chúng ta. Quả thật, Đức Ma-ri-a là chị em chúng ta, vì tất cả chúng ta xuất phát từ A-đam.

Vì thế phải hiểu lời thánh Gio-an : Ngôi Lời đã làm người theo cùng ý nghĩa trên, như có thể thấy được từ những kiểu nói tương tự, chẳng hạn thánh Phao-lô nói : Đức Ki-tô đã trở nên kẻ bị nguyền rủa thay cho chúng ta. Nhờ hiệp thông và hợp nhất với Ngôi Lời, thân xác loài người đạt được mức thăng tiến phi thường : quả thật từ thân phận phải chết, thân xác trở thành bất tử ; từ giới sinh vật, thân xác trở nên loài có thần khí ; được làm ra bởi đất, thân xác được vào cửa trời.

Còn về Ba Ngôi, sau khi Ngôi Lời nhận lấy thân xác bởi Đức Ma-ri-a, Ba Ngôi vẫn nguyên thế, không thêm cũng chẳng bớt chút nào. Ba Ngôi vẫn luôn toàn hảo. Nơi Ba Ngôi, người ta nhận biết chỉ có một Thiên Chúa. Vì thế, trong Hội Thánh, người ta rao giảng một Thiên Chúa duy nhất là Cha của Ngôi Lời.

Xướng đápLc 1,42

XLạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ thánh thiện tinh khiết dường nào, con biết nói gì để ca ngợi Mẹ đây !

ĐVì Đấng trời cùng đất không chứa nổi, thì chính Mẹ đã được phúc cưu mang.

XMẹ là người có phúc nhất trong giới phụ nữ, và Đấng Mẹ cưu mang cũng thật là có phúc.

ĐVì Đấng trời cùng đất không chứa nổi, thì chính Mẹ đã được phúc cưu mang.

 

Ma-ri-a, cửa trời rộng mở
Cho hồng ân tuôn đổ chan hoà,
Vườn xuân hương gió thoảng qua,
Cửa cài then đóng tinh hoa ngàn đời.

Chúa Giê-su ở Ngôi Thiên Tử
Đã bởi lòng Trinh Nữ sinh ra,
Người là Đấng cứu độ ta,
Bạn hiền Giáo Hội âu ca ngàn lời.

Là vinh dự, niềm vui phấn khởi,
Cả tín dân mong đợi khát khao,
Là mưa xuống tự trời cao,
Để cho trái đất dạt dào hồng ân.

Nào hoan hỷ, tâm thần nhân thế,
Vì giờ đây Chúa Tể muôn dân,
Đoái thương ngự xuống gian trần,
Ban ơn cứu chuộc canh tân mọi loài.

Dâng Con Chúa ngự ngai chói lọi
Tự muôn đời cùng với Chúa Cha,
Nay do Trinh Nữ sinh ra,
Hiển vinh cùng với Ngôi Ba Thánh Thần.

Ta hãy ca ngợi Chúa Ki-tô là Đấng sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, do quyền năng Chúa Thánh Thần, và hãy tha thiết nguyện xin :

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin thương xót chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Hài Nhi tuyệt diệu, là Thủ Lãnh đem lại hoà bình, - xin ban cho thế giới được xây dựng trong hoà bình trật tự.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin thương xót chúng con.

Chúa là Vua thống trị chúng con, Chúa đến cho chúng con được vinh dự làm con Thiên Chúa, - xin dạy chúng con biết tôn vinh Chúa bằng cuộc đời nhuần thấm đức tin.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin thương xót chúng con.

Chúa đã mang thân phận loài người chúng con, - xin cũng cho chúng con tham dự vào thần tính của Chúa.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin thương xót chúng con.

Chúa đã chọn trái đất này làm quê hương của Chúa, - xin nhận chúng con vào quê hương vĩnh cửu trên trời.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin thương xót chúng con.

Thuở trời đất chưa xuất đầu lộ diện,
Đã có Ngài, sinh bởi Đức Chúa Cha,
Ngài là chính khởi nguyên và tận điểm
Của mọi loài trong hoàn vũ bao la.

Ngài đâu quản kiếp phù sinh tạm bợ,
Mặc xác phàm, mang vận số tiêu tan,
Để nhân thế, bại vong vì nguyên tổ
Hết tội tình, được thoát cảnh trầm luân.

Người Trinh Nữ thụ thai : ôi nhiệm lạ !
Phép Thánh Linh bao phủ tợ mây trời,
Vì Cứu Thế, miệng trẻ thơ măng sữa
Khóc oa oa, Lời Chúa đã chào đời.

Đoàn ngôn sứ của bao nhiêu thời đại
Loan Tin Mừng Vị Chúa hứa ngàn xưa
Bao tháng ngày, từng loan đi nhắc lại,
Đến cả đây, cùng hợp xướng vang hoà :

Cung trầm bổng nào chúc vinh Thánh Phụ,
Khúc nhạc vàng, ta mừng kính Chúa Con,
Nay giáng thế, sinh tự lòng Trinh Nữ
Bởi phép mầu Thần Khí Chúa cao tôn.

Đức Ki-tô đã được Trinh Nữ Ma-ri-a cưu mang và sinh hạ, chính là Thiên Chúa ngự giữa loài người. Ta hãy thiết tha dâng lời cầu khẩn :

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin nhậm lời chúng con khẩn nguyện.

Chúa đã ban cho Đức Ma-ri-a niềm vui được làm mẹ, - xin ban cho các bậc phụ huynh được vui mừng hãnh diện vì con cái mình.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin nhậm lời chúng con khẩn nguyện.

Lạy Đấng thống trị muôn dân, mở đầu cho kỷ nguyên hoà bình và công lý, - xin dạy chúng con biết kiến tạo hoà bình.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin nhậm lời chúng con khẩn nguyện.

Chúa đã đến làm cho loài người trở nên một dân tộc thánh thiện của Thiên Chúa, - xin kết hợp muôn dân trong một mối tình bác ái huynh đệ.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin nhậm lời chúng con khẩn nguyện.

Chúa giáng sinh làm người đã thắt chặt tình thân ái trong gia đình, - xin cho mọi người trong gia đình chúng con thêm hoà thuận mến thương nhau.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin nhậm lời chúng con khẩn nguyện.

Khi làm người dương thế, Chúa đã muốn lệ thuộc vào thời gian, - xin cho anh chị em đã lìa thế được vui hưởng sự sống muôn đời.

Lạy Con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin nhậm lời chúng con khẩn nguyện.

 

 

Lời nguyện cho các Giờ Kinh Phụng Vụ 

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới đáng nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.

 

 


Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Ds 6, 22-27

"Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Trích sách Dân Số.

Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: "Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con". Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8

Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con (c. 2a).

Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.

2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.

3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gl 4, 4-7

"Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: "Abba!", nghĩa là "Lạy Cha!" Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Dt 1, 1-2

Alleluia, alleluia! - Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 2, 16-21

"Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.

Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.

Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy niệm

Emmanuel Thiên Mẫu

 


Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa hôm nay, 1/1, ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, nhưng lại là ngày mở màn cho một tân niên, ngày đầu tiên của một năm mới, cũng là ngày Giáo Hội Công giáo cử hành như Ngày Thế Giới Hòa Bình - the World Day of Peace, bắt đầu từ 1/1/1968, dưới thời Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978).


Tuần Bát Nhật Giáng Sinh được Giáo Hội cố ý sắp xếp một số lễ có liên hệ đặc biệt với mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh. Chẳng hạn Lễ Thánh Stephanô Phó Tế Tử Đạo Tiên Khởi ngày 26/12, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ ngày 27/12, Lễ Các Thánh Anh Hài ngày 28/12, và Lễ Thánh Gia vào Chúa Nhật trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. 


Lễ Mẹ Thiên Chúa hôm nay cũng thế. Trước Công Đồng Chung Vaticanô II Lễ Mẹ Thiên Chúa được cử hành vào ngày 11/10 hằng năm, nhưng sau công đồng được chuyển sang ngày 1/1 như hiện nay, ngày vừa kết thúc Tuần Bát Nhật Giáng Sinh vừa mở màn cho một năm mới. Đâu là ý nghĩa cho việc chuyển thời điểm Lễ Mẹ Thiên Chúa này?


Phải chăng, nếu mầu nhiệm và biến cố "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) không thể tách rời với mầu nhiệm Thánh Gia nói chung thế nào, ở chỗ Hài Nhi Giêsu giáng sinh từ một gia đình, hay Người đã vào trần gian qua cửa ngõ gia đình, thì mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh của Người cũng có một mối liên hệ mật thiết bất khả phân ly với mầu nhiệm Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa nói riêng như vậy, tức là Hài Nhi Giêsu phải được sinh ra bởi một người mẹ trần gian?


Thế nhưng tại sao, căn cứ vào ý nghĩa chặt chẽ và tầm quan trọng của mối liên hệ với Hài Nhi Giêsu như thế, Giáo Hội không sắp xếp ngay sau Lễ Giáng Sinh là Lễ Thánh Gia và Lễ Mẹ Thiên Chúa mà lại sắp xếp Lễ Thánh Stephano, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ và Lễ Các Thánh Anh Hài? 


Xin thưa, chính vì tính chất liên hệ mật thiết và quan trọng hơn 3 lễ vừa được kể ấy mà hai Lễ Thánh Gia và Lễ Mẹ Thiên Chúa mới được cử hành chẳng những ở bậc lễ trọng mà còn ở vào một thời điểm trọng thể nữa, như Lễ Thánh Gia được cử hành vào Chúa Nhật và Lễ Mẹ Thiên Chúa được cử hành vào ngay ngày đầu năm dương lịch. 


Lễ Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội cử hành ngay vào ngày đầu năm dương lịch phải chăng là vì Mẹ Maria không thể tách biệt khỏi "Lời đã có từ nguyên thủy", như bài Phúc Âm cuối năm hôm qua cho biết. Nghĩa là từ thuở đời đời, "từ nguyên thủy" Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Lời Nhập Thể. Mẹ đã có trong thượng trí của Thiên Chúa cùng với Ngôi Lời ngay "từ nguyên thủy"


Tuy nhiên, theo bản tính là thần linh của mình, "Lời là Thiên Chúa", là Đấng tự hữu, hiện hữu và hằng hữu, Người chẳng những là nguyên thủy còn là cùng đích nữa (xem Khải Huyền 1:17), Người tiếp tục hiện hữu cho tới vô cùng bất tận dù thời gian và tạo vật có qua đi. Đó là lý do ngày tất niên 31/12 Giáo Hội đã chọn đọc bài Phúc Âm về Ngôi Lời, Đấng "đã có từ nguyên thủy". 


Nhưng về phần mình, vì chỉ là một tạo vật thuần túy, Mẹ Maria không thể nào ở ngoài thời gian, và vì Mẹ là tạo vật đệ nhất về ân sủng không thể tách biệt với Ngôi Lời "đã có từ nguyên thủy" mà Mẹ phải được Thiên Chúa nghĩ đến đầu tiên, trước hết và trên hết mọi sự, trước và trên cả loài thần thiêng trên trời. Bởi thế, Mẹ phải được coi như mở màn cho thời gian hay thời gian được bắt đầu từ Mẹ. Phải chăng đó là lý do Lễ Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội thật chí lý cử hành vào ngày 1/1 đầu năm?


Ngày 1/1 là ngày thứ 8 từ Lễ Giáng Sinh, thời điểm theo Luật Moisen các bé trai Do Thái phải được cắt bì. Hài Nhi Giêsu cũng không ngoại lệ, vì Người thực sự mặc lấy bản tính của con người, có thân xác đàng hoàng, cho dù bản tính nhân loại của Người nói chung và thân xác của Người nói riêng, vì được ngôi hiệp với thiên tính vô cùng thiện hảo, hoàn toàn nguyên tuyền tốt đẹp, không mang một tì vết nào của nguyên tội, Người vẫn lãnh nhận phép cắt bì như mọi bé trai phàm nhân khác, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ".


Hài Nhi Giêsu chịu phép cắt bì như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại chứng tỏ Người thực sự mặc lấy nhân tính của loài người, một nhân tính có thân xác thật sự (real) chứ không phải là một thứ ảo tượng (virtual) nào đó, một thân xác đã thật sự được thụ thai, cưu mang và hạ sinh bởi một trinh nữ ở Nazarét đã đính hôn (xem Luca 1:26-27,34-35), và là một thân xác đã bắt đầu đổ máu cứu chuộc khi chịu phép cắt bì này, hình ảnh tiên báo phép rửa Người phải chịu sau này khi tới thời điểm của Người (xem Luca 12:50).


Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã viết cho Kitô hữu thành Galata và khẳng định rằng Chúa Kitô được sinh ra bởi một người nữ - là Trinh Nữ Maria Nazarét, và được sinh ra theo lề luật - như luật chịu phép cắt bì: "khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử". 


Phải, Lễ Mẹ Thiên Chúa được cử hành vào ngay ngày đầu năm, tiêu biểu cho sự kiện thời gian bắt đầu, chẳng những ở chỗ Mẹ Maria là một tạo vật thuần túy đã có ngay từ ban đầu cùng với Ngôi Lời trong thượng trí của Thiên Chúa, mà còn ở sự kiện khi Mẹ bắt đầu hiện hữu trên trần gian này là dấu báo trước rằng "đã tới lúc thời gian viên mãn", thời điểm "Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1;14). 


Tuy Mẹ Maria chỉ sinh ra thân xác của Lời Nhập Thể, từ chính huyết nhục hoàn toàn trinh nguyên thánh hảo của Mẹ, nhưng thân xác được gọi là Thánh Thể này của Lời Nhập Thể thuộc về một nhân tính bất khả phân ly với thiên tính, và ngay từ giây phút hoài thai trong lòng Mẹ nhân tính ấy đã được ngôi hiệp với thiên tính, tức là đã được hiệp nhất nên một thần tính để trở thành một Ngôi Vị Thần Linh Con Thiên Chúa Làm Người, mà Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ của nhân vật lịch sử Giêsu mà còn là chính Mẹ của Thiên Chúa nữa, như Công Đồng Chung Epheso đã chính thức và công khai tuyên tín năm 431. 


Vẫn biết, theo lý luận trần gian, là một tạo vật vô cùng thấp hèn và hữu hạn, được tạo dựng nên trong thời gian, Mẹ Maria không thể nào có thể làm Mẹ sinh ra Đấng tự hữu, hiện hữu và hằng hữu, như thể Mẹ đã có trước Thiên Chúa, nhưng theo dự án thần linh vô cùng khôn ngoan và toàn năng, Mẹ Maria chỉ là dụng cụ hay phương tiện thuần túy được "Quyền Phép Đấng Tối Cao bao phủ(Luca 1;35), nhờ đó Mẹ mới có thể thụ thai, cưu mang và hạ sinh "Con Đấng Tối Cao" (Luca 1:32), và vì thế "trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa" (Luca 1:35).


Khi mặc lấy nhân tính của con người, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) đã trở thành một vị thượng tế của Thiên Chúa giữa loài người trong việc thánh hóa loài người cũng như các hoạt động và sự vật của loài người nơi chính bản tính nhân loại được ngôi hiệp với thiên tính vô cùng hoàn hảo thánh thiện của Người, một thiên chức và vai trò thượng tế đã được tiên báo nơi thiên chức và vai trò tư tế của Aaron cũng như của con cái vị này, như Bài Đọc 1 hôm nay trích từ Sách Dân Số cho thấy:


"Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: 'Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con'. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Bài Đáp Ca hôm nay âm vang ý nghĩa và chiều hướng của Bài Đọc 1, ở chỗ, về phía của thành phần lãnh nhận, của riêng dân Do Thái cũng như của chung nhân loại và toàn thể vũ trụ, nơi mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), tất cả đều như tích cực hưởng ứng lãnh nhận phúc lành của Thiên Chúa, qua vị thượng tế thánh hóa trần gian nơi nhân tính của Người, một nhân tính xuất phát từ Trinh Nữ Nazarét là Mẹ Thiên Chúa:

1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. 

2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. 

3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.

 

  


 

SINH CHÚA TẠI BELEM


(trích trong cuốn Thần Đô Huyền Nhiệm)

 

Khi Mẹ Maria đã gần tới ngày sinh hạ Ngôi Lời Nhập Thể, Hoàng Đế Roma ban bố sắc lệnh truyền mọi người dân trong toàn Đế Quốc phải ghi tên vào sổ kiểm tra tại quê tổ của mình. Thánh Giuse rất phiền lòng về sắc lệnh đó. Khi loan tin cho Mẹ Maria, nhưng Mẹ nói với Thánh Cả: "Vua Cao Cả Trên Trời chỉ huy mọi biến cố ở trần gian, nên ta cứ tin tưởng phó thác mặc Ngày hướng dẫn: Niềm cậy trông của chúng ta không bị đánh lừa đâu". Mẹ biết rõ Con Mẹ sẽ sinh ra tại Belem, nhưng Mẹ không nói ra, vì nếu không có lệnh Chúa truyền, Mẹ chẳng bao giờ tiết lộ một bí mật nào của Thiên Chúa. Thánh Cả Giuse, vẫn còn ái ngại cho tình trạng của Mẹ. Một đàng Ngài muốn Đức Mẹ cứ ở nhà, để Ngài đi một mình, lấy lẽ rằng lệnh vua chỉ buộc có gia trưởng, đàng khác, Ngài không thể không có Mẹ ở bên. Ngài rất lo ngại nếu Mẹ sinh nở khi mình vắng nhà, ai sẽ phục vụ Mẹ. Nhưng Thánh Cả không phải là một người kép đức tin, Ngài vừa xin mẹ cầu nguyện cho biết Thánh Ý Chúa, vừa quyết định sẽ theo Mẹ về quê tổ. Vâng theo Ý Thánh Cả, Mẹ Maria liền cầu xin Chúa. Chúa trả lời: "Con cứ đi với tôi tớ Giuse của Cha, Cha sẽ hết tình hiền phụ trợ lực con luôn". Rồi ngay trước mặt Mẹ, Mẹ ra lệnh cho một nghìn thiên thần vẫn hầu cận Mẹ phải đặc biệt ân cần phục dịch Mẹ trong cuộc hành trình này. Chúa lại truyền cho 9 nghìn tháp tùng Mẹ, ngay khi Mẹ vừa khởi hành. Mẹ thưa lại với Thánh Giuse lời Chúa đáp. Thánh Cả đầy niềm hân hoan. Dầu vậy, Ngài vẫn còn lo ngại ít nhiều về những hoàn cảnh có thế xảy ra khi đi đường mệt nhọc, nhất là Ngài sợ lỡ ra ngay trên đường hành trình mà Mẹ buộc phải lâm bồn chăng. Nhưng Mẹ trấn an Ngài: "Chúa đã phù hộ ta, ta cứ hoàn toàn cậy trong Chúa, để mặc Chúa lo liệu mọi sự cho ta".

Thế là đôi bạn Thánh định ngày lên đường. Thánh Giuse phải đi mượn mãi mới được một con lừa nhỏ, bởi vì những con dùng đi đường được, người ta đã mượn và đi cả rồi. Mẹ biết trước sẽ vắng nhà lâu, nên đã xếp dọn chu đáo tất cả, và nhờ một người hàng xóm trông nhà giúp cho tới khi các Ngài trở về. Lúc khởi hành, Mẹ qùy gối xin Thánh Giuse ban phép lành. Tất nhiên là Thánh Cả cố sức chối từ, nhưng rốt cuộc cũng phải nhường ý Đức Nữ Vương khiêm nhượng. Ngài chúc lành cho Mẹ với hết niềm tôn kính. Rồi đến lượt Ngài, Ngài phủ phục trước mặt Mẹ, xin Mẹ chúc lành cho nhân danh Con Mẹ đang cưu mang trong lòng. Bấy giờ là mùa đông, cuộc hành trình vì đó trở nên mệt nhọc. Nhưng Mẹ Maria chỉ lưu ý đến Chúa Thai Nhi, và cố sức bắt chước Con Mẹ trong mọi việc Con Mẹ làm. Mười ngàn Thiên Thần tháp tùng đôi bạn Thánh, đã hiện ra như người, với một ánh sáng rực rỡ hơn mặt trời, cho nên dầu gặp đêm tối Mẹ và Thánh Cả cũng được sáng soi như ban ngày vậy. Cha Hằng Hữu còn sai nhiều thiên thần khác xuống mang tin cho Người Con Duy Nhất Nhập Thể Của Ngài, cho Mẹ Maria và nhận tin của hai vị.

Các thiên thần đó tấu lên nhiều ca vịnh chúc mừng vinh quang của hai Mẹ Con. Mẹ và Thánh Cả Giuse cũng hát lên nhiều ca khúc ngợi khen Đấng Tối Cao. Nhưng không phải như thế mà cuộc hành trình không gian khổ. Nhiều người mà đôi bạn Thánh gặp trên đường đi đã gây phiền hà cho Mẹ Maria rất đoan trang nghiêm cẩn, vốn rất ít lời. Mà thực ra Mẹ cũng chẳng nói với ai nếu không cần thiết thật. Vì đôi bạn Thánh có vẻ nghèo nên các hàng quán không tiếp đón tử tế. Họ để hai vị phải nằm ngoài cửa, hoặc có lần còn dồn hai vị xuống những căn phòng bỏ đi đầy nhơ bẩn; cả đến có chỗ bắt hai vị phải chung với xúc vật. những con vật này còn không bất nhân bằng con người, chúng tránh chỗ và qùy phục đấng sáng tạo của Chúng đang ngự trong lòng Mẹ. Tuy nhiên, các Thiên Thần vẫn canh giữ đôi bạn Thánh: Lúc Mẹ đàm đạo với các vị, Thánh Giuse nằm nghỉ một chút theo lời Mẹ xin. Nỗi đau khổ nhất của Mẹ là tình trạng linh hồn của những người Mẹ gặp thấy. Mẹ nhìn suốt thấu tâm hồn họ, nên Mẹ cầu nguyện cho tất cả để xin ơn bền vững cho người lành. Ơn cải đổi cho tội nhân, một số tội nhân này, mặc dầu được Mẹ cầu nguyện cho nhưng cũng phải hư mất vì họ không chịu đón nhận Ơn Chúa ban. Nhìn thấy họ sẽ trầm luôn như vậy, nhất là Đức Micae vẫn luôn ở bên hữu Mẹ, nâng đỡ Mẹ trên tay. Dầu phải chịu giá rét, tuyết sa, Mẹ cũng không dùng quyền Chúa ban mà truyền lệnh cho chúng đừng gây phiền cực cho Mẹ. Mẹ vui lòng chịu đựng để bắt chước Con Chí Thánh Mẹ đang đón chờ đau khổ.

Sau năm ngày dài vất vả trên đường, Thánh Giuse và Mẹ đến Belem vào khoảng 4 giờ chiều thứ bảy. Thánh Giuse và Mẹ đi hết nhà nọ sang nhà kia xin tạm trú, nhưng người ta đều xua đuổi. Cả những chỗ thân thuộc bà con cũng khinh chê hất hủi. Lúc đi ngang qua trụ sợ ghi danh, đôi bạn Thánh vào ghi tên và nộp phần thuế của mình rồi lại đi tìm chỗ trọ. Tính ra trước sau đã có hơn 50 nhà Hai Ngài đến xin trọ qua đêm mà không được.

Bấy giờ vào khoảng 9 giờ đêm. Thánh cả Giuse vừa mệt mã, vừa buồn sầu; Ngài nói với Mẹ: "Lúc này, lòng tôi tan nát, hẳn là có một Mầu Nhiệm nào của Chúa trong sự vô tâm của những người cùng khốn nhất. Tôi sẽ đưa Đức Nữ đi đâu bây giờ? không biết cón còn nơi nào tạm ở được nữa, ngoài một các hang đá mà tôi đã thấy ở ngoài thành". Mẹ Maria trả lời: "Xin Thầy đừng buồng vì không tìm được nơi nào tốt hơn cho Con Chí Thánh chúng ta. Trái lại xin cùng tôi tạ ơn Ngài vì đã có ý định như thế. Nơi Thày vừa nói đó rất hợp với sự nghèo nàn là kho tàng của Ngài, sự nghèo nàn mà chúng ta phải yêu mến. Thôi ta cứ vui lên mà đi ra hang".

Những Thiên Thần sáng chói như đuốc dẫn lối cho đôi bạn Thánh ra hang đá. Hang này không có ai ở. Nó khốn nạn đến nỗi ở Belêm bấy giờ dù đầy dẫy người, nhưng không ai thèm ra trú ở nơi đó. Khi vào tới hang, Mẹ và Thánh Cả liền qùy xuống, vui mừng tạ ơn Chúa với một niềm vui trên trời. Mẹ cầu xin Chúa thưởng công cho những người ở Belem đã hất hủi Mẹ vì họ không cho trú nhờ mà hai vị mới được hạnh phúc tạm ẩn trong các hang này. Nhất là Mẹ đã hiểu được Thánh Ý Thiên Chúa ngay từ tạo thiên lập địa, đã chuẩn bị các hang nghèo nàn ấy làm nơi sinh hạ cho đấng cứu chuộc muôn dân. Hang được khoét tự nhiên trong một núi đá cứng và lồi lõm, rất bất tiện, nên người ta chỉ dùng làm nơi cho trâu bò nằm nghỉ tạm, chứ chẳng ai nghèo đến nỗi phải vào đó.

Mẹ bắt tay ngay vào việc quét dọn hang cho sạch sẽ, ít bất xứng với Con Chí Thánh của Mẹ hơn. Thánh Giuse đòi phần việc ấy cho mình. Nhưng bỗng dưng các Thiên Thần dàn hàng ngũ như một đội quân danh dự sửa sang lại hang đá, phút chốc nên sạch sẽ gọn gàng, sực nước hương thâm lạ lùng. Tiết trời lạnh lắm nên Thánh Giuse nhóm lên một đống lửa, xin Đức Thánh Nữ Trinh dùng với mình một chút lương thực. Vốn tuân phục, Mẹ nhận lời mời ngay. Nhưng Mẹ vẫn trầm mặt với mầu nhiệm sắp thể hiện. Sau khi chuyện vắn với bạn Thánh mình, một lúc, Mẹ dục Thánh Giuse đi nghỉ. Thánh Giuse cũng mời Mẹ đi nghỉ, và lấy áo Ngài mang theo trải trên một các máng khá rộng đặt trên nền đá hang để làm chỗ nghỉ đêm cho Mẹ. Còn Ngài rút lui ra 1 góc phía cửa. Ở đấy, Ngài được xuất thần ngay không còn hay biết gì bên ngoài cho tới lúc Mẹ Maria lên tiếng gọi Ngài.

Riêng phần Mẹ, không những Mẹ cũng xuất thần ngay, như vậy, mà còn được thị kiến thấy Thiên Chúa cách chói lọi vinh quang, làm cho các Thiên Thần cũng sững sờ không hiểu. Mẹ được thấy lại tất cả những kiến thức Mẹ nhận được trong các cuộc thị kiến trước, và nhận thêm nhiều kiến thức mới trong lòng Thiên Chúa vô cùng. Mẹ nhìn thấy rõ những lý do cao cả nhất, những mục đính tuyệt vời trong các việc lạ lùng Thiên Chúa làm, cả về phía Đấng Sáng Tạo, cả về phía Thụ Tạo. Phủ phục trước Ngai Thiên Chúa, Mẹ dâng lên những lời ca tụng và cảm tạ cho Mẹ và cho toàn thể loài người. Mẹ cũng hạ mình rất sâu thẳm cầu xin Chúa ban cho mình những ân sủng đặc biệt để xứng đáng chu toàn nhiệm vụ làm Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể mà Mẹ sắp sửa được bế trên tay và cho bú sữa. Trong khi Mẹ tự hạ xuống tới hu vô như vậy Thiên Chúa nâng Mẹ lên tới Ngài và nói với Mẹ rắng: "Con chính là Mẹ thật của Con Cha, nên con cứ xử với Con Cha như con thật mình với tư cách người Mẹ thật.

Sau hơn một thời tham hưởng thị kiến đó, lúc dùng lại được giác quan, Mẹ cảm thấy Thai Nhi Thiên Chúa chuyển động trong cung lòng đồng trinh của Mẹ. Chuyển động ấy không hề gây cho Mẹ một đau khổ nào, mà còn sản ra trong linh hồn Mẹ tràn đầy hân hoan những hiệu qủa tuyệt vời trong thân xác đã nên thiên liêng của Mẹ, mà tâm trí con người không thể hiểu được. Mẹ trở nên xinh đẹp lộng lẫy, xem ra không còn phải là một thụ tạo ở dưới đất nữa. Gương mắt Mẹ giãi sáng như mặt trời huy hoàng; phong thái Mẹ uy nghi khôn sánh, và trái tim Mẹ rừng rực tình yêu nồng cháy hơn cả. Lúc ấy Mẹ đang qùy trong máng cỏ, chắp tay trước ngực, mắt ngước lên trời, hồn trí cắm chặt vào Thiên Chúa, toàn thân Mẹ trở nên như Thiên Chúa. Chính lúc đó là lúc Mẹ sinh hạ Ngôi Lời Nhập Thể Làm Người. Ngài sinh ra giữa lúc nửa đêm vào ngày Chúa Nhật, năm 5199 từ khi sáng tạo, như Giáo Hội dạy.

Chúa sinh ra khỏi lòng Mẹ, nhưng không hề làm Mẹ tổn hại hay nhơ ố gì; trái lại, còn Thánh Hiến Đức Khiế Trinh của Mẹ với nhiều rực rỡ hơn, Như một tia sáng của mặt trời thấu qua thủy tinh càng làm cho thủy tinh nên lộng lẫy. Chúa không phải lụy phục luật thiên nhiên chút nào trong hoàn cảnh này. Vì đã đầu thai hoàn toàn tinh sạch. Sự đẹp đẽ, vinh quang của Linh Hồn Ngài dãi chiếu trên thân xác Ngài rất huy hoàng chói ngợp, như sau này khi biến hình trên núi Tabôrê. Thiên Chúa muốn cho Mẹ Maria nhìn thấy Ngài lần đầu tiên trong ánh sáng vinh hiển đó, để Mẹ cảm thấy càng phải tôn kính Ngài hơn, và để, trong những ánh nhìn khoái lạc ấy, mắt Mẹ được một phần thưởng vì đã trung tín nhắm lại trước hết mọi sự vật trần gian.

Hai vị tổng thần của Triều Đình Thiên Quốc là Đức Michae là Đức Gabriel mặc hình người tham dự quang cảnh lạ lùng ấy. Hai vị nâng Chúa Hài Nhi trên tay mình khi Ngài vừa sinh ra, và nâng lên cho Mẹ Maria trong lúc thân mình Ngài chói lọi ánh sáng, như Linh Mục nâng bánh Thánh lên sau khi truyền phép cho Giáo Dân qùy gối tôn thờ. Lúc đó Con và Mẹ nhìn nhau, xuyên thấu vào nhau vì yêu mến. Chúa nói với Mẹ: "Mẹ ơi, Mẹ hãy trở nên tương tự như con đây. Vì hữu thể nhân loại mà Mẹ tặng Con, Con muốn ngay từ hôm nay tặng Mẹ, một hữu thể khác cao cả hơn, tương tự như hữu thể của Con qua khuôn mẫu hoàn toàn". Mẹ trả lời: "Con hãy lôi cuốn Mẹ đi, Mẹ sẽ chạy theo hương thơm của con". Mẹ Con Đấng Cứu Thế trao đổi cho nhau những lời trong sách diễm ca. Đồng thời với lúc Chúa Hài Nhi chuyện trò với Mẹ Ngài, Ngài mở cho Mẹ thấy nội tâm linh hồn của Ngài, để Mẹ bắt trước và nên giống như Ngài, tuỳ khả năng của Mẹ. Ta chớ quên rằng ân huệ này vẫn tiếp tục ban cho Mẹ suốt cuộc đời Mẹ. Sau đó, Mẹ nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện, và nghe thấy lời phán với Mẹ: "Đây là Con rất yêu dấu Ta, Ta chỉ hài lòng nơi Ngài". Mẹ Maria thưa lên: "Lạy Cha Hằng Hữu, một lần nữa, xin Cha chúc phúc lành cho Con, để Con chu toàn nhiệm vụ làm Mẹ và làm Nữ Tì của Con Cha". Đấng Tối Cao phán: "Con hãy tiếp nhận Con duy nhất của Cha. Và đừng quên rằng khi Cha đòi lại, Con phải dâng tế cho Cha. Trong khi chờ đợi, con hãy làm Mẹ dưỡng nuôi Ngài, và tôn kính Ngài như Thiên Chúa của Con". Mẹ xin nài: "Xin Cha ban ân sủng xuống trang điểm cho con, để con đáng được Con của Cha và Chúa của con đoái nhận làm nữ tì Ngài; để con phục vụ Ngài cho đẹp lòng Ngài; va để một thụ tạo hèn mạt là con đây được ẵm Đấng Sáng Tạo của con, Thầy Dạy của con trên tay và lấy sữa nuôi Ngài".

Sau những cuộc trao đổi ấy, Hài Nhi-Thiên Chúa không giãi ánh vinh quang trong Linh Hồn Ngài ra Thân Xác nữa, nhưng xuất hiện trong tình trạng tự nhiên. Mẹ Maria lúc đó vẫn quì gối, rước lấy Con của Mẹ từ tay hai Tổng Thần. Khi đã ẵm Con trong tay, Mẹ nói với Con Mẹ: "Con rất yêu dấu dịu dàng của Mẹ, hãy nhận Mẹ làm nữ tì hầu hạ Con, va bổ khuyết cho chỗ thiếu sót của Mẹ. Con rất dấu yêu, Con muốn Mẹ xử với Con thế nào, hãy cho Mẹ nên như thế để đúng ý Con muốn". Mẹ lại một lần nữa thân với Cha hằng hữu rằng: "Lạy Đấng Sáng Tạo vũ trụ, đây là bàn thờ và Hi Lễ đẹp mắt Chúa. Xin Chúa dủ thương ghé mắt nhìn đến những người tội lỗi. Con được hạnh phúc này cũng là nhờ họ một phần nào. Cho nên sẽ không bao giờ con không yêu thương họ và săn sóc họ". Rồi, nhìn tới khắp mọi người, Mẹ nói với họ: "Đừng sợ, cứ lại gần đây: tay Mẹ đang ẵm Con Thiên Chúa rất hiền từ. Hãy đến để được sống". Sau cùng, quay lại Con Mẹ, Mẹ nói: "Phần Con, hỡi kho tàng chí ái của linh hồn Mẹ, Con hãy hôn Mẹ đi và đón nhận nụ hôn Mẹ đặt trên Con". Rồi Mẹ nâng niu vỗ về Con Mẹ hết sức yêu đương như Con Mẹ từng đợi chờ.

Mười ngàn thiên thần ngây ngất trước cảnh tượng đó, các Ngài mặc hình người phục xuống thờ lạy Đấng Sáng Tạo làm người của mình. Hơn nữa, tất cả các thiên thần cũng đều hiện diện lúc Chúa Ba Ngôi đặc biệt đến tham dự cuộc sinh hạ Đấng Cứu Chuộc; tất cả đều đồng thanh xướng lên ca ngợi Chúa bài tân ca này: "Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trờ cao thẳm, và hòa bình cho những người lòng ngay dưới đất".

Chính vào lúc đó, Mẹ Maria lên tiếng gọi Thánh Giuse; Ngài đang được xuất thần, được mặc khải cho biết những mầu nhiệm đang thể hiện. Ngài sử dụnh giác quan lại, và đối tượng đầu tiên Ngài nhìn thấy đó là Hài Nhi-Thiên Chúa đang nằm trên tay Mẹ Maria, áp mặt vào lòng Mẹ. Ngài hạ mình sâu thẳm thời lạy Chúa trên bàn thờ sống động là vòng tay đồng trinh của Mẹ. Ngài kính cẩn hôn chân Chúa với một nguồn vui tràn trề ngất ngây đến nỗi chết, nếu Chúa không thêm sức cho Ngài.

Sau việc tôn thờ đó, Mẹ Maria xin phép Con mình để ngồi xuống, vì cho tới bấy giờ Mẹ vẫn quì. Thánh Giuse mang khăn áo đến áo đến, Mẹ nhận lấy cuốn cho Hài Nhi-Thiên Chúa với một tâm hồn rộng mở, một niềm kính cẩn, một sự tế nhị không thể tả, rồi Mẹ đặt Chúa trong máng cỏ bằng đá mà Mẹ đã phủ lên một lớp rơm và cỏ khô. Trong lúc đó, theo lệnh Chúa, một con bò từ ngoài đồng chạy vào, hợp sức với con lừa nhỏ Mẹ đem theo, cả hai phục xuống trước Đấng Sáng Tạo chúng, thở hơi cho bớt lạnh. Ở đây đã thể hiện lời tiên tri Isaia: "Con bò con lừa nhận ra được chủ mình, còn Israel không nhận biết Ngài".

 

"Tại sao chúng ta lại nói là Mẹ Thiên Chúa mà không nói Mẹ của Đức Giêsu"

ĐTC Phanxicô - Giảng Lễ Mẹ Thiên Chúa Thứ Hai 1-1-2018

 

Một năm được mở màn nhân danh một Người Mẹ. Mẹ Thiên Chúa là danh hiệu quan trọng nhất của Đức Mẹ. Thế nhưng chúng ta có thể hỏi tại sao chúng ta lại nói là Mẹ Thiên Chúa mà không nói Mẹ của Đức Giêsu. Trong quá khứ, một số người chỉ muốn chấp nhận danh hiệu sau, thế nhưng Giáo Hội đã tuyên bố Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phải cảm tạ vì những chữ này chất chứa một sự thật cao cả về Thiên Chúa cũng như về chúng ta. Từ giây phút Chúa nhập thể nơi Đức Maria, và đối với tất cả mọi thời đại Người đã mặc lấy nhân tính của chúng ta. Không còn vị Thiên Chúa thiếu vắng con người nữa; xác thịt Đức Giêsu mặc lấy từ Mẹ của Người là của chúng ta, giờ đây cho đến vô cùng bất tận. Việc gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta về điều ấy: Thiên Chúa gần gũi với nhân loại, như một con trẻ gần với người mẹ cưu mang nó trong lòng.

Chữ mẹ (mater) liên hệ với chữ matter (chất thể). Nơi Mẹ của mình, Vị Thiên Chúa của trời cao, Vị Thiên Chúa vô cùng, đã biến mình thành nhỏ bé, Ngài đã hóa thành chất thể, chẳng những để ở với chúng ta mà còn nên như chúng ta nữa. Đó là một phép lạ, một sự mới mẻ trọng đại! Con người không còn lẻ loi một mình nữa; không còn mồ côi, mà vĩnh viễn là một người con. Một năm được mở màn với sự mới mẻ này. Và chúng ta tuyên xưng nó bằng lời: Mẹ Thiên Chúa! Niềm vui của chúng ta là ở chỗ chúng ta biết rằng tình trạng lẻ loi cô độc của chúng ta đã được chấm dứt. Thật là tuyêt vời khi biết rằng chúng ta là thành phần con cái yêu dấu, biết rằng vai trò làm con này của chúng ta không bao giờ bị lấy mất khỏi chúng ta. Đó là những gì phản ảnh bản thân chúng ta nơi Vị Thiên Chúa mỏng dòn và bé mọn ở trong đôi cánh tay của người mẹ, và nhận ra rằng nhân loại là những gì quí báu và linh thánh đối với Chúa. Bởi thế, phục vụ sự sống con người là phục vụ Thiên Chúa. Tất cả mọi sự sống, từ sự sống trong lòng mẹ cho đến sự sống của vị lão thành, của người khổ đau và của người yếu bệnh, và cho đến cả sự sống của kẻ gây rắc rối, thậm chí của kẻ gây rối loạn, cũng phải được đón nhận, yêu thương và giúp đỡ.

Giờ đây chúng ta hãy để Bài Phúc Âm hôm nay hướng dẫn. Chỉ có một điều duy nhất được nói về Người Mẹ của Thiên Chúa, đó là: "Maria đã lưu giữ tất cả những điều ấy mà suy niệm trong lòng mình" (Luca 2:19). Mẹ đã lưu giữ chúng. Mẹ chỉ lưu giữ thôi; Đức Maria không nói. Phúc Âm không tường trình một lời nào của Mẹ trong toàn bộ Giáng Sinh. Cả ở đây nữa, Người Mẹ là người ở với Con của mình: Giêsu là một "hài nhi", một con trẻ "không nói năng gì được". Lời của Thiên Chúa, Đấng "từ lâu trước đã nói bằng nhiều cách khác nhau" (Do Thái 1:1), giờ đây, vào lúc "thời gian viên trọn" (Galata 4:4) lại thinh lặng. Vị Thiên Chúa mà trước nhan Ngài tất cả đều lặng thinh đã biến mình thành môt con trẻ câm nín. Vẻ uy nghi của Ngài không thể diễn tả; mầu nhiệm của tình Ngài yêu thương được tỏ hiện một cách thấp hèn. Cảnh thinh lặng và thấp hèn này là ngôn từ của vai trò làm Chúa của Ngài. Mẹ của Ngài hợp cùng Con mình bằng việc lưu giữ những điều ấy trong thầm lặng.

Việc thinh lặng ấy nói cho chúng ta biết rằng nếu chúng ta muốn "giữ" mình thì chúng ta cần phải thinh lặng. Chúng ta cần lặng thinh khi chúng ta ngắm nhìn máng cỏ. Khi ngắm nhìn máng cỏ chúng ta nhận thức lại rằng chúng ta được yêu thương; chúng ta nếm hưởng được ý nghĩa thực sự của đời sống. Khi chúng ta thinh lặng ngắm nhìn là chúng ta để cho Chúa Giêsu nói với lòng của chúng ta. Cảnh thấp hèn của Người hạ bệ cái kiêu hãnh của chúng ta xuống; cảnh bần cùng của Người thách đố những cái trưng diện bề ngoài của chúng ta; tình yêu êm ái dịu dàng của Người tác động cõi lòng chai đá cứng cỏi của chúng ta. Việc giành ra giây phút thinh lặng mỗi ngày với Thiên Chúa là việc "gìn giữ" linh hồn của chúng ta; là việc "gìn giữ" tự do của chúng ta khỏi bị tác hại bởi tính cách tầm thường của hưởng thụ, khỏi cảnh ầm ĩ của những thứ buôn bán, khỏi luồng ngôn từ rỗng tuyếch cùng với những đợt sóng ào ạt truyện trò trống rỗng và la lối om sòm.

Phúc Âm tiếp tục nói rằng Mẹ Maria đã lưu giữ tất cả những điều này mà suy niệm trong lòng mình. Những điều này là những điều nào? Chúng là những niềm vui và nỗi buồn. Một đàng là việc hạ sinh của Chúa Giêsu, là tình yêu thương của Thánh Giuse, là việc viếng thăm của các mục đồng, là một đêm rạng ngời. Thế nhưng, đàng khác, là một tương lai bất định, là cảnh vô gia cư "vì không có nơi cho các vị trọ đêm" (Luca 2:7), là cảnh cô độc vì bị ruồng rẫy, là cảm giác không hài lòng khi phải hạ sinh Bé Giêsu trong một chuồng bò lừa.  Những niềm hy vọng cùng với những lo âu, ánh sáng và bóng tối: tất cả những điều này đều ở trong cõi lòng của Đức Maria. Mẹ đã làm gì? Mẹ đã ngẫm nghĩ về chúng, tức là Mẹ ở với chúng trong lòng Mẹ trước nhan Thiên Chúa. Mẹ không giữ gì lại; Mẹ không thu mình lại vì thương hại bản thân hay vì cảm thấy đắng cay. Trái lại, Mẹ đã dâng tất cả mọi sự lên Thiên Chúa. Đó là cách Mẹ "đã lưu giữ" những điều ấy. Chúng ta "lưu giữ" những điều chúng ta phó dâng chúng: không phải bằng việc để mình thành mồi cho nỗi sợ hãi, buồn phiền hay tin nhảm, không phải bằng việc đóng cửa lòng mình lại hay cố gắng quên đi, mà bằng việc biến tất cả mọi sự thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đấng lưu giữ chúng ta trong lòng của Ngài, để rồi đến ngự trong cuộc đời của chúng ta.

Đó là những bí mật của Mẹ Thiên Chúa: bằng việc thinh lặng trân quí tất cả mọi sự và dâng chúng cho Thiên Chúa. Điều này đã xẩy ra trong cõi lòng của Mẹ, như bài Phúc Âm kết thúc. Cõi lòng làm cho chúng ta nhìn vào cái cốt lõi của con người, vào những cảm tình của họ, và vào đời sống. Cả chúng ta nữa, là Kitô hữu trong cuộc hành trình của mình, ở vào lúc mở màn cho một năm, cũng cảm thấy cần phải khởi hành lại từ tâm điểm, bỏ lại những gánh nặng của quá khứ để bắt đầu lại từ những điều thật sự thiết yếu. Hôm nay, trước mắt chúng ta là cái khởi điểm: Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ Maria thực sự là những gì Thiên Chúa muốn nơi chúng ta, là những gì Thiên Chúa muốn nơi Giáo Hội, đó là trở thành một Người Mẹ dịu dàng và khiêm hạ, nghèo nàn về sản vật thể lý và phong phú về tình yêu thương, không vướng lây tội lỗi và hiệp nhất với Chúa Giêsu, lưu giữ Thiên Chúa trong lòng mình và tha nhân của chúng ta trong cuộc đời mình. Để bắt đầu lại, chúng ta hãy nhìn vào Người Mẹ của chúng ta. Trong trái tim của Mẹ đập nhịp tim của Giáo Hội. Ngày lễ hôm nay nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn tiến tới chúng ta cần quay trở lại, ở chỗ bắt đầu lại từ máng cỏ, từ Người Mẹ ẵm bế Thiên Chúa trong cánh tay của mình.

Việc tôn sùng Mẹ Maria không phải là một thứ tập tục thiêng liêng; nó là một đòi hỏi của đời sống Kitô giáo. Khi nhìn lên Người Mẹ này, chúng ta được kêu gọi hãy bỏ lại tất cả mọi thứ hành trang vô dụng và hãy tái nhận thức được những gì thực sự thiết yếu. Tặng ân Người Mẹ này, tặng ân hết mọi người mẹ và hết mọi người nữ, là tặng ân quí báu nhất đối với Giáo Hội, vì Giáo Hội cũng là mẹ và là nữ giới. Trong khi nam nhân thường trừu tượng, cứng mạnh và áp đặt ý nghĩ, thì một người nữ, một người mẹ, biết cách "lưu giữ", biết qui tụ các sự lại trong lòng mình, biết cống hiến sự sống. Nếu muốn cho đức tin của chúng ta không bị biến thành một ý nghĩ hay một thứ tín lý thuần túy, thì tất cả chúng ta cần tấm lòng của một người mẹ, một tấm lòng biết cách lưu giữ tình yêu êm ái dịu dàng của Thiên Chúa và cảm thấy nhịp đập của tất cả mọi người quanh chúng ta. Chớ gì người Mẹ này, con người tạo vật đẹp nhất của Thiên Chúa này, canh chừng và gìn giữ năm nay, và ban hòa bình của Con Mẹ cho lòng của chúng ta cũng như cho thế giới của chúng ta.

 

https://zenit.org/articles/pope-francis-year-opens-in-the-name-of-the-mother/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch