SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Đây là Vua Dân Do Thái"
Chúa Nhật Lễ Lá Năm C - Đầu Tuần Thương Khó
CHÚA NHẬT - RƯỚC LÁ TRƯỚC LỄ
Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương khó là ngày thứ 40 của Mùa Chay, kể
từ Thứ Tư Lễ Tro, nhưng vẫn chưa phải là thời điểm kết thúc Mùa Chay như
chúng ta thường nghĩ, mà là mới bắt đầu Tuần Thánh cũng là Tuần Thương Khó,
trong đó bao gồm cả Tam Nhật Thánh hay Tam Nhật Vượt Qua, Thứ Năm, Thứ Sáu
và Thứ Bảy Tuần Thánh, và Mùa Chay được kết thúc vào Lễ Vọng Phục Sinh đêm
Thứ Bảy Tuần Thánh này, như Giáo Hội ấn định, nơi chi tiết được vị linh mục
chủ sự nghi thức tuyên lại lời hứa rửa tội ngỏ cùng cộng đồng phụng vụ bấy
giờ cho thấy: “Hôm nay là hết thời gian thanh luyện của Mùa Chay”.
Chúa Nhật Lễ Lá mở màn cho Tuần Thương Khó này bao gồm 2 biến cố hoàn toàn
có tính cách khác nhau, đúng hơn hoàn toàn phản nghịch nhau: về chính bản
thân Chúa Kitô thì Người đã đạt đến tột cùng vinh quang nhưng đồng thời cũng
xuống tới tận cùng khổ nhục trước mặt trần gian, còn về phía chung dân chúng
và môn đệ của Người thì vui thật là vui nhưng đồng thời cũng buồn thật là
buồn, buồn đến hoảng sợ và hoảng loạn.
Trước hết, về khía cạnh vinh quang và vui mừng cho Chúa Nhật giao điểm
này, được Giáo Hội cử hành trước Thánh Lễ, ở ngoài nhà thờ, với nghi thức
làm phép lá và rước lá. Bài Phúc Âm cho nghi thức rước lá này, cả 3 chu kỳ
A-B-C, đều thật sự cho thấy Chúa Kitô đã đạt đến tột cùng vinh quang của
Người trước mặt trần gian khi Người tiến vào Thành Thánh Giêrusalem là
giáo đô của Do Thái giáo.
Bài Phúc Âm của chu kỳ Năm C được Thánh ký Luca thuật lại rằng: "Hai ông
dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc
đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất
cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà
rằng: 'Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang
trên các tầng trời'".
Qua bài Phúc Âm này, chúng ta chẳng những thấy được tất cả lòng trọng kính,
bái phục và tôn sùng của chung dân chúng cũng như môn đệ đoàn
của Người, qua các việc họ "trải
áo trên lối đi" và "hân
hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa", những
việc làm phải nói là chưa từng có cho bất cứ một ai (tiêu biểu và nổi
tiếng nhất như tổ phụ Abraham, cứu tinh Moisen, tiên tri Elia, thánh
vương Đavít, tiền hô Gioan v.v.) trong giòng lịch sử của dân Do Thái, mà còn
thấy được cả cái bóng đen chập chờn bắt đầu xuất hiện, một chi tiết chỉ được
một mình Thánh Luca thuật lại ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:
"Một vài
người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: 'Thưa Thầy, xin hãy mắng
các môn đệ Ngài đi'. Chúa Giêsu nói: 'Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm
thinh, thì những viên đá sẽ la lên'".
Hiện tượng
tương phản này cũng đã được Thánh ký Gioan ghi nhận như thế này: "Những kẻ ở với
Người chứng kiến thấy việc Người gọi Lazarô ra khỏi mồ và làm cho ông ấy
sống lại từ cõi chết. Dân chúng họ đi đón Người, bởi họ nghe biết Người đã
làm dấu lạ ấy. Những người biệt phái mới bảo nhau rằng: 'Các ông thấy không,
các ông chẳng đi đến đâu rồi đó! Kìa, cả thế gian đã chạy theo hắn ta mất
rồi!" (Gioan 12:17:19).
Trước thái
độ có vẻ ghen tương đầy thành kiến và ác cảm ấy của những người biệt phái,
Chúa Giêsu đã nhắc khéo họ rằng: "nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ
la lên". Nghĩa là Người muốn nhắn nhủ họ rằng chỉ có ai tin tưởng vào
Người mới có thể tỏ ra long trọng nghênh đón Người như thế mà thôi. Qua câu
này Người cũng muốn nhắc nhở họ lời Người đã cảnh báo họ về lòng tin của họ
trước kia, (trong bài Phúc Âm Thánh Gioan Thứ Ba Tuần V vừa rồi): "Tôi nói cho quí
vị biết quí vị sẽ chết trong tội lỗi của các vị; quí vị sẽ chết trong tội
lỗi của quí vị trừ phi quí vị tin vào Tôi" (Gioan 8:24).
Mà thật, đúng
như những gì Người đã cảnh báo. Chính vì họ không tin mà họ đã thực sự chết
trong tội lỗi của họ, khi họ càng trở nên mù quáng và điên cuồng lên án
Người, vào chính lúc Người tỏ mình ra cho họ biết như họ nhân danh Thiên
Chúa mà hỏi Người, và làm áp lực thẩm quyền đế quốc Roma để đóng đinh Người
cho bằng được, dù vị tổng trấn Philatô này thấy Người vô tội và tìm cách tha
Người. Chưa hết, trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người, các môn đệ thân tín
của Người cũng vì Người mà vấp phạm nữa. Không phải vì các vị không tin
Người mà chính vì các vị tin rằng "Thày là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu
16:16).
Thật vậy, chính
vì các vị tin rằng Vị Sư Phụ "đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) của các vị chính là "Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống" như thế mà
các vị, qua lời can gián tiêu biểu của tông đồ Phêrô (xem Mathêu 16:22-23),
đã cho thấy các vị không thể nào chấp nhận được sự kiện Đấng Thiên Sai Con
Thiên Chúa vô cùng thiện hảo và toàn năng bị khổ nạn và tử giá như là một
tên tử tội. Bởi thế, khi thấy Thày mình bị bắt và bị lên án tử các vị đã
thật sự không thể nào không bị chao đảo đức tin!
Bài Phúc Âm
trong Thánh Lễ hôm nay, dù theo chu kỳ A-B-C cũng đều thuật lại biến cố cứu
độ vô cùng quan trọng này, một biến cố theo thời điểm xẩy ra vào Thứ Sáu
trong tuần, nhưng lại là một biến cố cần phải long trọng cử hành vào Chúa
Nhật cho mọi người môn đệ của Người được tham dự vào mầu nhiệm này. Đó là lý
do Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó mở màn Tuần Thánh vậy.
CHÚA NHẬT - THƯƠNG KHÓ TRONG LỄ
Giáo Hội cử hành biến cố khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô trong Thánh Lễ Chúa
Nhật này với phần phụng vụ lời Chúa, trước hết về thái độ của Người (như
Tiên Tri Isaia cho biết trong Bài Đọc 1), sau nữa về thân phận của Người
(như Thánh Phaolô cảm nhận trong Bài Đọc 2), và sau hết về công cuộc cứu
chuộc của Người (như Thánh ký Luca trình thuật trong Bài Phúc Âm).
Trước hết về thái độ của Chúa Kitô, Người đã được Tiên Tri Isaia tiên báo hoàn toàn hiền lành như con chiên bị mang đi sát tế: "Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn". Tất cả đã được ứng nghiệm nơi Người như chúng ta sẽ thấy rõ hơn trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, để chứng tỏ Người thật sự đã Đấng Thiên Sai đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Cha là Đấng đã sai Người.
Thái độ hiền
lành như chiên bị mang đi sát tế của Chúa Kitô còn được Thánh Vịnh 21 diễn
tả trong Bài Đáp Ca hôm nay, nhất là 3 câu đầu, tất cả cũng đã ứng nghiệm
trong Bài Phúc Âm hôm nay:
1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy
Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương".
2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay
con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.
3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.
Sau nữa về thân phận của Người, Người đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị đã được mang lên tầng trời thứ ba để nghe thấy những lời khôn tả chưa từng nghe thấy ai nói (xem 2Corinto 12:2-4), và là vị chiêm ngưỡng thấy một "Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá".
Và chính vì thân phận vô cùng cao cả như Thiên Chúa và bằng Thiên Chúa của
mình như thế mà Người mới có tư cách và quyền năng cứu độ nhân loại, ở chỗ
tất cả những gì Người làm nhất là những gì Người chịu mới có một giá trị vô
cùng, chẳng những cứu được một thế giới nhân loại tội lỗi này mà còn cả ngàn
muôn ức triệu thế giới tội lỗi khác. Nếu để ý đến thân phận vô cùng cao cả
của Chúa Kitô là Thiên Chúa, chúng ta mới thông cảm được cái vấp phạm của
các tông đồ, mới thấy được Thiên Chúa toàn thiện toàn ái đã yêu thương con
người tạo vật vô cùng thấp hèn bất xứng của Ngài là chừng nào, và mới thấy
tội lỗi của nhân loại kinh hoàng khủng khiếp đến đâu!
Sau hết về công
cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, một công cuộc cứu chuộc lên đến tột đỉnh vào
Tam Nhật Thánh, một tam nhật, theo thứ tự, bao gồm các biến cố chính yếu sau
đây: 1- Chúa Giêsu ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly để thiết
lập Bí tích Thánh Thể (Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh); 2- Chúa Giêsu cầu
nguyện trong Vườn Cây Dầu (Đêm Thứ Năm Tuần Thánh); 3- Chúa Giêsu bị bắt
giải đến Hội Đồng Đầu Mục Do Thái (Rạng Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh); 4- Chúa
Giêsu được xét xử trước Tổng Trấn Philatô (Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh); 5- Chúa
Giêsu vác thập giá và bị đóng đanh vào thập giá (Trưa và Chiều Thứ Sáu Tuần
Thánh).
Ở đây, chỉ
trích lại những chi tiết đặc biệt và chuyên biệt được Thánh ký Luca đề cập
tới mà không có trong các Phúc Âm khác, nhất là trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm
bao gồm cả Thánh ký Mathêu và Thánh ký Marcô, những chi tiết chỉ có trong
cuốn Phúc Âm Thánh Luca là phúc âm được người môn đệ lương y của Thánh
Phaolô này viết cho Dân Ngoại, nhấn mạnh đến khía cạnh về nhân tính của Chúa
Kitô và về Lòng Thương Xót Chúa (LTXC), những yếu tố bất khả thiếu (nhân
tính) và then chốt (LTXC) trong và cho công cuộc cứu độ của Người.
1- Chúa Giêsu ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly thiết lập Thánh Thể (Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh):
Tuần Thánh không thể nào thiếu biến cố thiết lập Bí Tích Thánh Thể, vì Bí
Tích Thánh Thể được Chúa Giêsu thiết lập là để cho công cuộc cứu chuộc của
Người được Giáo Hội liên lỉ cử hành mà tưởng nhớ đến Người và hiện thực hóa
hy tế cứu độ vô giá của Người, nhờ đó ơn cứu chuộc vô cùng của Người được
tiếp tục thông ban trên thế gian cho tới khi Người lại đến trong vinh quang
để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Đó là lý do chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca mới có câu "các
con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày" sau
khi Người ban Mình Thánh của Người: "Này là Mình Ta hiến ban vì các con". Chi
tiết quan trọng này được bắt nguồn từ Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại,
như ngài đã tuyên bố trong Thư 1 Corinto đoạn 11:23-25, là chi tiết chính
ngài nhận được từ Chúa Kitô để truyền lại cho Giáo đoàn này nói chung, bao
gồm cả các môn đệ của ngài, trong đó có cả Thánh ký Luca. Trong Đoạn Thư ấy,
Thánh Phaolô đều bao gồm chi tiết "các con hãy làm việc này mà nhớ đến
Thày" cả sau khi ban Mình Thánh lẫn Máu Thánh của Người.
Chính nhờ có câu nói then chốt này của Chúa Giêsu: "các con hãy làm việc
này mà nhớ đến Thày", mới có Bí Tích Truyền Chức Thánh trong Giáo Hội,
mới có thành phần thừa tác viên thánh chức là các vị giám mục và linh mục để
ban phát mầu nhiệm thánh của Người và cho Người. Các vị là các mục tử thay
cho Chúa Kitô trong cộng đoàn dân Chúa được ủy thác cho các vị, để các vị
chăn dắt bằng sứ vụ tam diện của các vị là quản trị, giảng dạy và thánh hóa.
Các vị được đồng hóa với Chúa Kitô đến độ Chúa Kitô trở thành "Cái Tôi" của
các vị, nhất là trên bàn thờ khi các vị ở vào "Cái Tôi" Giêsu để truyền phép
bánh và rượu cho hình bánh và hình rượu này trở thành Mình Thánh và Máu
Thánh Người.
Ngoài ra, trong hai lời ban phát Mình Thánh và Máu Thánh của mình trong Bữa
Tiệc Ly để thiết lập Bí Tích Thánh Thể ấy, Chúa Giêsu không hề bảo các tông
đồ hãy nhận lấy mà ăn và hãy nhận lấy mà uống. Thánh ký Marco cũng thế. Chỉ
có Thánh ký Mathêu nhắc đến chi tiết "các
con hãy nhận lấy mà ăn"
(26:26) sau khi Người ban Mình Thánh của Người. Và chính lời truyền này đã
làm nên việc hiệp lễ của chung cộng đồng Dân Chúa khi cử hành vào Mầu Nhiệm
Thánh là Mầu Nhiệm Yêu Thương, Mầu Nhiệm Chúa Kitô ban mình cho Nhiệm Thể
Giáo Hội của Người, "cho
chiên được sự sống và là sự sống viên mãn"
(Gioan 10:10).
Chưa hết, trong hai lời ban mình và máu của Người cho các tông đồ, được
Thánh ký Luca thuật lại, đều trực tiếp liên hệ với các tông đồ bấy giờ và
Giáo Hội của Người trong tương lai mà thôi. Vì "Này
là Mình Ta hiến ban vì các con"
và "Máu Ta sẽ đổ ra vì các con", chứ không phải "cho nhiều người",
như Thánh ký Mathêu (26:28) hay Thánh ký Marco (14:24) đã ghi lại sau lời
ban Máu Thánh của Người.
Cả 2 chi tiết này: "vì các con" và "cho nhiều người", hoàn
toàn không phản nghịch nhau mà là bổ túc cho nhau. Nghĩa là Chúa Kitô "tự
hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19), để Giáo Hội nên
tinh tuyền thánh hảo xứng đáng với Người (xem Epheso 5:25-27), nhờ đó Giáo
Hội, qua thành phần thừa tác viên thánh chức, ban phát "cho nhiều người",
thành phần tin vào Người qua Bí Tích Thánh Tẩy để trở thành những cành nho
được cây nho hay thân nho là chính Chúa Kitô thông nhựa sống thần linh của
Người cho qua Bí Tích Thánh Thể của Người.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải là được thánh tẩy tái sinh là Kitô
hữu không bao giờ còn phạm tội nữa, các vị giám mục và linh mục của Giáo Hội
cũng thế, không phải được truyền chức thánh là tự nhiên các vị có thể sống
thánh hảo trọn lành như chính Chúa Kitô là Cái Tôi thừa tác của các vị trên
bàn thờ. Trái lại, các vị vẫn có thể sa ngã làm gương mù gương xấu cho chiên
của các vị, vẫn càng dễ trở thành phản kitô. Đó là lý do trong Bữa Tiệc Ly,
Chúa Giêsu đã cảnh báo cho chính vị lãnh đạo tông đồ đoàn là vị giáo hoàng
tiên khởi quản trị Giáo Hội của Người rằng:
"Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". Ở đây Chúa Giêsu không gọi tên Phêrô mà Người đã đổi cho ngài (xem Mathêu 16:18; Gioan 1:42) mà gọi tên tục của ngài, tên trần gian của ngài, một cái tên tự nhiên do cha mẹ đặt cho, ám chỉ con người phàm tục vốn yếu đuối của ngài, nhưng lại được chính Người cố ý tuyển chọn và sử dụng để có thể tỏ mình ra cho ngài cũng như qua ngài cho đàn chiên của ngài.
2- Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu (Đêm Thứ Năm Tuần Thánh);
Ở biến cố Vườn Cây Dầu, có một chi tiết chỉ duy Thánh ký Luca thuật lại,
ngoài các chi tiết khác giống như Phúc Âm Thánh Mathêu và Thánh Marco là
Người cầu nguyện theo ý Cha của Người và Người kêu gọi các tông đồ cùng
Người canh thức cầu nguyện bởi đã tới giờ của Người, một thời điểm mà Người
đã biết trước các tông đồ không thể nào không vì Người mà vấp phạm, nên cần
phải "cầu
nguyện để khỏi sa chước cám dỗ".
Có thể nói cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô được bắt đầu từ Vườn Cây Dầu
vào Tối Đêm Thứ Năm Tuần Thánh này. Bởi vì, ở đây, vào lúc ấy, Người đã bắt
đầu chịu đau buồn ngay trong tận thâm tâm của Người, đến độ, như Bài Phúc Âm
Thánh ký Luca hôm nay cho thấy: "Bấy
giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu
nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống
đất".
Không biết cái gì đã làm cho Chúa Giêsu, một vị Thiên Chúa nhập thể làm
người đã quá buồn khổ về tâm thần như thế, có thể nói đã lên tới cực độ như
vậy. Phải chăng là chính cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng kinh hoàng khủng
khiếp mà Người sắp phải trải qua?
Phải chăng là chén đắng Người cần phải uống bởi Người nghĩ đến chính công ơn
cứu chuộc vô giá của mình chẳng những không cứu được tất cả mọi người như
lòng Người mong ước và như dự án thần linh của Cha Người, mà còn nên chính
án phạt cho những linh hồn hư đi nữa?
Phải chăng Người bấy giờ cũng đã nghĩ đến và thương cho một trong 12 người môn đệ thân tín của Người được Người tuyển chọn để làm chứng nhân cho Người thì lại trở thành tay sai khốn nạn cho Satan, cho quyền lực sự dữ, người môn đệ sắp xuất hiện để làm hiệu bắt chính Thày của mình một cách phũ phàng và trắng trợn: "Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: 'Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?'"
Cái hôn của tông đồ Giuđa Íchca được người môn đệ bất hạnh gian ác lạc loài
này sử dụng để làm dấu phản nộp Vị Thày đáng kính đáng mến vô tội của mình
chẳng những cho thấy Chúa Giêsu đã thật sự hòa đồng với các môn đệ của Người
thế nào, đến độ người ngoài không thể nào nhận ra người là Thày của các vị,
nếu không được chính các vị điểm mặt, thậm chí chính các vị cũng không nhận
ra chân dung đích thực của Người, nên đã vì Người mà vấp phạm, như đã bí mật
phản nộp Người như người môn đệ này đã và đang làm lúc bấy giờ, mà còn cho
thấy con người ta dù có thể biến lành thành dữ, tức sử dụng cái hôn là cử
chỉ thân thiết nhất để phản nộp Người là hành động xấu xa nhất, Người vẫn có
thể biến sự dữ của chính họ gây ra thành sự lành cho chung loài người, bao
gồm cả đương sự phạm nhân, theo đúng dự án thần linh của Cha là Đấng đã sai
Người trong vai trò làm Đấng Thiên Sai Cứu Thế.
3- Chúa Giêsu bị bắt giải đến Hội Đồng Đầu Mục Do Thái (Rạng Sáng Thứ Sáu
Tuần Thánh)
Trong biến cố bị bắt giải đến Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, thẩm quyền lãnh đạo tối cao của Do Thái giáo bấy giờ, trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm đều bao gồm chi tiết quan trọng nhất nơi biến cố này đó là chi tiết về vị thượng tế Caipha nhân danh Thiên Chúa để hỏi một cách dứt khoát về thân phận đích thực của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, một nhân vật đã từng cho mình là có trước cả tổ phụ Abraham (trong Bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Cay) và là Con Thiên Chúa (trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay tuần trước), một chân lý cuối cùng đã được chính Người tái minh định trước toàn thể giáo quyền Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay: "'Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?' Người đáp: 'Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa'".
Chính vì họ, thành phần lãnh đạo Do Thái giáo bấy giờ không thể nào tin được
một nhân vật lịch sử như tên Giêsu ấy, một nhân vật tầm thường vô danh tiểu
tốt xuất thân từ Galilêa là nơi không có một vị tiên tri nào, và từ Nazarét
là một tỉnh lỵ hẻo lánh nghèo hèn chẳng có tiếng tăm gì, mà lại là có thể có
được một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa. Nên họ đã cho Người là lộng ngôn và
bị quỉ ám (trong Bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay), và thậm chí còn lấy
đá ném Người cùng tìm cách bắt Người (trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần V Mùa
Chay tuần trước), mà họ mới cần phải nhân danh Thiên Chúa để chất vấn Người,
hay đúng hơn truyền lệnh cho Người phải thú thật (tự thú sự thật về Người)
trước khi công khai chính thức đồng thanh kết án Người.
Riêng Phúc Âm theo Thánh ký Luca lại còn có một chi tiết đặc biệt khác hoàn toàn không có trong 2 Phúc Âm Thánh Mathêu và Thánh Marco, đó là chi tiết về tông đồ Phêrô được tác động ăn năn thống hối. Đúng thế, vị tông đồ lãnh đạo tông đồ đoàn này, cho dù đã được toàn bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm đều cho biết như nhau là đã chối Thày mình 3 lần đúng như Chúa Giêsu đã báo trước cho ngài, cho dù ngài cũng liều mình "đi theo xa xa" sau khi Chúa Giêsu bị bắt giải đi "tới nhà thầy thượng tế", nhưng chỉ riêng Phúc Âm Thánh ký Luca mới cho chi tiết đặc biệt này: "Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết".
Thật vậy, chính vị tông đồ lãnh đạo này đã được Người báo trước rằng: "Simon,
Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Thày đã cầu nguyện
để con khỏi mất đức tin", mà
lời Người hứa với ngài rằng "Thày
đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin"
đã được thực hiện tỏ tường, ở ngay nơi cử chỉ Người "quay
lại nhìn Phêrô" bấy
giờ, một cái nhìn nhắc nhở, một ánh mắt cảm thông, chất chứa và ẩn tàng cả
một tấm lòng bao dung tha thứ của Người, khiến vị tông đồ vấp phạm vì quá
nhiệt thành và hoàn toàn bởi lòng ngay này đã không thể nào không "khóc
lóc thảm thiết" về tội công khai trắng trợn chối bỏ chính Đấng ngài đã
từng mau mắn và chính xác tuyên xưng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống" (Mathêu 16:16).
Đến đây chúng ta mới thấy thật sự và hoàn toàn ứng nghiệm những gì Chúa Kitô
đã báo trước cho các vị tông đồ trong Bữa Tiệc Ly là các vị không thể nào
theo Người bấy giờ được, mà cần phải chờ cho tới sau khi Người đã đi dọn chỗ
cho các vị đã, bằng cuộc Vượt Qua của Người, để Người ở đâu các vị được ở đó
với Người, bằng cuộc tử đạo của từng vị với tư cách là thành phần chứng nhân
tiên khởi của Người, thì các vị mới có thể theo Người cho tới cùng, đi đến
bất cứ nơi nào Người tới (xem Gioan 13:33,14:2-3, 21:19; Khải Huyền 14:4).
Đó là lý do, vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô cho dù chưa dám theo sát Người,
mới chỉ "đi
theo xa xa"
mà đã vội vã chối bỏ Người khi bản thân ngài bị lật tẩy, nghĩa là ngài đã
lấy chính Thày mình ra để chống đỡ, để chịu đòn thay cho ngài, Đấng cũng đã
"tự
hiến để họ được thánh hóa trong chân lý"
(Gioan 17:19).
Với chính người môn đệ chủ chốt của tông đồ đoàn mà còn chối bỏ Người như
vậy thì về phần dân chúng nói chung và các vị lãnh đạo của họ nói riêng lại
càng xẩy ra đúng như lời Chúa Giêsu đã cảnh báo với dân Do Thái và về dân do
Thái bấy giờ, trong chính khi họ đi tìm Người thì họ vì Người mà vấp phạm
(xem Gioan 7:33-34, 8:21), ở chỗ trong chính lúc họ thật sự muốn biết Người
đúng là ai, từ đâu đến, thì họ lại bị chết đuối trong tội lỗi của họ, khi họ
tẩy chay Người, không thể nào chấp nhận được những gì Người đã công khai
tuyên xưng liên quan đến tất cả sự thật về Người trước mặt họ và theo lệnh
truyền của họ. Trái lại, như Thánh ký Luca cho biết: "Bấy
giờ họ nói: 'Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe
y nói'. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô".
4- Chúa Giêsu được xét xử trước Tổng Trấn Philatô (Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh)
Trong trình thuật về biến cố Chúa Giêsu được giải từ dinh Thượng tế Caipha đến dinh Tổng Trấn Philatô để thẩm quyền đế quốc Roma xét xử, bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm đều bao gồm: 1- việc đối đáp giữa quan Philatô với thành phần tố cáo Chúa Giêsu, 2- việc tổng trấn Philatô chất vấn Chúa Giêsu để xem Người có thực sự như bị đối phương tố cáo hay chăng, 3- việc vị tổng trấn tìm cách tha Chúa Giêsu bằng cách tha cho một tù phạm, 4- việc vị tổng trấn này bị áp lực của dân Do Thái đã nhượng bộ và chiều theo ý họ muốn đóng đanh Chúa Giêsu vô tội.
Tuy nhiên, ở trong Phúc Âm Thánh ký Luca còn hai chi tiết hoàn toàn không có
trong 2 Phúc Âm còn lại của bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm. Đó là chi tiết liên quan
đến quận vương Hêrôđê để tổng trấn Philato có thể căn cứ vào chứng từ của vị
quận vương Hêrôđê này mà tha cho Chúa Giêsu, nguyên văn như sau:
"Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là
người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan
liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày
ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy
Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài
phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết.
Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê
cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một
cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và
Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ
Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
'Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng
đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội
nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta
đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết
cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
Mục đích của việc thành phần lãnh đạo Do Thái giáo bấy giờ dẫn Chúa Giêsu
đến cho tổng trấn Philatô là vì muốn sử dụng bàn tay dân ngoại để giết
Người. Đó là lý do, trong nội bộ họ lên án tử cho Người vì họ cho rằng Người
lộng ngôn, ở chỗ chỉ là một con người thuần túy mà dám cho mình ngang hành
với Thiên Chúa vô cùng cao cả. Thế nhưng, với chính quyền đế quốc Rôma, họ
lại viện những lý khác liên quan đến luật pháp Roma để tố cáo Người, chẳng
hạn như: "xúi
giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô
Vua". Nhưng
cái tội họ tố cáo Người lại bị chính vị quan này phủ nhận ngay lập tức: "Ta
không thấy người này có tội gì",
nghĩa là Người "không
có (một) tội nào"
trong tất cả các tội được họ liêt kê và bị họ tố cáo với ông. Đã phóng lao
nên họ đành phải theo lao: "Người
này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa
đến đây".
May quá, đang muốn trốn lánh trách nhiệm ra tay sát hại một con người mà vị
quan tổng trấn này biết rõ là vô tội, nên "Philatô
vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ
Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai
giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy".
Tuy nhiên, ông vẫn không thể nào trốn chạy trách nhiệm. Bởi thế, diệu kế của
ông đã thất bại ngoài ý muốn. Ở chỗ: "Hêrôđê
thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã
nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà
vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các
thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính
thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng
trắng và gởi trả Người cho Philatô".
Tại sao Chúa Giêsu chỉ trả lời cho Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và cho Tổng Trấn
Philatô mà lại giữ im lặng trước quận vương Hêrôđê? Phải chăng vì Người biết
rằng vị quận vương này cũng chẳng có đủ thẩm quyền để giải phóng Người, để
tha cho Người, Đấng đã tự nộp mình và không muốn thoát thân?? Hay vì nhân
vật quận vương đã ra tay sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của người chỉ vì sợ
mất danh dự một cách đê hèn không đáng để Người đối đáp??? Hoặc vì Người
muốn chính dân ngoại, cùng với thẩm quyền Do Thái giáo, cũng cần phải góp
phần vào cuộc khổ nạn của Người, vì công cuộc cứu chuộc của Người bao gồm
toàn thể nhân loại, trong đó có cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, một dân ngoại
lại có thẩm quyền lên án tử cho Người với tư cách Người là "vua
dân Do Thái",
một danh hiệu vinh dự quận vương Hêrôđê không thể nào dám chuyển nhượng cho
Người!
Tuy không thành công, tổng trấn Philatô cũng sử dụng chính quận vương Hêrôđê
để chứng minh cho thành phần lãnh đạo Do Thái tố cáo Người rằng không phải
chỉ có một mình ông thấy nhân vật bị họ tố cáo là vô tội đáng tha bổng mà cả
quận vương Hêrôđê là thẩm quyền dân sự của dân Do Thái cũng thế:
"Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi
bảo họ: 'Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn,
nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm
tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy,
vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội
chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi'".
Tuy nhiên, bằng các chứng từ mạnh mẽ như thế, vị tổng trấn cả nể và nhút
nhát này, ở chỗ thấy được sự thật mà vẫn không được sự thật giải phóng cho,
trái lại, đã bị gian ác giam giữ như là một tên nô lệ, tác hành theo lệnh
truyền của nó, trước áp lực hầu như bất khả kháng của đám dân chúng hầu như
đang điên cuồng muốn nổi loạn bấy giờ:
"Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: 'Người này đã làm gì xấu? Ta không
thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha
đi'. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và
tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng
yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là
kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng".
5- Chúa Giêsu vác thập giá và bị đóng đanh vào thập giá (Trưa và Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh).
Trong biến cố
xẩy ra ở Sọ Trường Golgotha, một biến cố vô cùng quan trọng cho phần rỗi của
nhân loại, cả 4 Phúc Âm đều thuật lại, trong đó, bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm có
những chi tiết giống nhau, như: 1- Chúa Giêsu vác thập tự giá từ dinh
Philatô lên Đồi Canvê, 2- được một người vác đỡ thập giá với Người, 3- Người
bị đóng đanh vào thập giá, giữa 2 tên tử tội trộm cướp, 4- bị chung dân
chúng cùng thành phần lãnh đạo trong dân mỉa mai chế nhạo Người, 5- Người
thốt lên những lời sau cùng trên thập giá và chết trên thập giá, và 6- cuối
cùng được hạ xác xuống khỏi thập giá và chôn táng trong mồ.
Tuy nhiên,
trong 6 tiết mục của biến cố khổ nạn và tử giá được liệt kê trên đây, Thánh
ký Luca và Thánh ký Gioan có những chi tiết đặc biệt hoàn toàn không có
trong các Phúc Âm khác. Chẳng hạn chỉ có Thánh ký Gioan thuật lại sự kiện
Chúa Giêsu trăn trối Mẹ của Người cho tông đồ Gioan và tông đồ Gioan cho Mẹ,
và sự kiện máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm vào của Người
sau khi Người tắt thở. Thánh ký Luca cũng thế, cũng thuật lại một số sự kiện
hoàn toàn chuyên biệt, điển hình nhất là 4 sự kiện tiêu biểu sau đây:
1- "Mấy người phụ nữ khóc thương Người":
"Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người.
Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: 'Hỡi con gái Giêrusalem, đừng
khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì
này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: Phúc cho người son sẻ, phúc cho
những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con. Bấy giờ người ta sẽ lên
tiếng với núi non rằng: Hãy đổ xuống đè chúng tôi, và nói với các gò nổng
rằng: Hãy che lấp chúng tôi đi. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ
khô sẽ ra sao?'"
Trong chính lúc bản thân mình bị bỏ rơi bởi các môn đệ của Người, và trong
chính lúc thân xác đã bị tan thây nát thịt vì đòn vọt lại còn bị cây thập tự
giá nặng đè lên vai loạng choạng vác lên dốc từ trong thành Giêrusalem ra
ngoài thành này như thế, đáng lẽ Người phải cảm thấy an ủi và phấn khởi hơn
khi nghe thấy có những tiếng khóc thút thít hay vang lên quanh Người của
nhóm phụ nữ có cảm tình với Người giữa muôn vàn tiếng thét gào đầy hận thù
sắt máu, trái lại, Người còn cố gắng "ngoảnh
mặt lại bảo họ rằng: 'Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc
thương chính các ngươi và con cái các ngươi'".
Thật vậy, lời khuyên nhủ này của Người không phải chỉ cho riêng nhóm phụ nữ
chân yếu tay mềm chẳng làm được gì để cứu Người khỏi khổ hay để giảm bớt nỗi
khổ cho Người, ngoài hành động chân thành duy nhất có thể của họ đó là tỏ ra
thương cảm với Người, mà còn nhắm đến tất cả những ai cho mình là ngon lành,
như người phụ nữ Samaritanô được Người xin chị cho giãn khát (xem Gioan
4:9-10), tưởng rằng mình có phúc hơn Người, một nạn nhân trước mắt họ bấy
giờ vô cùng khốn nạn và bất hạnh của thời cuộc, của hận thù ghen ghét, của
quyền lực tôn giáo và chính trị trong thời điểm ấy, của quyền lực sự chết và
hỏa ngục, nhưng nạn nhân đáng thương này lại chính là một đại ân nhân của
họ, đã "tự
ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại"
(Gioan 10:17) cho phần rỗi đời đời của họ, nên họ mới là nạn nhân đáng
thương hơn là Người, cần đến ơn cứu độ của Người, cần đến chính những khổ
nạn Người đang chịu vì họ như họ bấy giờ đang chứng kiến thấy: "đừng
khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi'".
2- "Hai tên gian ác... hai tên trộm cướp":
"Cùng
với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi
là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp,
một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
'Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm'. Một trong
hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: 'Nếu ông là
Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa'. Ðối lại, tên kia mắng
nó rằng: 'Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng
ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã
làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?' Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
'Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi'. Chúa Giêsu đáp: 'Quả
thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta'".
Chúng ta không biết được người tử tội trộm cướp nào, người trộm bị đóng đinh
ở bên phải hay bên trái Chúa Kitô, đã thách đố Người hay đã bênh vực Người
trong đoạn Phúc Âm trên đây của riêng Thánh Luca. Tuy nhiên, ban đầu thì cả
hai đều có một tâm trạng như nhau, đều vào hùa với chung dân chúng và thành
phần lãnh đạo trong dân mỉa mai thách đố Người, như Thánh ký Mathêu (xem
27:14) và Thánh Marco (15:22) tiết
lộ cho biết, nhưng chỉ có Thánh Luca là cho biết một trong hai tên
trộm cướp tử tội này lên tiếng rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự
cứu ông và cứu chúng tôi nữa", còn tên kia nghe thấy thế liền nhắc nhở
đồng bạn tử tội của mình rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ
Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu
xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
Tại sao có sự thay đổi mau chóng nơi người tử tội trộm cướp mà chúng ta cho
là "người trộm lành" hay người trộm bị đóng đanh ở bên hữu của Người như
thế? Phải chăng ngay sau khi anh ta nghe thấy lời Chúa Giêsu vang lên rằng "Lạy
Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm", một
lời đã tỏ ra vô cùng từ bi nhân hậu đối với kẻ thù của mình, thực sự đã đánh
động anh ta và rất chí lý về chính bản thân của anh ta, mà cho đến giây phút
ấy, giây phút cuối cùng của đời người ngắn ngủi mau qua ấy, anh ta mới ý
thức được thì đã muộn...
Thế nhưng, vẫn còn may, vẫn còn kịp, để anh ta bày tỏ lòng ăn năn thống hối của anh ta với chính Đấng cứu chuộc của anh ta, Đấng mà anh ta khi còn đang hành nghề trộm cướp gian dối hại người chẳng bao giờ ngờ được rằng chính vào giây phút cuối cùng của đời mình, anh ta lại gặp chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, và lại là tên đệ nhất ma đầu đã tài tình ngoạn mục trộm cướp được cả Nước Trời trong khoảnh khắc: "Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi'. Chúa Giêsu đáp: 'Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta'".
3- "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha":
Trong những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập tự giá, được ghi lại bởi
các thánh ký, Thánh Mathêu (27:46) và Thánh Marco (15:34) chỉ có 1 lời duy
nhất là "Chúa
Trời của Tôi ơi, Chúa Trời của Tôi ơi, nhân sao Ngài lại bỏ rơi Tôi",
và Thánh ký Gioan có 4 lời: "Này
là con bà"
(Gioan 19:26), "Này
là Mẹ của con"
(Gioan 19:27), "Tôi
khát"
(Gioan 19:28) và "Đã
hoàn tất"
(Gioan 19:30), thì Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm Năm C hôm nay có 3 lời: ""Lạy
Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm", "Quả thật, Ta
bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta", và "Lạy
Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
Có thể nói trong 8 lời (hơn là 7 lời như vẫn nói) cuối cùng của Chúa Giêsu
được cả 4 vị Thánh ký ghi nhận, 3 lời trong Phúc Âm của Thánh ký Luca là
những lời đầu tiên (1 và 2) và cuối cùng (8), nhưng cả 3 đều liên quan trực
tiếp đến Lòng Thương Xót Chúa là đặc điểm chuyên biệt của Phúc Âm Thánh
Luca.
Trong ba lời được Thánh ký Luca ghi lại này thì lời đầu tiên và lời cuối
cùng Chúa Kitô dâng lên chính Cha của Người: Lời đầu tiên Người xin Cha
Người tha tội cho chung nhân loại, từ hai nguyên tổ cho tới con người cuối
cùng sinh vào trần gian này, và cho riêng những ai đã trực tiếp nhúng tay
vào cái chết của Người, cả giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma bấy giờ,
cả thành phần dân chúng bị xui bậy lẫn các vị tông đồ, tất cả đều lầm lạc
nơi việc họ làm, cho dù họ có cố tình đến đâu chăng nữa, như một hội đồng
lãnh đạo Do Thái cố tình vu khống cho Người và sẵn sàng chấp nhận một hoàng
đế Rôma Cesar thù địch và một tên trộm Baraba tội lỗi hơn là Người, hay như
một Philatô hoàn toàn chối bỏ sự thật. Bởi vì, "nơi
Tôi đi các người không thể nào tới được"
như Người đã khẳng định với cả dân do Thái lẫn các môn đệ của Người (xem
Gioan 13:33, 7:33, 8:21).
Lời cuối cùng Chúa Kitô cũng dâng lên Cha của Người, nhưng không có vẻ ai
oán trách móc như lời được Thánh Ký Mathêu và Marco thuật lại có vẻ lạnh
lùng xa cách như chẳng có chút tình nghĩa cha con nào hết: "Chúa
Trời của Tôi ơi, Chúa Trời của Tôi ơi, nhân sao Ngài lại bỏ rơi Tôi".
Lời cuối cùng của Người "Lạy
Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha" chứng
thực Người quả là "Con
Cha yêu dấu, đẹp lòng Cha mọi đàng"
(Luca 3:22), một Người Con đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người cho
đến cùng, cho dù có phải uống chén Cha trao tới giọt đắng sau hết, giọt đắng
được tiêu biểu nơi dấm chua Người nếm khi đám lính Roma đưa lên cho Người để
đáp lại cơn khát núi sọ của Người (xem Gioan 19:28-30), một nỗi khát vọng
duy nhất và trên hết là hoàn thành ý Cha của Người, bằng cách "dù
là Con Người cũng đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu để khi hoàn
thành, Người đã trở nên căn nguyên cứu độ cho những ai tín phục Người"
(Do Thái 5:8-9).
4- "Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự
việc xảy ra, liền đấm ngực trở về":
Đúng thế, chính khi Chúa Kitô làm theo ý Cha của Người, Đấng "muốn
tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý"
(1Timotheu 2:4), mà chân lý đây được sáng tỏ nơi việc Người hoàn toàn và
tuyệt đối tuân phục Cha của Người, nhất định cho dù có thể nhưng vẫn cương
quyết không xuống khỏi thập tự giá như thách thức đầy cám dỗ của thành phần
dân chúng và lãnh đạo dân Do Thái.
Nhờ đó, ngay sau cái chết vô cùng đau thương và nhục nhã của Người, một nhân vật lịch sử Nazarét đã từng bịt miệng thành phần luật sĩ và biệt phái sư phụ trong dân, đã từng chữa lành đủ mọi thứ bệnh tật của dân chúng, đã từng trừ quỉ, đã làm cho một tử thi chết 4 ngày hồi sinh bước ra khỏi mồ, và nhất là mới vinh quang tiến vào giáo đô Giêrusalem, nhưng đã trở nên hoàn toàn bất lực mà vẫn vô cùng từ bi nhân ái đối với những kẻ sát hại Người, một thái độ không một ai thuần nhân trên đời này có thể làm được, mà cả thành phần dân ngoại, tiêu biểu nơi viên đại đội trưởng Roma, nhận biết Người: "Ông này quả thật là người công chính", lẫn dân Do Thái bấy giờ "chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về".
Thế là ứng nghiệm lời tiên báo của vị lão thành tư tế Simêon khi ông ẵm Con
Trẻ Giêsu trên tay lúc Người được cha mẹ dâng vào Đền Thờ Giêrusalem vào
thời điểm 40 ngày được hạ sinh: "Này
đây Con Trẻ này sẽ trở thành cớ cho nhiều người trong dân Israel được chỗi
dậy hay vấp phạm, như một dấu tương phản, và phần bà sẽ có một lưỡi gươm đâm
vào lòng, để ý nghĩ của nhiều người được lộ ra"
(Luca 2:34-35).
Quả thật, Bài Phúc Âm Thương Khó của Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, cho dù chu kỳ
phụng niên năm nào chăng nữa, A-B-C, cũng đều cho thấy ứng nghiệm hoàn toàn
lời tiên báo của vị tư tế lão thành Simeon này nơi Chúa Kitô, Đấng đã được
ông tràn đầy Thánh Thần nhận biết và công khai tuyên xưng hết sức chính xác
là "Ánh
sáng chiếu soi Dân Ngoại và là vinh quang của dân Israel"
(Luca 2:32).
Giờ đây chúng ta hãy cùng với Giáo Hội dâng lên Chúa Giêsu lời cầu và Thiên Chúa lời nguyện trong giờ Kinh Sáng Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay (theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh):
Lời
cầu
Chúa Giêsu khi vào thành Giêrusalem đã được dân chúng tung hô là Vua và là Ðấng Thiên Sai. Vậy chúng ta hãy thờ lạy Người và hoan hỷ tung hô:
Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa đến cùng chúng con.
Hoan hô Chúa là Con vua Ðavít, là vua đến muôn đời, - hoan hô Chúa, Ðấng chiến thắng tử thần và âm phủ.
Chúa đã lên Giêrusalem chịu khổ hình để bước vào vinh quang, - xin giúp cho Hội Thánh Chúa, sau khi vượt qua cõi đời này, được đạt tới vinh quang bất diệt.
Chúa đã làm cho cây thập giá trở thành cây đem lại phúc trường sinh, - xin ban sự sống đời đời cho những ai sắp được tái sinh nhờ bí tích thánh tẩy.
Chúa đã đến cứu độ chúng con là những kẻ tội lỗi, - xin đưa vào Nước Chúa tất cả những ai suốt đời đã cố gắng sống niềm tin cậy mến.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Kiệu Lá:
Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40
"Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi rằng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên".
Ðó là lời Chúa.
Thánh Lễ:
Bài Ðọc I: Is 50, 4-7
"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.
2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.
3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.
4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" - Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài) Hoặc đọc bài vắn này: Lc 23, 1-49
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.
Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông:
J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa".
C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:
J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!"
C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta".
C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán:
J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!"
C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:
J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!"
C. Rồi Chúa nói:
J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin".
C. Ông thưa Người:
S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết".
C. Nhưng Người đáp:
J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy".
C. Và Người bảo các ông:
J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?"
C. Các ông thưa:
S. "Không thiếu gì cả".
C. Vậy Người nói:
J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất".
C. Các ông thưa Người:
S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây".
C. Và Người bảo:
J. "Ðủ rồi".
C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông:
J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ".
C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng:
J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:
J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn:
J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?"
C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:
S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?"
C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo:
J. "Thôi, đủ rồi".
C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm".
C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.
Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:
S. "Cả ông này cũng theo hắn".
C. Nhưng ông chối và nói:
S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy".
C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:
S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó".
C. Nhưng Phêrô đáp:
S. "Này anh, đâu có phải tôi".
C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:
S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa".
C. Phêrô đáp:
S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?"
C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng:
S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó".
C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay".
C. Người trả lời:
J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng".
C. Mọi người đều hỏi lại:
S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?"
C. Người đáp:
J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa".
C. Bấy giờ họ nói:
S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói".
C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.
Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:
S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".
C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
S. "Ta không thấy người này có tội gì".
C. Nhưng họ cố nài rằng:
S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây".
C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:
S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".
C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:
S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"
C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".
C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu.
Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"
C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn".
C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:
S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
S. "Ông này quả thật là người công chính".
C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.