Đức TGM Ngô Quang Kiệt
MÙA VỌNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gr 33,14-16
- 1Tx 3,12 – 4,2
- Lc 21, 25-28.34-36
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài Sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài Sách Thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hằng năm vào mùa Vọng, Giáo hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn 2.000 năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại này sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận, Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hi vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.
Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?
2. Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?
3. Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?
4. Tỉnh thức nghĩa là gì?
5. Tại sao phải cầu nguyện?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Br 5,1-9
- Pl 1,4-6.8-11
- Lc 3, 1- 6
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em của ông cai trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân người. Chúa đã đến, không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, đường nội tâm có những đặc điểm sau:
Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ với các vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với thánh Gioan Tẩy Giả. Một chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ đô đất nước nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan TẩyGiả nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ào thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.
Đường nội tâm đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần là áo lụa sang trọng. Tự mãn vì yến tiệc linh đình. Thánh Gioan TẩyGiả thật khiêm nhường. Khiêm nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu được thánh Gioan Tẩy giả dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bạt núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co. Để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm hồn còn lồi lõm quanh co. Khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh Gioan Tẩy Giả có sống những lời Ngài rao giảng không?
3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào? Có dễ không? Tại sao
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xp 3,14-18a
- Pl 4,4-7
- Lc 3, 10 – 18
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì”? Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là
Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình và bác ái. Thái độ phải được thể hiện trong những việc cụ thể. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mặc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.
Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.
Những người Do Thái thời thánh Gioan Tẩy Giả thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã được gặp Chúa. Hôm nay ta cũng đang chờ mong Chúa đến. Hãy noi gương những người Do Thái tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêxa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.
Ta luôn bất bình với thế giới quanh ta. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẻ hay bố thí?
2. Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì?
3. Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Mk 5,1-4a
- Dt 10,5-10
- Lc 1, 39-45
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlizabéth vui mừng vì được mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Mẹ vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Tẩy Giả vui mừng vì được tha mọi tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Êlizabéth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Mẹ đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy. Ngài đã rợp bóng trên Đức Mẹ và lập tức Đức Mẹ được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Mẹ không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Mẹ vội vã lên đương ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra tới cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Mẹ đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Mẹ còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yêu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Chúa Giêsu và can đảm đứng dứới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Mẹ không quản thân phận làm Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Êlizabéth. Đức Mẹ cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên chúa, Đức Mẹ đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và bà Êlizabéth, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy giả còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo Giáo hội và Nước Thiên chúa sắp đến.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng sinh, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Mẹ dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và bà Elizabéth tràn đầy niềm vui?
3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
MÙA GIÁNG SINH
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 9,1-6
- Tt 2,11-14
- Lc 2, 1-14
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mỗi khi gió mùa đông bắc thổi, tôi cảm thấy năm tháng qua nhanh. Năm cũ trôi qua, năm mới sắp tới. Trong niềm háo hức đón chào năm mới tôi thường băn khoăn tự hỏi: tôi phải làm gì để năm mới này trở thành những ngày tháng tươi vui? Làm sao để năm mới này là thời gian của hạnh phúc? Làm sao để năm mới này chan chứa hồng ân của Thiên Chúa?
Trong niềm băn khoăn thao thức, tôi đến trước hang đá Bêlem để tìm câu trả lời. Việc Chúa Giêsu giáng trần đã mở ra một kỷ nguyên mới. Để bắt đầu một thời gian mới, không gì bằng đến học theo gương Người, nghe những lời giáo huấn của Người.
Chúa Giêsu bé thơ lặng im không nói, nhưng thái độ của Người trao gửi chúng ta biết bao sứ điệp, giúp định hướng cho những ngày tháng sắp tới.
Sinh ra trong cảnh nghèo hèn, Người muốn gửi đến cho ta sứ điệp tình yêu. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã tự nguyện sinh xuống thế làm người. Người đã đồng hành với con người, chia sẻ mọi nỗi vui, nỗi buồn của kiếp người. Tình yêu của Người đặc biệt hướng về những người bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi. Những người đầu tiên được mời gọi đến hang đá Bêlem là những mục đồng nghèo nàn, đơn sơ, chất phác. Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, hố ngăn cách giàu – nghèo ngày càng lớn. Trong cuộc chạy đua kinh tế hiện nay, người nghèo ngày càng bị thua thiệt. Vì thế, sứ điệp tình yêu của Chúa Giêsu vẫn là một tín hiệu khẩn cấp cho nhân loại.
Hóa thân làm một trẻ sơ sinh yếu đuối trần trụi, Người mong gửi đến ta sứ điệp hoà bình. Là Thiên Chúa, Người mang thân phận con người để nối kết đất với trời, để con người được làm hoà với Thiên Chúa. Trở thành anh em của mọi người, Người kêu gọi con người hãy thương yêu nhau vì mọi người là anh em với nhau. Người không mang theo vũ khí, không mang theo quyền lực. Vũ khí của Người là đôi mắt thơ ngây. Quyền lực của Người là tấm thân trẻ thơ non nớt. Hai ngàn năm qua rồi, nhưng sứ điệp ấy vẫn còn mang tính thời sự, vì chiến tranh chưa một ngày vắng bóng trên hành tinh. Ngay tại Bêlem, nơi Chúa sinh ra, năm nay không có thánh lễ, vì cuộc chiến giữa Israel và Palestines vẫn còn tiếp diễn.
Nằm trong tấm vải thô đặt trên máng bò lừa, Người muốn gửi đến ta sứ điệp tự do. Là Thiên Chúa, Người không muốn sinh ra trong gia đình vua chúa giàu sang. Nhưng chọn sinh ra trong gia đình dân dã nghèo hèn. Người không chọn sinh ra tại một nơi đầy đủ tiện nghi. Nhưng chọn sinh ra trong chuồng bò lừa. Tâm hồn Người hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ nhu cầu vật chất nào. Ngày nay chế độ nô lệ đã bị xóa sổ trên toàn thế giới. Nhưng con người đang vướng vào những vòng vây nô lệ mới. Có thứ nô lệ dục vọng. Có thứ nô lệ đam mê. Có thứ nô lệ chức quyền. Có thứ nô lệ danh vọng. Có thứ nô lệ vật chất tiền tài. Có thứ nô lệ sì ke ma tuý. Tất cả những thứ nô lệ mới trói buộc tâm hồn khiến con người mất hết tự do, nhân phẩm. Nhìn vào hang đá Bêlem, sứ điệp tự do của Chúa Giêsu như một lời nhắn nhủ ân cần, như một lời mời gọi tha thiết, như một ánh sáng soi đường cho ta bước vào vùng trời tự do của tâm hồn, của nhân phẩm, của con người, của con cái Thiên Chúa.
Năm mới đang mở ra một viễn tượng đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy đe doạ. Cơn lốc kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ cuốn đi nhiều giá trị đạo đức, sẽ nhận chìm nhiều kiếp người lầm than. Cơn cám dỗ vật chất sẽ khiến nhiều tâm hồn mất phẩm chất, nhiều con người sẽ đánh mất chính mình. Những xung đột sẽ xô đẩy thế giới vào những cuộc chiến tàn sát.
Hãy đến với Hài nhi Giêsu nằm trên máng cỏ trong hang đá Bêlem. Người là hiện thân của tình yêu, của hòa bình, của tự do. Nhìn ngắm Người, ta sẽ học được những bài học giải đáp cho những vấn đề của thế giới, của con người, và nhất là của chính bản thân ta. Sống theo gương Người, ta sẽ góp phần xây dựng một thế giới tươi đẹp, không chỉ ấm áp tình người mà còn cao đẹp với những giá trị tinh thần, những phẩm chất đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin thương xót chúng con.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Trong những sứ điệp của Chúa Giêsu bé thơ, sứ điệp nào được nhắn riêng cho bạn?
2. Bạn có tự do thật không? Hay là có thứ nô lệ nào đang trói buộc bạn?
3. Tình yêu, tự do, hòa bình. Thế giới hiện nay cần gì nhất? Bạn sẽ làm gì để đóng góp vào hạnh phúc của thế giới?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 1,20-22.24-28
- 1Ga 3,1-2.21-24
- Lc 2, 41-52
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Chúa Giêsu phụ giúp thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại, Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hòa. ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu thánh Giuse đã bị dày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại đền thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quí đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vần giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong các giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm mẹ Đấng Cứu thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên chúa. Còn Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
III. TẤM BÁNH CHIA SẺ
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc âm, hay là đi xem bói?
2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3. Qua tấm gương của Thánh gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựngh hạnh phúc gia đình trong năm mới?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 60,1-6
- Ep 3,2-3a.5-6
- Mt 2, 1-12
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế giáng sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Chúa Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận từ nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hi vọng. Niềm hi vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vững bước trên đường lý tưởng. Niềm hi vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hi vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh giá đúng mức của cải vật chất đời này. Hi vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu để tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hi vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
MÙA THƯỜNG NIÊN SAU MÙA GIÁNG SINH NĂM C
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 40,1-5.9-11
- Tt 2,11-14 ; 3,4-7
- Lc 3, 15-16.21-22
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Sông
Giođăng, tiếng Do thái là "Yarad"
có nghĩa là đi xuống. Sông Giođăng phát nguồn từ ngọn núi Hécmon ở
độ cao 520 m. Suốt 220 km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống.
Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hulê chỉ còn 68 m trên mực nước biển. Kế
đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các
tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212 m dưới mực nước biển.
Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây là độ sâu
394m dưới mực nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa
cầu.
Khi Chúa
Giêsu bước xuống sông Giođăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ
thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về
chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Tẩy giả làm
phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi,
cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa
Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình
xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ.
Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong
những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng sinh, ta được chứng kiến một Thiên
Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn hình
như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay
người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân
loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai
của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước
khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng
sông Giođăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần
phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần
với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội
lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Giođăng, dường như muốn mượn làn
nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn
vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những
gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi
người.
Dòng nước sông Giođăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên
Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường
thẳm sâu. Khiêm nhường là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên
mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau
khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói
với các môn đệ: "Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những
bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất" (Lc 12, 50). Người còn hỏi hai ông
Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong
nước người: "Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy
thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?" (Mc 10, 38). Khi nói thế Chúa
Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói: Không ai thấy
được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu.
Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm
một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào
đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Giođăng. Tình yêu
đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước
sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm
thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy.
Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận
phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa
thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn
có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong
dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua
Đavít nói: "Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát
giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê" (TV 50).
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm.
Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của
người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha
nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về CHÚA GIÊSU: "Đây
là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con".
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến
với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
2- Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
3- Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Is 62,1-5
- 1Cr
12,4-11
-
Ga 2, 1-12
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ
lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường
cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui
kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự
đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời
không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được
hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại
càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa
chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia
đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới
bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc
Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên
chúa đối với con người. Thiên chúa yêu thương con người nên đã đến ở
giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người, Thiên chúa còn
trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con
người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một
Thiên chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình thân, Thiên
chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỉ. Và việc Thiên
chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày
đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện
của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia
đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia
đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, thiếu tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật.
Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau,
thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử,
thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu
thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt
sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức
tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn
giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai
dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì
những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng
giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia
đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long
trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm
bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc
đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia
nhân: “Người bảo gì thì phải làm
theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu
hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy
làm theo Lời Chúa. Đọc
Phúc
Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn
tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình.
Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta
rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống
gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những
thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi
mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình
sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể
đích thật là Chúa Kitô sẽ cho ta nếm thứ rượu tuyệt ngon trên thiên
đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con.
Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
2- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình
chưa?
4- Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi
hiểm nguy, thử thách, thất bại?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Nk 8,2-4a.6.8-10
- 1Cr 12.12-30
-
Lc 1, 1-4 ; 4,
14-21
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin mừng
nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần
thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay, được Chúa
Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilêa. Trở về
Nazareth, Người đọc Sách Thánh trong Hội đường đúng đọan nói về Ơn
Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn
đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần
nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu
thường xuyên đọc Sách Thánh. Tin Mừng hôm nay diễn tả: “Rồi
Chúa Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường
như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”.
Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh
họat với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách
Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau
khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh họat
bình thường của Người. Nếp sinh họat này đã thành thói quen từ khi
Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối
đáp với các bậc tiến sĩ trong đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu
kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách
Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy
chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ
trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc... Người
cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai
nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với
họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng
đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người đều chăm chú nhìn
Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao
thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn
cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha.
Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố
đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu
nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi
người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm
lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói hai điều.
Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đọan Sách Thánh.
Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa
Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết
lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai:
Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành.
Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng
dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết
hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế
đọan sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của
Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy
thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa.
Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được
ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành
Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần. Thật
vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh
Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn
Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu
không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một tác động hai chiều.
Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh
Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời
sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý
định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời
đạt được mục đích cao quí nhất.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý
Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết
tâm thực hiện không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Gr
1,4-5.17-19
- 1Cr 12,31
– 13,13
-
Lc 4, 21-30
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thọat nghe
Chúa giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và
muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết:
“Người đã đến nhà nhưng người nhà
không nhận biết Người”. Tại
sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên
Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc.
Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem đến cho ta niềm tin. Niềm tin đã là
khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có
niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm
phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không
nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng
của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ
chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất:
được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước
của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng.
Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm
phép lạ để giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ
khi ma quỉ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá
khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không
làm phép lạ để thỏa mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng
Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người
đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng
được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy
nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi.
Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho
dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải
bắt đầu và chỉ bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn
chuyện tiên tri Elia ở nhà bà góa Sarepta trong thời hạn hán, làm cho
bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên
tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy
Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng
phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo
Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn
nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng
biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng
Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa
chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xinh
Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề
ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để
tôi trở nên tông đồ của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Ban khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có
đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được
điều gì? Để được may mắn, khỏi tai họa, hay để được hiểu biết, yêu
mến Chúa?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 6,1-2a.3-8
- 1Cr 15,1-11
-
Lc 5, 1-11
II.TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các
bạn được chứng kiến. Đây không phải chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn
lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên chúa. Nhưng qua dấu lạ này,
Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình
của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn
đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.
Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất:
cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các
bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn
với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não
nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ
nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô đã gặp
thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ
sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những
thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên
Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai:
cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên chúa. Người tông đồ
phải làm chứng về Thiên chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai
chưa từng gặp được Thiên chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không
thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên chúa
thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình ra cho Môsê trong bụi gai
cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi
trên đường đi Đamát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ
lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa.
Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quì xuống xin Chúa rời xa.
Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã
cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao
giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là
sự
vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu
bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên
sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người
miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa
Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới
bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối.
Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành
công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ
trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là
sẵn sàng ra đi. Ra đi
là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý
cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng
không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp
bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo
là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề
nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ
lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm
nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi
điểm. Muốn lên đường người môn
đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm
xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích
kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn.
Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta.
Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người đang được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được
sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả
cũng như tình yêu của Thiên chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối,
chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn
đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần
thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2- Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3- Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4- Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
-Gr 17,5-8
-1Cr 15,12.16-20
-
Lc 6,17.20-26
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất
là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời
chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên
thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn
dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì
Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến
bộ, muốn nhân loại tụt hậu?
Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:
Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh
phúc. Vật chất có thể góp phần vào hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó
chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ
rõ nét.
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana.
Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử
Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh
vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế
giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú
quí như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng
như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương
chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau
khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ gìn uy
tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm
vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị
thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính
hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương
có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử
dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa
dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai
chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người
ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ
đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó
là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất
thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích
những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích
những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người
hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là
phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không
nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích
cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt
hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không
chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình
thương.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con
người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hi vọng cho những
người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài
lề xã hội.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người
lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ
của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm
hồn mình và nâng cả thế giới lên.
Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân
loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như
thế.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về
một đám tang khác: đám tang của mẹ Terexa Cancutta. Khác hẳn với công
nương Diana, mẹ Terexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo.
Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước.
Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết
tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi
Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng
mẹ một xe ô-tô sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe
lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám
tang của mẹ. Và Ấn độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử
hành quốc táng cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh
hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu
kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành
Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người
nghèo khó, vì nước Trời thuộc về anh em”.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền
bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm
bạn hữu?
2- Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào?
Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
3- So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Terẽa,
bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
4- Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 26,2.7-9.12-13.22-23
- 1Cr 15,45-49
-
Lc 6, 27-38
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức
độ khác nhau.
Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của David. David làm ơn mà mắc oán.
Sau khi chiến thắng Goliath, giải phóng dân Do thái khỏi tay người
Philistin, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối
với David khiến vua Saul ghen tỵ. Saul tìm bắt David để giết đi. Hôm nay,
sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Saul ngủ thiếp đi trong hang đá. David
đến mà không ai hay biết. Có thể giết Saul, nhưng David đã không làm.
Trong David có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy
nhiên sự tha thứ của David vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám
giết Saul một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức
dầu”.
Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là
độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được
lợi còn người kia bị thiệt.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu
đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn
đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng
phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt
áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì
hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.
Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải
thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu
về người khác: “Anh em đừng xét
đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ
khỏi bị Thiên chúa lên án”.
Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha
thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã
chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu
dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương
xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh
em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc
lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha
thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người
nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người
muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch
mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ
trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng
lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người
khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân
ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương,
chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên
rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan
tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là
sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng
bền vững nhất.
Chúa Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều
Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên
hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ
đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm
điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn
cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu
nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu
mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.
Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun
tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã
thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn
lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay
tìm cách tha thứ?
2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh
thản hay bứt rứt?
3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã
tha thứ?
4- Sự tha thứ hoàn hảo mà Chúa dạy ta là gì?
5- Chúa Giêsu đã thực hành sự tha thứ như thế nào?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Hc 27,4-7
- 1Cr 15,54-58
-
Lc 6, 39-45
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Tục ngữ nói: Đôi mắt là cửa sổ linh hồn. Là cửa sổ cho ta nhìn ra
thế giới bên ngoài. Nhìn ra để hiểu biết thế giới. Nhìn ra để đón
nhận thông tin. Nhưng khổ một nỗi, thông tin lọc qua ánh mắt nhiều khi
sai lạc. Có nhiều lý do.
Có ánh mắt sai lạc vì bị bệnh. Mắt bị bệnh sẽ nhìn không chính
xác. Nhìn không chính xác sẽ cho thông tin sai. Thông tin sai sẽ dẫn đến
phán đoán sai. Phán đoán sai sẽ dẫn đến hành động sai. Mắt hỏng mà
tưởng là còn tốt, mắt nhìn không thấy mà tưởng là thấy sẽ đưa đến
những hậu quả nguy hiểm như Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Mù
mà dắt mù thì cả hai sẽ rơi xuống hố”.
Có ánh mắt sai lạc vì đeo kính mầu. Đeo kính mầu đen sẽ nhìn mọi sự
bằng mầu đen. Đeo kính mầu hồng mọi vật đều trở nên hồng. Kính lúp
có khả năng phóng đại tối đa sẽ làm cho ta có cái nhìn khác hẳn trên
một vật bình thường.
Mắt là cửa sổ linh hồn. Cửa sổ mở ra cũng là để người bên ngoài
nhìn vào linh hồn ta. Thật vậy, tâm hồn con người lộ hết trong đôi
mắt. Có những ánh mắt ngây thơ trong trắng bộc lộ tâm hồn tinh khiết
của trẻ thơ. Có những ánh mắt cao thượng cho thấy một tâm hồn luôn
hướng tới những lý tưởng cao đẹp. Có những ánh mắt tươi vui mở ra
một tâm hồn tràn trề nhựa sống. Có những ánh mắt ấm áp của một tâm
hồn bao dung độ lượng. Có những ánh mắt chiếu toả sự nhân từ của
trái tim yêu thương.
Nhưng cũng có những ánh mắt vẩn đục từ một tâm hồn nặng nề dục
vọng. Có những ánh mắt hằn lên tia lửa hận thù cuả một tâm hồn bị
thói ghen ghét thiêu đốt. Có những ánh mắt vụng trộm lén lút của
một tâm hồn ấp ủ những ý định xấu xa. Có những ánh mắt ham hố bộc
lộ một tâm hồn tham lam. Có những ánh mắt chán nản của một tâm hồn
thất vọng. Có những ánh mắt lờ đờ bạc nhược của một tâm hồn mất
hết sức sống. Có những ánh mắt soi mói của một tâm hồn nghi kị.
Thì ra những gì biểu lộ trong đôi mắt đều phát xuất từ đáy tâm hồn.
Khi tâm hồn bị bóng tối tội lỗi vây phủ, ánh mắt làm sao sáng suốt
nhìn rõ đường đi? Khi tâm hồn chìm trong đêm tối u mê, ánh mắt làm sao
tìm được con đường tươi sáng? Khi tâm hồn mù quáng, thì mắt sẽ chẳng
thấy được đường lối. Và “mù mà lại dắt
mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố”?
Mắt nhìn là phản ảnh tâm hồn. Người làm sao chiêm bao làm vậy. Ai hay
xét đoán người khác về nết xấu nào, chính là vì mình nghiêng chiều
rất mạnh về nết xấu ấy. Trong lòng có đầy miệng mới thốt ra. Có
cái xà trong mắt mình thì nhìn đâu cũng thấy rác. Tâm hồn đã xấu
thì nhìn ai cũng thành xấu cả.
Chính vì thế hôm nay Chúa dạy ta hãy xét mình trước khi xét người.
Hãy sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi người. Hãy lấy cái xà ra khỏi
mắt mình trước rồi mới lấy được cái rác ở mắt người khác. Hãy
thanh tẩy đôi mắt của mình trước. Mắt mình thấy rõ rồi mới có thể
rửa mắt cho người.
Vì ánh mắt phản chiếu tâm hồn, nên muốn mắt trong sáng, ta phải thanh
tẩy tâm hồn. Muốn mắt nhìn rõ ràng, ta phải có tâm hồn đơn sơ. Muốn
mắt nhìn chính xác, ta phải có tâm hồn chính trực. Muốn mắt nhìn xây
dựng, ta phải có tâm hồn yêu thương. Muốn mắt nhìn lý tưởng, ta phải
có tâm hồn vươn cao. Muốn mắt nhìn tha thứ, ta phải có tâm hồn độ
lượng. Muốn mắt nhìn thân thiện, ta phải có tâm hồn rộng mở. Muốn
mắt nhìn thanh thoát phải có tâm hồn từ bỏ.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con, để con nhìn rõ bản thân con, nhờ
đó hiểu được anh em.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Mỗi khi xét đoán ai, bạn có để ý rằng mình cũng có những nết
xấu đó không?
2- Mỗi khi gặp một người lầm lỗi, bạn có thử đặt mình vào địa vị
người đó để thông cảm không?
3- Bạn nghĩ sao về thái độ của Chúa Giê-su đối với người phụ nữ
ngoại tình?
4- Phê bình bản thân cách nghiêm ngặt
và tự sửa lỗi chính mình là cách phê bình người khác có hiệu qủa
nhất. Bạn nghĩ sao về ý kiến này?
5- Muốn ánh mắt trong sáng ta phải
làm gì?
MÙA CHAY
&
PHỤC SINH
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Ge 2, 12 – 18
- 2Cr 5,20 –
6,2
- Mt
6,1-6.16-18
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này
bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi
khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên
đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân
thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ
lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước
khi phạt, Chúa sai tiên
tri
Giona đến báo động. Nghe vị ngôn sứ nói Chúa sắp trừng phạt, dân
thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu
nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn
năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì
đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được
kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn,
đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con
người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người
như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết
tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới còn đẹp, hôm nay đã
cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa.
Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần
rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu
lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, tiên tri Giôen đã kêu
gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc
lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,
12b-13a). Nghi thức phải diễn tả
tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích
nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở
thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức
tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro
vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé
nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm
nghèo hèn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì
đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà
để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào
tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười
biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác
gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa
linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu
đã gắn bó với tội lỗi Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành
một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé
lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi
thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức
quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc.
Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành
thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước
danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã
gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương
sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết
những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn
mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con
thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì
tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro
không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào
trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn
nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl
26,4-10
- Rm 10,8-13
-
Lc 4, 1-13
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám
dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ
của ma quỉ. Dân Do thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn
được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát,
lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để đựơc no ấm. Nhưng có thể nói,
3 cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi
thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức
khắc mọi nhu cầu. Sau khi Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỉ đề nghị
Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói
thì phải ăn. Muốn ăn phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới
là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất
là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu
cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con
người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày
càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có
quyền lực thống trị. Ma quỉ biết Chúa
Giêsu
muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên
trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỉ là hợp
lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta
chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ
cần quì xuống thờ lạy ma quỉ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp
tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời
của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến
để tranh dành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta
không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh
tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt.
Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn
mãnh liệt hơn.
Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều
kỳ la. Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên
động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc
đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Baben từ ngàn
xưa vẫn còn tiếp diễn.
Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỉ thật vô cùng tinh khôn và
hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỉ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho
dục vọng. Xúi giục con người
chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự
sống xác thịt. Chúa
Giêsu
đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người cho biết con người không chỉ
có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm
giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu
cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỉ muốn biến con người thành nô lệ cho
tham vọng, nô lệ cho ma quỉ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh
vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỉ. Vì
tham vọng mà đánh mất chính mình. Chúa Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của
ma quỉ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho
ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên chúa. Chỉ có
thờ phượng Thiên chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do
trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỉ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng.
Điên cuồng đến chống lại Thiên chúa. Dùng Thiên chúa để phục vụ cho
những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình
của người con thảo đối với Cha hiền. Chúa Giêsu
đã vạch trần
âm mưu của ma quỉ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo.
Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không
bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo
chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỉ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm
giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất
tự do của con người khi xui giục con người nô lệ cho ma quỉ. Và sau
cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên chúa, không coi Thiên chúa
là cha. Cám dỗ cang hiểm độc vì ma quỉ đã khéo léo bọc những âm mưu
thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của
những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỉ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra
để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh
vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được
những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Chúa Giêsu dùng những
vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và
luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con
cho khỏi sự dữ.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, Bạn đã chống trả những cơn cám dỗ
như thế nào?
2- Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết
là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỉ không?
3- Bạn có ý thức rằng ma quỉ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế
giới ngày nay không?
4- Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỉ?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- St
15,5-12.17-18
- Pl 3,17 –
4,1
-
Lc 9, 28b
– 36
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận
tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để ta nhớ đến cuộc sống
mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa
Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau
khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng
chói chan từ đỉnh núi Tabo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu
nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến
dung mạo Người trở nên sáng láng.
Ánh sáng rực rỡ
làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng
thánh thiện, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên
Giêrusalem
để chịu đau khổ và chiụ chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản
đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn
thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh
quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên
ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của
con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục
con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé
lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho
các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường
đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm
hi vọng. Hi vọng đó
là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ
dẫn đến ngày Phục sinh hân hoan. Thiếu niềm hi vọng không ai có thể
sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm,
dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hi vọng vào mùa gặt bội thu. Người học
sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc
sách, vì hi vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ
tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hi vọng tương lai con
cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hi vọng vào vinh quang Phục sinh sẽ giúp các
môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi
nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi
cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay
các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong
thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên chúa. Bên
trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục sinh vinh quang.
Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên
trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong
những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những
vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của
ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ
hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên chúa nơi Chúa
Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời
vinh quang Thiên chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm
mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên chúa. Cuộc trở về phải
vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết
được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công
giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ
chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần
thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến
hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm
gì về điều đó?
2- Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo
bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
3- Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều
đó trong mùa Chay năm nay?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 3,1-8a.13-15
- 1Cr 10,1-6.10-12
-
Lc 13, 1-9
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới
tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản
thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc
và biến cố theo tinh thần của Người.
Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn
chính trị. Hôm nay,
người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do thái trong Đền
thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do thái. Philatô là
viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta
mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người
ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính
trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị.
Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này
kết án.
Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt
lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính
trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ
một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giê-su mời gọi ta hãy ăn năn sám
hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giê-su hướng suy nghĩ ta tới cái
chết của linh hồn:
“Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn
những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế
đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như
vậy”.
Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn
kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi
Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó”? Gặp người phụ nữ
phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Người ta có thói quen
cho rằng thành công là ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai
hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những
nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những
nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi
vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội
lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn
những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có
phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên
án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy
lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái
rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong
các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.
Sau cùng, ta thường có cái nhìn
ảo tưởng. Ta xây dựng những
chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta
hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to
tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng
có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi
mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu:
Nếu mỗi người trồng hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến
thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi
mới thế giới.
Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát
lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học
ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phu bên
ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa
Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với
thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính
mình.
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con.
III. KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1- Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
2- Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp
tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
3- Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn
nghĩ sao về điều này?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Gs
5,9a.10-12
- 2Cr
5,17-21
-
Lc 15, 11-32
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không
được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm
khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu,
khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân
hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người
ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một
chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân
hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.
MÀN 1: NGƯỜI
CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài.
Ở nhà chung mà chỉ
nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút rỉa. Không
làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ
đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống
phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia
tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói
lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ
hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó
dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến
ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn
túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến
cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng.
Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán,
không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ
mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng
chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không
phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân
trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha
chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp
gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương
của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì
người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn
thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà
dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha
không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi
mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không
còn yêu thương nên nhìn mà chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt
vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã
loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông
chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm
lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là
tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con
phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha
chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu
quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ
của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa
gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử
chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng
chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến
người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của
mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của
mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ
mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu.
Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già
mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy
bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn
lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi
gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào
ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha
đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.
Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì
ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là
người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với
đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách
dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại
còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy
để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho!
Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu
thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có
tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI
CHA VÀ ĐỨA CON CẢ.
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.
Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm
hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không
thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người
con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng
tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến
con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ
được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình
thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp
hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu.
Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt
ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm
đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn
với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao
dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc
trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu
vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần
trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất
nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi
khác hẳn với đường lối của Thiên chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp
nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng
đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi
yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước
khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha. Xin cho con biết mau mắn trở về với Cha.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin
mừng?
2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is
43,16-21
- Pl 3,8-14
-
Ga 8, 1 – 11
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên chúa.
Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha
nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của
Chúa Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ
nữ. Nguyên cáo là các kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là
tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ
không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê
để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý
nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại
luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì
Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm
độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho
Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không
đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời
gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa
đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu
hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để
những kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình.
Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên
tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai
trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời
Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại
trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu
kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá
đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn
đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu
lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết
người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ
sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã
lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử
người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa
ra lời phán xét: “Tôi không kết án
chị đâu! Thôi, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật
là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn
độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói
xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng
trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục
con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của
Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở cho ta một tương
lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không
nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương
lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về
đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ
của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu
rằng con người đáng quí đáng trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương
lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha
thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương
lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên chúa.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa
là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên
án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
2- Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
3- Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của
bạn không?
4- Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí
của người đó không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 50,4-7
- Pl 2,6-11
-
Lc 22,14 - 23,5
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Ngày lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và
của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa
đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng
vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một
tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã
vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bàn với Thầy
nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau
chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến
tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được
tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan
chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương
khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy
ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng
run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với
Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao
khát kết hợp
với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về
cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không
kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sắt máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu
khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn
vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày
tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự,
tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc
nhở, hi vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản
bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm
đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã
nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy.
Ánh
mắt hiền dịu mà đau khổ. Anh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van
xin thì nhiều.
Ánh
mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản
thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người
phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức
lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã
hành hạ Người. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha
tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận,
chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như
loài gỗ quí nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton
Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng
không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của
Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét,
vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội.
Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn hiền lành khiêm nhường. Giữa
những hận thù, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn
tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con
nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần
áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị
cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào
qua cuộc thương khó của Chúa?
3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị
phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is
61,3a.6a.8b-9
- Kh 1,5-8
-
Lc 4, 16-21
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày của tình yêu. Trong những giây phút cuối
cùng còn ở bên các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn bộc lộ hết tình yêu
thương ấp ủ nơi Thánh Tâm Người. Người đã nói những lời chan chứa yêu
thương. Đặc biệt Người đã làm 4 việc bày tỏ tình yêu thương thiết
thực của Người.
1- Ban bố giới răn yêu thương: “Thầy
ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em”.
2- Thực hiện cử chỉ yêu thương khi Người quì xuống rửa chân cho các môn
đệ.
3- Thiết lập bí tích yêu thương ban cho ta chính Máu Thịt của Người.
4- Trao trách nhiệm phục vụ yêu thương cho các linh mục trong bí tích
Truyền Chức Thánh.
Tất cả làm thành một di chúc yêu thương. Cả một biển yêu thương đổ
tràn xuống nhân loại. Chúa Giêsu muốn mãi mãi ở lại với nhân loại.
Chúa Giêsu muốn mãi mãi bày tỏ tình yêu thương với nhân loại. Trong ý
định đó, Người đã tuyển chọn các linh mục. Các linh mục có chỗ quan
trọng trong trái tim Người. Các linh mục sẽ tiếp tục sứ mạng yêu
thương của Người. Các linh mục sẽ là tình yêu của Người đối với nhân
loại.
Nhìn lại cuộc đời của Người, đặc biệt những giây phút cuối đời, ta
thấy tình yêu của Người có những đặc điểm như sau:
Trước hết tình yêu của Người là tình yêu
hạ
mình. Vì yêu thương, Người đã từ trời xuống thế làm người.
Làm người chưa đủ, Người còn tự nguyện sống nghèo. Chưa hết, Người
còn tự nhận thân phận của kẻ tội lỗi, bị chối bỏ, bị khinh chê, bị
kết án. Trên đời có bao nhiêu bậc thang thì Người đã đi xuống hết,
xuống đến tận cùng để yêu thương, gặp gỡ, chia sẻ với nhân loại. Trên
đời có bao nhiêu khoảng cách thì Người đã vượt qua hết để đến ở với
nhân loại. Những khoảng cách đó, Người đã vượt qua nhờ khiêm nhường
hạ mình thẳm sâu.
Thứ đến, tình yêu của Người là tình yêu
quên mình. Người quên ý riêng mình để luôn tìm ý Chúa Cha.
Người quên ăn uống vì phần rỗi các linh hồn. Người quên sự an nguy của
bản thân để lên đường tìm con chiên bị lạc trong rừng. Người liều lĩnh
chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên yêu quí. Nhất là Người quên
cả phẩm giá, cả địa vị để quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Người
đã quên tất cả chỉ vì yêu thương say mê nhân loại. Tình yêu của Thiên
chúa thật lạ lùng không thể tưởng tượng được!
Sau cùng, tình yêu của Người là tình yêu
huỷ mình. Đây không phải là thứ tự huỷ để trốn tránh đau khổ.
Trái lại đây là tình yêu tự huỷ mình vì sự sống của người yêu. Chịu
chết để người yêu được sống. Chịu khổ để người yêu được hạnh phúc.
Chịu nhục nhã để người yêu được tôn vinh. Chịu tàn lụi để người yêu
được sống dồi dào. Đây là tình yêu lớn lao cao quí nhất như chính
Người đã nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh
mạng sống vì bạn hữu”.
Tình yêu của Chúa
Giêsu
luôn luôn là một lời mời gọi nhưng cũng là một lời chất vấn linh
mục. Chúa
Giêsu
muốn linh mục là tình yêu chứ không là quyền uy. Chúa Giêsu
muốn linh mục là tình yêu của Chúa chứ không là tình yêu phàm tục.
Tình yêu hạ mình chứ đừng nâng mình. Tình yêu quên mình chứ đừng tìm
mình. Tình yêu huỷ mình vì người khác chứ đừng huỷ người khác vì
mình.
Chúa Giêsu
mong muốn tình yêu của Người được tiếp tục nơi trần gian. Người đặt
niềm hi vọng nơi các linh mục. Niềm hi vọng ấy khiến các linh mục ray
rứt khôn nguôi. Niềm hi vọng ấy thôi thúc các linh mục phấn đấu không
ngừng. Vì thế, mỗi năm, vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, các linh mục
nhắc lại lời tuyên hứa trung thành, gắn bó với Chúa Giêsu, phục vụ quên
mình. Xin Anh Chị Em cầu nguyện nhiều, để chúng tôi biết luôn phấn đấu
vượt qua bản thân, đáp ứng niềm hi vọng của Chúa Giêsu, trở thành
tình yêu của Chúa ở giữa trần gian.
Lạy Chúa Giêsu là Linh Mục Thượng Phẩm, xin thanh luyện chúng con trở
thành những linh mục như lòng Chúa mong ước.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Tình yêu của Chúa Giêsu là hạ mình, quên mình và hủy mình. Tình
yêu của tôi thế nào so sánh với tình yêu của Chúa?
2. Đạo Chúa là đạo tình yêu. Sống đạo là sống trong tình yêu bày tỏ
ra trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Tôi có thực sự ý thức điều này
và cố gắng thực hiện không?
3. Tất cả những gì Chúa Giêsu làm trong ngày thứ năm tuần thánh là
một di chúc. Tôi có trân trọng thực hiện di chúc này không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 12,1-8.11-14
- 1Cr 11,23-26
-
Ga 13, 1-15
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong bữa Tiệc ly, Chúa
Giêsu
làm nhiều việc quan trọng: lập bí tích Thánh Thể, lập bí tích
Truyền Chức Thánh, rửa chân cho các môn đệ. Thế mà bài Tin mừng hôm
nay chỉ tường thuật việc Người rửa chân. Chắc hẳn việc rửa chân phải
có một tầm quan trọng đặc biệt.
Để hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của việc rửa chân, trước hết ta
hãy xem những người được rửa chân là những người nào.
Đó là các tông đồ, những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Trong số đó,
có Giuđa, kẻ sẽ phản bội, bán Thày với giá 30 đồng bạc. Có Phêrô là
môn đệ rất thân tín, nhưng cuối cùng đã chối Thày 3 lần. Có các tông
đồ thân tín, nhưng cuối cùng khi gặp nguy nan, tất cả đều trốn chạy
bỏ mặc Người cô đơn đương đầu với cơn khốn khó.
Tuy đã thấu rõ lòng các môn đệ, Chúa Giêsu
vẫn
rửa chân cho họ, không loại trừ người nào.
Việc rửa chân nói lên sự
quan tâm. Rửa chân là một chăm
sóc. Có quan tâm mới chăm sóc. Chẳng ai rửa chân người dưng. Chỉ rửa
chân người thân. Rửa chân là một việc làm tỉ mỉ. Phải rất quan tâm
mới làm công việc tỉ mỉ này. Chúa Giêsu
quan
tâm tới từng người. Người quan tâm tới môn đệ yêu dấu. Người quan tâm
tới môn đệ hèn nhát. Người quan tâm tới môn đệ chối Thày. Người quan
tâm tới cả môn đệ sẽ phản bội, vì ham tiền mà bán Thày.
Việc rửa chân nói lên sự
tha thứ. Chúa Giêsu
biết các môn đệ tội lỗi, nhưng Người vẫn rửa chân cho các ông. Người
đã tha thứ cho các ông rồi. Rửa chân các ông, Người muốn rửa cả tâm
hồn các ông nữa. Để các ông sạch mọi thói ham mê tiền bạc coi rẻ
tình nghĩa. Để các ông sạch mọi thói tị hiềm ích kỷ, tranh nhau chỗ
cao chỗ thấp. Để các ông sạch mọi thói huênh hoang hời hợt.
Việc rửa chân nói lên sự
phục vụ. Rửa chân là công
việc của người giúp việc nếu không là công việc của bà mẹ. Chúa Giêsu
là Thày, là Chúa nhưng đã làm công việc của người giúp việc. Người
muốn thực hành nguyện ước của Người: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ”.
Người phục vụ không lựa chọn đối tượng. Người phục vụ tất cả, kẻ
thánh thiện cũng như người tội lỗi, kẻ thân thiết cũng như người xa
lạ, kẻ trung tín cũng như người phản bội.
Nhưng trên hết, việc rửa chân nói lên tình
yêu
thương. Quan tâm, tha thứ, phục vụ chính vì yêu thương. Yêu thương
cho đến cùng. Đến cùng của bản thân Chúa, không còn có thể làm gì
hơn được nữa. Đến cùng của các môn đệ. Dù các ông có phản bội Người
vẫn yêu thương. Dù các ông có chối bỏ Người, Người vẫn yêu thương. Dù
các ông có bỏ rơi Người, Người vẫn yêu thương.
Hôm nay, nếu Chúa hiện diện ở đây, Người sẽ rửa chân cho từng người
chúng ta. Trước tình yêu thương vô biên của Người, ta không khỏi hối hận
ăn năn. Biết bao lần ta đã vì đồng tiền mà trở thành Giuđa, bán rẻ
lương tâm công giáo. Biết bao lần ta đã vì sợ sệt, sợ mất danh vọng
chức quyền, sợ mất lợi lộc vật chất mà chối Chúa trước mặt người
đời. Biết bao lần vì sợ liên luỵ mà ta trốn chạy, bỏ mặc Chúa, mặc
Giáo hội lâm nguy, hoạn nạn. Biết bao lần ta đã nhỏ nhen ghen ghét mà
chia rẽ, bất hoà với anh em.
Hôm nay, ta hãy bắt chước thánh Phêrô thưa với Chúa: Lạy Chúa xin hãy
rửa không chỉ chân con, mà còn rửa cả linh hồn con nữa. Rửa linh hồn
con cho sạch những phản bội. Rửa linh hồn con cho sạch những tham lam,
dục vọng. Rửa linh hồn con cho sạch những chia rẽ bất hoà. Rửa linh
hồn con để con biết yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Rửa linh hồn con
để con biết phục vụ Chúa và phục vụ anh em.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Yêu thương cho đến cùng. Bạn có cảm nhận được tình yêu Chúa trong
đời bạn như thế không?
2. Đã bao giờ bạn cúi xuống rửa chân cho một người?
3. Giuđa đã được rửa chân nhưng rồi vẫn cứ theo đường cũ. Bạn có
quyết tâm đi vào đường mới không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 52,13 – 53,12
- Dt 4,14-16 ; 5,7-9
-
Ga 18,1 – 19, 42
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Buổi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh thật buồn thảm.
Buồn ở sự
thay đổi của tình đời. Biết bao người đã chịu ơn Chúa.
Nhưng khi Chúa chịu khổ hình, không thấy bóng dáng một ai. Nào đâu
những người được Chúa cho ăn uống no nê, khi Chúa làm phép lạ hoá
bánh ra nhiều? Nào đâu những người mù, què, câm điếc, bị quỉ ám được
Chúa chữa lành? Nào đâu những môn đệ thân tín? Bảy mươi hai môn đệ mà
không được người nào ở lại bên Chúa. Nào đâu các Tông đồ đã được
Chúa tuyển chọn, yêu thương dạy dỗ trong ba năm trời? Mười hai người mà
nay dưới chân thánh giá chỉ còn một mình Gioan.
Buồn ở sự
vô tâm của con người. Một người vô tội chịu hành hình.
Những cực hình thật là ghê sợ. Thế mà đám đông đứng xem như xem một
màn kịch. Tệ hơn nữa có người còn châm chọc mỉa mai. Lòng người không
những dửng dưng mà còn chai đá đến độ vô cảm trước nỗi đau đớn của
Đấng vô tội.
Buồn ở sự
độc ác của lòng người. Các Thượng tế chỉ vì ghen ghét
mà tìm cách cáo gian, xách động dân chúng chống đối và áp lực quan
quyền kết án Chúa. Quân lính chỉ vì thi hành mệnh lệnh mà hành hạ
không chút xót thương, không nhưng đánh đập mà còn lôi kéo dọc đường
và nhất là đóng đinh tàn nhẫn.
Buồn nhất là
cái chết đau đớn của Chúa. Đấng đã ban sự sống cho con
người nay bị con người giết chết. Đấng vô cùng thánh thiện nay bị
chết khổ nhục như kẻ tội lỗi nhất trong thiên hạ. Đấng suốt đời đem
tình thương đi gieo rắc mà nay chết vì bị thù ghét. Đấng làm chủ vũ
trụ mà nay chết như kẻ nghèo nàn không manh áo che thân. Đấng cầm
quyền trên trời dưới đất mà nay chết như kẻ yếu đuối nhất trên đời.
Nhưng trong tất cả tấn bi kịch đau thương ấy, tình yêu thương của Chúa
vẫn hiển hiện, vượt lên trên tất cả.
Tình yêu thương toả ra trong
phong thái nhẹ nhàng bình
thản. Trước quân lính đằng đằng sát khí, Chúa vẫn bình tĩnh nhẹ
nhàng. Trước đám đông hò la kết án, Chúa vẫn an nhiên tự tại. Trước
mặt thày cả và quan Philatô kết án, Chúa lặng thinh không nói lời
nào. Chúa không để cho thù hận ghen ghét lôi cuốn làm mất tâm hồn
bình an.
Tình yêu thương toả ra trong
lời nói nhân từ. Đứng trước
những thù hận ghen ghét, Chúa chỉ nói những lời lẽ ôn tồn điềm đạm.
“Giuđa, anh lấy cái hôn để nộp con
người ư”? “Hãy xỏ gươm vào bao,
chén Cha Ta đã trao, lẽ nào Ta không uống”? “Hỡi thiếu nữ thành
Giêrusalem, chớ khóc thương Ta làm chi. Hãy khóc thương các ngươi và con
cái các ngươi ngày sau phải khốn”. Nhất là những lời tha thứ: “Lạy
Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Và “Ta bảo
thật, hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với ta”. Thật là những
lời lẽ yêu thương dịu dàng.
Nhưng nhất là tình yêu thương toả ra trong
hành động. Trước khi bị bắt Chúa còn có thời giờ nghĩ đến
các môn đệ nên đã rửa chân cho các ông. Khi bị quân lính xông vào bắt,
Chúa vẫn còn bình tĩnh yêu thương chữa lành tai người đày tớ bị Phêrô
chém đứt. Dù vác thánh giá nặng nề, Chúa vẫn còn đứng lại yên ủi
những phụ nữ thành Giêrusalem. Bị đóng đinh tàn ác mà Chúa vẫn còn
cầu nguyện cho những kẻ giết mình. trong cơn hấp hối, Chúa vẫn nhớ
đến chăm lo cho Đức Mẹ và thánh Gioan. Sắp tắt hơi mà Chúa vẫn còn
lắng nghe và tha thứ cho người trộm lành.
Người đúng là tình yêu nguyên tuyền không vương chút hận thù. Tình yêu
đó vẫn nảy nở trong đau thương. Tình yêu đó không bị thù hận vùi lấp.
Tình yêu đó càng gặp đau khổ lại càng mãnh liệt. Như Đức Hồng Y
Fulton Sheen nói: Tình yêu Chúa giống như loài gỗ quí phả cả hương thơm
vào lưỡi rìu đốn nó. Tình yêu Chúa giống như bông hoa vẫn ngát hương
trong lòng bàn tay kẻ vò nát nó. Trong hận thù, tình yêu của Chúa đã
chiến thắng. Chúa đã sống vì yêu và đã chết vì yêu.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ tình yêu thương vô biên của Chúa. Lạy Chúa,
xin tha thứ tội lỗi chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có cảm nhận được tình yêu của Chúa qua những cử chỉ lời nói,
hành động của Người trong cuộc Khổ Nạn không?
2. Bạn có cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho chính bạn không?
3. Chúa đã sống cao đẹp và đã chết cao đẹp. Chúa mong ước có những
môn đệ tiếp bước chân Chúa. Bạn có dám bước theo Chúa không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- St 1,1 – 2,2
- St 22,1-18
- Xh 14,15 – 14,1a
- Is 54,5-14
- Is 55,1-11
- Br 3,9-15.32 – 4,4
- Ez 36,16-17a.18-28
- Rm 6,3-11
-
Lc 24, 1-12
II.TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Ngày Chúa Giêsu
phục sinh là ngày thứ nhất trong tuần lễ của người Do thái. Ngày thứ
nhất trong tuần nhắc ta nhớ lại ngày đầu tiên trong lịch sử thế giới.
Thuở ấy chưa có con người, cũng chưa có thế giới. Vũ trụ chỉ là một
khối hỗn mang, một cõi u mê mờ mờ ảo ảo. Thánh Thần Chúa xuất hiện
bay là là trên mặt nước và lập tức vũ trụ được định hình: sáng tối
phân biệt, núi đồi mọc lên, biển khơi sóng vỗ. Thế giới mặc lấy hình
dáng rõ ràng và có sự sống. Đó chính là ngày thứ nhất của thế
giới, ngày Chúa sáng tạo vũ trụ.
Tương tự như thế, khi Chúa
Giêsu
chịu chết, tâm hồn các môn đệ như một khối hỗn mang vô định hình. Cả
một bầu trời sụp đổ. Những mộng ước không thành. Những dự tính tan
theo mây khói. Niềm tin chao đảo. Các ông chìm đắm trong một nỗi buồn
chán mênh mông pha lẫn hoài nghi, thất vọng. Các ông bơ vơ như người lạc
đường, mất phương hướng, không còn biết đi về đâu.
Nhưng khi Chúa
Phục
Sinh, mọi sự bắt
đầu lại ở một khởi điểm mới. Được tiếp xúc với Chúa
Phục
Sinh, tâm hồn các
ông cảm nghiệm một sức mạnh tươi mới chưa bao giờ có. Tâm hồn Tôma đang
cứng cỏi vì hoài nghi bỗng trở nên mềm mại ngoan ngoãn và tràn đầy
tin tưởng. Hai môn đệ Emmau mệt mỏi muốn bỏ cuộc nhận được sức mạnh
hăng hái tiếp tục lên đường dù giữa đêm khuya. Mađalêna đang than thở
khóc lóc bỗng bật lên tiếng reo cười. Phêrô bị dày vò vì tội lỗi
phản bội nhận được ơn tha thứ ngọt ngào vỗ về. Gioan đang quay quắt
vì nhớ thương được niềm vui tràn đầy khi gặp lại người Thầy yêu quý.
Tất cả các môn đệ bối rối hoang mang như bầy ong vỡ tổ nhận được ơn
bình an. Cả một thế giới hỗn mang giờ đây trở nên trật tự, có đường
nét rõ rệt.
Sau khi Chúa
Giêsu
tắt thở, thân xác các Tông đồ tuy còn sống mà tâm hồn như đã chết.
Khi an táng Người trong huyệt đá, các ông cũng an táng tâm hồn mình
trong những nấm mồ buồn sầu, nghi ngờ, đau khổ, mệt mỏi, thất vọng.
Chúa Kitô Phục Sinh đã
phá tung các phiến đá lấp cửa mộ. Người phá tan ngôi mộ buồn sầu,
cho tâm hồn các ông phục sinh trong niềm vui. Người phá tan ngôi mộ nghi
ngờ, cho tâm hồn các ông phục sinh trong đức tin vững mạnh. Người phá
tan ngôi mộ đau khổ, cho tâm hồn các ông phục sinh trong hạnh phúc vô
biên. Người phá tan ngôi mộ tuyệt vọng, cho tâm hồn các ông phục sinh
trong niềm hi vọng tràn đầy. Người
đã phục sinh các tâm hồn.
Tình trạng tâm hồn ta cũng giống như tình trạng tâm hồn các Tông đồ
trong ngày Chúa chịu chết. Những thất bại, những khổ đau, những nghi
nan, những chán chường, những khó khăn trong cuộc sống giống như những
nấm mồ giam kín hồn ta trong thế giới sự chết. Làm sao ta có thể
thoát ra? Ta phải gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh.
Thật vậy, cuộc phục sinh tâm hồn của các Tông đồ đến từ những cuộc
gặp gỡ với Chúa Kitô Phục sinh. Các ngài đã cùng ăn uống, trò chuyện,
tiếp xúc thân mật với Chúa. Còn cảnh nào thân thương hơn cảnh Thầy trò
quây quần bên bếp lửa, cùng nướng cá, nướng bánh? Còn cảnh nào ấm
cúng hơn cảnh Thầy trò chia sẻ với nhau bữa cơm chiều thanh đạm? Còn
cảnh nào đẹp hơn cảnh một buổi sáng bên bờ hồ, Chúa đã hỏi Phêrô: Con
có mến Thầy không? Những gặp gỡ thân mật ấy đã đổ vào tâm hồn các
ông một nguồn sống mới đầy tình yêu và hi vọng. Các ông được sinh lại
trong ân phúc. Ngày ấy thực là ngày thứ nhất, ngày đầu tiên của cuộc
sống mới trong ân nghĩa Chúa Phục Sinh.
Tôi cũng phải đến gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh. Gặp gỡ Người trong thánh
lễ. Gặp gỡ Người trong các bí tích. Gặp gỡ Người trong các giờ cầu
nguyện. Gặp gỡ Người khi thăm viếng những anh em bệnh tật. Gặp gỡ
Người khi chia sẻ vật chất và tinh thần với những anh em túng thiếu.
Những cuộc gặp gỡ đó sẽ khiến tâm hồn tôi được phục sinh. Chúa Kitô
sẽ đưa bản thân tôi, gia đình tôi, xứ đạo tôi, giáo phận tôi và đất
nước tôi vào một đời sống mới, một đời sống chan hoà niềm bình an,
niềm tin yêu và niềm hi vọng.
Hôm nay, một số anh chị em tân tòng sẽ được lãnh nhận phép rửa tội.
Chúa sẽ rửa tâm hồn anh chị em sạch mọi tội lỗi. Chúa sẽ ban cho tâm
hồn anh chị em một sự sống mới: sự sống của con cái Chúa. Hôm nay,
anh chị em thực sự bắt đầu ngày thứ nhất trong đời sống mới của linh
hồn. Xin chúc mừng anh chị em. Chúng tôi hân hoan đón nhận anh chị em
gia nhập vào gia đình Chúa Kitô.
Sau cùng, tôi thân ái cầu chúc tất cả anh chị em một mùa Phục sinh
tràn đầy ơn Chúa và niềm vui.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Nghi nan, buồn chán, đau khổ, thất bại là những cái chết dần mòn.
Hiện nay trong bạn đang có những cái chết nào?
2- Mùa Phục sinh năm nay, còn những khúc mắc nào ngăn cản tâm hồn bạn
sống lại với Chúa?
3- Gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh là việc quan trọng nhất giúp bạn đổi
mới cuộc đời.
Trong mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm làm gì để gặp được Chúa Kitô
phục sinh?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 10,34a.37-43
- Cl 3,1-4
-
Ga 20, 1-9
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm:
buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu niềm an ủi
khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa
lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu
niềm hi vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỉ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ
đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin
Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hi vọng của các ngài
như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quí.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu phục sinh đã khiến
cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát
khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa phục sinh, tâm hồn các ngài
bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt
sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã phục sinh tâm
hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn phục
sinh đã được ban cho các ngài Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự
yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hi vọng.
Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn phục sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên
trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi
đem Tin Mừng phục sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy
những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm
hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống
mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh
Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn phục sinh đến với mọi
người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những
cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy
mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong
tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được phục sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như
ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản
bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị
chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi
chờ ơn phục sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có
những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh
vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang
rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp
khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn phục sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế
tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm
tin yêu của anh em vào Thiên chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản
thân ta cần được phục sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất
chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục
vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá
đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công.
Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh,
niềm hi vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn phục sinh và để ơn phục sinh có thể thấm vào
mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi
lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt
vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục
Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin ban ơn cho con được sống lại thật về phần linh
hồn.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong người bạn
không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2- Bạn có thấy ơn phục sinh là cần thiết không?
3- Bạn có sẵn sàng đem ơn phục sinh cho mọi người không?
4- Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 5,12-16
- Kh
1,9-11a.12-13.17-19
-
Ga 20, 19-31
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mỗi khi nói đến Tông đồ Tôma, người ta thường kèm theo biệt hiệu “Cứng
lòng tin”.
Thật ra Tôma không cứng lòng tin hơn các Tông đồ khác. Khi Chúa đã chết
rồi, các ngài hoang mang sợ hãi. Khi nghe tin Chúa sống lại, các ngài
bàng hoàng bỡ ngỡ nhưng nửa tin nửa ngờ. Vì thế hai môn đệ đi đường
Emmau vẫn còn buồn bã. Dù đã nghe các phụ nữ tường thuật việc Chúa
sống lại, các ngài vẫn không tin, nên muốn bỏ về làng cũ.
Vì thế, Chúa phải hiện ra nhiều lần. Và mỗi lần hiện ra, Người phải
trấn an các môn đệ, cho các ngài xem các vết thương, cùng ăn uống để
các ngài tin tưởng.
Tuy các môn đệ chưa hoàn toàn tin nhưng không ai trong các ngài phát
biểu câu nào. Chỉ có Tôma nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón
tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng
có tin”. Chính vì câu nói mạnh mẽ này mà ông bị mang biệt danh
“Cứng lòng tin”.
Tô-ma đại diện cho những người thời nay, cái gì cũng muốn xem tận
mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những
gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất
cả. Không chỉ tin vào lời nói suông.
Nhưng ta phải cám ơn thánh
Tôma, vì nhờ Ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa
sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn
Người. Vì nhờ Ngài mà Chúa
Giêsu
lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ Ngài mà ta được nghe mối
phúc cuối cùng Chúa hứa cho ta: “Phúc
cho những ai không thấy mà tin”.
Việc thánh Tôma đòi xem vết thương ở tay chân và cạnh sườn của Chúa
đặt ra cho ta những tiêu chí mới cho việc truyền giáo hôm nay.
Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói
hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được
kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá
trị khi đi đôi với những việc làm tốt.
Vì thế, muốn làm chứng
cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời
sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ.
Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Làm sao người ngoài đạo mến đạo nếu những người trong đạo cũng chia
rẽ bất hoà? Làm sao đạo có sức thuyết phục khi người theo đạo vẫn
còn ham hố danh vọng chức quyền đến nỗi bán rẻ cả lương tâm của mình
và tìm cách chà đạp bôi nhọ người khác? Làm sao làm chứng được đạo
là tốt trong khi những người tin đạo vẫn còn bất công, gian tham của
cải không phải của mình?
Năm 2003 tôi về làm việc ở Hà nội. Và được quen biết bác
sỹ Trần hữu Ngoạn. Bác sỹ Ngoạn là một người suốt đời phục vụ bệnh nhân phong.
Ông đã từng làm giám độc bệnh viện phong Quỳnh Lập. Tại đây ông đổi mới phong
cách quản lý. Coi bệnh nhân như người nhà. Cùng ăn cùng ở cùng làm với bệnh
nhân. Ông nghiên cứu và viết nhiều sách về bệnh phong. Muốn cho xã hội không còn
kỳ thị bệnh nhân phong, bác sỹ Ngoạn đã lấy trùng Hansen cho vào cơ thể để minh
chứng bệnh phong không lây nhiễm.
Năm 1984 khi được điều chuyển vào phục vụ trại phong Quy
Hoà, nơi thi sỹ Hàn mặc Tử đã từng ở và qua đời, bác sỹ gặp các nữ tu dòng Phan
Sinh. Đó là thời bao cấp đầy khó khăn. Nhưng các nữ tu đã hi sinh tất cả, phục
vụ bệnh nhân với tâm tình yêu thương trân trọng. Vì các nữ tu tâm niệm phục vụ
bệnh nhân là phục vụ Chúa. Không chỉ làm tốt công việc phục vụ, các nữ tu còn có
tấm lòng yêu thương quý mến bệnh nhân thực sự. Khiến các bệnh nhân cảm thấy được
yêu thương như ở gia đình. Và bầu khí trại phong thật đầm ấm không tìm thấy ở
nơi đâu khác. Từ đó bác sỹ yêu mến các sơ. Rồi yêu mến đạo.
Năm 2002, sau khi được nghỉ hưu, bác sỹ quyết định theo
đạo. Việc học đạo kéo dài hơn một năm. Năm 2003 một lễ rửa tội long trọng dự
tính được diễn ra. Bác sỹ công khai mời các bạn bè, đa số là quan chức cao cấp.
Nhưng tình hình chưa thuận lợi, nên chúng tôi khuyên bác sỹ nên chờ thêm một
thời gian. Nhưng ít lâu sau ông bị tại biến. Và đã được rửa tội âm thầm,
lấy tên thánh là Phanxicô Assisi, vị
thánh mà bác sỹ yêu mến cách đặc biệt. Bị tai biến nặng. Nhưng bác sỹ còn sống
hơn mười năm mới qua đời. Gia đình đều nói rằng nhờ các bí tích mà bác sỹ còn
hồi phục sau tai biến.
Những anh em ngoài Công
giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật
sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công
bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức
thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chứng kiến cuộc thương khó của Chúa Giê-su, niềm tin của các Tông
đồ bị chao đảo. Đời bạn cũng đã gặp nhiều thử thách, niềm tin của
bạn có bị chao đảo không?
2- Lời nói hay và việc làm tốt, đàng nào có sức thuyết phục hơn?
3- Trong mùa Phục sinh này, bạn quyết định làm gì để góp phần vào
việc truyền giáo?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Cv 5,27b-32.40b-41
- Kh 5,11-14
-
Ga 21, 1-19
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo hội để
tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng
hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo hội mà Người mong muốn khi thiết
lập.
Hình ảnh về một Giáo hội có
nền tảng là yêu thương. Chúa
Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người
đứng đầu Giáo hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người
chăm sóc. Sức mạnh của Giáo hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy
quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì là anh chị
em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải
là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn
thánh Phê-rô làm Giáo hoàng, Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô,
con có mến Thầy không”? Có yêu mến thì Chúa mới trao cho trách
nhiệm chăm sóc đoàn chiên. Vì có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến
anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo hội. Bao lâu tình
yêu mến còn, Giáo hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm,
Giáo hội sẽ suy yếu.
Hình ảnh về một Giáo hội có
sức sống là truyền giáo.
Giáo hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh
bắt tôm cá. Sức sống của Giáo hội là truyền giáo, là đánh bắt các
linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy
theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn
người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo
thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra
khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều
linh hồn, Giáo hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường,
phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải
mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió
lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo
là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải
ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là
sứ mạng Chúa trao cho Giáo hội.
Hình ảnh về một Giáo hội có
hiệu quả nhờ tuân theo lời Chúa.
Giáo hội qui tụ những con người. Giáo hội hoạt động với những cố
gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người, Giáo hội không làm
được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được
con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn.
Khi nghe lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ
lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung
thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa
đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi
những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt
động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa
vẫn hiện diện bên Giáo hội như lời Người hứa: “Thầy
sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Giáo hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những
con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên
chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo hội không nhờ luật lệ, quân đội,
hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì
Giáo hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo hội không ở tại việc ổn
định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo hội
thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo hội càng vững
mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo hội luôn mãi.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có nghĩ rằng Giáo hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều
người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
2- Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết
và yêu mến Chúa không?
3- Giáo hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền
vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv
13,14.43-52
- Kh
7,9.14b-17
-
Ga 10, 27-30
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Hình ảnh chiên cừu dễ gây
ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là
ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin mừng ta vừa nghe hoàn
toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực,
chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn
tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta
biết chúng và chúng theo Ta”.
Nghe. Chúa Giêsu chính là
Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của
Thiên Chúa không phải dễ.
Không dễ, vì Lời Thiên
Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói
của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay.
Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ lại ồn ào như một ngày
hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
Không dễ, vì Lời Thiên
Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta
lên ngọn đồi gai góc của thập giá hi sinh và thách thức ta phục vụ
đến hi sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ
mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến
gìm mình trong đại
dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quí trên
đời.
Vì thế, để nghe được Lời
Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí
phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa
với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
Theo. Theo ai là quyến
luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo
ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với
người khác.
Theo tâm lý học, trong tình
yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu.
Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều
có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những
gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.
Như thế, theo tức là yêu
thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động
và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn
chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong
hai động từ: “biết” và “cho”.
Biết. Người chăn chiên tốt
lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng
sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa
Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông
cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư?
Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay
đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà,
sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì
cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen
tối trong vườn Giếtsimani và trên thánh giá. Ta cô đơn vì bị mọi người
xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm
thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy
tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như
kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn
chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người,
nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
Cho. Chúa Giêsu là mục tử
tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quí giá nhất
là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của
chính bản thân Người. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ
kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi
tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng
buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ
chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp
với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở
ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời
sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang
bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra
khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không
người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần
có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực
sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có
nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để
phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các
linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi gương Vị
Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Lạy Chúa là Mục Tử chăn
giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Đã bao giờ bạn nghe được tiếng
Chúa nói trong sâu thẳm tâm hồn bạn chưa?
2- Có lần nào bạn cảm nghiệm được
sự ngọt ngào được sống thân mật với Chúa chưa?
3- Bạn cũng là Mục Tử của gia đình
bạn, xóm bạn ở, sở nơi bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành
không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 14,21b-27
- Kh 21,1-5a
-
Ga 13,31-33a.34-35
II. SUY NIỆM
Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi cao để
trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp
nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện
không còn chỗ nhận thêm người vào tu.
Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ
vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.
Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu
viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo:
“Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông
giải thích thêm: “Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong quí
vị, nhưng quí vị không nhận ra Người”.
Nhận được lời giải đáp, Cha Bề trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu
sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu thế đang ẩn mình giữa cộng
đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng
Cứu thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu thế đã cải trang thì
chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có
thể là Đấng Cứu thế.
Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế. Mọi
người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục
vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm
vui trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn
về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi
bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng
đoàn.
Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời
Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu
viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến
nhau, yêu mến và phục vụ nhau.
Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không
muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không
sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt,
không phản chiếu được nét đẹp của Thiên chúa. Nay khách hành hương
nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy
nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô, có lòng yêu
thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của
rõ nét của Thiên chúa, chiếu toả sức sống của Thiên chúa, loan báo
hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức
thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra
sự hiện diện của Thiên chúa.
Yêu thương nhau đó là giới răn mới của Chúa. Nhưng không phải yêu thương
theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có
lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên chúa muốn các môn
đệ của Người phải yêu nhau như Thiên chúa đã yêu.
Yêu như Thiên chúa nghĩa là phải hi sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh
em. Yêu như Thiên chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn.
Yêu như Thiên chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những
người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên chúa
là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.
Yêu như Thiên chúa đó là sức sống của Giáo hội. Yêu như Thiên chúa làm
nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên chúa. Nét
đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2- Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong Giáo
xứ chưa?
3- Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần
này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 15,1-2.22-29
- Kh 21,10-14.22-23
-
Ga 14, 23-29
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên
tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng
cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.
Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc
áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân.
Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công
tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa
học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi
tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều
lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng
về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài
cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước
ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về
thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện
nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn
giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang qui tụ
lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin
đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không
gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong
việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái.
Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.
Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương
yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về
Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da,
ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra
thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng
tình yêu.
Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì
giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến
và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa.
Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm
lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ
vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở
trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở
ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước
Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, người
ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.
Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ
chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là
người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ,
phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt,
chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái
thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã
bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.
Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lớn. Những người thuộc về Nước
Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên
thành Giêrusalem
mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa
mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về.
Thành không có đền thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có
yêu thương thì ở đó có Thiên chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc
vì Thiên chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những
trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong
suốt, như một viên ngọc quí toả ánh sáng tới khắp muôn dân.
Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy,
tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người
tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ
công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang
phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn
luyện để trở nên người hữu tâm.
Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim
chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây
dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên chúa ngự trị.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa?
Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
2- Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỉ, chia rẽ và phát triển
tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
3- Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con
Chúa không?
4. Trong và ngoài Giáo hội. Trong và ngoài tình yêu. Bạn quan tâm tới
điều nào hơn?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 1,1-11
- Dt 9,24-28 ; 10,19-23
-
Lc 24, 46 – 53
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người
chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên
trời là một bằng chứng cho niềm hi vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài đất còn có trời.
Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc
sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hi vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về
trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy
đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu.
Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến
đấy.
Chúa Giê-su dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự
trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha
trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức
Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho
mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm
chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta.
Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan Tin Mừng yêu thương cho
mọi người. Đem niềm hi vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hi vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng
về trời cao. Niềm hi vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất
nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm
hi vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định
mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần
linh. Niềm hi vọng đó làm cho cuộc sống của có ý nghĩa, vì Chúa tạo
dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo qui luật của
vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải
bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền
định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hi vọng đó cho ta
thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mạng
Chúa trao phó. Niềm hi vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã
hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước
Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con
được về trời với Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta
nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề
về ham mê nào?
2- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình
thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
3- Đời sống là một bổn phận phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều
này?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 7,55-60
- Kh
22,12-14.16-17.20
-
Ga 17, 20-26
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Trong lịch sử Việt nam, tôi thích nhất tướng Trần hưng Đạo. Trần hưng
Đạo không những có tài thao lược mà lại có đức độ hơn người. Người
ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng. Thời nhà Trần có hai
tướng tài: Trần hưng Đạo và Trần quang Khải. Nhưng hai gia đình có mối
thù không đội trời chung. Trần
Liễu, cha
của Trần hưng Đạo trước khi tắt thở còn dặn Trần hưng Đạo phải thay
cha trả thù. Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước ta. Trần hưng Đạo suy
nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước các tướng tá không
đoàn kết thì không phá nổi thế giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế, Trần
hưng Đạo gạt bỏ thù nhà, đến làm hoà với Trần quang Khải. Một hôm,
Trần hưng Đạo sang thăm Trần quang Khải, tự tay nấu nước và tắm cho
Trần quang Khải và nói: “Hôm nay được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”.
Trần quang Khải vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng công tắm
cho”. Từ đó hai người hoà thuận. Cùng chung vai sát cánh phục vụ đất
nước. Nhờ sự đoàn kết của hai tướng tài, quân ta đã đánh thắng giặc
Nguyên
(ĐVSKTT, Quyển VI, Kỷ Nhà Trần, t.1b )
.
Sự đoàn kết của Trần hưng Đạo và Tran quang Khải rất phù hợp vơi bài
Tin mừng của Chủ nhật 7 Phục sinh. Hôm nay, Chúa tha thiết cầu nguyện
cho con cái Chúa được hiệp nhất.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất
mới xây dựng được cộng đoàn vững mạnh. Tục ngữ Việt nam có câu:
“Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có đoàn kết làm việc
gì cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu cộng đoàn. Làm cho công việc trì
trệ. Và có khi làm tan rã cộng đoàn.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất
trong nội bộ mới có thể truyền giáo thành công. Hiệp nhất chính là
dấu chỉ của môn đệ Chúa như lời Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thày,
là các con thương yêu nhau”. Qua dấu chỉ hiệp nhất, người ngoài mới
nhận biết Chúa. Thời sơ khai, khi nhìn thấy các tín hữu đầu tiên sống
đoàn kết yêu thương, người ngoại đạo đã bảo nhau: “Kìa
xem họ yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin vào đạo
để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Sau cùng, Chúa tha thiết với sự hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh
phúc. Có hiệp nhất mới có hạnh phúc. Hạnh phúc của ta là được sống
sự sống của Thiên chúa. Sự sống bắt nguồn từ Thiên chúa ba ngôi. Ba
ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi trở thành một. Như lời Chúa Giê su
nói: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong
Thày. Thày và Cha Thày là một”. Cho đến độ: “Ai
thấy Thày là thấy Cha”.
Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh
phúc của ta. Tuy nhiên để được thông phần vào sự sống hạnh phúc đó,
ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên chúa là Tình Yêu, là sự Hiệp
Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn mạch hạnh phúc đó, ta cũng phải
đoàn kết yêu thương nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương
mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương của Ba Ngôi Thiên
chúa.
Hiệp nhất yêu thương không là một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến
trình phải xây dựng dài lâu. Xây dựng bằng từ bỏ ý riêng. Xây dựng
bằng nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hi sinh quên mình. Vì thế để
đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất nhiều phấn đấu. Phấn đấu của
bản thân. Phấn đấu của cả tập thể.
Nếu biết phấn đấu để hiệp nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững
mạnh, ta sẽ truyền giáo thành công và nhất là ta sẽ được tham dự vào
sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương hiệp nhất
chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Tại sao người ta luôn chia rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào?
2. Tại sao Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp nhất?
3. Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể hiện sự hiệp nhất thế nào?
4. Bạn phải làm gì để xây dựng sự hiệp nhất?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 2,1-11
- 1Cr 12,3b-7.12-13
- Ga 20,19-23
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Qua bài trích sách Công Vụ
Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Người
đã
đổi mới trí khôn các Tông đồ.
Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở
bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng
các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí
khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa,
hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người
khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng.
Đã
biến những con người thất học nên hiểu biết.
Đã đổi những tâm
trí u mê thành sáng suốt.
Người đã
đổi mới ý chí các
Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống
trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các
ngài ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh
Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra
đi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ.
Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các
ngài rao giảng, làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Sau cùng tất cả các
ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.
Ơn
Chúa Thánh Thần thật lạ lùng.
Đã
biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Đã biến những con người
nhút nhát nên can đảm.
Người đã
đổi mới trái tim các
Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo
Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu
Chúa. Tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các
ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến
Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái
tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài không còn
tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, ngồi bên tả hay bên hữu. Nhưng các
ngài biết sống nhường nhịn yêu thương. Từ nay các ngài giành trọn
trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là
sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến
đổi những trái tim chai đá thành những trái tim bằng thịt. Đã biến
đổi những trái tim ích kỷ thành những trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời
Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức
làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ
uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta
hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của
ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời.
Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái
tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có
thấy có nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 2,1-11
- 1Cr 12,3b-7.12-13
- Ga 20,19-23
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là
hết sống. Hôm nay, Chúa
Giêsu
thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức
Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để ban truyền sự sống. Ta vẫn
thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần
là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng
Ban Sự Sống. Điều này được
diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa
nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang.
Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa
bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban
cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống
cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần
ban sự sống lại. Ngôn sứ Ezechiel đã được thấy trong một
thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt
trên tôi. Đức Chúa dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng;
thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng.
Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người
bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”.
Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều
đó.” Bấy giờ, Người bảo tôi; “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy;
ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào
các ngươi và các ngươi sẽ được sống.... Ngươi hãy nói với thần khí:
Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã
chết này cho chúng được hồi sinh. Thần khí liền nhập vào những người
đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên” (Ez 37,1 – 10). Thánh
Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho
chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần
ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi
đến ngày lễ Ngũ Tuần,
mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng
động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.
Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu
xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Chúa Thánh
Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh
Thần ban cho”
(Cv 2, 1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn.
Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái.
Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo
lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin mừng cho mọi người thuộc đủ
mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản
thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến
Nước Chúa, sẵn sàng hi sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa
Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự
sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên
có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn
thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam
mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh
hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không
còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần
xuống phục sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất
là xin Người ban sức sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối
sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống
một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình,
sống dấn thân phục vụ Thiên chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng
con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có
thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
2- Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời
sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi
gì không?
3- Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh
Thần sai bạn đi làm gì?