THƯ PHÒNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
của Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương
Năm Thánh
Gia Huynh Đệ 2021
Chỗ Cuối Cùng
... Tột Đỉnh Trọn Lành
Biệt tặng Dòng Nữ Tỳ Chúa
Giêsu Tình Thương
nhân dịp 10 năm hội dòng được thành
lập ở Giáo Phận Qui Nhơn VN (2012 -
2022)
TĐCTT Đaminh Maria
cao tấn tĩnh
Tại sao Tông đồ Simon Phêrô vừa tuyên xưng đức tin chính xác
xong (xem Mathêu 16:16), một đức
tin được mạc khải từ trời (xem Mathêu 16:17), thì liền quay ra rối đạo (xem
Mathêu 16:22-23)? Có thể là vì cảm
nghiệm đức tin của ngài, nơi bản thân của ngài, cũng như trong cuộc sống của
ngài, chưa hoàn toàn được đồng
hóa với mạc khải đức tin, tức chưa được đồng
hóa với những gì ngài được trời cao tỏ ra cho biết, mà chính ngài tự mình không
thể nào biết được. Nghĩa
là ngài vẫn sống khác với, thậm chí ngược
với, chính mạc khải đức tin vô cùng huyền
nhiệm và linh thánh.
Kinh nghiệm sống đạo theo tu đức
của mỗi Kitô hữu chúng ta đã chứng thực cho chúng ta thấy hiện tượng thiêng
liêng ngược đời này nơi Tông đồ Phêrô! Có ai trong chúng ta dám cho mình là
không sống giả hình, không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ, khi
chúng ta sống phản lại với đức tin chúng ta tuyên xưng theo Kinh Tin Kính
hằng tuần khi cử hành phụng vụ Thánh Thể Chúa Nhật, hay khi chúng ta tỏ ra
những thái độ và tác hành hoàn toàn phản lại với đức
ái ở lời Kinh Lạy Cha, khi chúng
ta xin tha nợ cho chúng ta mà lại
không tha hay khó tha cho ai phạm đến chúng
ta v.v.
Tuy nhiên, khoảng cách một trời một vực và bất khả tránh giữa
mạc khải đức tin và cảm nghiệm đức tin nơi các vị Tông đồ nói riêng, cũng
như nơi thành phần hậu sinh được thừa hưởng đức tin tông truyền Kitô
hữu chúng ta nói chung, vẫn có thể được khỏa lấp trong hành trình đức tin
trần thế của chúng ta, bởi Thánh Thần được ban cho chúng ta, Vị Thần Chân
Lý được Chúa Kitô Vượt Qua và Thăng Thiên sai đến với Giáo Hội của Người để "dẫn
chúng con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13), nhờ đó
"Ngài sẽ làm chứng về Thày... các con cũng làm chứng nữa"
(Gioan 15:26-27).
Và đó là lý do, trong cuộc hành trình đức tin trần thế của
mỗi Kitô hữu chúng ta, nếu cởi mở và chân thành, cho dù bản thân chúng ta có
tồi tệ và cuộc đời của chúng ta có sai phạm, chúng ta vẫn cảm thấy, một cách
nào đó, mà chỉ chúng ta mới cảm thấy, không sớm thì muộn, không mạnh thì
nhẹ, thậm chí ngay trong những gì là sai lầm và khốn nạn nhất do chúng ta
gây ra hay phải chịu, tác động thần
linh của Thiên Chúa nơi chúng ta, nhờ đó
chúng ta nhận biết Ngài mỗi ngày một hơn, như Ngài là và như Ngài muốn, ngay
khi Ngài làm cho chúng ta biết mình chúng ta.
Đó cũng là lý do các bậc sư phụ về đường thiêng liêng, về ơn
gọi nên thánh, nhất là trường phái linh đạo Tây Ban Nha, trong thế kỷ 16, bao
gồm các Thánh Ignatio (1491 - 1556), Thánh Têrêsa Avila (1515 - 1582) và
Thánh Gioan Thánh Giá (1542 - 1591), đã chia hành
trình đức tin thành 3 giai đoạn hay ba cấp độ: khởi sinh - từ bỏ, tiến sinh
- tập đức, và hiệp sinh - đồng
hóa. Từ cấp độ tu đức 2 là tiến sinh lên cấp
độ tu đức 3 là hiệp sinh, thường xẩy ra một cuộc khủng hoảng đức tin gọi
là đêm tối tăm, để tâm hồn được đồng hóa với Chúa
Kitô vượt qua - sống lại từ trong cõi chết!
Đúng thế, Chúa Kitô phục sinh từ trong cõi chết hay từ trong
kẻ chết cũng vậy. Nghĩa là tự một vực thẳm khốn cùng của nhân loại. Người
sống lại từ trong kẻ chết, không phải chỉ như ánh sáng chiếu soi trong tăm
tối (xem Gioan 1:5), như trong mầu nhiệm nhập thể và khổ giá của Người, để
tiêu diệt tội lỗi và sự chết, mà còn biến bóng tối thành ánh sáng, biến chết
chóc thành sự sống, như cây thập tự giá vốn tiêu biểu
cho tội lỗi và sự chết của con người, một sản phẩm nhân tạo, đã
trở thành Thánh Giá cứu độ và sự sống, một sản phẩm thần linh của Lòng
Thương Xót Chúa.
Hành Trình Đức Tin bắt đầu từ Chỗ Cuối Cùng là như vậy. Từ vị
trí con người thấp hèn và vô cùng khốn nạn, hoàn toàn
bất toàn, bất lực, bất hạnh và bất xứng, đến độ họ có thể được thần linh
hóa, được đồng hóa với Vị Thiên
Chúa đã hóa thân làm người, với Vị Thiên Chúa Emmanuel ở giữa loài người chúng
ta, Đấng đã tự động đồng hóa
mình trước với tất cả "những người anh
chị em hèn mọn nhất" (Mathêu 25:40,45) của
Người trên thế gian này. Bởi
thế mới thấy vị Tiền hô Gioan Tẩy giả quả chí lý khi tuyên bố: "Người
phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi"
(Gioan 3:30).
Thật vậy, chính Chúa Kitô, Đấng "tự thân là
Thiên Chúa nhưng không tự cho mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa
mới được, trái lại, Người đã tự hủy ra như không, mặc lấy thân phận nô lệ,
sống như con người. Người thậm chí
đã vâng lời cho đến chết cho dù chết trên thập tự giá" (Philiphê 2:6-8), là
mầu nhiệm nước trời đã không được Cha tỏ
ra cho những ai "khôn ngoan và thông thái mà cho những kẻ bé mọn"
(Mathêu 11:25), và do đó chính Chúa
Giêsu đã khẳng định: "Ai bé mọn như trẻ nhỏ như thế này sẽ là
kẻ cao trọng nhất trên nước trời" (Mathêu 18:4).
Vì nhiễm nguyên tội, tất cả loài người đều đã mang mầm mống
tội lỗi là đam mê nhục dục và tính mê nết xấu. Đặc biệt là mang trong mình di
truyền thể muốn nên bằng Thiên Chúa như được 2 nguyên tổ của mình truyền
lại. Thật ra, tự bản chất, ý muốn nên bằng Thiên Chúa hay như Thiên
Chúa, không có tội, mà chỉ có đường lối - ăn trái cấm, trái với ý muốn của
Thiên Chúa, để làm sao đạt được ý muốn tốt lành này mới có tội. Chính Thiên
Chúa cũng muốn con người được như Ngài: "Các
con hãy nên trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành"
(Mathêu 5:48).
Tuy nhiên, tình trạng con người được nên
bằng Thiên Chúa và nên như Thiên Chúa, đối với Thiên Chúa, là chính chủ đích
Thiên Chúa "dựng nên con người theo hình ảnh của chúng ta và tương
tự như chúng ta" (Khởi Nguyên 1:26-27), và vì thế
nó là đích điểm con người cần phải đạt đến. Không phải bằng cách họ tự mình
và tự động có thể làm được điều này, mà là phải bởi Thiên Chúa, "vào thời
điểm viên mãn" (Galata 4:4), qua Người Con Nhập Thể và Vượt
Qua được Ngài sai xuống trần gian, và
nhờ Thiên Chúa, qua Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô.
Do đó chẳng lạ gì lời đầu tiên Thiên Chúa hóa công ngỏ cùng
loài người tạo vật ngay sau nguyên tội đó là: "Ngươi đang ở đâu?"
(Khởi Nguyên 3:9). Ngay chính lúc hai nguyên tổ của loài người chúng ta ăn
trái cấm bất tuân lệnh Chúa và đang ẩn trốn Thánh nhan của Ngài thì bị Chúa
hạch hỏi như vậy, không phải là vì Chúa không biết 2 nguyên tổ bấy giờ đang
lẩn trốn ở đâu, hay biết
nhưng vẫn cứ muốn chính 2 vị tự thú
ra nơi hai vị lẩn
trốn, mà là vì Ngài muốn nhắc nhở cho hai vị về vị trí tạo vật hữu hạn và lệ
thuộc của họ đối với vị thế tuyệt đối vô cùng cao cả của Ngài.
"Ngươi đang ở đâu?",
nói câu này Thiên Chúa như muốn nhắc nhở con người rằng: ngươi
là ai mà cả gan dám bất tuân lệnh của Ta, là
tạo vật mà dám theo ý riêng của mình, dám tự
mình quyết định lành dữ như thế, một quyền định đoạt tuyệt đối chỉ thuộc về
một mình Ta là Thiên Chúa của ngươi thôi. "Ngươi đang ở đâu?",
nói như thế với con người, Thiên Chúa cũng như thể dằn mặt con người cao
ngạo nhưng lại ngây thơ lầm lạc rằng: đấy, ngươi thấy chưa, vì bất tuân nên
giờ đây ngươi đã hoàn toàn không còn được như trước nữa, thật là khốn
nạn cho thân người!
Tuy nhiên, Thiên Chúa lại không trừng phạt con người cân xứng
với tội lỗi tầy trời bất
khả tha thứ và tự họ bất khả đền bù,
vì hành động bất tuân của họ đã phạm đến một Đấng vô cùng. Họ
chỉ bị đuổi ra khỏi vườn địa đường (Khởi Nguyên 3:23), nghĩa là không còn ở
trong tình trạng công chính nguyên thủy như ban đâu mới được dựng nên
nữa, ám chỉ họ đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Thế nhưng, nếu ngay
trong bản án nguyên tội con người đã được Ngài hứa cứu độ (Khởi Nguyên
3:15), thì "Ngươi đang ở đâu?"
còn ám chỉ ngươi vẫn còn ở trong lòng
thương xót của Ta.
Thật vậy, chính vì tình trạng tội lỗi, còn xấu xa ghê tởm hơn
cả tình trạng tạo vật vô cùng hèn hạ ban đầu của họ mà
con người lại được nâng lên cao hơn nữa, ở
chỗ, họ tuy không còn ở trong
vườn địa đường trên trần gian này nữa,
mà lại được ở
ngay trong thâm cung của Thiên Chúa, ở ngay trong lòng thương xót vô biên
bất tận là ưu phẩm đệ nhất của Vị Thiên
Chúa toàn thiện và toàn ái, như người
trộm lành cho dù đang ở trên cây thập tự giá như một thứ tội đồ bị nguyền
rủa vô cùng khốn nạn mà đồng thời lại được ở trên thiên đàng
ngay hôm đó (xem Luca 23:39-43).
Vâng, đúng thế, hành trình đức tin của Kitô hữu chính là hành
trình cảm nghiệm thần linh, hành trình được thần linh hóa, ở chỗ, cảm
nghiệm được lòng
thương xót Chúa đối với bản thân mình, để nhờ đó và từ
đó có thể thương nhau như được Chúa xót
thương. Và chỉ cho tới lúc ấy, cho
tới độ ấy, cho tới tình trạng thần linh thiêng liêng ấy, tình trạng biết
thương xót tha nhân như chính bản thân
mình được Thiên Chúa xót thương, họ
mới thực sự nên giống Thiên Chúa và như Thiên Chúa: "Các con hãy xót
thương như Cha của các con trên trời là Đấng thương xót" (Luca 6:36).
Thế nhưng, để có thể đạt tới độ biết "thương
xót như Cha trên trời là Đấng xót thương" (Luca 6:36), tức được "nên
trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), chúng ta
cần phải bắt đầu từ chỗ cuối rốt, bằng không, chúng ta sẽ không thể nào sống
sứ vụ thương xót như Đấng "đã yêu thương cho đến cùng" (Gioan
13:1), đó là "khi Ta
đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ,
các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu,
các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mathêu
25:35-36).
Tiêu chuẩn phán xét cho phần rỗi đời đời đặc biệt của từng
Kitô hữu chúng ta trên đây được Chúa Kitô áp dụng trong cuộc chung thẩm của
Người. Nếu để ý chúng ta hiển
nhiên thấy ngay được là trong
cuộc chung thẩm, Chúa Kitô chỉ phán
xét về lòng thương xót, một tiêu
chuẩn tối hậu để được cứu độ, và một
lòng thương xót tối hậu bất khả thiếu này lại không
thể nào tự nhiên mà có, trái lại, lòng thương xót trọn lành như Cha trên
trời này chỉ bắt nguồn từ lòng tin
tưởng mà thôi, như được chứng thực trong
cuộc chung thẩm nơi cả thành phần chiên lẫn dê.
Cho dù cả chiên lẫn dê đều thưa cùng Vị Thẩm phán tối cao
rằng: "Chúng tôi có thấy Chúa đâu?" (Mathêu
25:37,44), nhưng hai số phận đời đời lại
khác nhau một trời một vực, chiên thì số phận được rỗi trên trời, còn dê thì
số phận bị tống vào vực thẳm hư vong, chỉ vì dê không thấy nên không
thương, hoàn toàn sống theo tự nhiên,
hưởng thụ, vị kỷ: "ai không yêu thương thì ở trong sự chết" (1Gioan
3:14), như người phú hộ với Lazarô (xem Luca 16:19-22), còn
chiên thì vẫn thương dù không thấy, nghĩa là chiên
biết sống "đức tin thể hiện
qua đức ái" (Galata 5:6).
Đó, hành trình đức tin ... từ chỗ cuối cùng là như thế, là ở
chỗ tin. Tin đây không phải chỉ ở chỗ nhận biết xuông, mà
còn phải thể hiện việc nhận biết ở chỗ tin tưởng -
trust. Kinh nghiệm sống đạo luôn chứng thực cho chúng ta thấy: chúng ta tin
Chúa quan phòng đấy, tin Chúa yêu thương chúng ta đấy, nhưng chỉ khi
nào Ngài ban ơn lành cho chúng ta, chỉ khi nào chúng ta gặp may lành mà
thôi, còn tất cả những gì xẩy ra trái ý của chúng ta, làm cho chúng ta đau
khổ, thì bấy giờ chúng ta thấy Ngài như ma quái, dù Người có phục sinh hiện
ra như với các
tông đồ (xem Luca 24:37).
Theo kinh nghiệm tu đức thì chỉ khi nào chúng ta tin vào Chúa
thì chúng ta mới thực sự "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ"
(Mathêu 18:3), chúng ta mới thực sự "ngồi
vào chỗ cuối cùng" (Luca 14:10), hợp với thân phận
vô cùng thấp hèn, bất toàn, bất lực và bất xứng của
chúng ta, chúng ta mới
thực sự để cho Thiên Chúa là Đấng đã
tuyển gọi chúng ta, thành phần chỉ biết chấp nhận Người và đáp ứng Người,
toàn quyền làm chủ chúng ta và sống
trong chúng ta, nhờ đó chúng ta mới có thể và xứng đáng "yêu
nhau như Thày đã yêu thương các con"
(Gioan 13:34, 15:12).
Mẹ Maria thực sự là gương mẫu tuyệt hảo cho chúng ta về chỗ
cuối cùng này, qua lời Mẹ thân thưa cùng Tổng Sứ thần ở biến cố Truyền Tin:
"Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì ngài truyền"
(Luca 1:38). Trước hết, Mẹ nhận biết mình trước nhan Thiên Chúa: "Này
tôi là nữ tỳ của Chúa", sau nữa, Mẹ hoàn toàn tin tưởng phó mình cho
Chúa, để Chúa toàn quyền muốn làm gì cho Mẹ và nơi Mẹ túy ý Chúa. Chỗ cuối
cùng của Mẹ không phải chỉ ở chỗ "là nữ
tý của Chúa",
mà là ở chỗ tuyệt đối tin tưởng vào Vị "Thiên
Chúa là Đấng cứu độ tôi" (Luca 1:47).
Nếu Mẹ Maria đã "đến mà ngồi vào chỗ cuối cùng" (Luca
14:10) trong bữa tiệc Nước Trời như thế, đến độ niềm hạnh phúc thật sự
và tuyệt hảo của Mẹ không phải là ở chỗ Mẹ đã được
cưu mang Con Thiên Chúa làm Người và đã cho Người bú, mà là ở chỗ nghe và
giữ Lời Chúa (xem Luca 11:27-28), nhờ đó, Mẹ mới được nên cao trọng nhất
trên Nước Trời (xem Mathêu 18:4), thì
không phải hay sao: Chỗ cuối cùng chính là
tuyệt đỉnh trọn lành của những tâm hồn
nào hoàn toàn nhận biết và tận tuyệt tin
tưởng vào lòng thương xót Chúa ở mọi nơi, trong mọi
lúc và hết mọi sự!?!
Miền Nam California cuối hè 2021 - Thứ Bảy ngày 18/9
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL