LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA - THẦN HIỂN

nơi Mẹ Maria - Giáo Hội - Kitô Hữu

TĐCTT Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Dẫn Nhập:

Thánh Thần chẳng những là Thâm Cung của LTXC, ở chỗ Ngài là Thần Linh nơi Thiên Chúa, là Thần Lực của Thiên Chúa, là Thần Hứng của Thiên Chúa, mà còn là Thần Trí hay Thần Khí do Thiên Chúa ban cho những ai tin vào Ngài là Tình Yêu Thương Xót qua Con của Ngài là Dung Nhan Thương Xót, nhờ đó, họ mới có thể cảm nghiệm được LTXC, hiệp thông với LTXC và nhờ đó làm chứng cho LTXC, đến độ họ trở thành một cuộc Thần Hiển (theophany) của LTXC.
Không có Thần Trí hay Thần Khí của Thiên Chúa, đã chẳng bao giờ có một Đệ Nhất Tạo Vật Về Ân Sủng là Mẹ Maria, có một Giáo Hội là Nhiệm Thế Chúa Kitô, và có thành phần Kitô hữu là con cái Thiên Chúa và là chi thể của Chúa Kitô, chứ đừng nói đến cảm nghiệm được LTXC, hiệp thông với LTXC và làm chứng cho LTXC. 
Vì Thánh Thần là Thâm Cung của LTXC, và chính vì thế đã được sai đến để tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô là Dung Nhan Thương Xót, mà Ngài có sứ vụ đưa những ai tín vào Chúa Kitô đến tất cả sự thật là chính Thâm Cung của LTXC, là bản tính Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa, và thông truyền cho họ những gì của Chúa Kitô là Dung Nhan Thương Xót (xem Gioan 16:13), nghĩa là làm cho họ biết "thương xót như Cha trên trời là Đấng thương xót" (Luca 6:36).
Nơi cả Mẹ Maria, Giáo Hội và Kitô hữu (tiêu biểu nhất là Thánh Faustina, Thánh Gioan Phaolô II và Đức Thánh Cha Phanxicô là những vị đặc biệt có liên hệ với LTXC), Thánh Thần là Thâm Cung của LTXC thực hiện 3 tác động thần linh, thứ tự Ngài làm cho họ như sau: 1- cảm nghiệm được LTXC, 2- hiệp thông với LTXC và 3- làm chứng cho LTXC.
Hiện tượng hiện xuống trong Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem xưa đã cho thấy Thánh Thần quả thực là Thần Lực của Thiên Chúa và là Thần Hứng của Thiên Chúa được thông ban cho Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng, như Thần Lực của Ngài qua hình ảnh "luồng gió mạnh" (Tông Vụ 2:3) và như Thần Hứng của Ngài qua hình ảnh "lưỡi như lửa" (TV 2:4) "đậu trên đầu từng vị tông đồ", để nhờ đó các vị được tràn đầy Thần Trí như "say men rượu mới" (TV 2:13) mà bắt đầu hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô bằng đủ mọi thứ ngôn ngữ của loài người (Tông Vụ 2:11).
MẸ MARIA - THÁNH MẪU THƯƠNG XÓT
1- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Vì Mẹ được Đấng toàn năng thương xót thực hiện những điều trọng đại
2- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Vì Mẹ đã được thông phần khổ giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô
3- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Ở chỗ Mẹ được đầy ân phúc để bù đắp ân phúc đã bị mất đi bởi nguyên tội 
4- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Ở chỗ Mẹ luôn tìm cách làm cho giờ Chúa đến vào ngay những lúc hết rượu

GIÁO HỘI - CHỨNG NHÂN THƯƠNG XÓT

1- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - 
Vì Giáo Hội được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Kitô Tử Giá
2- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - Vì Giáo Hội đã được chứng dự vào chính cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô
3- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - Ở chỗ Giáo Hội được Chúa Kitô phục sinh ủy thác cho thừa tác vụ tha thứ
4- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - Ở chỗ Giáo Hội được thông phần khổ nạn như Chúa Kitô trên thế gian này

KITÔ HỮU - TÔNG ĐỒ THƯƠNG XÓT
1- Kitô Hữu là Tông Đồ Thương Xót - Vì đó là ơn gọi chính yếu bất khả châm chước cho những ai là con Thiên Chúa
2- Kitô Hữu  Tông Đồ Thương Xót - Vì là một tội nhân vô cùng khốn nạn đã được thương xót, tha thứ và cứu chuộc
3- Kitô Hữu là Tông Đồ Thương Xót - Ở chỗ phục vụ những anh chị em hèn mọn nhất và tha thứ cho kẻ thù 
4- Kitô Hữu là Tông Đồ Thương Xót - Ở chỗ chấp nhận mọi đau khổ vì phần rồi và cho phần rỗi các linh hồn


MẸ MARIA - THÁNH MẪU THƯƠNG XÓT


1- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Vì Mẹ được Đấng toàn năng thương xót thực hiện những điều trọng đại

Nếu không được Thiên Chúa thương xót và không cảm nhận được bản thân mình được Thiên Chúa thương xót thì chúng ta không thể nào biết xót thương. Thế mà, LTXC lại hướng về và giành cho những gì là khốn nạn tội lỗi và khốn khổ đau thương. Vậy Mẹ Maria đầy ơn phúc, không hề có một tội lỗi nào, dù là nguyên tội hay tư tội, và nhờ vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc được hoài thai trong lòng thai mẫu của mình mà Mẹ Maria cũng không phải chịu hậu quả của tội lỗi là đau khổ và chết chóc, thì Mẹ có cần đến LTXC hay chăng? Nếu không thì tại sao trong Ca Vịnh Ngợi Khen - Magnificat của mình, một ca nguyện Mẹ được đầy Thánh Thần vang lên đáp lại lời ca ngợi của bà chị Isave của Mẹ:

"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc độ của tôi. Vì Người đã thương đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài, nên mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Luca 1:46-48).

Căn cứ vào chính những lời mở đầu Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ trên đây, chúng ta thấy ngay lý do Mẹ Maria đầy ơn phúc thánh hảo của chúng ta đã thực sự cảm nhận LTXC nơi Mẹ: trước hết vì Mẹ được Thiên Chúa cứu độ - "Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi" , sau nữa vì Mẹ chỉ là tôi tớ của Ngài mà "Thiên Chúa là Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại vì danh Thánh của Ngài" ( Luca 1:49), chứ không phải chỉ vì Mẹ xứng đáng.

Trước hết vì Mẹ được Thiên Chúa cứu độ - "Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi". Chúng ta không biết ngay từ lúc hoài thai Mẹ Maria đã có trí khôn chưa, đã nhận biết mình được hoài thai vô nhiễm nguyên tội hay chăng. Cho dù mạc khải Thánh Kinh không hề đề cập đến vấn đề này, nhưng chúng ta có thể suy đoán rằng Mẹ có thể đã nhận biết mình được hoài thai vô nhiễm nguyên tội ngay từ giây phút hiện hữu đầu tiên của Mẹ. Tại sao? Tại vì một khi được ơn vô nhiễm nguyên tội tức là được ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, với một bản tính trọn hảo, không có đam mê nhục dục và tính mê nết xấu là mầm mống của nguyên tội, và tinh thần của con người vô tội lúc ban đầu ấy rất ư là tinh anh với trí khôn sáng suốt và ý muốn tự do, có khả năng biết được bản thân mình và tạo vật chung quanh, như Adong đã đặt tên cho thú vật đúng với từng loại (xem Khởi Nguyên 2:19).

Chính vì thế, vì ngay từ đầu biết mình được Thiên Chúa gìn giữ cho khỏi nguyên tội, bằng không Mẹ cũng giống như tất cả loài người sau khi "tội lỗi và sự chết nhờ tội lỗi đã đột nhập vào thế gian bao gồm tất cả mọi người" (xem Roma 5:12). Nếu Mẹ không được Thiên Chúa thương cho hưởng trước ơn cứu độ của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể là Con của Mẹ sau này, thì Mẹ cũng chẳng bao giờ xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là lý do Mẹ đã công nhận và tuyên xưng rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc độ của tôi".

Sau nữa vì Mẹ chỉ là tôi tớ của Ngài mà "Thiên Chúa là Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại vì danh Thánh của Ngài" ( Luca 1:49), chứ không phải chỉ vì Mẹ xứng đáng. "Những sự trọng đại" Mẹ đề cập đến ở đây một cách trông trống là gì, nếu không phải Mẹ được Thiên Chúa chọn làm  Mẹ "Con Đấng Tối Cao" (Luca 1:32), làm Mẹ "Con Thiên Chúa" (Luca 1:35), mà vẫn còn trinh nguyên như lòng Mẹ "không hề biết đến nam nhân" (Luca 1:34) ước nguyện và mong muốn, và cũng chính vì thế mà Mẹ đã được Thiên Chúa thực hiện một việc trọng đại nữa bất khả thiếu và bất khả phân ly với thiên chức Thiên Chúa Thánh Mẫu này là được hoài thai vô nhiễm nguyên tội.


Ở đây, Mẹ đã chẳng những phải tuyên xưng thân phận tôi tớ bất xứng của Mẹ, mà còn chính vì thế mới thấy rằng những gì Mẹ được "Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng thực hiện" nơi Mẹ tự chúng đã là trọng đại lại còn trọng đại hơn nữa khi chúng được ban cho một con người thấp hèn như Mẹ. Nên cũng chính vì vậy mà Mẹ không phải là nguyên động lực thúc đẩy Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ những điều trọng đại như thế, nhưng là bởi "danh thánh của Ngài", bởi Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót đã tự động và một cách nhưng không muốn thông ban cho riêng một mình Mẹ là một trong cả loài người. Cùng lắm thì lòng khiêm cung sâu thẳm như hư không của Mẹ trước nhan Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu, Toàn Hữu và Hằng Hữu đã khiến Ngài vô cùng cảm hứng không thể không thông hết mình ra cho Mẹ nơi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng trinh nguyên thánh hảo của Mẹ.

2- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Vì Mẹ đã được thông phần khổ giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô

Có thể nói Thiên Chúa đã thông hết mình ra cho Mẹ khi ban chính Con Một của Ngài cho Mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ Ngài ban Người cho cả loài người tội lỗi là giòng dõi của Mẹ nữa. Khi thụ thai và cưu mang "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), trong cung dạ trinh nguyên và bằng con tim tin tưởng của mình, bản thân của cô thôn nữ Nazarét trẻ trung Maria tuyệt mỹ đã đính hôn với chàng Giuse ấy (xem Luca 1:26-27), bấy giờ, trong biến cố Truyền Tin, như thể đã được "mặc mặt trời" (Khải Huyền 12:1), vì đã được Đấng là "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) ngự ngay trong thân xác của cô.

Thế nhưng, mức độ "đầy ơn phúc" (Luca 1:28) của Mẹ và nơi Mẹ, ngay từ khi được hoài thai trong lòng thai mẫu, sau đó, do bởi "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) của Mẹ đã chẳng những tăng lên cho tới mức độ Mẹ đã có thể chất chứa được chính Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả, Đấng cả vũ trụ bao la hầu như vô cùng bất tận này cũng không thể nào có thể trở thành nơi cho Ngài ngự, lại đến ở ngay nơi thân xác thấp hèn và mềm yếu của Mẹ là một thiếu nữ vô danh tiểu tốt trong biến cố Truyền Tin, mà còn tăng lên cho tới tột độ khi Mẹ đứng bên thập giá của Chúa Kitô Con Mẹ trên Đồi Canvê (xem Gioan 19:25), thời điểm phải nói là Mẹ đã trở nên "rực rỡ như mặt trời" (Diễm Tình Ca 6:10).

Nếu Chúa Giêsu Kitô là Vị Thiên Chúa hóa thân làm người vô cùng nhân hậu, là tất cả mạc khải thần linh về Lòng Thương Xót Chúa, một Lòng Thương Xót Chúa đã tỏ hết mình ra nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, thì Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc "rực rỡ như mặt trời" trên Đồi Canve thật sự là Vị Thánh Mẫu Thương Xót.

Ở chỗ trái tim của Mẹ, tấm lòng của Mẹ quả thực đã chất ngất đớn đau chưa từng thấy trong cả cuộc đời trần thế của Mẹ bởi lưỡi gươm đâm thâu (xem Luca 2:35), khi Mẹ chứng dự vào cuộc khổ nạn và tử giá của Con Mẹ và với Con Mẹ, nhất là lúc thi thể vô hồn của Con Mẹ bị lưỡi đóng đâm vào khiến "máu và nước chảy ra" (Gioan 19:34), không phải chỉ vì Mẹ quá thương Con Mẹ là Vị Thiên Chúa làm người vô cùng đau khổ bấy giờ mà còn thương loài người vô cùng hèn hạ khốn nạn tội lỗi bằng chính Lòng Thương Xót của một Vị Thiên Chúa đã chết không còn biết và không còn có thể động lòng thương được nữa ngoài chính Trái Tim Người Mẹ của mình.

Bấy giờ Mẹ Maria chẳng những đau cái đau của Chúa, đau cái đau với Chúa mà còn đau cái đau thay Chúa nữa. Nếu đối tượng của Lòng Thương Xót - Mesiricordia Chúa là Nỗi Khốn Cùng - Misera của con người hay là chính con người (bao gồm cả tội lỗi họ vấp phạm lẫn hậu quả của tội lỗi là đau khổ và chết chóc họ phải chịu) thì tất cả mọi tội lỗi và khổ đau của con người, gọi chung là Nỗi Khốn Khổ ("Khốn" về phần hồn sa ngã phạm tội và "Khổ" về phần xác phải chịu đau khổ và chết đi) của họ đã được tan biến đi trong Lòng Thương Xót Chúa vô biên, một Lòng Thương Xót đã được hoàn toàn tỏ hiện nơi Chúa Kitô Tử Giá và chất chứa nơi Lòng Tin Tưởng Đầy Ơn Phúc của Mẹ Đồng Công Maria.

Nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Giêsu Kitô Con của mình, Mẹ Maria chẳng những không hề tỏ ra oán hận thành phần hành hạ, xỉ nhục và sát hại Người Con duy nhất đáng vô cùng kính mến tôn thờ của Mẹ, mà còn trái lại, thương cho họ, "vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34). Tuy nhiên, thành phần dân Do Thái lẫn dân ngoại Roma có lên án tử và sát hại Con của Mẹ chăng nữa, cũng chỉ vì tội lỗi của chung loài người, bằng không, Con Thiên Chúa đâu có phải chịu khổ và chịu chết một cách vô cùng đau đớn, nhục nhã và đáng thương hơn cả tội nhân đáng thương như thế. Nhưng Mẹ cũng không oán trách loài người, trái lại, càng như thế thì đối với Mẹ họ càng đáng thương và cần được thương cho đến cùng, để có thể được cứu độ.

Tuy nhiên, cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ không phải chỉ là một cuộc trả giá, là một việc cứu chuộc mà thôi, một việc cần phải có để đền bù lại tội lỗi của loài người bằng cái chết vô giá của Con Thiên Chúa, mà thực sự và chính yếu là một hành động thần linh vô cùng khôn ngoan và toàn năng muốn tỏ tất cả Lòng Thương Xót của mình ra nơi tất cả những gì là khốn khổ của loài người. Bởi vậy, là Người Mẹ bất khả phân ly với Con Mẹ là Chúa Giêsu Kitô, Dung Nhan của Lòng Thương Xót, Mẹ cũng cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa hơn ai hết và đã loan truyền Lòng Thương Xót Chúa hơn bao giờ hết khi đứng kề bên thập tự giá của Chúa Giêsu, bằng việc tái sinh các linh hồn từ trong Lòng Thương Xót Chúa của Mẹ!

3- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Ở chỗ Mẹ được đầy ân phúc để bù đắp ân phúc đã bị mất đi bởi nguyên tội 

Theo dự án thần linh, Thiên Chúa dựng nên một tạo vật duy nhất "đầy ơn phúc" là Mẹ Maria, đệ nhất tạo vật về ân sủng của Ngài, là để ban Mẹ cho loài người là giòng dõi của Mẹ.

Thật vậy, nếu Thiên Chúa là Đấng toàn thiện và toàn mãn, khi tỏ mình ra và thông mình ra, bằng tất cả thượng trí khôn ngoan và toàn năng của mình, phải làm sao cho thấy tất cả những gì là toàn hảo và toàn mỹ của mình, thì đó là lý do Ngài đã tạo dựng nên một tạo vật, tuy không phải Thiên Chúa như Ngài nhưng lại hoàn toàn giống Ngài, tràn đầy tất cả những gì là toàn chân thiện mỹ của Ngài dù không phải như Ngài. Tạo vật đó chính là Mẹ Maria, một tạo vật duy nhất mang danh xưng "đầy ơn phúc" (Luca 1:28), đúng như lời Sứ Thần Gabiên kính chào Mẹ mở đầu cho Biến Cố Truyền Tin: "Kính mừng đầy ơn phúc", chứ không phải "kính mừng Maria đầy ơn phúc" như trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn đọc.

Danh xưng chính xác nhất về Mẹ Maria và xứng hợp nhất của Mẹ Maria quả thực là "đầy ơn phúc", ở chỗ, trước hết và trên hết, Mẹ đầy Thiên Chúa "là Đấng Có" (Xuất Hành 3:14), Đấng Tự Hữu, Toàn Hữu và Hằng Hữu, Mẹ được "Chúa ở cùng" (Luca 1:28) ngay từ khi hoài thai trong lòng thai mẫu, trong khi cả loài người đang ở dưới quyền thống trị của Satan trong vương quốc của hắn, trong đó bao hàm cả vị tổ phụ Abraham "là cha của tất cả các kẻ tin" (xem Roma 4:16), cả Moisen được chọn làm vị giải phóng dân tộc Do Thái khỏi cảnh làm tôi Ai Cập, cả Vua Đavít là tổ phụ của chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, cả Vị hôn phu Giuse của Mẹ "là một con người công chính" (Mathêu 1:19), cả Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Con Mẹ là nhân vật "cao trọng nhất trong thành phần được phụ nữ sinh ra" (xem Mathêu 11:11).

Mẹ Maria được "Chúa ở cùng" như thế có nghĩa là Mẹ có tất cả những gì Thiên Chúa có, theo tầm vóc của loài người, có nghĩa là Mẹ phải là một tuyệt phẩm tạo dựng của Thiên Chúa, đến độ có thể nói Mẹ chính là chân dung thần linh của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa đã dựng nên loài người theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ: trước hết, là hình ảnh của Thiên Chúa, nên loài người đã được Thiên Chúa tạo dựng nên từng người một cách đặc thù, hoàn toàn không giống bất cứ một người nào từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế cho dù loài người có nhiều như sao trên trời như cát dưới biển chăng nữa; sau nữa, loài người được dựng nên tương tự như Thiên Chúa ở chỗ biết yêu thương và hiệp thông, như Thiên Chúa duy nhất nhưng lại có 3 Ngôi và 3 Ngôi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất.

Tuy nhiên, hình ảnh thần linh nơi loài người đã bị méo mó khi con người qua hai nguyên tổ của họ sa ngã phạm tội, vì hai con người đầu tiên này đã có ước muốn cùng tác hành không "tương tự như Thiên Chúa", nghĩa là không biết yêu thương và hiệp thông thực sự, mà chỉ biết duy cái tôi vị kỷ đầy tham vọng của mình mà thôi. Và đó là lý do ngay trong án phạt nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15), hình ảnh một người nữ đã xuất hiện ở lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, như thể người nữ này đã được Thiên Chúa tiền định để chụp bắt cơ hội nguyên tội chợt xẩy ra hết sức hiếm có ấy để dùng Mẹ là tạo vật tuyệt hảo tuyệt mỹ của Ngài bù đắp lại tất cả những gì là khiếm khuyết và tội lỗi của loài người là một tạo vật linh ư vạn vật nhưng tự bản chất bất toàn không thể nào toàn hảo như chính Đấng tạo dựng nên mình, (dù được Thiên Chúa dựng nên tốt đẹp), và vì bất toàn nên không thể nào không xẩy ra khiếm khuyết và lỗi lầm sa phạm, nếu không liên lỉ được "Chúa ở cùng" như nơi Mẹ Maria "đầy ơn phúc", một tình trạng "đầy ơn phúc" mà chính Mẹ cũng phải liên lỉ chẳng những gìn giữ cho khỏi vơi đi hay mất đi bởi tội lỗi mà còn phải làm sao gia tăng theo từng tác động thần linh trong suốt cuộc đời của Mẹ, bằng chính "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) của Mẹ, một đức tin là yếu tố chủ quan nơi Mẹ để Mẹ nhờ đó mới "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45).

Đúng thế, theo dự án thần linh cứu độ của mình, nhất là theo khuynh hướng thần linh của mình trong việc ban phát một cách nhưng không ("các con đã lãnh nhận nhưng không cũng phải cho đi nhưng không" - Mathêu 10:8), ban phát tất cả ("ban Con duy nhất của mình cho thế gian" - Gioan 3:16), ban phát cho tới cùng ("chết cho người mình yêu" - Gioan 15:13), nên tất cả những gì Thiên Chúa ban phát cho ai thì chúng cần phải sinh hoa kết trái thế nào, bằng việc chia sẻ hơn là giữ kỹ chẳng sinh lợi gì, một thứ nguyên vẹn bị nguyền rủa và trừng phạt đời đời (xem Mathêu 25:24-30), Mẹ Maria cũng thế, mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ là để bù đắp có tình trạng "vô phúc" của loài người, một tình trạng "vô phúc" có nghĩa đen là "không có phúc" hay "thiếu ơn phúc" hoặc "mất ơn phúc" thậm chí "bất hạnh" (theo nghĩa đen cũng có nghĩa là "vô phúc").

Đó là lý do trong dụ ngôn về nén bạc được Thánh ký Mathêu thuật lại ở đoạn 25, Chúa Giêsu đã đề cập đến một chi tiết là những gì Ngài ban chẳng những cần phải được sinh lợi mà không được phung phí nữa, nếu người này không sinh lợi thì để cho người khác sinh lợi thế bằng chính vốn liếng nén bạc của họ: "Các ngươi hãy lấy của kẻ có 1 ngàn mà trao cho kẻ có 10 ngàn. Những ai đã có thì lại được ban thêm cho càng dồi dào" (28-29). Nếu không thể nói chỉ vì loài người mắc nguyên tội đã trở thành "vô phúc" mà Mẹ Maria mới được "đầy ơn phúc", như thể Thiên Chúa đã lấy tất cả ơn phúc của loài người mà ban cho một mình Mẹ, thì phải nói rằng Thiên Chúa ban cho Mẹ được "đầy ơn phúc" là để bù đắp cho cái "vô phúc" của con người.

Phải chăng Mẹ Maria đã ý thức được như vậy qua lời ở ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat của Mẹ: "Ngài đã trông đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài mà từ nay muôn đời tất cả mọi thế hệ sẽ khen rằng tôi diễm phúc" (Luca 1:48)? Chắc chắn một điều là vì Mẹ được "đầy ơn phúc" nên Mẹ phải giống Thiên Chúa nhất, Đấng là Tình Yêu Thương Xót chỉ muốn thông mình ra cho loài người tạo vật vô cùng khốn nạn của mình thế nào thì Mẹ cũng tràn đầy Lòng Thương Xót của Ngài, với Ngài và như Ngài trong việc chia sẻ tình trạng "đầy ơn phúc" của Mẹ cho giòng dõi của mình như vậy. Tức Mẹ được thương xót thể nào thì Mẹ cũng xót thương như thế, bắt chước Chúa Kitô Con Mẹ: "Cha Thày yêu Thày thế nào Thày cũng yêu các con như vậy" (Gioan 15:9).

4- Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thương Xót - Ở chỗ Mẹ luôn tìm cách làm cho giờ Chúa đến vào ngay những lúc hết rượu

Phúc Âm đã cho chúng ta thấy hai trường hợp điển hình về ý thức của Mẹ liên quan tới tình trạng "đầy ơn phúc" của Mẹ, đến nỗi khiến Mẹ cảm thấy trách nhiệm khẩn thiết của Mẹ về tình trạng "đầy ơn phúc" cần phải được chia sẻ này, theo đúng ý muốn của Đấng đã ban ơn phúc cho Mẹ, đến độ đã thông chính bản thân của Ngài cho Mẹ là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) trong thân xác thấp hèn của Mẹ, cũng như theo khuynh hướng ban phát của Đấng đã muốn đến với chung loài người qua bản thân của Mẹ.

Trường hợp thứ nhất là việc Mẹ "vội vã lên đường" (Luca 1:39) đến viếng thăm bà chị họ của Mẹ ở "một tỉnh thuộc đồi núi xứ Giuđêa" (Luca 1:39) không phải để giúp đỡ bà theo tình nghĩa họ hàng tự nhiên về máu mủ, cho bằng, vì Đấng toàn hữu đang thực sự hiện diện trong lòng của Mẹ bằng chính huyết nhục của Mẹ, Đấng luôn muốn thông mình ra cho nhân loại, ban mình cho loài người, Đấng muốn qua Mẹ "đầy ơn phúc", nhất là lúc chính thân xác trinh nguyên của Mẹ vừa được cưu mang chính Con Thiên Chúa "đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) làm người, để chia sẻ mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ cho cả hai mẹ con của vị tiền hô Gioan Tẩy Giả. Đến độ, Mẹ vừa mở lời chào bà chị họ của Mẹ thì thai nhi liền "nhẩy mừng trong lòng bà, làm Bà Isave tràn đầy Thánh Linh" (Luca 1:41), như chính bà Isave thú nhận: "khi chị vừa nghe lời em chào thì con trong lòng chị nhẩy mừng" (Luca 1:44).

Trường hợp thứ hai là việc Mẹ hiện diện ở tiệc cưới Cana, một hiện diện hiếm có đối với một con người thích ẩn dật và khiêm tốn như Mẹ, nhất là ở những bữa tiệc tùng sang trọng như thế. Dường như chỉ vì có cả sự hiện diện của Con Mẹ cùng với các môn đệ nồng cốt đầu tiên của Người mà Mẹ đã không thể nào không tới, một hành động kề cận của Mẹ bên Chúa như báo trước việc Mẹ kề cận bên thập giá Con Mẹ sau này (xem Gioan 19:25), một kề cận liên quan đến một sự kiện tối quan trọng hơn sự kiện nước lã hóa thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana này, một sự kiện nước lã hóa thành rượu ngon như thể ám chỉ đến một cuộc biến đổi thần linh trên Đồi Canve sau này, cuộc biến đổi dấm chua, (một chất dung dịch ám chỉ niềm đớn đau chua chát của cả Chúa Kitô lẫn Mẹ của Người phải chịu trước tội lỗi của chung loài người và riêng thành phần vô ơn bội nghĩa với ơn cứu chuộc vô giá trong giòng thời gian), thành nguồn ơn cứu độ nơi "máu và nước chảy ra" (Gioan 19:29-30,34) từ cạnh sườn của Chúa Kitô Tử Giá bị lưỡi đòng đâm thâu.

Bởi thế, tuy phép lạ hóa nước lã thành rượu theo tự nhiên để cứu vãn tình thế khó xử cho đôi tân hôn ở tiệc cưới Cana, về tính cách của nó, có vẻ tầm thường không đáng kể và hình thức bề ngoài cho một nhu cầu tự nhiên không cần thiết, nhưng lại quan trọng để báo trước mầu nhiệm cứu độ, mầu nhiệm bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa khoản đãi khách dự tiệc bằng chính huyết nhục Con Ngài. Do đó, vai trò của Mẹ Maria ở bên Con Mẹ trong tiệc cưới Cana cũng báo trước vai trò đồng công cứu chuộc của Mẹ sau này, một vai trò bất khả thiếu, cho dù tự thân Con Mẹ vẫn có thể cứu chuộc loài người. Thế nhưng, chính vì muốn được cứu độ con người cần phải cộng tác với Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã đại diện loài người hợp tác với Ngài, với tư cách là một môi giới giữa Con Mẹ là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa lúc nào cũng muốn tỏ mình ra và loài người khốn khổ lúc nào cũng ở trong tình trạng hết rượu, thiếu rượu ân sủng thần linh, thậm chí hết rượu và thiếu rượu mà họ cũng không biết hay không công nhận hoặc coi thường nữa, như đã xẩy ra trong tiệc cưới Cana này (xem Gioan 2:9).

Nếu Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria được "đầy ơn phúc" là để Mẹ chia sẻ cho loài người, nhất là vào những lúc họ "hết rượu" ân sủng thần linh, lúc họ đã mất ơn nghĩa với Chúa gây ra bởi nguyên tội, thì việc Mẹ can thiệp vào biến cố ở tiệc cưới Cana đã cho thấy Mẹ ý thức biết bao về trách nhiệm của một con người "đầy ơn phúc" như Mẹ.

Trước hết, Mẹ đã tự động biết được tình trạng "vô phúc" bất hạnh bấy giờ ở tiệc cưới Cana và đã chủ động ra tay cứu giúp, chứ chính Mẹ không cần phải có ai nhắc bảo Mẹ hay van xin Mẹ, bởi chẳng có ai biết Mẹ quyền thế trước mặt Con Mẹ mà làm điều ấy. Như thể Mẹ "đầy ơn phúc" luôn tìm cách để tràn ra, để chia sẻ, như "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) luôn soi sáng vậy.

Sau nữa, Mẹ đã đến với Con của Mẹ trước, không phải để xin Con Mẹ hãy ra tay cứu giúp đôi tân hôn và chủ tiệc, cho bằng báo cho Con Mẹ biết rằng Người đang có một cơ hội hết sức thuận lợi để Người có thể tỏ mình ra cho các môn đệ của Người thấy mà tin vào Người: "Họ hết rượu rồi" (Gioan 2:3,11).

Sau đó Mẹ đã biết Mẹ cần phải làm một việc bất khả thiếu nữa đó là dọn đường cho Con Mẹ để Con Mẹ có thể dễ dàng và mau chóng tỏ mình ra như Người mong muốn, dù chưa tới giờ cứu độ cuối cùng của Người, đó là việc Mẹ đến thẳng với nhóm phục tiệc để bảo họ "hãy làm theo những gì Người bảo" (Gioan 2:5).



GIÁO HỘI - CHỨNG NHÂN THƯƠNG XÓT


1- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - Vì Giáo Hội được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Kitô Tử Giá

Nếu tột đỉnh của tất cả LTXC là ở nơi Chúa Kitô Tử Giá, và nếu "Người đã yêu thương những kẻ thuộc về Người thì Người chứng tỏ Người đã yêu thương họ cho tới cùng" (Gioan 13:1), ở chỗ chẳng những "vì họ mà Con tự hiến" (Gioan 17:19), "chết cho người mình yêu" (Gioan 15:13), mà còn ở chỗ không còn yêu hơn đươc nữa, không còn gì để cho ngoài những giọt "máu và nước chảy ra" (Gioan 19:34) cuối cùng từ thi thể bất động trên thập tự giá của mình, thì, như Eva xuất phát từ cạnh sườn của Adong đang thiếp ngủ say thế nào (xem Khởi Nguyên 2:21), Giáo Hội cũng được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Kitô Tử Giá, mà Giáo Hội chính là và phải là Chứng Nhân Thương Xót.

"Máu và nước" tuôn ra (nhìn bề ngoài) từ cạnh sườn của Chúa Kitô đã chết, hoàn toàn bất động, đúng hơn từ chính trái tim ở bên trong thi thể của Chúa Giêsu chất chứa một số ý nghĩa tiêu biểu như sau:

Trước hết, là biểu hiệu cho chính Cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc vượt qua từ sự chết / Tử Giá (qua hình ảnh "máu" - tia sáng đỏ trong tấm Ảnh LTXC) đến sự sống / Phục Sinh (qua hình ảnh "nước" - tia sáng trắng trong tấm Ảnh LTXC).

Sau nữa, là biểu hiệu cho chính Chúa Kitô "là sự sống lại ("máu" cứu độ) và là sự sống ("nước" tái sinh)" (Gioan 11:25), "Vị mục  tử nhân lành đến cho chiên được sự sống ("máu" sinh lực) và là sự sống viên mãn hơn ("nước" Thánh Linh)" (Gioan 10:10).

Sau hết, là biểu hiệu cho các Bí Tích Thánh chính yếu liên quan đến sự sống thần linh, đặc biệt là 3 Bí Tích Nhập Môn Kitô giáo, đó là Bí Tích Thanh Tẩy ("máu" hy sinh đền tội) là Bí Tích làm Kitô hữu được "sự sống lại", Bí Tích Thánh Thể ("nước" thần lực trường sinh - Gioan 4:13; 6:35) là Bí Tích làm cho Kitô hữu được "sự sống", và Bí Tích Thêm Sức ("nước" Thánh Linh - Gioan 7:37-39) là Bí Tích làm cho Kitô hữu được "sống viên mãn hơn" để nhờ đó họ có thể làm chứng cho Chúa Kitô cùng với Chúa Thánh Thần và bởi Chúa Thánh Thần (xem Gioan 16:26-27; Luca 14:48-49).

Nếu "máu và nước" tiêu biểu và án chỉ các Bí Tích ban cứu độ, thì được xuất phát từ cạnh sườn của Chúa Kitô Tử Giá, Giáo Hội cũng chính là Bí Tích Cứu Độ, tức là dấu chỉ và là phương tiện của LTXC trong việc truyền đạt sự sống thần linh cho những ai tin vào Chúa Kitô nhờ chứng từ của Giáo Hội được tỏ hiện qua các cành nho sinh hoa trái của Giáo Hội.

Giáo Hội là chứng nhân thương xót ở đây, ở chỗ được hạ sinh từ cạnh sườn của Chúa Kitô Tử Giá, liên quan đến vai trò thừa tác của Giáo Hội trong việc thông ban sự sống thần linh của Chúa Kitô cho "những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) bởi Giáo Hội nói chung và các thừa tác viên thánh chức đại diện Giáo Hội nói riêng.

Giáo Hội là chứng nhân thương xót ở đây nhờ được hạ sinh từ cạnh sườn của Chúa Kitô Tử Giá cũng liên quan đến vai trò làm Mẹ của Giáo Hội nữa, ở chỗ Giáo Hội tỏ ra quan tâm và chăm sóc cho từng đứa con của mình, thành phần do chính Giáo Hội hạ sinh nơi Bí Tích Thánh Tẩy, nuôi dưỡng bằng Bí Tích Thánh Thể, dạy dỗ bằng giáo dục huấn quyền, tăng trưởng bằng Bí Tích Thêm Sức, tha thứ bằng Bí Tích Hòa Giải, ban quyền bằng Bí Tích Truyền Chức, kiên cường bằng Bí Tích Xức Dầu Thánh và chúc phúc bằng Bí Tích Hôn Phối.

Giáo Hội là chứng nhân thương xót vì được hạ sinh từ cạnh sườn của Chúa Kitô Tử Giá ở đây còn liên quan đến chính Mầu Nhiệm Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, một hiệp thông thần linh giữa các phần thể thuộc một thân thể Chúa Kitô duy nhất, như chính Chúa Kitô mong muốn và đã cầu nguyện cùng Cha để nhờ đó Người được thế gian nhận biết mà được sự sống: "Con sống trong họ, Cha sống trong Con để sự hiệp nhất của họ được trọn vẹn. Nhờ đó thế gian nhận biết rằng Cha đã sai Con và Cha yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con" (Gioan 17:23).

Giáo Hội là chứng nhân thương xót nhờ xuất phát từ cạnh sườn của Chúa Kitô Tử Giá ở đây liên quan đến cả sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội "duy nhất" nữa. Một Giáo Hội chia rẽ, không yêu thương nhau thì làm sao có thể làm chứng cho Chúa Kitô, trái lại, một Giáo Hội hiệp nhất là một Giáo Hội chẳng những "duy nhất" mà còn là một Giáo Hội "thánh thiện" nữa, một tình trạng "duy nhất" và "thánh thiện" được tỏa ra tỏ tường nơi đức ái trọn hảo của Giáo Hội mang tính chất "tông truyền" của một "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), nhờ đó Giáo Hội có thể tạo nên một tác dụng "công giáo" mãnh liệt nơi chứng từ yêu thương của mình: "tất cả mọi người cứ dấu này mà nhận ra các con là môn đệ của Thày đó là các con yêu thương nhau" (Gioan 13:35).

2- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - Vì Giáo Hội đã được chứng dự vào chính cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô

Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng "Đá" là "Phêrô" nói riêng (xem Mathêu 16:18) và các tông đồ nói chung (xem Mathêu 18:18; Epheso 2:20). Thế nhưng, để các Nhóm 12 Tông Đồ này trở thành nền tảng của Giáo Hội nhờ đức tin tông truyền của các vị, các vị cần phải được chính Chúa Kitô "tăng thêm đức tin" cho các vị (Luca 17:5), có thế các vị mới có thể và xứng đáng trở nên thành chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, Đấng mà các vị được Người tuyển chọn ở với Người để sai các vị đi (xem Marco 6:7), sau khi các vị đã đích thân chứng kiến thấy tất cả thực tại thần linh nơi Người bằng chính mắt của các vị, tai của các vị và tay của các vị (xem 1Gioan 1:1-3), và đã tuyên xưng đúng "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) về Người: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).

Bởi vậy, trong suốt thời gian được ở với Chúa Giêsu Kitô ngay "từ ban đầu" (Gioan 15:27), "từ phép rửa của Gioan cho tới ngày Người được cất khỏi chúng ta" (Tông Vụ 1:22), các tông đồ được Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho các vị một cách trực tiếp (qua các bài giảng hay huấn dụ hoặc hành vi cử chỉ của Người liên quan đến riêng cùng các vị), hay gián tiếp qua những giao tiếp của Người (bằng lời nói, việc làm và phản ứng) với thành phần dân chúng cũng như với thành phần thông luật và lãnh đạo trong dân.

Cốt lõi của những gì Người muốn tỏ ra cho các tông đồ biết đó là thực tại thần linh về Người, một mầu nhiệm mà các vị không thể nào cảm nghiệm được và nắm bắt được bằng việc tiếp xúc tự nhiên với Người hay bằng suy luận của tâm trí của các vị. Thực tại thần linh về Người đó là những gì không thể nào nhận ra nếu không có đức tin, đó là căn tính về Người, như chính tông đồ Phêrô đại diên chung tông đồ đoàn đã công khai tuyên xưng rất chính xác khi được Người hỏi: "Phần các con cho Thày là ai?": "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), một lời tuyên xưng hoàn toàn chính xác nhưng không xuất phát từ con người mà từ trời: "Không phải con người thuần túy tỏ cho con điều này mà là Cha của Thày trên trời" (Mathêu 16:17).

Chính vì lời tuyên xưng đức tin chính xác này của tông đồ Phêrô "không phải con người thuần túy tỏ cho con điều này mà là Cha của Thày trên trời" mà ngay sau đó tông đồ Phêrô đã cho thấy ngay cái cảm nghiệm đức tin hay ý niệm đức tin của mình (có tính cách chủ quan) hoàn toàn khác hẳn với thực tại đức tin hay chân lý đức tin (có tính cách khách quan), thậm chí còn rất ư là trái ngược với thực tại đức tin nữa, khi ngài thân tình quí mến Thày can gián Thày sau khi nghe Thày lần đầu tiên tiết lộ về Bí Mật Vượt Qua của Người rằng: "Người phải lên Giêrusalem và chịu nhiều đau khổ ở đó trong tay thành phần kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ, rồi bị giết chết, và sẽ sống lại vào ngày thứ ba" (Mathêu 16:21).

Sở dĩ vị giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập và cắt đặt trở thành một "Satan" trước mặt Chúa Kitô bấy giờ, đáng bị Người xua đuổi, bị Người quở trách thậm tệ chưa từng thấy, hơn bất cứ một vị tông đồ nào, là vì tông đồ Phêrô này đã phạm đến một trọng tội làm méo mó chân dung và căn tính của Người là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", một thực tại đức tin đúng như ngài đã tuyên xưng chính xác mới trước đó một chút. Và sở dĩ vị lãnh đạo tông đồ đoàn là Phêrô chủ chốt này vấp phạm một lỗi lầm theo khách quan không thể tha thứ này chỉ vì "ngươi xét đoán không theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa mà theo loài người" (Mathêu 16:23).

Đúng thế, tông đồ Phêrô đã "xét đoán không theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa mà theo loài người" ở chỗ, theo ngài, đã là "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" thì không thể nào lại có thể bị loài người làm chủ và sát hại như thế. Tuy phán đoàn này đúng theo lý lẽ và lập luận của loài người nhưng lại không đúng với những gì Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan phán quyết, ở chỗ, "một người chết thay cho nhiều người" (Gioan 11:50; Mathêu 20:28), và "không một ai trên trời hay dưới đất hoặc trong lòng đất xứng đáng" (Khải Huyền 5:3), về cả tư cách lẫn khả năng, để chết cho nhiều người, nhờ đó cái chết của họ có một tác dụng thần linh là cứu độ tất cả mọi người trên trần gian này, ngoài chính "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", "Con Chiên bị sát tế" (xem Khải Huyền 5:5). Mà cái chết này không phải là một cái chết êm ái dịu dàng, cái chết tốt lành của một lãnh tụ được dân quí mến và thương tiếc, trái lại, là một cái chết vô cùng đớn đau và nhục nhã, của một tên đại tội phạm, bị đóng đanh giữa hai tên tử tội trộm cướp, hoàn toàn bất xứng với thân phận của "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

Chính vì là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", một Vị Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót, đến độ "yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài" (Gioan 3:16), thậm chí "đã không dung tha cho Con của Ngài, một đã phó nộp Người" (Roma 8:32), mà Con Một của Ngài mới cần phải làm sao có thể thực sự là Dung Nhan Thương Xót (Misericordiae Vultus - nhan đề của Tông Sắc Năm Thánh Thương Xót của ĐTC Phanxicô), thành hiện thân sống động của LTXC, cho tới độ Người đã trở thành đáng thương chính tội nhân đáng thương, cho đến độ Cha không nhận ra chính dung nhân của mình nữa, trước tiếng kêu vô cùng thống thiết của Con Ngài trên thập tự giá: "Chúa Trời tôi ơi, Chúa Trời tôi ơi, nhân sao Ngài lại bỏ rơi tôi" (Mathêu 27:46).

Bởi vậy, các tông đồ làm chứng cho Chúa Kitô chính là làm chứng cho LTXC, chứ không phải chỉ làm chứng về một sự kiện vừa thần linh vừa lịch sử đó là sự kiện nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" đã thật sự Vượt Qua từ sự chết đến sự sống. Đó là lý do Chúa Kitô Phục Sinh đã phán cùng các tông đồ đang lo sợ ẩn mình trong căn nhà khóa kín sau cuộc khổ nạn và tử giá của Người, rằng: "Các con là chứng nhân về điều ấy" (Luca 24:48), không phải chỉ về những diễn tiến nơi Cuộc Vượt Qua của Người mà nhất là và chính yếu là về LTXC, căn nguyên thúc đẩy Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót đã sai Con Ngài và cống hiến Con Ngài cho phần rỗi của nhân loại chỉ là tạo vật vô cùng thấp hèn và khốn nạn của Ngài.

3- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - Ở chỗ Giáo Hội được Chúa Kitô phục sinh ủy thác cho thừa tác vụ tha thứ

Giáo Hội, qua thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ, được chứng dự vào chính cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô như thế mà, Giáo Hội, cũng qua các ngài, được Chúa Kitô Phục Sinh trao ban quyền tha tội của Người khi thông ban Thánh Linh của Người cho các tông đồ: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha; các con cầm tội ai thì tội của người ấy bị cầm lại" (Gioan 20:22-23).

Chính khi Giáo Hội đóng vai thừa tác viên thương xót bằng việc tha tội cho con người Kitô hữu theo năng quyền Chúa ban là Giáo Hội đồng thời cũng thực hiện việc "nhân danh Thày rao giảng cho tất cả mọi dân nước lòng thống hối để được ơn tha tội" (Luca 24:47). Bởi thế, nếu việc ban bí tích hòa giải là một cách rao giảng về LTXC để tội nhân thống hối lãnh nhận ơn tha thứ thì các vị thừa tác viên, theo Vị Giáo Hoàng Thương Xót Phanxicô, chẳng những không được sử dụng tòa giải tội để tra tấn tội nhân, trái lại, vì ý thức sâu xa chính bản thân mình cũng là tội nhân như ai, các vị phải thương cảm tội nhân hơn ai hết và vì thế mà dịu dàng với tội nhân để họ dễ dàng trở về với LTXC, hơn là hoảng sợ không dám trở lại tòa LTXC là tòa giải tội nữa.

Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây không phải là "tha tội" mà là "cầm tội". Thật vậy, nếu Giáo Hội là thừa tác viên thương xót bằng năng quyền tha tội được ủy nhiệm thay mặt Chúa Kitô của mình để rao giảng lòng thống hối cho con người được ơn tha tội, thì tại sao lại còn có vấn đề "cầm tội" của người ta, của tội nhân, nhất là khi họ thành tâm thống hối ăn năn muốn được thứ tha, tức là như thế thì vẫn còn có một số tội nào đó Giáo Hội không thể nào tha được theo bản chất tội phạm, hơn là không được tha theo thẩm quyền tha tội của mình?


Thật ra LTXC bao la bất tận không một tội nào mà không thể tha, cho dù là tội tầy trời chăng nữa, cho dù nhiều tội mấy chăng nữa. Tất cả đều đã được tha thứ nơi Chúa Giêsu Kitô Vượt Qua và bởi Người, cho dù là những tội kinh tởm khủng khiếp nhất ấy chưa kịp phạm hay chưa phạm bởi chúng ta là kẻ đang sống hoặc bởi những con người chưa sinh vào trần gian cho đến tận thế. Công nghiệp của Chúa Kitô, vì là Thiên Chúa, nên có giá trị vô cùng, chẳng những có thể cứu được nguyên thế gian tội lỗi của chúng ta đây, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, mà còn cứu được cả muôn muôn ức triệu thế giới tội lỗi khác nữa. Bởi thế, tội lỗi, cả về phẩm lẫn về lượng, có thể vượt ra ngoài LTXC vô cùng bất tận.

Tiếc thay, vô cùng tiếc thay, đến nỗi có lẽ vì thế mà Chúa Giêsu đã khóc 2 lần (xem Gioan 11:35; Luca 19:41), chỉ có một tội duy nhất không thể thứ tha và không được tha thứ, đó chính là thứ "tội bị cầm lại". Thậm chí chính Giáo Hội nắm chia khóa đóng mở trong tay (xem Mathêu 16:18) cũng không thể nào tha thứ được, không phải vì Giáo Hội không tha được mà chính vì tội ấy không được tha. Đó là tội phạm đến Thánh Linh là chính thâm cung thương xót, hay là chính Lòng (thâm cung) Thương Xót Chúa, một thứ tội hoàn toàn và dứt khoát không chấp nhận LTXC, nên "không thể được tha thứ cả ở đời này lẫn đời sau" (Mathêu 12:32). Bởi vì tội phạm đến Thánh Linh này là tội ngang nhiên chối bỏ (deny) chính Thiên Chúa, chối bỏ (deny) chính yếu tính LÀ Thiên Chúa và căn tính LÀM Thiên Chúa: "Nếu chúng ta chối bỏ (deny) Ngài thì Ngài cũng chối bỏ (deny) chúng ta. Nếu chúng ta bất trung (unfaithful) thì Ngài vẫn trung thành (faithful), vì Ngài không thể chối bỏ (deny) chính mình Ngài" (2Timotheu 2:12).

Thật vậy, bởi Thánh Linh là Thâm Cung Thương Xót, hay là chính Lòng Thương Xót Chúa, mà Thiên Chúa đã vô cùng khôn ngoan và toàn năng trong việc cứu độ loài người tạo vật vô cùng thấp hèn và tội lỗi, bằng việc ban tặng và thí mạng chính Con Một Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô cho loài người vô cùng khốn nạn bất xứng, bằng một tình yêu thương xót hoàn toàn nhưng không, một tình yêu tuyệt hảo, một tình yêu vô đối, một tình yêu vô cùng bất tận, đến độ Ngài không còn cách nào, dù điên khùng ngu xuẩn đến mấy, yêu thương họ hơn được nữa, ngoài cái giá phải trả cho tội lỗi khủng khiếp của họ để nhờ đó họ được tái sinh và hiệp thông thần linh với Ngài, một cái giá quá cao đó là một Thiên Chúa Làm Người là Đức Giêsu KitôTử Giá!

Đối với riêng Giáo Hội, Thánh Linh được ban cho chung loài người và được sai đến cho riêng Giáo Hội Chúa Kitô sau biến cố Thăng Thiên về trời của Chúa Giêsu,  là để "dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13), ở chỗ giúp cho Giáo Hội càng ngày càng hiện thực đức tin của mình trong việc "nhận biết Cha là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô" (Gioan 17:3), bằng cách "Ngài sẽ lấy từ Thày những gì Ngài sẽ truyền đạt cho các con" (Gioan 16:14), nghĩa là Ngài làm cho Giáo Hội nên giống Chúa Kitô, nên một với Chúa Kitô, nhờ đó Giáo Hội mới có thể cùng với Ngài và nhờ Ngài mà làm chứng cho Chúa Kitô: "Khi Đấng An Ủi đến, là Thần Chân Lý đến từ Cha cũng là Đấng chính Thày sai đến từ Cha, Ngài sẽ làm chứng cho Thày. Các con cũng phải làm chứng nữa..." (Gioan 15:26-27).

Đối với chung nhân loại, bởi Thánh Thần là thâm cung Thương Xót, là chính Lòng Thương Xót Chúa mà Nhiệm Thể Chúa Kitô có Chúa Kitô là Đầu và Thánh Linh là Hồn Sống, Giáo Hội thực sự đúng là Chứng Nhân Thương Xót, ở chỗ, Giáo Hội chẳng những thi hành thừa tác vụ tha thứ của mình trong nội bộ con cái của Giáo Hội, mà còn bằng thừa tác vụ tông đồ truyền giáo "cho muôn dân - ad gentes" nữa (xem Mathêu 28:19), để "nhân danh Người (Chúa Giêsu Kitô) rao giảng lòng thống hối để được ơn tha thứ" (Luca 24:47) cho họ, trước hết bằng Bí Tích Thanh Tẩy.

Bằng chứng từ Thương Xót của Giáo Hội nơi các phần thể của Giáo Hội trên khắp thế giới, trong việc phục vụ bác ái xã hội về mọi lãnh vực như giáo dục về tinh thần, sức khỏe về thể xác, nhân quyền về phẩm giá v.v., như các dòng tu nam nữ vẫn thực hiện trong giòng lịch sử Giáo Hội, Chúa Thánh Thần liên tục "chứng minh cho thế gian thấy họ sai lầm về tội lỗi, về công lý và về luận phạt" (Gioan 16:8), những gì đã được chính Chúa Giêsu dường như đã viết xuống trên đất trong trường hợp Người tỏ LTXC với cả người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình lẫn thành phần tố cáo chị (xem Gioan 8:1-11).

Bởi thế, một khi Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót, qua Chúa Giêsu Kitô, vị Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua, đã yêu loài người vô cùng thấp hèn, khốn nạn và tội lỗi đến cùng, không thể nào yêu họ hơn được nữa, và đồng thời Ngài cũng, nhờ Thánh Thần là Thâm Cung Thương Xót, Đấng từ cả Cha và Con mà đến, tìm hết cách để giúp con người vô cùng yếu hèn mù quáng nhận biết tình yêu thương xót của Ngài, mà con người vẫn không nhất định không chấp nhận, vẫn cứ chối bỏ LTXC cho tới cùng, thì linh hồn vô cùng vô phúc ấy chỉ còn đời đời "khóc lóc và nghiến răng" (Mathêu 13:42; 22:13): "khóc lóc" vì vô cùng đau khổ cùng đời đời khổ đau, và "nghiến răng" vì hối hận cũng đã lỡ mất rồi không còn kịp nữa, không còn cơ hội để được cứu độ nữa như khi còn sống trên trần gian, và vì thế, vì "muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1Timotheu 2:5) mà Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu Kitô, Vị Thiên Chúa đã hóa thân Làm Người, đã đổ mồ hôi máu nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44)!

4- Giáo Hội là Chứng Nhân Thương Xót - Ở chỗ Giáo Hội được thông phần khổ nạn như Chúa Kitô trên thế gian này

Giáo Hội là chứng nhân thương xót không phải chỉ ở chỗ thi hành thừa tác vụ tha thứ theo năng quyền Chúa ban cho Giáo Hội liên quan đến tội lỗi của riêng nội bộ con cái trong Giáo Hội (đặc biệt bằng Bí Tích Hòa Giải) cũng như của chung loài người (đặc biệt bằng Bí Tích Rửa Tội), mà còn ở chỗ được thông phần vào Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô trong giòng lịch sử của Giáo Hội nữa.

Thật vậy, nếu "đầy tớ không hơn chủ nhân và sứ giả không hơn vị sai phái" (Gioan 13:16), thì Giáo Hội không thể nào thoát được thân phận khổ nạn và tử giá như Chúa Kitô và với Chúa Kitô: "Nếu các con thấy thế gian thù ghét các con thì các con hãy biết rằng họ đã ghét Thày trước các con rồi. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian ưu ái các con như của riêng nó; sở dĩ thế gian thù ghét các con là vì các con không thuộc về thế gian. Nhưng Thày đã chọn các con ra khỏi thế gian. Các con hãy nhớ những gì Thày đã nói với các con, đó là tôi tớ không hơn chủ nhân. Họ sẽ gây khốn đốn cho các con như họ đã gây khốn đốn cho Thày.... Vì Thày mà họ làm cho các con tất cả những điều ấy, vì họ không biết gì về Đấng đã sai Thày" (Gioan 15:18-21).

Nhưng cũng chính trong cuộc khổ nạn và tử giá bởi thế gian như thế mới chứng tỏ Giáo Hội thật sự thuộc về Chúa Kitô và hoàn toàn sống ngược với thế gian, chứ không hùa theo thế gian và bị thế gian đồng hóa. "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14): Lời nhập thể chứ không biến thể, tuy "Người nên giống chúng ta mọi đàng" (Do Thái 2:17): "Chúng ta có Đấng bị cám dỗ mọi đàng như chúng ta mà không phạm tội" (Do Thái 4:15).

Và cũng chính nhờ bị thế gian thù ghét, bắt bớ và sát hại mà vẫn, qua vị phó tế tử đạo tiên khởi Stephano, như Chúa Giêsu thương cảm tha thứ cho kẻ làm khốn hại mình: "Xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34), mà Giáo Hội càng trở thành Chứng Nhân Thương Xót tỏ tường hơn bao giờ hết và hơn ai hết, và như thế Giáo Hội tỏ ra "trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), đồng thời Ngài cũng chính "là Đấng thương xót" (Luca 6:36).

Trong khi Giáo Hội là chứng nhân thương xót qua thừa tác vụ tha thứ chỉ giới hạn vào thành phần có chức thánh thuộc hàng tư tế là các vị giám mục và linh mục, thì vai trò chứng nhân thương xót của Giáo Hội còn có thể hiện thực chẳng những qua các việc phục vụ bác ái xã hội của Kitô hữu nói chung, bao gồm cả thành phần tín hữu giáo dân, và của các dòng tu nam nữ nói riêng, mà còn qua các đau khổ thử thách của họ trải qua trong đời sống gia đình hay xã hội hoặc Giáo Hội. Việc họ nhẫn nại chịu đựng lẫn nhau, vui chịu bệnh nạn tật nguyền, sống an phận nghèo khổ, quảng đại tha thứ cho những ai làm khốn hay làm hại mình v.v. không phải là các chứng từ thương xót hùng hồn hay sao, và vì thế chẳng lẽ lại không có tác dụng thần linh trong việc cứu độ các linh hồn cần đến LTXC hay sao?

Trong cuộc Vượt Qua của mình nói chung và cuộc Khổ Nạn của Người nói riêng, Chúa Kitô không phải chỉ bị thành phần dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng, bao gồm cả các luật sĩ, kỳ lão và trưởng tế, bắt giữ hạch tội, lên án tử giá, xỉ vả nhạo báng, cũng như bị cả dân ngoại là quân Rôma bấy giờ luận tội và kết án tử giá theo ý muốn của dân Do Thái, mà nhất là còn bị chính các vị tông đồ là thành phần bạn hữu thân cận nhất của mình âm mưu phản bội bán đi sau khi Người được xức dầu thơm ở Bêthania (xem Mathêu 26:14-16), bỏ rơi tẩu thoát khi Người bị bắt giải đi trong Vườn Cây Dầu, và trắng trợn chối bỏ khi Người đang bị hạch tội bởi Hội Đồng Đầu Mục Do Thái ở Dinh Caipha.

Giáo Hội cũng thế, cuộc khổ nạn của Giáo Hội như Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu của Giáo Hội cũng bao gồm cả những cái nhức nhối nhất và xót xa nhất ở ngay trong lòng của Giáo Hội, ngay trong nội bộ của Giáo Hội, với những chia rẽ công khai đầy gương mù: giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma với Giáo Hội Chính Thống Đông Phương năm 1052, hay với phong trào Thệ Phản Tin Lành khởi xướng từ vị linh mục Dòng Au-Quốc Tinh Luther năm 1517 ở Đức quốc, hoặc với cuộc ly khai thành Giáo Hội Anh Giáo gây ra bởi Vua Henry VII bên Anh quốc năm 1535. Chưa kể đến những bè rối cùng với các lạc thueý6t gây lũng đoạn Giáo Hội từ thế kỷ thứ tư suốt mấy thế kỷ liền sau đó.

Ngày nay, nỗi xót xa đau đớn trong lòng của Giáo Hội là ở chỗ Kitô hữu khắp nơi nói chung, nhất là Tây phương nói riêng, bị tục hóa rất nhiều, đến độ thế giới Tây phương Kitô giáo đã trở thành thế giới phản kitô qua chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, tôn sùng quyền làm người và giảiquyết mọi sự theo chiều hướng thực dụng, bất chấp mọi luân thường đạo lý và chân lý Thánh Kinh. Hậu quả của tình trạng bị tục hóa này là ơn gọi tu trì và linh mục chẳng những trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết, mà còn bao gồm cả biết bao nhiêu là những thứ cấp tiến quá trớn, hoàn toàn ngược lại với thành phần cực đoan bảo thủ. Thậm chí còn bao gồm cả hiện tượng linh mục lạm dụng tình dục vị thành niên, một hiện tượng bị bùng ra từ TGP Boston tiểu bang Massachusetts Hoa Kỳ từ đầu năm 2002 tới nay.

Có thể nói chính Chúa Kitô vẫn còn tiếp tục chịu khổ nơi Giáo Hội và với Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người để nhờ đó Người có thể tỏ LTXC cho chung thế giới loài người và cho riêng nội bộ Giáo Hội, và nhờ đó Giáo Hội mới có thể trở thành Chứng Nhân Thương Xót của Người và với Người.


 

KITÔ HỮU - TÔNG ĐỒ THƯƠNG XÓT

1- Kitô Hữu là Tông Đồ Thương Xót - Vì đó là ơn gọi chính yếu bất khả châm chước cho những ai là con Thiên Chúa

Lý do trước hết và trên hết buộc Kitô hữu phải là Tông Đồ Thương Xót bởi vì họ là con Thiên Chúa, Đấng được Chúa Kitô kêu gọi họ "Các con hãy thương xót như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36). Như thế, nếu không biết thương xót như Cha của mình thì thành phần đã lãnh nhận Phép Rửa để được trở nên con cái Thiên Chúa đã không sống đúng với ơn gọi trọn lành như Cha trên trời của mình (xem Mathêu 5:48).

Thật vậy, đã là con cái của Thiên Chúa thì phải có một bản tính hoàn thiện và đời sống trọn lành mới thật sự là con cái của Ngài, và đời sống trọn lành để tỏ hiện bản tính hoàn thiện của mình là con cái Thiên Chúa đã được tóm gọn trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu và đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở 3 đoạn 5-7, nhưng ở trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 6 được gọi là Bài Giảng Mặt Bằng, vì Chúa Giêsu và 12 tông đồ được Người tuyển chọn trên núi theo Người xuống núi gặp gỡ dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người ở một mặt bằng (xem Luca 6:17).

Nội dung chính yếu của Bài Giảng Trên Núi cũng là Bài Giảng Mặt Bằng này chẳng qua chỉ là giáo huấn của Chúa Kitô, Người Con đẹp lòng Cha mọi bề (xem Mathêu 3:17) nên cần phải nghe theo lời Người (xem Mathêu 17:5), vì Người là Con ruột của Thiên Chúa, Đấng biết Cha mình là ai và muốn gì nên "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18)
cho chung loài người và cho riêng "những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).

Nếu Bài Giảng Trên Núi của Thánh ký Mathêu ám chỉ ơn gọi cao cả của các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi, nền tảng cho một Giáo Hội được Người thiết lập như là một "thành xây trên núi không thể khuất được nữa" (Mathêu 5:14), ơn gọi "nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), một ơn gọi cao cả, một ơn gọi siêu việt, thì Bài Giảng Mặt Bằng của Thánh ký Luca ám chỉ ơn gọi liên quan đến nhân loại hơn là với Thiên Chúa, ở chỗ "thương xót như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36).

Như thế, có thể định nghĩa ơn gọi nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành chính là ơn gọi thương xót như Cha là Đấng thương xót. Nếu Thiên Chúa là Đấng trọn lành ở chỗ thương xót thì càng thương xót càng trọn lành, vì thương xót chính là cốt lõi của bản tính trọn lành, là đệ nhất ưu phẩm của Thiên Chúa, là chân dung của Vị "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Gioan 4:8,16).

Chính vì thương xót là một ưu phẩm tối thượng của Thiên Chúa mà chúng ta mới nói Lòng Thương Xót Chúa (LTXC) / the Mercy of God / the Lord of Mercy, hơn là Lòng Chúa Thương Xót (không biết cụm từ này phải dịch sang tiếng Anh như thế nào), vì Lòng Chúa Thương Xót, theo cấu trúc của cụm từ 4 chữ được đặt theo kiểu Việt ngữ này, nhấn mạnh đến hành động của Thiên Chúa, đến tác động thương xót và thương xót trở thành tác động của Thiên Chúa hơn là ưu phẩm của Ngài.

Trong khi thực tế cho thấy bản chất hoặc tính chất hay phẩm chất là những gì dính liền với bản vị và bản tính của một hữu thể, yếu tố có trước và chi phối tác hành của hữu thể đó. Như thế, nếu nói rằng Lòng Chúa Thương Xót thì ở một nghĩa nào đó, chúng ta đã vô tình hạ giá ưu phẩm thương xót của Thiên Chúa xuống thành một tác động. Theo ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng, cho dù nói đến tác động thương xót của Thiên Chúa, chữ thương xót vẫn không bao giờ trở thành động từ mà luôn là danh từ (ám chỉ bản chất): "Lord, have mercy on me" (Kinh Thương Xót trong phần thống hối đầu lễ của Giáo Hội) hay là tĩnh từ (ám chỉ tính chất): "The Lord your God is the merciful God" (Đệ Nhị Luật 4:31).

Theo thần học và tu đức Kitô giáo, một khi đã lãnh nhận Phép Rửa Tái Sinh, Kitô hữu trở thành những đứa con thừa nhận của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô Con Một Ngài và nhờ Thánh Thần được Ngài ban cho họ để ở trong họ. Mà đã là con cái thì phải có cùng một bản tính với cha của mình, không phải một cách bẩm sinh như Chúa Giêsu Kitô là Con Ruột của Chúa Cha "được sinh ra mà không phải được tạo thành" như loài người tạo vật chúng ta, mà là được thông phần hay được tham dự vào bản tính thần linh của Thiên Chúa mà thôi.

Một khi Kitô hữu nhờ Phép Rửa tái sinh đã được thông phần vào bản tính thần linh của Thiên Chúa thì Kitô hữu đồng thời cũng sống sự sống thần linh của Thiên Chúa, sống sự sống thần linh với Thiên Chúa và sống sự sống thần linh như Thiên Chúa, một sự sống thần linh vô cùng viên mãn và trọn lành đã được hoàn toàn tỏ hiện nơi bản thân và cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Làm Người, và là một sự sống thần linh tràn đầy Thánh Linh của Thiên Chúa, một sự sống thần linh liên lỉ đáp ứng theo tác động của Thánh Linh như "gió muốn thổi đâu thì thổi" (xem Gioan 3:8) ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự.

Chính vì sự sống thần linh nơi Kitô hữu là một sự sống thần linh như Chúa Kitô là Dung Nhan của Lòng Thương Xót - Miseridordiae Vultus đã sống và theo Thánh Thần là Đấng được Chúa Kitô Phục Sinh thông sang cho các tông đồ để các vị có thể tha tội lỗi cho con người (xem Gioan 20:21-22) tác động như vậy mà Kitô hữu nhờ đó mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" ở chỗ "thương xót như Cha là Đấng thương xót". 

2- Kitô Hữu  Tông Đồ Thương Xót - Vì là một tội nhân vô cùng khốn nạn đã được thương xót, tha thứ và cứu chuộc

Thế nhưng, thực tế sống đạo phũ phàng cho thấy ơn gọi "các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời của các con là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48) là một lý tưởng bất khả đạt, thậm chí đối với con người vô cùng thấp hèn yếu đuối khốn nạn dại khờ thì chỉ là một ảo tưởng, vô vọng, và ơn gọi "các con hãy thương xót như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36) cũng thế, đối với con người vốn hướng hạ, vị kỷ và gian ác thì ơn gọi "thương xót như Cha" này chỉ là những gì cuồng tín, ngu dại, điên khùng, nhu nhược, thua thiệt v.v.

Thật thế, cho dù đã lãnh nhận Phép Rửa Tái Sinh để được tham phần vào bản tính thần linh của Thiên Chúa và sống sự sống thần linh của Thiên Chúa, với Thiên Chúa và như Thiên Chúa, Kitô hữu vẫn không thể nào "nên trọn lành như Cha trên trời của mình là Đấng trọn lành" bằng việc "thương xót như Cha thương xót". Bởi vì, Kitô hữu vẫn  còn nguyên mầm mống nguyên tội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu và vẫn phải tiếp tục gánh chịu tất cả hậu quả phũ phàng thảm thương của nguyên tội là đau khổ và chết đi, chưa kể còn bị ma quỉ cám dỗ và thế gian mê hoặc. 

Trước hết, theo bản tính tự nhiên vốn hướng hạ, là con người, Kitô hữu vẫn tiếp tục và hằng liên lỉ tìm kiếm những gì là thoải mái dễ chịu, không bao giờ chấp nhận những gì là khó chịu về thể lý và trái ý về tâm lý, liên quan đến thân phận, hoàn cảnh và môi trường sống của họ, trong đó bao gồm đặc biệt nhất là mối liên hệ về nhân sinh với tha nhân. Và theo tâm lý tự nhiên vốn hướng nội, chỉ tìm kiếm bản thân mình, sống vị kỷ, là con người, như bất cứ ai khác, Kitô hữu chủ trương "ai là anh em tôi?" chứ không phải "tôi là anh em họ!".

Nghĩa là, trong mối liên hệ nhân sinh về xã hội, bao gồm tất cả mọi con người không phải là chính bản thân mình, tức bao gồm cả cha mẹ, vợ chồng và con cái lẫn thân thuộc và thân hữu, Kitô hữu, theo khuynh hướng tự nhiên, vẫn luôn "chọn bạn mà chơi", tức là chỉ chọn những ai mình quen biết để ngồi đồng bàn với họ, những ai mình thích họ hay họ thích mình để nói chuyện với họ, giúp đỡ họ, nể nang họ và bênh vực họ, còn những ai Kitô hữu không hợp, hay họ không thích Kitô hữu hay Kitô hữu không thích họ, vì bất cứ lý do nào, thì Kitô hữu xa lánh họ, không thích trò truyện với họ, không dám đến gần họ, như dân Do Thái với dân ngoại ngày xưa.

Bởi thế, đối với những ai xúc phạm đến Kitô hữu, làm hại họ, nói hành nói xấu họ, chụp mũ họ, hiểu lầm họ, vu khống họ, thì họ khó lòng mà tha thứ cho thành phần kẻ thù của họ ấy, trái lại, họ thậm chí còn tìm cách trả đũa, ăn miếng trả miếng, mắt đền mắt, răng đền răng, thậm chí kẻ thù của họ còn phải chịu khổ chịu thiệt chịu khốn hơn họ nữa họ mới cảm thấy dễ chịu, họ mới cảm thấy vui "cho mày chết", "đáng đời mày". Bởi thế, vấn đề "khi các con đến dâng của lễ mà ngay khi đó chợt nhớ rằng có ai phạm đến các con thì các con hãy bỏ của lễ lại đó mà về làm hòa với họ đã rồi hãy đến mà dâng lễ vật" (Mathêu 5:23-24) đúng là những hành vi cử chỉ quái gở. Và vấn đề "ai tát má này thì các con hãy chìa cả má kia nữa" (Mathêu 5:39) thì lại càng là một thứ khùng điên không thể nào có chuyện như thế trên đời này.

Chưa hết, với những Kitô hữu còn tiếp tục chiều hướng "chọn bạn mà chơi" và thái độ "mắt đền mắt răng đền răng" như thế thì một khi họ gặp những người anh em đồng đạo nào không đạo đức như họ hay không đạo đức theo kiểu họ nghĩ, nhất là khi gặp những con người Kitô hữu khác sống một cuộc đời bê bối, một cuộc đời buông thả, cờ bạc, nghiện ngập, ngoại tình, gian tham, hống hách v.v. chưa kể đến ly dị tái hôn hay đồng tính luyến ái v.v. thì chắc chắn sẽ trở thành đồ nguyền rủa trước mắt họ, thậm chí bị họ khinh bỉ trong lòng, chửi vào mặt, nói hành nói xấu và xa lánh thật xa v.v.

Trong khi đó, chính bản thân của những Kitô hữu này cũng chẳng tốt lành gì, thậm chí có vẻ tốt lành đạo đức, đọc kinh đi lễ hằng ngày, chay tịnh hằng tuần, xưng tội hằng tháng, tĩnh tâm hằng năm, bố thì mỗi khi có thể v.., nếu vẫn còn có những tâm tưởng và hành vi cử chỉ cùng phản ứng phản kitô trên đây, đời sống đạo của họ chỉ là giả hình, xây trên cát mà thôi... Cho tới lhi Thiên Chúa phải nhúng tay vào, cho họ trở thành một thứ bị nguyền rủa như họ đã nguyền rủa kẻ khác, cho họ sa ngã như thành phần tội nhân bị họ khinh bỉ và xa lánh, cho họ bị thù hắn oán ghét như họ đã oán ghét anh em họ v.v. bấy giờ họ mới cảm thấy thông cảm với tha nhân mà không dám khinh một ai nữa.

Cũng chỉ cho tới bấy giờ họ mới thấy rằng ơn gọi "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" quả thực là ở chỗ "thương xót như Cha của các con là Đấng thương xót", và ơn gọi này không phải là một thứ lý tưởng thuần túy bất khả đạt như là một ảo tưởng hoang đường mà là những gì cần thiết nhất và xứng đáng nhất để họ có thể tác hành xứng với thân phận và tư cách là con cái của Thiên Chúa vô cùng toàn hảo (xem Mathêu 5:45), bằng không họ cũng chỉ tác hành như dân ngoại hay như tội nhân (xem Luca 6:32-34; Mathêu 5:46-47) tầm thường trên thế gian này mà thôi, hoàn toàn bất xứng với thiên chức làm con Thiên Chúa.

Thế nhưng, chính những ơn gọi trổi vượt này, mà theo bản tình tự nhiên con người không thể nào vươn tới, đã cho thấy nó xuất phát từ mạc khải thần linh, nó là đạo từ trời chứ không phải từ con người thuần túy, từ bất cứ một giáo tổ thuần nhân nào, một ơn gọi cần phải có ân sủng thần linh mới có thể chấp nhận và đạt tới, đạt tới thật sự, như lịch sử Giáo Hội Kitô giáo cho thấy nơi các vị thánh qua giòng thời gian ở mỗi thời đại của các ngài, thành phần thiểu số được Thiên Chúa tỏ mình ra cho một cách nào đó và vào một thời điểm nào đó, để nhờ đó và từ đó, nhờ được thương xót và cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa, họ mới có thể và xứng đáng trở thành chứng nhân của Lòng Thương Xót Chúa, chứng nhân về chính bản thân họ đã được Thiên Chúa thương xót để "xót thương như Cha thương xót", như mẫu gương của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô (1Timotheu 1:12-16):

"Tôi tạ ơn Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Ðấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Ðây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: đó là Ðức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Ðức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời".

3- Kitô Hữu là Tông Đồ Thương Xót - Ở chỗ phục vụ những anh chị em hèn mọn nhất và tha thứ cho kẻ thù 

Một khi Kitô hữu đã thực sự cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa thì họ chẳng những biết thông cảm với tha nhân nói chung, nhất là với những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô về mọi thứ yếu kém, bất hảo và tồi tệ của những người anh chị em này về mọi phương diện thể lý, tâm lý và luân lý, mà còn quan tâm đến người khác nhiều hơn, đến độ có thể dấn thân phục vụ để đáp ứng những nhu cầu cần thiết của tha nhân, bằng việc làm cụ thể, bằng lời nói ủi an phấn khích, nhất là bằng lời nguyện cầu cho họ, theo ba cấp độ tác hành thương xót được Chúa Giêsu dạy Chị Thánh Faustina (xem Nhật Ký - số 742).

Con gái của Cha ơi, nếu Cha cần nhờ con để người ta tôn kính tình thương của Cha, thì con phải là người đầu tiên trổi vượt trong sự tin cậy vào tình thương của Cha. Cha đòi hỏi nơi con những việc làm của tình thương được bắt nguồn từ tình yêu đối với Cha. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, con phải chứng tỏ tình thương đối với tha nhân của mình. Con không được lẩn trốn làm điều này, hay tìm cách miễn trừ hoặc tự miễn cho mình làm điều này. Cha ban cho con 3 cách thế để thực thi tình thương đối với tha nhân của con: thứ nhất là bằng việc làm, thứ hai là bằng lời nói, thứ ba là bằng cầu nguyện. Tầm mức viên trọn của tình thương được chất chứa nơi ba cấp trật này, và đó là một dấu chứng không thể chối cãi của tình yêu đối với Cha. Nhờ cách này mà một linh hồn tôn vinh và dâng niềm tôn kính lên tình thương Cha”.

Theo đường lối tu đức tự nhiên và bình thường thì Kitô hữu vốn nghĩ rằng muốn thực hành các hành động đạo đức của mình một cách tốt lành theo ý Chúa, thì Kitô hữu cần phải thi hành theo thứ tự từ trong ra ngoài như sau: trước hết là cầu nguyện để biết được ý Chúa, sau đó mới đến lời nói liên quan đến những gì Chúa soi sáng khi cầu nguyện và sau cùng mới tới việc làm những gì được cho là đẹp lòng Chúa sau khi đã suy nghĩ cầu nguyện. Thế nhưng, ở đây, khi thực thi thương xót, Chúa Giêsu lại dạy ngược lại, việc làm cụ thể đầu tiên, sau đó mới tới lời nói và sau cùng là cầu nguyện! Tại sao thế? Xin thưa là như thế này:

Trưóc hết là việc làm tỏ lòng thương xót cụ thể là những gì chúng ta thường tỏ ra với những người gần gũi với chúng ta và hầu như để đáp ứng nhu cầu vật chất của họ, liên quan đến "thương người có 14 mối thương xác 7 mối: thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống, thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc, thứ bốn viếng kẻ liệt cùng tù rạc, thứ năm cho khách đỗ nhờ, thứ sáu chuộc kẻ làm tôi, thứ bảy chôn xác kẻ chết", những việc làm cụ thể này cũng được Chúa Kitô lấy làm tiêu chuẩn để phán xét tối hậu trong cuộc chung thẩm (xem Mathêu 25:31-46).

Sau nữa là lời nói tỏ lòng thương xót là những gì liên quan đến tâm hồn của những ai gần gũi mình, an ủi họ khi họ sầu thương, khuyến khích họ khi họ chán nản, khuyên bảo họ khi họ thắc mắc và bối rối, khuyên can họ khi họ có ý định làm những gì sai quấy không hợp với luật Chúa và Giáo Hội, chỉ bảo họ khi họ lầm lỗi v.v., nghĩa là những gì liên quan tới việc "thương linh hồn 7 mối", nhất là 4 mối đầu tiên: "thứ nhất lấy lời lành mà khuyên người, thứ hai mở dậy kẻ mê muội, thứ ba an ủi kẻ âu lo, thứ bốn khuyên bảo kẻ có tội".

Nếu chúng ta đọc tiếp 3 mối cuối cùng trong việc "thương linh hồn 7 mối" chúng ta sẽ thấy bao gồm 3 thái độ thương xót cao nhất, đặc biệt là mối thứ 7: "Thứ năm tha kẻ dể ta, thứ sáu nhịn kẻ mất lòng ta, thứ bảy cầu cho kẻ sống và kẻ chết". Thật vậy, mối "thương linh hồ" thứ sáu và thứ bảy là hai mối đụng chạm đến chính bản thân của chúng ta, thành phần nạn nhân của sự dữ do phạm nhân gây ra cho mình, nhưng nạn nhân vốn là thành phần đáng thương lại phải tỏ ra thương xót phạm nhân, ở chỗ "tha kẻ dể ta" và "nhịn kẻ mất lòng ta".

Sau hết là việc cầu nguyện tỏ lòng thương xót: "Thứ bảy, cầu cho kẻ sống và kẻ chết". "Kẻ sống và kẻ chết" ở đây theo bình thường là kẻ còn sống chưa chết và kẻ chết là kẻ đã không còn sống trên trần gian này nữa. Nếu thế thì cầu cho kẻ sống và kẻ chết đây không có gì là khó lắm, dễ làm thôi, nhất là đối với những người thân yêu của mình đã qua đời và những người còn sống xin chúng ta cầu nguyện, cũng như chính những người chúng ta cảm thấy họ đáng thương cần cầu nguyện cho, như các nạn nhân của thiên tai và nhân tai.

Tuy nhiên, nếu "kẻ sống và kẻ chết" đây hiểu theo nghĩa thiêng liêng, như lời tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: "Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng", thì "kẻ sống và kẻ chết" đây chính là chiên và dê (Mathêu 25:31-33): chiên là kẻ sống, được xếp ở bên phải Đức Kitô thẩm phán, vì được ơn nghĩa Chúa và được cứu rỗi; còn dê là kẻ chết, bị xếp ở bên trái Vị Thẩm Phán, vì không có lòng thương xót nên bị hư đi đời đời.

Vậy việc "cầu cho kẻ sống và kẻ chết" ở đây khi Kitô hữu chúng ta còn sống trên đời này có nghĩa là, trước hết chúng ta cầu cho những người anh chị em vẫn còn ơn nghĩa Chúa của chúng ta thuộc thành phần "kẻ sống" được trung thành với ơn nghĩa Chúa cho tới cùng, được mỗi ngày một thánh đức hơn mà làm chứng cho Chúa Kitô. Sau nữa chúng ta cầu cho "kẻ chết" là những người anh chị em đang sống trong tội lỗi, mất ơn nghĩa Chúa, những người anh chị em sống đạo đức nhưng mù quáng giả hình, những người anh chị em hận thù ghen ghét chúng ta, những người anh chị em chúng ta ác cảm, những người anh chị em sống gian ác, các phạm nhân gây tai họa cho anh chị em mình như chúng ta nghe hay thấy tin tức hằng ngày v.v.

Việc cầu nguyện tỏ lòng thương xót sở dĩ được Chúa Giêsu xếp cao nhất trong 3 hành vi thương xót là vì cầu nguyện bao gồm cả "kẻ sống và kẻ chết", bao gồm toàn thể thế giới, vượt không gian và thời gian, nhất là xuất phát từ chính lòng tin tưởng vào một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể làm được những gì con người bất khả sau khi họ đã hết sức, trong lời nói và việc làm, mà không được, mà vẫn bất thành, trong việc giúp đáp một hay một số anh chị em đáng thương nào đó về phần rỗi đời đời vô cùng quí báu của họ.


4- Kitô Hữu là Tông Đồ Thương Xót - Ở chỗ chấp nhận mọi đau khổ vì phần rồi và cho phần rỗi các linh hồn

Tuy nhiên, còn một việc nữa, không được kể đến trong bản liệt kê "thương người có 14 mối", một việc mà chỉ có một thiểu số tâm hồn, rất hiếm có, được tuyển gọi đặc biệt để làm, đó là hành động chấp nhận mọi khổ đau vì phần rỗi và cho phần rỗi các linh hồn. Thành phần Kitô hữu nào được tuyển gọi cần phải đạt đến mức độ tu đức thần hiệp, tức là tới mức độ hiệp thông thần linh với Chúa Kitô, đến độ có cùng một tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng như Chúa Kitô, theo tác động thần linh của Thánh Thần.

Thương xót không phải là thương hại, vì thương hại thuộc về kẻ cả nhìn xuống kẻ hèn. Thương xót cũng hơi khác với thương yêu, vì thương yêu chỉ nhắm đến những gì hợp với mình và những gì tốt lành đáng yêu. Còn "thương xót" bao gồm cả lòng "thương" cảm nơi chủ thể lẫn nỗi "xót" xa với tình trạng khốn khổ của tha nhân. Bởi thế, thương xót là lòng cảm "thương xót" xa những nỗi khốn khổ của tha nhân, thông phần nỗi khốn khổ với tha nhân (như Chúa Kitô "đã hóa ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi" (Philiphe 2:7), chia sẻ khốn khổ như tha nhân (như Chúa Kitô đã chữa lành cho dân chúng) và thậm chí chịu đựng khốn khố thay cho tha nhân (như Chúa Kitô "đã hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" - Matheu 20:28). Tâm hồn Kitô hữu nào mà có lòng khao khát và dám dấn thân chịu khổ thay cho tha nhân để cứu tha nhân khốn cùng thì quả thật đã nên giống Chúa Kitô nhất, đã đạt tới đỉnh trọn lành là "thương xót như Cha là Đấng thương xót".

Một khi được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, Kitô hữu sẽ không thể nào cảm thấy bình thường như chẳng có gì xẩy ra khi thấy một người anh chị em của họ sa ngã phạm tội mất lòng Chúa. Như Mẹ Maria Đồng Công trên Đồi Canve xưa, họ vừa cảm thấy xót xa nỗi đớn đau của một vị Thiên Chúa vô cùng toàn thiện và toán ái bị loài người vô cùng thấy hèn khốn nạn cả gan xúc phạm, vừa cảm thương tội nhân đã "lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34). Trái lại, nỗi xót xa với Vị Thiên Chúa nạn nhân và cảm thương tội nhân ấy đã khiến Kitô hữu làm tất cả những gì có thể tyrong tầm tay của họ để đền tạ Chúa và cứu các tội nhân, cho dù họ có phải chịu đựng khổ đau vì họ và thay cho họ, cái khổ đau của chính Đấng Nạn Nhân bị xúc phạm.

Hai Chân Phước Phanxicô và Giaxinta là 2 trong 3 Thiếu Nhi Fatima thụ khải năm 1917, theo ơn gọi của từng em, những ơn gọi bất khả thiếu và bất khả phân ly vừa đền tạ Chúa vừa cứu các linh hồn: Chân Phước Phanxicô là em Thiếu Nhi Fatima, nhờ bị ấn tượng dung nhan vô cùng sầu thảm của Mẹ Maria vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, khi Mẹ kêu gọi "đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của cúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi", đã trở thành chuyên viên đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể mà em gọi là "Giêsu Ẩn Thân - Hidden Jesus", bằng chuỗi Kinh Mân Côi; trong khi Chân Phước Giaxinta lại chuyên môn hy sinh cứu các tội nhân để cho họ khỏi lửa hỏa ngục là một thực tại em đã thị kiến thấy vào ngày 13/7/1917 cùng với 2 Thiếu Nhi Fatima kia và là một thị kiến kinh hoàng đã làm em bị ấn tượng nhiều nhất, khiến em vô cùng cảm thương các tội nhân khốn nạn hơn ai hết, đến độ em dám làm tất cả và hy sinh tất cả cùng chịu đựng tất cà, kể cả bị chết một mình le loi cô đọc lúc 10 tuổi như em được Đức Mẹ báo trước cho càng đau khổ, để cứu các tội nhân đáng thương.

Chị Thánh Faustina, vị nữ tu sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa cũng đã đáp lời kêu gọi của Chúa Giêsu dâng mình cho các tội nhân trong việc sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả do tội lỗi của tội nhân gây ra để cứu họ, như chị đã từng bị 3 lần quằn quại bụng dạ ruột gan từ 8 đến 11 giờ đêm để thông công với cơn buồn khổ của Chúa Kitô trong Vườn Cây Dầu mà cầu cho các thai nhi bị phá, như chị thuật lại trong Hồi Ký khoản 1276. Sau đây là lời chị khấn hứa với Chúa để đáp lại lời kêu gọi đóng vái đồng công với Người cứu các tội nhân:

«Cha muốn con thực hiện việc hiến dâng bản thân con cho tội nhân, nhất là cho những linh hồn đã mất niềm hy vọng vào tình thương của Cha»(Nhật Ký 308)

Trước trời đất, trước tất cả triều thần Thiên quốc, trước nhan Rất Thánh Trinh Nữ Maria, trước tất cả mọi Quyền Năng thiên đình, con xin tuyên hứa cùng Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi là hôm nay, hiệp cùng Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc của các linh hồn, con thực hiện một việc tự nguyện hiến dâng bản thân mình cho việc hoán cải của các tội nhân, nhất là cho những linh hồn đã mất niềm hy vọng vào tình thương của Chúa. Việc hiến dâng này là ở chỗ, bằng lòng hoàn toàn thuận phục ý Chúa, con chấp nhận tất cả mọi đau khổ, sợ hãi và kinh hoàng tràn đầy nơi các tội nhân. Ngược lại, con sẽ hiến cho họ tất cả mọi niềm an ủi linh hồn con nhận được từ việc hiệp thông với Chúa. Tắt một lời, con xin cống hiến hết mọi sự cho họ: Các Thánh Lễ, những lần Hiệp Lễ, các việc thống hối, những hãm mình khổ chế, các lời nguyện cầu. Con không sợ những giáng phạt, những giáng phạt của đức công minh thần linh, vì con liên kết với Chúa Giêsu. Ôi Chúa Trời con, nhờ đó, con muốn bù đắp cho Chúa thay thế những linh hồn không tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa. Trong tận cùng tuyệt vọng con hy vọng vào tình thương bao la của Chúa. Lạy Chúa con và lạy Thiên Chúa của con, phần phúc của con – phần phúc muôn đời của con, con không cậy sức mình để thực hiện việc hiến dâng này, nhưng dựa vào sức mạnh xuất phát từ các công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô. Hằng ngày con sẽ lập lại việc hiến dâng bản thân này bằng việc xướng lên lời nguyện chính Chúa đã dạy con sau đây: ‘Ôi Máu và Nước tuôn ra từ Trái Tim Chúa Giêsu như Mạch Nguồn Tình Thương cho chúng con, con tin tưởng nơi Chúa’” - Nữ Tu Maria Faustina Bí Tích Thánh - Thứ Năm Tuần Thánh, trong Thánh Lễ, 29/3/1934 (Nhật Ký - 309)

 

Trong bài giảng phong thánh cho Nữ Tu Faustina ngày 30/4/2000, “Nữ Tu Faustina Kowalska đã viết trong Nhật Ký của chị như sau: 'Tôi cảm thấy đớn đau kinh khủng khi tôi thấy những đớn đau của anh chị em tôi. Tất cả mọi khổ đau của anh chị em tôi đều dội lại nơi trái tim của tôi; tôi ôm ấp nỗi sầu thương của họ trong trái tim tôi đến độ thậm chí nó hủy hoại tôi về thể lý. Tôi muốn tất cả mọi nỗi sầu thương của họ đều đổ xuống trên tôi, để nhẹ gánh cho anh chị em của tôi' (Nhật Ký, trang 365). Đó là mức độ cảm thương được tình yêu dẫn tới, khi lấy tình yêu Thiên Chúa làm mức đo lường của nó”. (ĐTC Gioan Phaolô II - Bài Giảng Lễ Phong Hiển Thánh cho Chân Phước Maria Faustina 30/4/2000)


Nếu Chân Phước Giaxinta luôn khao khát hy sinh và biến tất cả mọi sự thành hy sinh để cứu các tội nhân, và nếu Chị Thánh Faustina dám dấn thân chịu tất cả mọi hậu quả gây ra bởi tội lỗi của tội nhân để cứu họ, thì Thánh Margarita Alacoque, sứ giả của Thánh Tâm Chúa, còn đi xa hơn thế nữa, còn dám sẵn sàng bị hư đi cho phần rỗi các tội nhân. Bởi thế, trong Tự Truyện của Chị Thánh Margarita Maria Alacoque, đoạn 57, chị đã cho biết tình trạng thần hiệp cao siêu hiếm có chị được Chúa Kitô ban cho chị liên quan đến Thứ Sáu Đầu Tháng như sau:
 
"Cũng trong lần Trái Tim Thần Linh của Người mở ra, thì có một ngọn lửa từ đó bắn ra, nồng nhiệt đến nỗi, con nghĩ con bị thiêu rụi đi mất tiêu rồi, vì con hoàn toàn bị ngọn lửa này chiếm đoạt cho đến độ, không chịu đựng được nữa, con đã xin Người thương đến sức yếu đuối của con... Vào nửa đêm giữa ngày Thứ Năm và Thứ Sáu, Cha sẽ cho con thông phần vào cuộc buồn sầu đến chết được mà Cha sẵn sàng cảm nhận trong Vườn Cây Dầu, và nỗi buồn sầu ngoài khả năng thấu hiểu của con này sẽ kéo con vào một cuộc khổ não còn khốn cực hơn là chính sự chết nữa. Và, để thông hiệp với Cha trong buổi cầu nguyện nhu hạ mà Cha bấy giờ dâng lên Cha Cha giữa cơn khổ não của Cha, con sẽ chỗi dậy giữa 11 và 12 giờ khuya, sấp mình xuống với Cha một tiếng đồng hồ, không những để làm nguôi cơn giận thần linh, bằng việc van xin tình thương cho các tội nhân, mà còn để xoa dịu phần nào nỗi đắng cay mà bấy giờ Cha đã cảm thấy, khi Cha bị các tông đồ bỏ rơi, làm cho Cha phải trách họ không thể thức với Cha lấy một giờ. Trong một tiếng đồng hồ ấy, con sẽ làm theo điều Cha sẽ dạy con".