THƯ PHÒNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
của Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương
Fatima Lòng Thương Xót Chúa
TĐF Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Loạt
bài chia sẻ cho cuộc tĩnh huấn 10/2015 của Liên Đoàn Tông Đồ Fatima TGP LA CA
2- Bí Mật Fatima phần hai
“Bấy giờ chúng con nhìn lên Đức Mẹ, Đấng hết sức nhân từ và buồn bã nói với
chúng con rằng:
“Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên
Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới.
Nếu những điều Mẹ nói với các con được thực hiện thì nhiều linh hồn sẽ được cứu
rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta
không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ
trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì
các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài
sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ
Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến
Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ
Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có
hòa bình; bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến
tranh và bách hại Giáo Hội. Người lành sẽ chịu tử vì đạo; Đức Thánh Cha sẽ chịu
nhiều đau khổ; các nước khác nhau sẽ bị hủy diệt. Cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ
trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình".
Thật
vậy, sau khi cho 3 Thiếu Nhi Fatima là Lucia bấy giờ 10 tuổi, Phanxicô 9 tuổi và
Giaxinta 7 tuổi thị kiến thấy hỏa ngục Mẹ Maria đã "hết sức nhân từ và buồn
bã" tỏ cho các em biết dự án cùng đường lối cứu độ của Thiên Chúa trong
giai đoạn lịch sử của hỏa ngục và như hỏa ngục, ở chỗ con người càng ngày càng
tội lỗi đáng sa hỏa ngục, càng hận thù ghen ghét sát hại nhau như hỏa ngục.
Đó là "Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ trên thế giới... (cho) nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và thế giới sẽ
có hòa bình". Có nghĩa là tình trạng hòa bình thế giới trên mặt đất
này cùng với phần rỗi đời đời của các linh hồn đều lệ thuộc vào Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, qua việc Mẹ được tôn sùng, hay được nhận biết và yêu
mến.
Bằng không, nghĩa là cho đến khi Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria được tôn
sùng, Mẹ được nhận biết và yêu mến, thế giới sẽ bị 2 tai họa: tai họa thứ
nhất đó là tiếp tục bất an, ở chỗ như lời Mẹ tiên báo và cảnh báo: "chiến
tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một
cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI"; và tai họa thứ
hai đó là nạn cộng sản vô thần tàn ác: "Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp
thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Người lành sẽ chịu tử vì đạo;
Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ; các nước khác nhau sẽ bị hủy diệt".
Trong Bí Mật Fatima phần 2 này, Thế Chiến Thứ II (1939-1945) và nạn cộng sản Nga
Sô là hai sự kiện lịch sử chưa hề xẩy ra vào lúc Đức Mẹ tiết lộ Bí Mật Fatima
ngày 13/7/1917 này, nhưng được Mẹ báo trước vì cả hai sự kiện tương lai này, như
Mẹ nói trước đó là liên quan đến việc Thiên Chúa: "sắp sửa trừng phạt thế
giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh
Cha".
Bởi thế, chính vì hòa bình thế giới và phần rỗi của các linh hồn đều lệ thuộc
vào Mẹ mà Mẹ đã tự biết Mẹ phải làm gì để cứu vãn tình thế, như Mẹ đã từng
tự động làm ở tiệc cưới Cana một khi Mẹ hiện diện ở đó, nghĩa là Mẹ không thể
thấy con cái mình gian nan khốn khó mà không chủ động ra tay cứu giúp. Trong Bí
Mật Fatima phần hai này, chính Mẹ đã hứa: "Để
ngăn ngừa điều này (ngăn
ngừa việc Thiên Chúa trừng phạt thế giới như Mẹ đã báo sắp sửa xẩy ra), Mẹ
sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước
lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng".
Quả
thực, trước khi Thế Chiến II xẩy ra, và trước khi nạn cộng sản Nga Sô bành
trướng, Mẹ Maria đã hiện ra thêm 2 lần nữa với riêng nữ thụ khải Lucia, bấy
giờ đã là nữ tu Dòng Đôrôthêu ở Tây Ban Nha, lần đầu vào ngày 10/12/1925 "để xin
rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng", và
lần thứ hai vào ngày 13/6/1929 "để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ", với lời nhắc nhở qua Chị Lucia là: "Đã
đến lúc Thiên Chúa xin Đức Thánh Cha hiệp với tất cả các giám mục trên thế giới
để hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Ngài hứa sẽ cứu Nước
Nga bằng cách này".
Thế nhưng, Thế Chiến II vẫn xẩy ra còn ghê rợn hơn Thế Chiến I và nạn cộng sản
Nga Sô vẫn bành trướng, đến độ, trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh giữa khối tư bản
và cộng sản, thế giới cộng sản đã chiếm gần 1/3 thế giới. Hậu quả của hai biến
cố hung tàn độc dữ này là 200 triệu người chết: Nguyên hai Thế Chiến I và II đã
tàn sát cả 100 triệu sinh mạng, và nạn cộng sản ở Nga Sô cũng như ở các nơi
khác, nhất là ở Trung Hoa, trong thế kỷ 20, cũng đã tàn sát cả 100 triệu sinh
mạng nữa.
Chắc
vì "Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ
trên thế giới" mà Ngài đã phải làm cho ý định của Ngài được hiện thực như
Ngài ấn định, bằng cách, Ngài đã lợi dụng chính cộng sản để làm cho Mẹ được nhận
biết và yêu mến, tức để "thiết lập Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ... trên
thế giới", chứ không phải chỉ trong Giáo Hội hay ở Nước Nga thôi.
Thiên Chúa đã làm như thế nào để hiện thực ý muốn "thiết lập lòng tôn sùng Trái
Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới", thì đã được Mẹ Maria tiết lộ cho
biết ở phần cuối Bí Mật Fatima phần hai như thế này: "Cuối cùng Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước
Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình", một lời
tiên tri đã hoàn toàn được ứng nghiệm từng li từng tí trong lịch sử.
Với bốn chữ "sẽ" trong câu nói tiên tri này, Mẹ Maria đã báo trước một
tương lai sáng sủa hơn cho chung nhân loại:
1- "Cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng". Mẹ
sẽ thắng đây, trước hết và trên hết, là thắng cộng sản. Bởi vì, ngay trước chữ "Cuối
cùng..." như để kết thúc tất cả những diễn tiến lịch sử xẩy ra trước đó là
những gì trực tiếp liên quan đến Nước Nga đã được Mẹ cho biết là: "Nước Nga
sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Người
lành sẽ chịu tử vì đạo; Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ; các nước khác nhau
sẽ bị hủy diệt".
Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, về thời điểm diễn tiến của nó, có một liên hệ chặt chẽ
với nạn cộng sản Nga Sô. Trước hết, ở chỗ, ngay trước khi cộng sản Nga Sô xuất
hiện thì Mẹ Maria đã báo trước ở Fatima trong phần hai của Bí Mật Fatima. Và ở
chỗ, thời điểm 6 tháng liên Mẹ Maria cố ý chọn hiện ra ở Fatima đã rơi ngay vào
chính giữa sự kiện xuất hiện cộng sản Nga Sô. Không phải hay sao, trước khi Mẹ
Maria hiện ra ở Fatima vào ngày 13/5/1917, thì Vladimir Lenin đã từ hải ngoại về
Nga ngày 16/4 để sửa soạn thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười ở Nga. Và sau
lần Mẹ Maria hiện ra lần cuối cùng ở Fatima vào ngày 13/10/1917, thì cuộc Cách
Mạng Tháng Mười ở Nga thành công, vào ngày 7/11/1917. Tức là 6 lần Mẹ Maria hiện
ra ở Fatima lọt ngay vào giữa thời điểm xuất hiện của cộng sản Nga Sô.
2- "Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ". Tuy
nhiên, để Nước Nga trở lại, điều kiện tối yếu bất khả thiếu đó là "Đức
Thánh Cha hiệp với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng Nước Nga cho
Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ". Thế
nhưng, vấn đề vô cùng khó khăn ở đây là làm thế nào để vị giáo hoàng có thể để
tin rằng những lời này quả thực từ trời và nhất là nếu làm thì sẽ mang lại thành
quả đúng như thế: "Ngài hứa sẽ cứu Nước Nga bằng cách này". Nếu ngài làm
theo, chẳng những việc ngài làm có thể đụng chạm đến chính trị là Nước Nga, mà
còn rơi vào trường hợp không xẩy ra thì có phải là ngài, vị củng cố đức tin cho
anh em mình (xem Luca 22:32), đã trở thành một kẻ mê tín dị đoan, tác hại khôn
lường cho toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô hay sao!
Bởi thế, không một vị giáo hoàng nào đã dám làm điều mạc khải tư không buộc phải
tin ấy, kể từ vị giáo hoàng đầu tiên là Đức Thánh Cha Piô XII là vị giáo
hoàng được Chị Lucia đệ trình lên ngài bức thư ngày 24/10/1940 về việc hiến dâng
quan trọng này. Tuy nhiên, vào thời điểm kỷ niệm 25 năm biến cố Thánh Mẫu
Fatima, ngày 31/10/1942, ngài đã mở đường bằng việc hiến dâng cả loài người cho
Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, chứ không dâng riêng Nước Nga.
Phải chăng đó là lý do khiến Nước Nga càng ngày càng "truyền
bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội"!? Hậu
quả đó là các quốc gia ở Âu Châu, cách riêng Đông Âu, sau Thế Chiến Thứ II đã
theo chủ nghĩa và chế độ cộng sản như Nga Sô là Albania và Bulgaria vào năm
1945; Đông Đức bắt đầu có chính quyền cộng sản vào năm 1949; Romania, Balan và
Hung Gia Lợi vào năm 1947, và Czechoslovakia vào năm 1948, chưa kể một số nước Á
Châu cũng vào thời điểm sau Thế Chiến Thứ II hay vào đầu thập niên 1950, như
Trung Hoa, Bắc Hàn, Việt Nam, Cam Bốt. Bởi thế, 10 năm sau, vào ngày
7/7/1952, Đức Thánh Cha Piô XII đã khéo léo hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, nhưng vẫn không thành vì ngài không hiệp cùng với các vị
giám mục trên thế giới.
Cho đến vị giáo hoàng lấu khẩu hiệu "totus tuus" có tính cách Thánh Mẫu là Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II sự việc hiến dâng này mới thực sự thành tựu. Tuy
nhiên, để được như thế, tức để vị giáo hoàng đến từ một nước cộng sản Balan hiến
dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, chính Mẹ đã phải nhúng tay
chạm đến sự sống của ngài, bằng cách cứu ngài khỏi bị ám sát chết vào ngày
13/5/1981, trùng ngay ngày kỷ niệm Mẹ hiện ra lần đầu tiên ở Fatima, 13/5/1917.
Sau đó, ngài đã đọc Bí Mật Fatima phần thứ ba và đã hiến dâng Nước Nga cho Trái
Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ 2 lần chính thức, lần đầu vào ngày 13/5/1982 ở
Linh Địa Fatima, nhưng không kịp hiệp cùng với các vị giám mục trên thế giới, và
vì thế ngài đã phải tái hiến dâng lần thứ hai vào ngày 25/3/1984 ở chính Giáo Đô
Rôma, trước Tượng Mẹ Fatima chính từ Linh Địa Fatima, cùng với hàng giáo phẩm
hoàn vũ ở khắp nơi trên thế giới.
3- "Nước Nga sẽ trở lại". Sau đúng
1 năm sự kiện hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria
thành tựu này của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tức vào ngày 11/3/1985, thế
giới cộng sản Liên Sô xuất hiện một vị tổng bí thư trẻ nhất là Mikhail
Gorbachew, một nhân vật đã thực hiện chiến dịch “perestroika” và “glasnost”, tức
cải tổ và cởi mở, nhờ đó đã mở đường cho Biến Cố Đông Âu sụp đổ vào cuối năm
1989, bắt đầu từ quê hương Balan của vị giáo hoàng đương kim Gioan Phaolô II bấy
giờ, vị giáo hoàng đã về thăm quê hương của mình lần đầu tiên vào Tháng 6/1979
và đã gây tác dụng giải thể quê hương của mình đúng 10 năm sau, 6/1989, vị giáo
hoàng được chính Gorbachew công nhận là nếu không có ngài không thể nào xẩy ra
Biến Cố Đông Âu.
Thật vậy, Biến Cố Đông Âu đã được khơi nguồn từ Ba-Lan, một nước cộng sản mà
vào ngày 4 và 18 tháng 6 năm 1989 đã tổ chức bầu cử tự do, lần đầu tiên kể từ
năm 1947.
Thứ đến là Hung Gia Lợi, ngày 10-9-1989, chính quyền cộng sản đã mở cửa biên
giới cho dân Đông Đức từ ngả nước Áo trốn sang Tây Đức, và ngày 18-10-1989, đã
chấp nhận hình thức bầu cử đa đảng.
Rồi Tây Đức, ngày 18-10-1989, đã truất phế lãnh tụ cộng sản Erich Honecker, và
ngày 9-11-1989 đã mở cửa biên giới, phá đổ bức tường Bá-Linh, để cho dân tha hồ
tuốn sang Tây Đức; nhất là, vào ngày 7-12-1989, đảng cộng sản Tây Đức đã tự giải
thể và kêu gọi tổ chức bầu cử đa đảng vào tháng 5/1990, để rồi, kết thúc với một
nước Đức thống nhất vào ngày 3/10/1990.
Rồi Bulgaria,ngày 10-11-1989, quyền bính trong tay nhà độc tài Todor Zhivkov sau
35 năm đã bị mất vào tay một nhà cải cách.
Rồi Czechoslovakia, ngày 10-12-1989, một chính quyền vừa cộng sản lẫn không cộng
sản (đa số) được thành hình, dọn đường cho việc bầu cử tự do.
Rồi Romania, ngày 22-12-1989, lãnh tụ Nicolae Ceausescu đã hoàn toàn bất lực
trong việc truyền khiến quân đội và bị tử hình ngày 25-12-1989 vì bị kết tội là
kẻ thù của dân tộc.
Sau hết, ngay tại Liên Bang Sô Viết, tháng 3/1990, một cuộc bầu cử tự do đã được
thực hiện và Gorbachev đã đắc cử tổng thống Liên Bang Sô Viết; ngày 20 và
21/8/1991, nhân cuộc nổi dậy của đảng cộng sản hôm 19-21/8/1991, ba nước cộng
hòa Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia đã tái tuyên bố độc lập (sau lần đòi
độc lập thứ nhất vào tháng 3/1990), kéo theo sự thành lập của Khối Thịnh Vượng
Chung vào ngày 21/12/1991 cho 11 trong 12 (trừ Georgia) nước thuôc Cộng Hòa Sô
Viết.
Từ Biến Cố Đông Âu đột ngột xẩy ra một cách bất bạo động và nhanh chóng như thế,
cuối cùng Nước Nga cũng đã thực sự trở lại khi tự giải thể vào chính ngày Lễ
Giáng Sinh 25/12/1991, khi lãnh tụ Mikhail Gorbachew tự động từ chức và cờ cộng
sản bị hạ xuống khỏi Điện Cẩm Linh. Nước Nga quả thực đã trở lại ở chỗ từ bỏ chủ
nghĩa và chế độ cộng sản, và nhờ đó không còn trở thành một tai họa cho chung
thế giới và cho riêng Giáo Hội Kitô giáo nữa.
4- "và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình". Chính
vì "Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh", nên
một khi Nước Nga trở lại, bằng cách từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản, không
còn Chiến Trạng Lạnh nữa, như Thế Chiến Thứ III xuýt xẩy ra vào đầu Tháng
10/1962 khi Nga mang đầu đạn nguyên tử đến Cuba chĩa vào Hoa Kỳ, thì tất nhiên
thế giới được thở phào nhẹ nhõm, không còn nơm nớp xẩy ra chiến tranh nguyên tử
giữa hai cường quốc đứng đầu hai khối tư bản là Mỹ và cộng sản là Nga nữa.
Thế nhưng, trong lời tiên báo cuối cùng về hòa bình thế giới này, Mẹ Maria đã
không nói rõ từ ngày nào hay kéo dài tới bao lâu, mà chỉ nói trống "một thời
gian" vậy thôi. Thế nhưng, theo diễn tiến của lịch sử thì "một thời gian
hòa bình" này đã chỉ kéo dài vỏn vẹn có 10 năm, từ ngày 25/12/1991, ngày
chấm dứt thời Chiến Tranh Lạnh, đến ngày 11/9/2001, ngày mở màn cho Chiến
Tranh Ý Hệ, giữa thế giới Ả Rập Hồi giáo và thế giới Tây phương được đồng hóa
với Kitô giáo, ngày mà đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ bất ngờ bị khủng bố tấn
công ngay giữa thanh thiên bạch nhật vào hai địa điểm tiêu biểu nhất của nước
này, một về kinh tế là Trung Tâm Thương Mại Thế Giới, và một về chính trị là Ngũ
Giác Đài.
Thật vậy, trong cuốn “Salt of The Earth” (Muối Đất), ấn bản Anh ngữ do Ignatius
xuất bản năm 1997, trang 245-246, chương “Priorities of the Church’s Development
– Những điều ưu tiên trong Việc Phát Triển của Giáo Hội”, Đức Hồng Y
Joseph Ratzinger đã trả lời câu hỏi “Việc Hồi Giáo liên kết toàn cầu có nghĩa
là gì đối với Kitô Giáo?” được đặt ra cho ngài, như sau:
“Cái cảm thức hôm nay nơi thế giới Hồi Giáo là ở chỗ, các quốc gia Tây
phương không còn khả năng giảng dạy một sứ điệp về luân lý nữa, mà chỉ có
một thứ kiến thức về kỹ thuật để cống hiến cho thế giới mà thôi. Kitô Giáo
đã bị lịm tắt mất rồi; nó thực sự không còn hiện hữu như là một tôn giáo nữa;
thành phần Kitô hữu không còn luân lý hay đức tin nữa; tất cả những gì còn lại
đó là một ít vết tích của vài ý nghĩ minh tri tân thời mà thôi…”
Những nhận định trên đây của Hồng Y Joseph Ratzinger về thứ Chiến Tranh Ý Hệ
giữa thế giới Ả Rập Hồi giáo và thế giới Tây Phương Kitô giáo lại được vang dội
trong giáo triều mới chưa được 2 năm của ngài, nhất là trong chuyến tông du
Bavaria Đức Quốc của ngài (9-14/9/2006), qua bài giảng Thánh Lễ Chúa Nhật ngày
mùng 10 tại Neue-Messe ở Munich.
“Dân chúng ở Phi Châu và Á Châu cảm phục kỹ năng về khoa học và kỹ thuật
của chúng ta, thế nhưng đồng thời họ sợ hãi trước một thứ hình
thức của lý trí hoàn toàn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi nhãn quan của con người,
như thể đó là hình thức cao nhất của lý trí, và là một hình thức cần phải được
áp đặt trên cả các nền văn hóa của họ nữa. Họ không thấy mối đe dọa thực sự cho
căn tính của họ nơi đức tin Kitô Giáo, nhưng trong việc tỏ ra khinh thường Thiên
Chúa và việc ngạo mạn coi vấn đề chế diễu sự linh thánh là việc thực hành quyền
tự do, và chủ trương thực dụng là qui chuẩn tối hậu về luân lý cho tương lai của
việc nghiên cứu khoa học".
Tuy nhiên Bí Mật Fatima không chấm dứt ở phần thứ hai, ở chỗ "Cuối cùng Trái
Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ,
Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình", mà
còn kéo dài sang cả phần thứ ba nữa, phần thị kiến Bí Mật Fatima tiên báo về
những gì xẩy ra sau Thời Chiến Tranh Lạnh, tức tiên báo về Chiến Tranh Ý Hệ giữa
thế giới Ả Rập Hồi giáo và thế giới Tây phương Kitô giáo, phần bí mật mà lạ lùng
thay, về thời điểm xuất hiện, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, qua Thánh Bộ
Tín Lý Đức Tin, chính thức công khai tiết lộ chỉ trước biến cố 911 ở Hoa Kỳ chỉ
có 15 tháng mà thôi.