THƯ PHÒNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
của Nhóm Tông Đồ Chúa Tình
Thương
Mầu Nhiệm Vượt Qua - Với Các Liên hệ
(Ba Vấn Đề Liên Hệ về Ngày của Chúa, Rửa tội Đêm Vọng Phục Sinh và
về các Bí Tích)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
1- Tại sao Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với
các tông đồ không vào ban sáng hay trong ngày mà vào chiều tối?
Mầu Nhiệm Vượt Qua: Ngày Chúa lập ra
Chúa Giêsu không hiện ra với các vị tông đồ đầu tiên, như thánh ký Marcô đã
thuật lại theo thứ tự (16:9-16) đã
hiện ra với Chị Maria Mai Đệ Liên vào ban sáng, và
cũng đã hiện ra
với 2 môn đệ đi về làng Emmaus ban chiều, nhưng
mãi đến ban tối
(evening) mới hiện ra với các tông đồ
là thành phần chứng nhân tiên khởi chính yếu của Người, thành phần duy
nhất được Người đích thân sai đi rao giảng tin mừng "cho mọi tạo vật"
(Marco 16:15), với tư cách là "các
chứng nhân" (Luca 24:48) của Người, với
quyền tái sinh vào
sự sống thần linh những ai tin vào
Người bằng việc "lãnh nhận phép rửa" (Marco 16:16) "nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mathêu 28:19).
Cho dù
người nữ (mang thân phận giáo dân) được
Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra đầu tiên, sau đó
tới các môn đệ (với tư cách, so với các tông đồ, được coi như giáo
sĩ), thế nhưng cả hai thành phần
này đều phải trình lại với các vị tông đồ là hàng giáo phẩm có thẩm quyền
trong Giáo Hội Chúa Kitô.
Như thế, sở
dĩ Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các
tông đồ sau cùng, vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần (xem Gioan 20:19),
chẳng phải là để chứng từ của những kẻ được Người hiện ra trước các vị giúp
các vị dễ tin hơn khi Người hiện ra với các vị, mà là
vì đúng hơn vai
trò quan trọng hơn của
các vị, như nhân loại được Thiên Chúa hóa công dựng nên sau cùng trong mọi
tạo vật lại là tạo vật quan trọng nhất của Ngài. Ngày thứ sáu tạo dựng, ngày
tạo dựng cuối cùng, ngày con người là tạo vật chính yếu được dựng nên, so
với 5 ngày trước đó, có thể nói là ngày chính yếu nhất, vì nếu Thiên Chúa
không dựng nên loài người để nhờ đó Ngài có thể làm người và tỏ hết bản tính
là tình yêu nhân hậu của Ngài ra thì chắc đã không có 5 ngày trước. Bởi thế,
theo ý định tạo dựng của Thiên Chúa thì con người có trước hết, dù theo thời
gian được dựng nên sau hết. Như thể trứng gá có trước con gà về tiến trình
thời gian nhưng thật ra theo dự án tạo dựng thì con gà có trước mới có trứng
gà, và nếu không có con gà cũng chẳng có trứng gà vậy.
Nếu
tính theo thời gian về thể
lý thì quả thực các vị tông đồ được
Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra sau cùng, nhưng xét về thời gian theo nhãn quan
thần linh thì các vị lại là thành phần được Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra
trước nhất. Tại sao? Ở chỗ nào?? Câu
trả lời ở ngay câu họa của bài Đáp Ca cho Lễ Phục Sinh Chúa Nhật: "Đây là
ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy hân hoan về ngày đó".
Thật vậy, ngày của Chúa không giống như ngày
của nhân loại tính theo thời gian về thể lý, từ sáng tới tối, trái lại, ngày
của Thiên Chúa được bắt đầu từ "buổi chiều tối" (evening) cho đến sáng, như
Sách Khởi Nguyên lập lại điều này sau mỗi ngày tạo dựng của Ngài: "Thế là
qua một buổi chiều tối và một buổi sáng. Đó là ngày thứ 1... ngày thứ 2...
ngày thứ 3...
ngày thứ 4...
ngày thứ 5...
ngày thứ 6"
(các câu 5,8,13,19,23,31).
Vậy, nếu theo ngày của Thiên Chúa, từ tối đến
sáng, thì các
tông đồ đã trở thành những người được
Chúa Kitô hiện ra đầu tiên, bởi vai trò quan trọng nhất của các vị trong
Giáo Hội Người đã thành lập và thánh hóa, một Giáo Hội "tự bản
chất là truyền giáo" (Công Đồng Chung
Vaticano II: Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo # 2 - 7/12/1965), là "ánh
sáng muôn dân - lumen gentium" (Nhan đề của Hiến Chế tín lý về Giáo Hội của
Công Đồng Chung Vaticano II - 21/11/1964), là loan truyền Tin Mừng Sự Sống
(the Gospel of Life) bằng chứng từ Phục Sinh của các tông đồ và đức tin tông
truyền của Giáo Hội.
Nếu Mầu Nhiệm Vượt Qua, hay đúng hơn Biến Cố Vượt Qua, được bắt đầu từ Thứ
Năm Tuần Thánh, với Bữa Tiệc Ly vào lúc chiều tối giữa Chúa Giêsu với các vị
môn đệ tông đồ của Người, lúc Người ngay trước khi lập Bí Tích Thánh Thể đã
bắt đầu cuộc khổ nạn của Người khi "Người càng cảm thấy hết sức xao xuyến -
He grew deeply troubled" ngay trước khi tiết lộ "một người trong các con sẽ
phản bội Thày" (Gioan 13:21), cho đến Tối Chúa Nhật (sau Kinh Thần Vụ tối), có nghĩa
là, theo đúng tiến trình ngày của Chúa ngược chiều với ngày tự nhiên, tiến
trình từ tối đến sáng, (bởi thế mới gọi là Tam Nhật Vượt Qua từ chiều tối
Thứ Năm tới lễ Đêm Vọng Phục Sinh qua sáng Chúa Nhật), thì quả thực Biến Cố
Vượt Qua của Chúa Kitô quả thực chính "là Ngày Chúa đã làm nên, chúng ta hãy
hân hoan về ngày ấy".
2- Tại sao thành phần dự tòng bao giờ
cũng được rửa tội vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh?
Mầu Nhiệm
Vượt Qua: Tác dụng thần linh
Nếu Bí
Tích Thánh Tẩy
Kitô giáo có hai tác dụng: Thánh Hóa
và Thanh Tẩy, gọi tắt là Thánh Tẩy, ở chỗ, "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12)
xua tan "bóng tối sự chết (Thánh Vịnh 23:4; Luca 1:79) nơi họ, thành phần mà
về phần mình, nhờ tin vào Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất (xem Tông
Vụ 4:12), họ thật sự đã "được vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24;
1Gioan 3:14), được đưa "từ tối tăm vào ánh sáng lạ lùng" (1Phêrô 2:9), thì
họ cần phải được lãnh nhận phép rửa vào chính Đêm Vọng Phục Sinh, vì hợp
với ý nghĩa của đêm này.
Thật vậy, Đêm Vọng Phục Sinh chính là Đêm
Vượt Qua của Chúa Kitô,
thời điểm nhân vật lịch sử Giêsu
Nazarét đã bị giáo quyền Do Thái giáo lên án và chính quyền dân ngoại Rôma
kết án cùng đóng đanh vào thập tự giá, nhưng đã sống
lại từ trong cõi chết, nghĩa là đã
Vượt Qua sự chết mà vào Sự Sống, đã hoàn toàn chiến
thắng tội lỗi và sự chết, đúng hơn, đã
biến tối tăm thành ánh sáng, biến chết chóc thành sự sống, theo đúng ý
nghĩa "từ trong cõi chết sống lại",
theo chiều hướng đi vào tận chính lòng địch để bắt địch. khống chế địch
và điều khiển địch.
Bởi thế, ý nghĩa Vượt Qua của Chúa Kitô ở đây
bao gồm 2 chiều kích: chiều kích cứu
chuộc (redemption) bằng cuộc khổ nạn
và tử giá của Người, và
chiều kích công
chính hóa (justification) bằng việc
phục sinh từ trong cõi chết của Người:
"Người chết đi để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống cho
chúng con" (câu tuyên xưng đức tin ngay sau phần truyền phép Thánh Thể trong
Thánh Lễ).
Nơi
nhân tính của Người, một nhân tính Người đã mặc lấy đã Vượt Qua như thế nên
nhân tính của loài người nói chung, một nhân tính đã bị hư đi bởi nguyên tội
và theo nguyên tội, nên ai sinh ra với nhân tính loài người đều vướng mắc
nguyên tội, cho dù chính mình không
phạm nguyên tội như hai nguyên tổ, nhờ
cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, Thiên Chúa hóa thân làm người, đã được cứu
chuộc và công chính hóa, nhất là đối với những ai tin nhận Người bằng cách
lãnh nhận phép rửa (xem Marco 16:16).
Đó là lý do trong Bài Đọc thứ 8 trong 9
bài đọc của Lễ Đêm Vọng Phục Sinh, một bài đọc Tân Ước ngay trước Bài
Phúc Âm, Giáo
Hội đã chọn đọc Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Rôma:
"Anh
em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là
đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng
với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của người, để như Ðức Kitô nhờ
vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng
phải sống đời sống mới như thế. Vì
nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái
chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại
giống như vậy" (6:1-4).
Tuy nhiên, trong Mầu Nhiệm Vượt
Qua này của Chúa Kitô, cuộc khổ nạn và tử giá của Người không phải đối tượng
của đức tin cho bằng sự kiện sống lại từ trong cõi chết của Người, như Đức
Thánh Cha Phanxicô đã xác nhận trong bài Giáo Lý về niềm tin tưởng cậy trông
Kitô giáo thứ 19 của ngài ở buổi
triều kiến chung Thứ Tư 19/4/2017 như
sau:
"Việc chấp nhận Chúa Kitô đã
chết đi và Người đã chết trên thập tự giá, không phải là một tác động đức
tin; nó là một sự kiện lịch sử. Trái lại, việc tin tưởng Người đã phục sinh
mới là (tác động đức tin). Đức tin của chúng ta được xuất phát từ sáng Phục
Sinh".
Việc
lãnh
nhận Phép
Rửa của thành phần dự
tòng người
lớn chính là việc tuyên xưng đức tin vậy, tin vào Vị Đấng Phục
Sinh là
"Chúa và Thiên Chúa" (Gioan 20:28), hay "là sự sống lại và là sự sống"
(Gioan 11:25):
là "Chúa" vì Người "là sự sống lại" đã
hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết;
là "Thiên Chúa" vì Người là "sự sống" vĩnh
hằng bất diệt.
Và chính
nhờ tin
mà được công chính hóa (xem Roma 3:22,5:1).
Trong Nhật
Ký của Chị Thánh Faustina, khoản 570, Chúa Giêsu cũng đã chẳng những tái
xác định nguyên tắc "được công chính hóa nhờ tin" mà
còn khẳng định đức tin liên quan đến Mầu Nhiệm Phục Sinh (hơn biến cố Khổ
Giá) rằng: "Không
một linh hồn nào sẽ được công chính hóa cho tới khi tin tưởng quay về với
tình thương của Cha, và đó là lý do tại sao Chúa Nhật thứ nhất sau Phục Sinh
là Lễ Chúa Lòng Thương
Xót Chúa”
(chứ
không phải Thứ Sáu Tuần Thánh, là ngày có bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan về
sự kiện cạnh sườn của Người bị lưỡi đòng đâm vào làm cho "nước và máu chảy
ra" - Gioan 19:34).
Việc được
công chính hóa đây tự bản chất bao gồm cả việc tha tội và thánh hóa. Mà
thành phần dự tòng người lớn là thành phần chẳng những mắc nguyên tội mà còn
cả tư tội nữa, nên khi được công chính hóa bởi Phép Thánh Tẩy thì họ được
tha cả tư tội nữa, nhờ lòng tin tưởng của họ nơi quyền năng phục sinh của
Người (xem Mathêu 28:19).
Tóm lại, thành phần
dự tòng lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy vào Đêm Vọng Phục Sinh thật là thích hợp
theo đúng ý nghĩa Vượt Qua của chính Chúa
Kitô, một
cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người có tác dụng cứu độ (salvation)
chung nhân loại và riêng những ai tin tưởng vào Người, điển hình
nhất là thành phần dự tòng người lớn (hơn là trẻ em chưa có trí khôn), những
con người đã từng sống tội lỗi trong
quá khứ, nhưng
nhờ Thánh Linh là Thần Chân Lý đã
nhận biết "tất
cả sự thật" (Gioan 16:13). Đêm Vọng Phục Sinh là thời điểm cử hành mầu Nhiệm
Vượt Qua của Chúa Kitô cũng là thời điểm cử hành đức tin Kitô giáo, được
tiêu biểu tuyệt vời qua
việc ban Bí
Tích Thánh Tẩy cho
anh chị em dự tòng Kitô giáo.
3- Chúa
Kitô có thiết
lập bí
tích nào sau khi Người từ trong cõi chết sống lại hay chăng? Nếu có thì các
bí tích ấy là những bí tích nào và có những đặc điểm
nào?? Đặc điểm ấy giống
nhau hay khác nhau???
Mầu
Nhiệm Vượt Qua: Nguồn mạch Bí Tích
Theo giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì chính Chúa Giêsu đã thiết lập 7 bí
tích (xem sách Giáo Lý số 1210). Tuy nhiên, ngoại trừ Bí Tích Thánh Thể (và
Bí Tích Truyền Chức Thánh) cùng Bí Tích Rửa Tội, hầu như không thấy nói đến việc Chúa Giêsu đã
thiết lập từng bí tích này khi nào, ở đâu và với ai?
Bởi
thế, chúng ta có thể suy đoán theo từng bản chất và mục đích cùng ý nghĩa
của mỗi bí tích liên quan đến nguồn gốc thiết lập của mỗi bí tích bởi
chính Chúa Kitô, và hoàn toàn tuân phục mọi phán quyết của thẩm quyền Giáo
Hội về tính chất chính xác và chân thật của vấn đề được
người viết suy diễn ở đây.
Trước hết, điều thứ nhất liên quan đến việc
Chúa Giêsu thiết lập các bí tích đó là
cần phải
hội đủ các tông đồ là thành phần được Người trao cho "các chìa khóa Nước
Trời" (xem Mathêu 16:19; 18:18), những
yếu tố then chốt để mang ơn cứu độ đến cho nhân loại nói chung và nội bộ
Giáo Hội nói riêng, một thành
phần tông đồ là
nền tảng của Giáo Hội (xem Epheso 2:20) và là đại
diện cho Giáo Hội.
Bởi
thế, căn cứ vào Phúc Âm chúng ta thấy
7 Bí Tích được chính Chúa Giêsu thiết
lập khi có đầy đủ các tông đồ ở ba lần khác nhau: lần nhất và lần hai đều ở
cùng một nơi là Nhà Tiệc Ly, còn lần ba ở trên núi thuộc miền Galilêa. Lần
nhất Người lập 3 Bí Tích một lúc: Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Truyền Chứa
Thánh và Bí Tích Hôn Phối. Lần hai, sau khi sống lại từ trong cõi
chết, cũng ở Nhà Tiệc Ly, Người đã lập
3 Bí Tích một lúc: Bí Tích Giải Tội, Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Xức Dầu
Thánh. Lần ba cũng là lần cuối cùng Người đã lập
Bí Tích Rửa Tội, trước khi về trời ở
Galilêa.
Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và Bí
Tích Truyền Chức Thánh, khi: "Người
cầm lấy bánh, tạ ơn và bẻ ra rồi trao cho các môn đệ mà phán: 'Này là
mình Thày bị nộp vì các con. Các
con hãy làm việc này mà nhớ đến
Thày'" (Luca 22:19). Người lập Bí Tích Thánh Thể khi phán: "Này là
mình Thày bị nộp vì các con", và Người ngay sau đó lập Bí Tích
Truyền Chức Thánh khi phán: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày".
Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể trước
rồi mới lập Bí Tích Truyền Chức Thánh sau, nghĩa là Chức Thánh chỉ là phương
tiện cho Thánh Thể của Người, chứ không phải nếu không có linh mục thì cũng
chẳng có Thánh Thể, nên linh mục quan trọng hơn Thánh Thể như lập luận của
một số người. Nếu không có Thánh Thể cũng chẳng có linh mục. Thánh Thể là
chính, linh mục hay chức thánh là phụ, cho dù cả
hai bất khả phân ly.
Chúa
Giêsu lập Bí Tích Hôn Phối, khi
Người truyền cho các môn đệ của mình rằng:
"Thày ban cho các con một giới răn mới
là các con hãy yêu thương
nhau. Thày yêu thương các con thế nào các con cũng hãy yêu thương nhau như
vậy" (Gioan 13:34,15:12). Thật vậy, ý nghĩa và mầu nhiệm hôn nhân
Kitô giáo là ở chỗ "phản ảnh mầu
nhiệm cao cả giữa Chúa
Kitô và Giáo Hội" (Epheso 5:32): "Chồng
phải thương yêu vợ mình như Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội"
(Epheso 5:25), và "vợ phải vâng lời chồng trong hết mọi sự như tùng
phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ như Chúa Kitô là đầu của thân thể
mình là Giáo Hội" (Epheso 5:22-23). Đó là lý do Bài Phúc Âm trong thánh lễ
thành hôn
thường có bài Phúc Âm có lời Chúa
Giêsu dạy về giới răn mới liên quan đến tình yêu của Người với Giáo Hội và
giữa các phần tử Giáo Hội với nhau.
Chúa Giêsu lập Bí Tích Hòa Giải,
khi "Người thở hơi trên các môn đệ mà phán: 'Các con hãy nhận lấy Thánh
Linh. Các
con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha,
các con cầm tội ai thì tội của người ấy bị cầm lại" (Gioan 20:22-13). Ở đây,
theo thứ tự của câu Người nói, thì trước
khi trao quyền tha tội cho các tông đồ, Chúa Kitô đã thông ban Thánh Linh từ
thân xác phục sinh của Người cho các vị, để
không phải các vị chỉ nhờ Thánh Linh, Đấng đến để làm cho thế gian thấy họ
sai lầm về tội lỗi, về công lý và về sự luận phạt (xem Gioan 16:8), hầu tha
tội cho hối nhân, mà
chính bản thân các
vị cũng được
công chính hóa bởi
Thánh Linh nữa, vì các vị đã nhút
nhát bỏ Thày mà tẩu thoát (xem Marco 14:50), thậm chí còn chối bỏ Thày mình
(xem Marco 14:66-72).
Chúa Giêsu lập Bí Tích Xức Dầu Thánh, khi
"những dấu hiệu kèm theo những ai
tuyên xưng đức tin của mình đó là họ sẽ nhân danh Thày mà khu trừ ma quỉ; họ
sẽ nói ngôn ngữ hoàn toàn mới; họ sẽ có thể bắt rắn trong tay; họ có thể
uống chất độc vô hại; họ
sẽ đặt tay chữa lành cho bệnh
nhân" (Marco 16:17-18). "Những
ai tuyên xưng đức tin đây" trong lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ ở đây,
trước hết và trên hết, áp dụng cho chính các tông đồ, thành phần chứng nhân
tiên khởi về đức
tin của các vị. Bởi thế, chỉ có các vị
mới được Người trao quyền "trừ quỉ" (Mathêu 10:1), nên các vị giám mục thừa
kế các ngài trong Giáo Hội mới có thẩm quyền ủy
thác nhiệm vụ hay quyền năng trừ
quỉ cho một vị linh mục nào đó xứng đáng trong giáo phận của các ngài. Vậy
cũng chỉ có các tông đồ mới có quyền chữa lành bệnh nạn (xem Mathêu 10:1),
một tác dụng của Bí Tích Xức Dầu Thánh cho bệnh nhân hay kẻ yếu liệt.
Chúa Giêsu lập Bí Tích Thêm Sức,
khi Người phán cùng các tông đồ rằng:
"Các con là những chứng nhân về điều
này. Này Thày sai xuống trên các con lời Chúa Cha đã hứa. Các
con hãy ở lại thành này cho tới khi các
con nhận được quyền lực từ trên cao" (Luca 24:48). Thánh
Linh các tông đồ nhận được vào ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem cũng chính là
Thánh Linh các vị đã nhận được chính Chúa Kitô thông ban cho các vị từ thân
xác phục sinh của Người (xem Gioan 20:22). Tuy nhiên, vị Thánh
Linh được Chúa Kitô thông ban cho các
vị từ thân xác phục sinh của Người mới chỉ để công chính hóa bản thân các vị
và ban cho các vị quyền tha tội mà thôi, còn Thánh Linh các vị nhận được khi
Thánh Linh hiện xuống thì từ
Cha do Chúa Kitô sai xuống trên các vị (xem Gioan 15:26), như
"quyền lực từ trên cao" (Luca 24:49; xem Tông Vụ 1:8) để
nhờ đó các
vị mới có thể làm chứng cho Người. Và
vì Bí Tích liên quan đến việc làm chứng cho Chúa Kitô, và việc làm chứng này
lại liên quan trực tiếp đến vai trò chính yếu của
các tông đồ, mà chỉ có các vị Giám Mục
mới có năng quyền ban bí tích này mà thôi, khi con người đã đến tuổi thanh
thiếu niên, cho dù nhờ Phép
Rửa họ nhận từ nhỏ họ đã có Thánh
Linh, vị Thánh Linh công chính hóa họ, như vị Thánh Linh được Chúa Kitô Phục
Sinh thông cho các tông đồ đã
công chính hóa các vị vậy.
Chúa Giêsu lập Bí Tích Rửa Tội,
khi Người phán "Các con hãy đi tuyển
mộ môn đồ thuộc tất cả mọi dân nước. Các com hãy
làm phép
rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mathêu 28:19). Sở
dĩ Bí Tích Rửa Tội là bí tích duy nhất Chúa Giêsu thiết lập, và thiết lập
cuối cùng, ở miền Galilêa và ở trên núi, là vì Bí Tích Rửa Tội nhắm đến dân
ngoại, và Galilêa là miền đất Do Thái đầy những dân ngoại, đã từng là nơi
chính Người đã xuất thân và tỏ mình ra cùng hẹn tái ngộ với các
tông đồ ở đây sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết. Trong câu lệnh truyền
trên đây của Chúa Kitô liên quan đến
Phép Rửa, ngay trước đó, Chúa Kitô Phục Sinh, trước hết và trên hết, muốn
các tông đồ phải "đi tuyển mộ các môn độ ở mọi dân nước" đã
(rồi mới rửa tội). Nghĩa là, theo ý của Người, để "ai tin và chịu phép rửa
thì sẽ đưoọc cứu độ" (Marco 16:16), các tông đồ cần phải làm chứng cho
Người, rao giảng về Người chẳng những bằng giáo thuyết Kitô giáo mà còn bằng
chính tinh thần Phúc Âm Kitô
giáo của các vị, bằng không, người ta
chẳng nhận biết Chúa Kitô nơi các vị mà trở lại để lãnh nhận Phép Rửa Cứu Độ
bởi các vị.
Tóm lại, nếu lấy biến cố Vượt Qua làm mốc thì
trước khi Chúa Kitô phục sinh, Người đã lập 3
Bí Tích yêu thương là Thánh
Thể, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối, và sau khi từ trong kẻ chết sống lại Người đã
lập 4 Bí Tích công chính hóa là
Giải Tội, Xức Dầu Thánh,
Thêm Sức và Rửa Tội. Tất cả 7 Bí
Tích đều xoay quanh Mầu Nhiệm Vượt Qua và Mầu Nhiệm Vượt Qua là nguồn mạch
của 7 Bí Tích, vì Mầu Nhiệm Vượt Qua là Mầu Nhiệm Yêu Thương và Sự Sống.
Các
Bí Tích là phương tiện để Chúa Kitô Phục Sinh, "là sự sống lại và là sự
sống" (Gioan 11:25) thông
ban sự sống thần linh của Người cho những ai tin tưởng đón nhận Người nơi
các bí tích ấy. Như khi Người còn sống
trên thế gian thì nhân
tính của Người nói chung và thân xác của Người nói riêng đã là phương tiện,
là bí tích để
Người tỏ mình thế nào, nay Giáo Hội là
Nhiệm Thể của Người cũng được coi "như bí tích của sự kết hợp mật thiết với
Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại" (Hiến Chế tín lý về Giáo
Hộ - Lumen Gentium, khoản 1).