“Thiên Chúa thực hiện mọi sự
cho thiện ích của những ai được Ngài ấn định..."
(Roma 8:28-31)
(28) Chúng
ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người,
tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. (29)Vì
những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình
dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.(30) Những
ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi,
thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính,
thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang. (31) Vậy còn phải nói gì
thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?
Qua những gì Thánh Phaolô viết cho Giáo Đoàn Rôma trên đây, chúng ta thấy được
vị tông đồ dân ngoại này có một niềm xác tín chẳng những vào sự quan phòng thần
linh của Thiên Chúa mà còn vào ý định cùng với tiến trình thánh hóa của Ngài nơi
từng người theo sự quan phòng thần linh của Ngài, để nhờ đó chúng ta hoàn
toàn tin tưởng vào Ngài và an tâm vui sống trong sự quan phòng thần linh đầy yêu
thương và khôn ngoan của Ngài.
Thế nhưng, vấn đề trước hết được đặt ra ở đây là sự kiện tiền định của Thiên
Chúa: phải chăng chính vì Thiên Chúa "đã biết từ trước" về tất cả mọi sự, bao
gồm cả số phận được cứu rỗi hay hư đi của từng người, mà Ngài đã tiền định cho
người này được rỗi người kia hư đi? Hay nói ngược lại, chính vì đã tiền định cho
số phận được rỗi hay không nơi từng người mà Thiên Chúa phải "biết trước" số
phận đời đời của họ?
Tuy nhiên, để trả lời cho vấn đề được đặt ra này, chúng ta cần phải giải quyết
các vấn đề liên hệ bất khả phân ly với vấn đề trên, như sau: Nếu Thiên Chúa đã
tiền định một số bị hư đi thì Ngài còn sai Con Ngài xuống trần gian mặc lấy bản
tính của chung nhân loại để cứu chuộc toàn thể nhân loại mà làm gì? Chẳng lẽ
Ngài chỉ sai Con Ngài xuống trần gian để cứu chuộc những ai Ngài đã
tiền định được cứu rỗi hay sao, chứ không phải để cứu rỗi tất cả mọi người?
Thật vậy, theo ý định tạo dựng của mình, Thiên Chúa tạo dựng nên con người tạo
vật là để họ có thể nhờ đó hiệp thông thần linh với Ngài, chứ không
phải để đầy đọa họ. Thế nhưng, để có thể hiệp thông thần linh với Vị "Thiên Chúa
là Thần Linh" (Gioan 4:24), con người tạo vật cần phải được dựng nên theo
hình ảnh thần linh của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27), nghĩa là cũng có
linh hồn thiêng liêng vô hình bất tử, với tâm linh ý thức, và lòng muốn tự do
chọn lựa, chứ không thể chỉ ở tầm mức của loài đất đá khoáng chất vô hồn, hay
của loài cây cối thực vật sinh hồn, hoặc của loài cầm thú sinh vật giác hồn.
Và để có thể hiệp thông thần linh với Vị "Thiên Chúa là Thần Linh" đã tạo dựng
nên mình ấy, về phần mình, con người tạo vật cần phải nhận biết bản tính thần
linh của Ngài và đáp ứng tác động thần linh của Ngài nơi họ nữa. Thực tế cho dù
con người tạo vật có khả năng về tâm linh để có thể tìm kiếm Chân Thiện
Mỹ và nhận biết Đấng Tối Cao của mình, nhưng tự mình, họ không thể nào có thể
biết được thực sự Ngài là ai và Ngài muốn gì, ngoại trừ họ được Ngài tỏ mình ra
cho họ, như Ngài đã tỏ mình ra cho dân Do Thái qua Lịch Sử Cứu Độ của họ, nhất
là qua Con Ngài là Đức Giêsu Kitô "khi đến thời điểm viên trọn" (Galata 4:4).
Chính vì ý định tạo dựng nên loài người tạo vật theo hình ảnh thần linh của
mình để họ có thể được muôn đời hiệp thông thần linh với mình mà Vị "Thiên Chúa
là Thần Linh" đã tìm hết cách, tùy theo từng người được Ngài tạo dựng nên trên
trần gian này ngay từ ban đầu cho đến tận thế, để tỏ mình ra cho họ theo sự quan
phòng thần linh của Ngài, nhờ đó họ có thể nhận biết Ngài một cách nào đó
mà được cứu rỗi, nhiều khi, như lịch sử và thực tế cho thấy, không cần phải được
chính thức lãnh nhận Phép Rửa của Giáo Hội Công Giáo (xem Tông Vụ 10:35;
Công Đồng Chung Vaticanô II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium - 16).
Bởi vậy, những ai bị đời đời hư đi là vì họ không nhận biết Đấng đã tạo dựng nên
họ, cho dù họ được Ngài tỏ mình ra cho họ một cách nào đó trong cuộc đời trần
gian của họ vào một lúc nào đó, nhất là trong giờ lâm tử của họ v.v. Nếu "Thiên
Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) thì không thể nào không soi sáng mà còn là ánh
sáng thế nào, con người không chấp nhận hay tránh né ánh sáng vì sợ các việc
gian ác của mình bị bại lộ, tức họ "yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan
3:19-20) thì tự họ bị hư đi hơn là bị Thiên Chúa là ánh sáng" loại bỏ, không
chiếu soi tới họ và cho họ:
- "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận tội thế gian, nhưng để thế
gian nhờ Người mà được cứu độ. Ai tin vào Người thì khỏi bị luận tội, còn ai
không tin thì đã bị luận tội rồi, bởi không tìn vào danh Con Một Thiên Chúa"
(Gioan 3:17-18);
- "Tôi đã đến thế gian như ánh sáng của thế gian để ai tin Tôi thì không ở lại
trong tăm tối. Ai nghe những lời của Tôi mà không giữ lấy thì Tôi không phải là
người luận tội họ, vì Tôi đến thế gian không phải để luận tội thế gian mà là để
cứu thế gian. Ai chối bỏ Tôi và không chấp nhận các lời Tôi nói thì đã bị luận
tội bởi lời của Tôi là những gì sẽ luận tội họ vào ngày sau hết" (Gioan
12:46-48).
Ở đây, căn cứ vào những gì được Thánh Phaolô cảm nghiệm và huấn dụ Kitô hữu
thuộc Giáo đoàn Rôma thì việc quan phòng thần linh của Thiên Chúa bao gồm 2 yếu
tố chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân lý, liên quan đến cả dự án thần linh
của Ngài lẫn tác động thần linh của Ngài.
Dự án thần linh của Thiên Chúa đó là: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích
cho những ai mến yêu Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý
Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ
nên đồng hình dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một
đàn em đông đúc" (câu 28-29).
Tác động thần linh của Thiên Chúa để thực hiện dự án thần linh này đó là: "Những
ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi,
thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính,
thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang" (câu 30).
Đúng thế, trước hết về dự án thần linh của Thiên Chúa thì tất cả những gì Vị
"Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) làm đều nhắm đến lợi ích thiêng liêng
tối đa nhất cho từng linh hồn một, dù linh hồn có cảm thấy bất hạnh, khổ đau và
khốn cùng. Không ai đáng yêu và đáng quí bằng chính Con Một của Ngài, thế mà
"Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một của Ngài, một đã phó nộp Người vì tất
cả chúng ta" (Roma 8:32).
"Những ai Thiên Chúa biết trước thì Ngài cũng tiền định" đây được hiểu là
những ai Thiên Chúa đã tuyển chọn đặc biệt từ trước, tuyển chọn hoàn toàn
theo ý định khôn ngoan của Ngài, chứ không theo ý muốn của tuyển nhân hay nhờ
công nghiệp của tuyển nhân, cũng như bởi tình thương của Ngài đối với toàn thể
nhân loại hơn là chỉ với riêng cá nhân tuyển nhân nào ấy. Đó là lý do, một trong
những con người "Thiên Chúa đã biết trước" tiêu biểu nhất là vị tạo vật đệ nhất
về ân sủng Maria đã phải thốt lên trong ca Vịnh Magnificat của mình rằng:
"Ngài đã thương đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài" (Luca 1:48).
"Thiên Chúa đã tiền định cho họ nên đồng hình dạng với Con của Người" đây
như thế nào, nếu không phải "tuân phục nơi những gì phải chịu" (Do Thái
5:8). Tức là càng đau khổ càng nên giống Chúa Kitô, cho dù là khách quan
chăng nữa, như chính Chúa Kitô đã tự đồng hóa mình với "những người anh em
hèn mọn nhất của Ta" (Mathêu 25:40,44).
Đó là lý do, Thánh Phaolô mới khẳng định rằng: "Những ai Người đã biết từ
trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình dạng với Con của Người", nhất
là bằng đau khổ. Và vì thế, đối với "những ai yêu mến" Thiên Chúa thì "mọi
sự đều sinh ích" cho họ bởi họ tin rằng tất cả những gì Thiên Chúa làm cho họ và
nơi họ đều tốt lành thánh hảo, đều có lợi thiêng liêng nhất cho họ cũng như cho
các linh hồn.
Sau nữa, về tác động thần linh của Thiên Chúa để làm "cho những kẻ
được Người kêu gọi theo như ý Người định" "nên đồng hình dạng với Con của
Người", thì theo thời gian Ngài sẽ thực hiện các giai đoạn cần
thiết tiếp nối nhau theo quan phòng thần linh khôn ngoan của Ngài thứ tự
như sau: 1- "kêu gọi", 2- "làm cho nên công chính", và cuối cùng 3- "cho hưởng
phúc vinh quang".
Thật vậy, "những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai
Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm
cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang", tiêu biểu
trước hết là trường hợp của tổ phụ Abraham, nhân vật đã được Thiên
Chúa "tiền định" làm tổ phụ cho một dân tộc của mọi dân tộc, nên Thiên Chúa đã
"kêu gọi" ông từ bỏ mảnh đất ông đang sống để đến một nơi Ngài sẽ chỉ cho ông
mà ông không hề biết (xem Khởi Ngyên 12:1), để rồi sau đó Thiên Chúa đã "làm cho
(ông) nên công chính" bằng việc truyền cho ông phải sát tế đứa con duy nhất được
sinh ra bởi lời hứa của chính Ngài (xem Khởi Nguyên 22:2), và sau khi ông đã sẵn
sàng chấp nhận làm theo ý muốn tối cao toàn hảo của Ngài thì Thiên Chúa
cho ông được "hưởng phúc vinh quang": "Vì ngươi đã không tiếc với ta đứa con yêu
dấu của ngươi, ta sẽ chúc phúc dồi dào trên ngươi và làm cho giòng dõi của ngươi
nhiều như sao trời cát biển..., và nhờ giòng dõi của ngươi mà tất cả mọi dân
nước trên trái đất này được chúc phúc" (Khởi Nguyên 22:16-18).
Sau nữa, "những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai
Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm
cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang", trường
hợp điển hình thứ hai là Trinh Nữ Maria, một tạo vật nữ nhân đã được Thiên Chúa
tiền định làm mẹ của Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể, nên Ngài đã "kêu gọi" Mẹ, đặc
biệt nhất vào lúc Mẹ được Tổng Thần Thiên Sứ Gabiên đến truyền tin cho Mẹ thụ
thai Con Đấng Tối Cao (xem Luca 1:1-38), sau đó Ngài đã làm cho Mẹ thật sự "nên
công chính" hơn nữa (vì ngay từ lúc được hoài thai trong lòng thai mẫu
Mẹ đã được Ngài công chính hóa rồi) khi Mẹ "đứng dưới chân thập giá của Chúa
Giêsu" (Gioan 19:25) với tất cả đớn đau cùng tận nhất Mẹ có thể chịu đựng
bằng đức tin tuân phục của Mẹ bấy giờ, nhờ đó, Thiên Chúa đã cho Mẹ "hưởng phúc
vinh quang", ở chỗ làm cho Mẹ trở thành Mẹ của Giáo Hội ngay trên Đồi Canve vào
lúc Chúa Giêsu Con Mẹ bị lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn, cũng như vào lúc Mẹ được
Mông Triệu về trời cả hồn lẫn xác như Con Mẹ và trở thành Nữ Vương trời đất.
Trường hợp điển hình tiêu biểu thứ ba về "những ai Thiên Chúa đã tiền định,
thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên
công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng
phúc vinh quang", đó là Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một con người đã được
Thiên Chúa "tiền định" làm "ánh sáng muôn dân, thành phương tiện cứu độ cho tới
tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47), nên Thiên Chúa đã "kêu gọi" ngài ngay khi
ngài đang quá nhiệt tình với Do Thái giáo của ngài đến độ tỏ ra hung hăng bách
hại Kitô hữu trên đường đến Damasco (xem Tông Vụ 9:5-6,15), và sau đó Thiên
Chúa đã "làm cho (ngài) nên công chính" ở chỗ để cho ngài bị bách hại bởi
chính đồng hương và đồng đạo Do Thái giáo của ngài khắp mọi nơi trong suốt sứ vụ
truyền giáo của ngài (xem Tông Vụ 9:16;20:22-24;23:6), để rồi sau hết Thiên
Chúa đã cho ngài được "hưởng phúc vinh quang" ở chỗ cho ngài nếm hưởng trước "ở
tầng trời thứ ba" những gì mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe trên
thiên đàng (xem 2Corinto 12:2-3).
Cảm nghiệm về chính bản thân mình, tôi không biết ngài "đã tiền định" cho tôi là
gì và ra sao một cách tỏ tường, mà theo tôi nghĩ, căn cứ vào diễn tiến của đời
tôi, thì hình như Ngài đã tiền định cho tôi làm Tông Đồ Fatima của Mẹ Maria và
làm Tông Đồ Chúa Tình Thương cho Lòng Thương Xót Chúa trong thời điểm lịch sử
thế giới và Giáo Hội hiện nay qua Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam. Bởi thế Ngài đã
"kêu gọi" tôi bằng cách sắp xếp các biến cố xẩy ra, liên quan đến nơi ăn chốn ở
của tôi cũng như nghề nghiệp của tôi, để làm sao đưa tôi đến ơn gọi kiêm sứ vụ
duy nhất là "Tông Đồ" nhưng là một Tông Đồ lưỡng diện, bao gồm cả chiều
kích "Thánh Mẫu Fatima" lẫn "Lòng Thương Xót Chúa", như trường hợp của Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một ơn gọi kiêm sứ vụ duy nhất lưỡng diện mà chính
tôi cũng không ngờ lại được giống với vị Thánh Giáo Hoàng người Balan này.
Và để tôi có thể xứng đáng và có khả năng hoàn thành ơn gọi kiêm sứ vụ lưỡng
diện này, Thiên Chúa đã "làm cho (tôi) nên công chính" bằng những thử thách đầy
khổ đau, ngay từ nhỏ, để có thể biến đổi tôi từ một thiếu nhi ham chơi nghịch
phá và từ một thiếu niên đa cảm, mơ mộng, nhục dục, thành một tu sĩ, và từ một
tu sĩ tự nhiên thích khoe khoang, ham danh, khinh người thành một giáo dân không
còn dám khinh ai, trái lại, hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng thần linh của
Thiên Chúa trong mọi sự qua các hoạt động tông đồ giáo dân của mình, nhất
là trong thời gian 14 năm 2 tháng (8/9/1991 - 8/12/2005) phục vụ Thiếu Nhi
Fatima TGP LA, và 13 năm 3 tháng 10 ngày (17/9/2000 - 27/12/2013) điều hành
chương trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống.
Từ năm 2008 đến nay, thời điểm tôi được tác động bởi những lời của Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II (khi ngài về Balan lần VIII: 17-18/8/2002) khởi xướng Nhóm
Tông Đồ Chúa Tình Thương, Chúa lại còn "làm cho tôi nên công chính" đặc biệt hơn
nữa bằng 2 thử thách, một liên quan đến nghề nghiệp của tôi và một liên quan đến
gia đình của tôi, hai thử thách mà nếu không có ơn Chúa tôi đã ngã gục và hoàn
toàn buông xuôi rồi, hai thử thách trong cùng một năm 2009, sau khi tôi cảm
thấy được rằng Ngài muốn chiếm đoạt tôi và long trọng đọc lời nguyện "Xin
Chiếm Đoạt Con" mà tôi được thúc đẩy ngay trong Lễ Lá để soạn dọn ngay Chúa Nhật
ngày 5/4/2009 này.
Còn về tương lai liên quan đến việc Thiên Chúa cho tôi được "hưởng phúc vinh
quang" như thế nào và tới đâu thì tôi hoàn toàn không biết, chỉ biết rằng hiện
nay, cũng như trong quá khứ, nếu tôi không được Thiên Chúa rèn luyện thử thách
một cách gắt gao và nghiệt ngã chỉ vì thiện ích của tôi là con người đã được
Ngài biết trước, thì tôi không được như ngày hôm nay, một con người phải nói
là đã được đổi mới, không còn như xưa, hay đúng hơn đã thực sự khác xưa, tuy
chưa hoàn toàn lột xác một cách trọn vẹn như lòng mong muốn, bởi vẫn còn
yếu đuối và nhất là chưa đến lúc được Thiên Chúa tận cùng chiếm đoạt, một con
người mới một phần nào dầu sao cũng do chính Thiên Chúa tái tạo nơi tôi và cho
tôi, cũng như cho các linh hồn có liên hệ với tôi, một sản phẩm do ân sủng của
Ngài.
Và cho tới nay tôi thực sự cảm nghiệm thấy được rằng "vinh quang" hiện tại của
tôi đó là tôi đã, đang và sẽ được Thiên Chúa "tiền định cho họ nên đồng hình
dạng với Con của Người", không phải bằng tiếng tăm tôi đang có được trong
cộng đồng dân Chúa nhỏ bé của tôi, hơn là bằng đau khổ thử thách,
nhờ đó, như cành nho dính liền với Thân Nho là Chúa Kitô, tôi có thể sinh hoa
trái hơn nữa cho vinh danh của Thiên Chúa cũng là chính vinh hiển của tôi: "Cha
Thày đã được hiển vinh nơi việc các con sinh hoa kết trái và trở nên môn đệ của
Thày" (Gioan 15:8).
Nếu Cha trên trời chỉ thỏa lòng nơi Chúa Kitô Con Ngài thế nào thì tôi làm sao
nên giống Chúa Kitô qua việc tuân phục như Người và với Người, tôi càng làm vinh
hiển Cha trên trời như thế, nhờ đó, tôi mới thực sự mãn nguyện, vì được nên
giống Chúa Kitô là tất cả những gì Thiên Chúa mong muốn trước hết và trên hết
nơi tôi và cho tôi, và nhờ đó tôi mới thực sự được “hưởng phúc vinh quang”.
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
(Bài
này đã được Nguyệt San Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam phổ biến
trong
Số Báo 8/2016 Năm Thánh Tình Thương)