“Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài
ở chỗ khi chúng ta còn là tội nhân..."
(Roma 5:6-11)
(6) Quả
vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo
đúng kỳ hạn, Ðức Kitô đã chết vì chúng ta. (7) Hầu như không ai chết
vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. (8) Thế
mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. (9) Phương chi bây
giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Ðức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được
Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. (10) Thật vậy, nếu ngay
khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người
phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta
đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ đuọc cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. (11) Nhưng
không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên
Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu không những ở chỗ tự động yêu thương nhân loại
tạo vật chúng ta một cách nhưng không ngay từ ban đầu, và yêu cho đến tận cùng,
không còn thể nào yêu hơn được nữa, yêu từng người một chứ không phải chỉ yêu
chung hết mọi người vậy thôi, mà còn yêu thương chúng ta cho đến độ dù chúng ta
có tội lỗi xấu xa vô cùng ghê tởm trước thánh nhan Ngài đến thế nào chăng nữa.
Như thế, theo đường lối yêu thương vô cùng nhân hậu và huyền nhiệm này của Thiên
Chúa, thì nhân loại tạo vật chúng ta càng tội lỗi lại càng là cớ hết
sức chính đáng và là cơ hội thật là thuận lợi để Ngài tỏ hết mình là tình yêu vô
cùng nhân hậu của Ngài ra, đúng như Thánh Phaolô đã cảm nhận và tuyên tín rằng
"Thiên
Chúa dồn con người đến chỗ bất tuân để có thể tỏ tình thương cho hết mọi người"
(Roma 11:32), do đó, “Dù tội lỗi gia tăng, ân sủng vẫn trổi vượt” (Roma 5:20),
đến độ "Vì
chúng ta Thiên Chúa đã làm cho Người là Đấng đã không biết đến tội lỗi trở thành
tội lỗi để trong Người chúng ta trở nên chính sự thánh thiện của Thiên Chúa”
(2Corinto 5:21)
Vấn đề đầu tiên ở đây là vì Ngài muốn chứng tỏ tình Ngài yêu thương chúng ta ở
chỗ khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta mà
Chúa Kitô Con của Ngài, đồng bản thể thần linh như Ngài và hằng sống bất tử như
Ngài, đã phải mặc lấy bản tính nhân loại bị hư hoại của chúng ta để có thể chịu
khổ và chịu chết cho chúng ta, chịu khổ và chịu chết thay cho chúng ta, thành
phần sa phạm nơi hai nguyên tổ cũng như nơi chính bản thân mình, đáng tội chết
hơn là đáng yêu, đáng thương.
Vấn đề tiếp theo ở đây là tại sao Chúa Kitô là Đấng hoàn toàn "vô tội lại trở
thành tội lỗi" (2Corinto 5:21), lại chịu khổ và chịu chết cho chúng ta và thay
cho chúng ta một cách vô cùng bất xứng và bất công như thế, nếu không phải là để
nhân loại tội nhân chúng ta được hòa giải với chính Đấng chúng ta đã xúc
phạm đến. Như thế, không phải là phạm nhân loài người hòa giải với nạn nhân
Thiên Chúa của mình mà là nạn nhân Thiên Chúa đến làm hòa với phạm nhân nhân
loại của mình nơi Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô (xem Mathêu 5:24).
Nếu Chúa Kitô là Đấng "vô tội trở thành tội lỗi" thì chẳng khác gì như một
chiếc áo trắng tinh bị nhuộm đen ngòm vậy. Hay giống như một hòn ngọc vô giá bị
rơi vào đống phân ô uế bẩn thỉu hôi thối. Hoặc chẳng khác gì như một vị hoàng đế
cai trị muôn dân thiên hạ uy nghi cao cả bị rơi ngay xuống bùn lầy nhơ nhớp
vậy.
Nhưng vấn đề ở đây không phải là "bị" nhuộm đen ngòm như chiếc áo trắng tinh,
hay "bị" rơi vào đống phân o uế bẩn thỉu hôi thối như hòn ngọc vô giá, hoặc "bị"
rơi xuống bùn lầy nhơ nhớp bẩn thỉu như vị hoàng đế uy nghi cao cả, mà là sẵn
sàng "chịu" như thế hay "được chịu" như thế nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa
vô cùng thánh hảo, đáng tôn thờ, vì chính Người đã tự động, chứ không phải bị ép
buộc, "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đã "tự hiến" (Gioan 17:19), đã "muốn
chứng tỏ rằng Người yêu những kẻ thuộc về Người cho đến cùng" (Gioan 13:1).
Bởi thế, vì đã "trở thành tội lỗi" như vậy mà trước nhan Thiên Chúa Cha
là Đấng đã sai Người, Chúa Giêsu Kitô Con Một của Ngài, nơi bản tính nhân
loại đã bị hư hoại bởi nguyên tội cũng như bởi tư tội của từng con người trên
thế gian này từ hai nguyên tổ cho tới tận thế, đã thực sự trở thành một vật xấu
xa nhất, nhơ nhớp nhất, đồi bại nhất, khốn nạn nhất, ghê tởm nhất v.v.
Thậm chí tới độ, Thiên Chúa Cha như thể không còn nhận ra Con Một của Ngài nữa,
hay có nhận ra thì cũng không ngờ rằng Người lại biến dạng đến quái gở như vậy,
hoàn toàn không còn là "phản ảnh vinh quang của Cha" (Do Thái 1:3) nữa, nên
Người đáng bị đọa đầy xua đuổi vì quá bất xứng với một Vị Thiên Chúa toàn hảo vô
cùng uy nghi cao cả, khiến chính Người Con vô cùng yêu dấu của Ngài ấy đã phải
than lên trên cây thập tự giá giữa hai tên tử tội trộm cướp rằng: "Chúa Trời
tôi ơi, Chúa Trời tôi ơi, nhân sao Ngài lại bỏ rơi tôi?" (Mathêu 27:46).
Thật vậy, vì "vô tội nhưng đã trở thành tội lỗi" như thế mà "Đức Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Gioan 11:25) thực sự đã trở thành một tội
nhân vô cùng vĩ đại, một đại đệ nhất ma đầu, một tên ác nhân quái gở chưa từng
thấy, một nhân vật vô cùng kinh khủng, đã từng mang đủ mọi thứ án về mọi thứ tội
lỗi trên đời này, chẳng hạn những tội tiêu biểu trong 10 Điều Răn Đức Chúa
Trời ở những trường hợp điển hình đặc biệt sau đây:
Điều răn 1-3: tội tôn thờ tà thần là rắn quỉ mà không kính mến Thiên Chúa chân
thật duy nhất của mình trên hết mọi sự của hai nguyên tổ Adong và Evà ngay từ
ban đầu ở trong Địa Đường, cũng là tội tôn thờ ngẫu tượng do chính mình tạo
nên của dân Do Thái trong Lịch Sử Cứu Độ của họ và của thành phần Kitô hữu trong
lịch sử Giáo Hội v.v.;
Điều răn thứ 4: tội bất kính bất hiếu thay vì thảo hiếu với cha mẹ là những bậc
sinh thành nên mình, thậm chí còn muốn chiếm đoạt những gì của cha mẹ
có được, như xẩy ra nơi trường hợp của Absalom phản loạn chống lại vương
phụ Đavít, đến độ hiếp cả các tì thiếp của vua cha ngay giữa ban ngày (xem
2Samuel các chương từ 15 đến 18) v.v.;
Điều răn thứ 5: tội sát nhân của Cain giết Abel em mình (xem Khởi Nguyên
4:1-16), của Mao Trạch Đông Trung Cộng (1943-1976) giết 78 triệu, của Joseph
Stalin Liên Sô (1922-1953) giết 23
triệu, của Adolf Hitler Đức Quốc Xã (1934-1945) giết 17 triệu trong đó có 6
triệu người Do Thái trong Thế Chiến Thứ II (1939-1945), của thế giới Tây phương
tân tiến cho phép phụ nữ tàn nhẫn phá thai sát hại thai nhi vô tội còn trong
bụng dạ của họ hằng bao nhiêu triệu mạng sống hằng năm trên thế giới này, hơn cả
các nhà độc tài nổi tiếng sát nhân trên đây, và hiện nay của Nhà Nước Hồi Giáo
(ISIS) vô cùng dã man sát hại những con tin của đối phương, chưa kể đến tội hành
hạ tàn nhẫn con người ta ở trong các trại tù của thế giới cộng sản, thậm chí ở
cả các nước văn minh tân tiến nhất thế giới như ở trong nhà tù Guatemala của Hoa
Kỳ sau biến cố 911 v.v.;
Điều răn thứ 6: tội gian dâm ngoại tình của "Thánh Vương" Đavít với người vợ bầy
tôi Uria của mình rồi lại còn ra tay sát hại chính người chồng của người đàn bà
ngoại tình với mình này nữa (xem 2Samuel toàn chương 11), nhất là của Dân Do
Thái tỏ ra trắng trợn bất trung phản bội Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất luôn
thủy chung của mình, theo đuổi các thần ngoại lai (xem Hosea 3:1), tiêu biểu
nhất là Vua Salomon khôn ngoan quyền quí nhất thiên hạ nhưng đã có cả 700 thê và
300 thiếp, thành phần tiêu biểu cho các thần ngoại lai của các nàng (xem 1Kings
11:1-10), cũng như tội gian dâm ngoại tình của muôn muôn vàn vàn con người trong
lịch sử nhân loại nói chung và trong Giáo Hội Kitô giáo nói riêng, và tội dâm ô
lăng loàn ở các ổ điếm cùng khiêu dâm trên khắp thế giới hiện nay, tội lạm dụng
tình dục trẻ em nơi một thiểu số giáo sĩ Công giáo v.v.;
Điều răn thứ 7: tội gian lận trộm cướp của cải thuộc người khác không phải của
mình, như đã từng xẩy ra nơi các đế quốc trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là
nơi chế độ thực dân từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 20, nhất là nơi chính sách tân thực
dân hóa về kinh tế hiện nay trên thế giới theo chiều hướng toàn cầu hóa mà hậu
quả là khoảng cách giầu nghèo càng xa cách nhau hơn, trong khi một thiểu số cá
nhân hay quốc gia càng ngày càng giầu mạnh thì đa số dân chúng trên thế giới và
các quốc gia càng ngày càng nghèo khổ, chưa kể đến tội hà hiếp bóc lột sức
lao động của con người, biến con người thành khí cụ sản xuất cho lợi lộc vật
chất, và tội buôn người làm nô lệ lao công và nô lệ tình dục v.v.;
Điều răn thứ 8: tội làm chứng dối chứng gian bất chấp sự thật để chạy tội hay đổ
tội gây tác hại cho người khác, khiến họ bị tù đầy hay bị sát hại, tội vu oan
cáo vạ, tội vu khống chụp mũ v.v., xẩy ra cả ở thế giới cộng sản cũng như thế
giới quá khích về đạo giáo, cũng như đã từng xẩy ra trong vụ án Giêsu trước
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và Quan Trấn Philatô xưa.
Điều răn thứ 9 và thứ 10 liên quan đến lòng thèm muốn về nhục dục với vợ chồng
người khác cũng như lòng thèm muốn về của cải thuộc người khác, cho dù những thứ
thèm muốn này chưa trở thành hiện thực bằng tác hành chiếm đoạt cụ thể, như điều
răn thứ 6 và thứ 7, những cũng đã làm cho con người ra ô uế nhơ nhớp (xem Marco
7:20-23), bất xứng với nhân phẩm là người và nhân cách làm người rồi vậy, như
trường hợp Trung Cộng với Biển Đông và Nga Sô với Ukraine hiện nay.
Tất cả mọi thứ tội phạm đến 10 Điều Răn của Đức Chúa Trời này đều có nơi bản
thân của Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Người không
phạm bất cứ một tội nào trong 10 Điều Răn này, nhưng người lại có, lại mắc đủ
mọi tội lỗi mà Người không phạm. Thậm chí có thể nói một cách không sợ sai lầm
rằng, với bản tính nhân loại của mình, cho dù nhân tính này hoàn toàn thánh hảo
và vô tội bởi được ngôi hiệp với thiên tính toàn hảo vô cùng cao cả, Người vẫn
trở thành hiện thân của một Cain giết Abel, của một Đavít ngoại tình, của một
Hitler diệt chủng, của một Cộng sản dã man, của một Nhà Nước Hồi Giáo ác độc,
của một Tây phương phá thai v.v.
Đồng thời Người còn vừa là nạn nhân vừa là chính phạm nhân ngay trong cuộc khổ
nạn và tử giá của Người, bởi Người cũng gánh lấy cả tội giết Con Thiên Chúa của
chung dân Do Thái, của dân ngoại Rôma và của chính môn đệ của Người bấy giờ,
do đó Người cũng là hiện thân của một tông đồ Giuđa Íchca phản nộp Thày, của một
thượng tế Caipha lên án tử cho Người, của một tông đồ Phêrô chối bỏ Thày,
của một tổng trấn Philatô ra lệnh đóng đanh Người v.v.
Không phải hay sao, chính vì Người đã mang tội tôn thờ tà thần của nhân loại qua
giòng lịch sử, từ nguyên thủy cho tới tận thế, điển hình nhất của hai nguyên tổ
Adong-Evà ngay từ ban đầu trong Địa Đường, của Dân Do Thái trong Lịch Sử Cứu Độ
của họ, cũng như của thành phần Kitô hữu trong Lịch Sử Giáo Hội, mà Người mới bị
và đã bị lên án tử vì tội lộng ngôn phạm thượng bởi chỉ là người mà dám cho mình
ngang hàng với Thiên Chúa (xem Gioan 10:33)?!?
Không phải hay sao, chính vì Người mang tội bất hiếu phản loạn với cha mẹ của
biết bao nhiêu là con cái đối với cha mẹ của mình trong giòng lịch sử nhân loại
nói chung, từ nguyên thủy cho đến tận thế, và của Kitô hữu nói riêng, điển hình
nhất là của Absalom mà Người mới bị và đã bị thân nhân của Người tỏ ra ngờ vực
về Người, cho Người là điên khùng (xem Marco 3:21; Luca 4:22), và bị các tông đồ
thân cận của Người ruồng bỏ tẩu thoát (xem Marco 14:50)?!?
Không phải hay sao, chính vì Người mang tội sát nhân của biết bao nhiêu là con
người ghen ghét nhau, hận thù nhau trong giòng lịch sử, từ nguyên thủy cho tới
tận thế, điển hình nhất của Cain, của Mao Trạch Đông Trung Cộng, của Joseph
Stalin Liên Sô, của Adolf Hitler Đức Quốc Xã, của thứ văn hóa chết chóc Tây
phương v.v. mà Người mới bị và đã bị Quận Vương Hêrôđê lùng giết khi vừa được hạ
sinh (xem Mathêu 2:16-18), và cuối cùng đã bị đóng đinh vào thập tự giá vô
cùng đớn đau nhục nhã trước mặt thiên hạ?!?
Không phải hay sao, chính vì Người mang tội gian dâm ngoại tình của biết bao
nhiêu là con người sống theo đam mê nhục dục đê hèn nhơ nhớp, trong giòng lịch
sử, từ nguyên thủy cho tới tận thế, điển hình nhất của Vua Đavít và Vua Solomon
v.v., mà Thánh Thể vô cùng tốt lành của Người mới bị và đã bị quân dữ Rôma dã
man đánh đập đến tan thân nát thịt, không còn hình tượng gì nữa (xem Isaia
52:14)?!?
Không phải hay sao, chính vì Người mang tội gian dối lừa đảo trộm cướp của những
con người chối bỏ sự thật và triệt hạ sự thật, trong giòng lịch sử, từ nguyên
thủy cho tới tận thế, điển hình nhất của các chế độ độc tài chuyên chế đàn áp
nhân quyền và chà đạp nhân phẩm, mà Người mới bị và đã bị những nhân chứng dối
trá tố cáo Người hầu có thể lên án tử cho Người, nhất là đã bị đóng đanh
trên Đồi Canvê giữa 2 tên tử tội trộm cướp (xem Luca 23:33)?!?
Không phải hay sao, chính vì Người mang tội thèm muốn bất chính của những con
người sống theo xác thịt gian dâm ngoại hôn và tham lam của cải thuộc người
khác trong giòng lịch sử, từ nguyên thủy cho tới tận
thế, mà đầu óc của Người mới bị và đã bị đội mão gai vô cùng nhức nhối, và tâm
thần của Người đã cảm thấy buồn sầu đến nỗi chết được trong Vườn Cây Dầu (xem
Mathêu 26:38), đến độ mồ hôi biến thành máu nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44)?!?
Nếu Chúa Kitô vốn "vô tội trở thành tội lỗi" vì chúng ta như thế, và tội lỗi của
chung nhân loại nơi 2 nguyên tổ và riêng từng người chúng ta đều ở nơi Người,
nhờ đó toàn thể nhân loại đã được Người cứu chuộc và từng người chúng ta, qua
Phép Rửa, đã được Người cứu chuộc, chẳng những thế, còn được hiệp nhất nên một
với người, được thông phần bản tính thần linh của Người, được thông phần sự sống
thần linh với Người và như Người trong thân phận làm con Thiên Chúa, thì chúng
ta cũng đã được thông phần với Cuộc Vượt Qua của Người, đã cùng Người "vượt qua
sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24).
Bởi thế, chúng ta mới thấy những gì Thánh Phaolô viết cho Giáo Đoàn Rôma
(6:3-14) về Phép Rửa và tác dụng của Phép Rửa cùng với ơn gọi của những ai lãnh
nhận Phép Rửa thật chí lý và cần phải xác tín và mang ra áp dụng thực hành,
nguyên văn như sau (nhất là những câu được người viết tự ý in nghiêng và
in đậm):
"Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về
Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì
được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.
Bởi thế, cũng
như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha,
thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.
"Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết,
thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống
lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào
thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt,
để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết,
thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.
"Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người:
đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Ki-tô đã
sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền
chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay
Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi
mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức
Ki-tô Giê-su.
"Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa, khiến anh em
phải nghe theo những dục vọng của thân xác. Anh em đừng dùng chi thể của
anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái
lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến
toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công
chính, phục vụ Thiên Chúa. Tội lỗi sẽ không còn quyền chi đối với anh em
nữa, vì anh em không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng".
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
(Bài
này đã được Nguyệt San Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam phổ biến
trong
Số Báo 7/2016 Năm Thánh Tình Thương)