CHA Ở TRÊN TRỜI
* Thiên Chúa Là Ai?
* Thiên Chúa Thế Nào?
THIÊN
CHÚA LÀ CHA
"Lạy Cha chúng con ở trên
trời." Câu thưa đầu tiên trong kinh cầu nguyện Chúa dạy này nói lên hai
thực tại về Thiên Chúa. Thực tại thứ nhất: "Thiên Chúa là ai?" - Thiên
Chúa là "Cha". Thực tại thứ hai: "Thiên Chúa thế nào?" - Thiên Chúa "ở
trên trời". Và, chính vì Thiên Chúa là "Cha" và "ở trên trời" như thế
mà chúng ta là
"con" phải cầu nguyện với
Ngài "trong tinh thần và chân lý".
"Chân lý" ở đây là gì, nếu
không phải Thiên Chúa là "Cha" của chúng ta và chúng ta là "con" cái
của Ngài. "Tinh thần" ở đây là gì, nếu không phải tinh thần nghĩa tử
của Ngài. "Trong tinh thần (nghĩa tử) và chân lý (cha con)" này, chúng
ta mới có đủ tư cách và khả năng xứng đáng để "giao tiếp" với Thiên
Chúa, tức "cầu nguyện" với Ngài, (mà câu nào trong lời nguyện Con Một
của Ngài đã dạy chúng ta cũng nói lên tình nghĩa Cha con này), rằng:
"Chúng con nguyện Danh Cha
cả sáng,
(Chúng con nguyện) Nước Cha
trị đến,
(Chúng con nguyện) Ý Cha
thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm
nay lương thực hằng ngày, và
(Xin Cha) tha nợ chúng
con...
Xin (Cha) chớ để chúng con
sa chước cám dỗ, nhưng
(Xin Cha) cứu chúng con cho
khỏi sự dữ".
"Lạy Cha chúng con", câu
này xác định sự liên hệ giữa người cầu nguyện là Kitô hữu chúng ta và
đối tượng chúng ta hướng đến là Thiên Chúa, người "Cha" mà chúng ta là
"con" cái của Ngài. Sự liên hệ Cha con này được bắt nguồn và đặt nền
tảng trên căn bản Ơn Thánh, ơn mà Thiên Chúa đã ban cho con người khi họ
chịu phép thánh tẩy, để họ được thông phần bản tính và sự sống Thần Linh
của Ngài, như con cái được Ngài sinh ra cho được hưởng vĩnh phúc trên
trời là chiêm ngưỡng Thánh Nhan Ngài, Cha của mình, chí thiện, chí ái,
chí tôn!
Thực ra, tự bẩm sinh, con
người, dù có là một tạo vật duy nhất "được dựng nên theo hình ảnh
Thiên Chúa" (STK 9:6; Gia 3:9), cũng không phải là con cái của Thiên
Chúa, được sinh ra trực tiếp bởi Thiên Chúa là Cha. Chỉ có Chúa Giêsu
Kitô, Ngôi Lời nhập thể, mới là Con Một của Ngài, được trực tiếp sinh ra
bởi Ngài và có cùng một bản tính Thiên Chúa với Ngài mà thôi. Loài người
có là con Thiên Chúa cũng chỉ là những đứa con được thừa nhận: "Khi tới
thời hạn ấn định, Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến sinh bởi một người
nữ, sinh ra dưới lề luật, để giải thoát khỏi lề luật những kẻ thuận
thuộc lề luật, hầu chúng ta nhận được thân phận như những nghĩa tử của
mình" (Gal 4:4-5).
Phải, Ơn Thánh là gì, nếu
không phải là Ơn Nghĩa Chúa. Khi con người chịu phép rửa tội là con
người được Ơn Thánh hay Ơn Nghĩa Chúa cũng vậy. Bởi vì, trước khi "được
tái sinh từ trên cao, bằng nước và Thần Linh" (Gn 3:3,5), tất cả mọi
người, ngoại trừ Mẹ của Người là Trinh Nữ Maria được Ơn Vô Nhiễm Nguyên
Tội, đều đã phạm tội nơi con người Adong: "Qua một người, tội lỗi cùng
với sự chết đã lọt vào thế gian, sự chết đến với tất cả mọi người
như mọi người đã phạm tội" (Rm 5:12). Do đó, tất cả mọi người đã làm
mất lòng Chúa, tức đã mất Ơn Nghĩa Chúa, đã phụ lòng yêu thương vô
cùng của Thiên Chúa, Đấng đã "dựng nên con người theo hình ảnh của
mình" (STK 1:27), nhờ đó, con người đã có tư cách và khả năng
thay Ngài "quản trị" (STK
1:28) trái đất.
Tuy nhiên, mất Ơn Nghĩa
Chúa không có nghĩa là con người không được Thiên Chúa là Cha của mình
yêu thương mình nữa, song, chỉ có nghĩa là con người đã trở nên bất
xứng với tình yêu thương của Thiên Chúa, thế thôi. Chính vì "Thiên
Chúa là Tình Yêu" (1Gn 4:8,16) không thể nào không yêu thương mà còn
là Thiên Chúa, dù chúng ta đã trở nên bất xứng với Ngài, Ngài vẫn yêu
thương chúng ta như người Cha luôn mong chờ đứa con hoang đàng của mình
trở về, và khi vừa thấy nó trở về thì vui mừng sung sướng tiếp nhận nó
ngay (x.Lc 15:20,32). Không phải "Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta
trước" (1Gn 4:19) và còn yêu thương chúng ta hơn nữa hay sao: "Thiên
Chúa đã chứng tỏ tình Ngài yêu thương chúng ta ở chỗ, đang khi chúng ta
còn là những tội nhân, Chúa Kitô đã chết cho chúng ta" (Rm 5:8), Ngài
"đã không dung tha cho Con Một Mình, song lại trao nộp Người vì tất
cả chúng ta" (Rm 8:32). Khi sai người Con Duy Nhất của mình xuống
trần gian, Thiên Chúa không phải là người Cha chỉ biết ở nhà chờ đứa
con hoang đàng trở về, hơn thế nữa, Ngài còn, qua Chúa Giêsu Con của
Mình, dong duổi tìm kiếm đứa con hoang đàng của Mình nữa, như đi tìm
chỉ một con chiên lạc mà thôi (x.Lc 15:4-6).
Thế nên, Ơn Nghĩa Chúa,
tức Ơn Thánh, chẳng qua chỉ là Tình Yêu Thiên Chúa hay Thần Trí Thiên
Chúa ở với con người.
Chúa Giêsu không phải là
Tình Yêu Thiên Chúa ở với con người hay sao? "Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một Mình cho thế gian..." (Gn 3:16), và, Ngôi Lời
nhập thể là Thiên Chúa ở cùng thế nhân đó thực sự đã là Tình Yêu Thiên
Chúa đối với nhân loại, ở chỗ: "Cha Ta yêu Ta thế nào, Ta cũng yêu các
con như vậy" (Gn 15:9).
Do đó, con người có Chúa
Kitô là có Tình Yêu Thiên Chúa, là có Ơn Nghĩa Chúa. Hay, nói ngược
lại, con người có Tình Yêu Thiên Chúa, tức được Thiên Chúa yêu thương,
"được Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1:28), như trường hợp cụ thể đặc biệt của
Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, là có Chúa Kitô, Đấng đã đến để "hoàn tất" (Gn
17:4, 19:30) "Ý của Cha là Ta không được làm mất một sự gì Ngài đã ban
cho Ta, mà phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết" (Gn 6:39).
Thần Trí Thiên Chúa cũng
không phải là Tình Yêu Thiên Chúa ở với con người hay sao? "Tình Yêu
Thiên Chúa đã tuôn tràn vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Ngài đã ban
cho chúng ta" (Rm 5:5), "Đấng mà Cha sai đến nhân danh Thày" (Gn
14:26), và Đấng mà "tất cả những ai được hướng dẫn đều là con cái
Thiên Chúa" (Rm 8:14). Phải, "chính Thần Linh chứng thực với tâm trí
chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa" (Rm 8:36), và làm cho
chúng ta có thể đơn sơ và dạn dĩ thân thưa với Thiên Chúa rằng "'Abba',
tức là 'Lạy Cha'" (Rm 8:15): "Lạy Cha chúng con ở trên trời" (Mt 6:9).
THIÊN
CHÚA Ở TRÊN TRỜI
Vâng, Thiên Chúa là "Cha"
của chúng ta, là "Cha" đích thực nhất. Ngài mới chính là "Cha" duy nhất
của chúng ta (x.Mt 23:9). Vì, chỉ một mình Ngài đã tự mình sinh ra chúng
ta trong Con Một của Ngài và bởi bản tính "là tình yêu" (1Gn 4:8,16) của
Ngài. Kể cả "người nữ" (Gal 4:4) mà chúng ta gọi là Mẹ thực sự cũng là
con cái của Ngài như chúng ta, và, cùng với Người Nữ Mẹ của chúng ta
cũng như cùng với Chúa Kitô là anh của mình, chúng ta đã thân thưa với
Thiên Chúa là "Lạy Cha chúng con". Chúng ta, nhờ Thánh Sủng, Ơn Nghĩa
của Ngài, tức nhờ được Ngài yêu thương, đã "nên giống như Thiên Chúa" (STK
3:5), một mơ ước mà con người không thể tự mình làm được và được làm mà
không phạm thượng, (như hai nguyên tổ đã làm), đó là thông phần bản tính
vô cùng trọn hảo và sự sống vô cùng viên mãn của Ngài, và được "thừa tự
với Chúa Kitô" (Rm 8:17) trên Trời, nơi Thiên Chúa là Cha chúng ta ở đó:
"Cha ở trên trời".
Thật vậy, chính vì vị trí
của Ngài "ở trên trời", tức trổi vượt trên mọi sự, trên "bất cứ ai ở
thế gian" (Mt 23:9), dù người ấy có là cha mẹ của chúng ta đi nữa,
thậm chí kể cả người ấy có là Con Một Ngài đã nhập thể đi nữa: "Tại
sao ngươi gọi Ta là tốt lành? Không ai tốt lành cả ngoài một mình Thiên
Chúa" (Mc 10:18). Ngài chẳng những "tốt lành" ở chính bản tính của
Ngài, Ngài còn "tốt lành" nơi chúng ta và cho chúng ta nữa. Ngài đã
không "tốt lành", đúng hơn, "trọn lành" nơi chúng ta (mà nhân tính là
biểu hiệu) là gì, khi Ngài cho "mặt trời mọc lên soi sáng cho cả kẻ
lành người dữ, và làm cho mưa xuống trên cả kẻ công chính lẫn người
bất công" (Mt 5:45). Và, vì thế, Ngài cũng "trọn lành" cho chúng ta nữa:
"Các con phải nên trọn lành như Cha ở trên trời của các con" (Mt 5:48).
Chính "điều này chứng tỏ rằng các con là con cái của Cha mình ở trên
trời" (Mt 5:45).
Là "Cha ở trên trời", là
"Cha" duy nhất của chúng ta, thì còn ai yêu thương và chăm sóc cho
chúng ta là con cái của Ngài bằng Ngài. Không phải vì Ngài "ở trên
trời", đối với chúng ta, theo tự nhiên, có vẻ xa xôi, cao vời, cách
biệt, Ngài đã không thể hiểu biết và thông cảm với chúng ta. Trái lại,
càng "ở trên trời", Cha của chúng ta càng "tốt lành", càng "trọn
lành", mà càng "tốt lành", càng "trọn lành", tức càng yêu thương, và
càng yêu thương sẽ càng chăm sóc cho chúng ta hơn. Ngài đã không
chăm sóc cho chúng ta là con cái của Ngài là gì: "Cha các con ở trên
trời biết tất cả những gì các con cần" (Mt 6:32). Đến nỗi, "mọi sợi
tóc trên đầu của các con đã được đếm cả rồi" (Mt 10:30). Nghĩa là
Thiên Chúa, Cha của chúng ta còn biết chúng ta hơn chính chúng ta hay
bất cứ một ai, kể cả cha mẹ đã sinh ra chúng ta trên đời, biết chúng
ta. Cũng chính vì biết chúng ta như vậy, bao giờ Ngài cũng "ban những sự
tốt lành cho bất cứ ai kêu cầu Ngài" (Mt 7:11). Nhiều khi, những điều mà
Ngài biết rằng thực sự tốt lành cho con cái của mình nên đã ban cho
chúng, lại là những cái trái ý chúng nhất. Thế nhưng, dù chúng có oán
hận Ngài, có đau khổ mấy đi nữa, Ngài vẫn không thể làm khác đi, nếu có
lợi cho phần rỗi của chúng: "Thiên Chúa đã định liệu mọi sự hòa hợp với
nhau cho lợi ích của những kẻ Ngài đã kêu gọi theo ý định của Ngài" (Rm
8:28). Nhất là, "những ai Ngài biết trước, Ngài cũng tiền định cho nên
giống hình ảnh Con Một Ngài, để Con Ngài là trưởng tử của đàn em đông
đúc"(Rm 8:29).
Như thế, nói đến Thiên
Chúa là nói đến "Cha" của con người. Nói đến "Cha" của con người là
nói đến "Cha ở trên trời". Nói đến "Cha ở trên trời" là nói đến "Cha"
vô cùng tốt lành và trọn lành, đáng tạo vật mà "Ngài đã ban quyền làm
con cái" (Gn 1:12) của Ngài tôn thờ và kính mến "hết lòng muốn, hết
linh hồn, và hết sức lực" (ĐNL 6:4) của chúng. Con cái kính mến Thiên
Chúa là "Cha" của mình "hết lòng muốn" ở chỗ: "Nguyện Danh Cha cả
sáng" (Mt 6:9), "hết linh hồn" ở chỗ: "Nguyện Nước Cha trị đến" (Mt
6:10), và "hết sức lực" ở chỗ: "Nguyện Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như
trên trời" (Mt 6:10).
Nếu Thiên Chúa là "Cha" của
con người trong Ơn Nghĩa Thánh, trong Tình Yêu của Ngài, thì, ngược lại,
con người, để xứng đáng là con của Ngài, tức xứng đáng với Tình Yêu của
Ngài, cũng phải kính mến Ngài "hết lòng muốn, hết linh hồn và hết sức
lực của mình" (ĐNL 6:4) như vậy. Và, vì Thiên Chúa không phải là "Cha"
của riêng một cá nhân nào, mà là "Cha" chung của "tất cả những ai Ngài
đã tiền định thì Ngài cũng kêu gọi" (Rm 8:30) "theo ý định của Ngài" (Rm
8:28), (chứ không phải theo công của con người), nên, kính mến Ngài
cũng phải "yêu thương anh em như bản thân mình" (Mt 22:39) nữa mới
xứng đáng làm con cái của Ngài là "Cha chúng con ở trên trời". Còn ai
là người con chính thức và xứng đáng của "Cha ở trên trời" bằng Chúa
Giêsu Kitô. Người là Con chính thức của Thiên Chúa là Cha vì, theo
thần tính, Người được nhiệm sinh từ Ngài, chứ không phải được tạo dựng
bởi Ngài như con người rồi mới được nhận làm con như "dưỡng tử" (Gal
4:5) của Ngài. Do đó, Chúa Giêsu chính "là hình tượng hữu thể Cha"
(DT 1:3), trong khi, "con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa"
(STK 9:6; Gia 3:9), tức được dựng nên giống như Chúa Kitô "là hình
ảnh Thiên Chúa vô hình" (Col 1:15). Chúa Giêsu chẳng những là Con
chính thức, Con Duy Nhất của Thiên Chúa Cha, Người còn là Con xứng
đáng của Cha nữa, một người Con đã sống và làm "đẹp lòng Cha mọi đàng"
(Mt 3:17, 17:5). Ở chỗ, theo nhân tính, Người đã "kính mến Thiên Chúa
hết lòng muốn, hết linh hồn và hết sức lực của mình" và đã "yêu
thương anh em như bản thân mình". Chúa Giêsu "yêu thương anh em như
bản thân mình", thành phần mà Người "đã nên giống mọi bề" (DT 2:17), khi
"Cha yêu thương Ta thế nào, Ta cũng thương yêu các ngươi như vậy" (Gn
15:9). Kết qủa là: "Con sống trong họ, Cha sống trong Con, để sự
hiệp nhất của họ được nên trọn. Cho thế gian nhận biết rằng Cha đã sai
Con, và Cha đã yêu họ cũng như yêu Con" (Gn 17:23).
Vâng, chính bởi Tình Yêu
Thiên Chúa, tức bởi Ơn Nghĩa của Ngài đã ban cho chúng ta khi chịu phép
rửa tội tái sinh, và chính trong tinh thần kính mến Thiên Chúa là Cha và
yêu thương anh em của mình cũng là con cái của Đấng "đã tiền định cho (chúng
ta) nên đồng hình dạng với Con Ngài" (Rm 8:29), mới trở nên và hiệp
thành Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô làm Đầu (x.Col 1:18) mà cùng
nhau "cầu nguyện là giao tiếp với Thiên Chúa trong tinh thần (nghĩa
tử) và chân lý (cha con)" rằng: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng
con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày,
và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ
để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" (Mt
6:9-13).