|
Chống Nghèo Khổ Để Xây Dựng Ḥa B́nh
Đức Giáo
Hoàng Biển Đức XVI – Sứ Điệp cho Ngày Ḥa B́nh Thế Giới 1/1/2009
11- Tất cả những điều này cho thấy rằng việc chống nghèo cần đến
sự hợp tác của cả về lănh vực kinh tế lẫn lănh vực pháp lư, cũng thế, để
cộng đồng quốc tế, nhất là các quốc gia nghèo, biết nhận định và áp dụng
những phương sách được phối hợp để giải quyết các vấn đề được bàn đến
trên đây, nhờ đó, cống hiến một đường lối hiệu nghiệm về pháp lư cho
kinh tế, cần phải khuyến khích thiết lập những tổ chức dự phần một cách
hiệu năng, cũng như cần phải hỗ trợ trong việc chống tội ác cùng duy tŕ
một nền văn hóa pháp lư. Ngoài ra, không thể phủ nhận rằng các
chính sách quá chú trọng tới việc trợ giúp là những ǵ chất chứa nhiều
sự thất bại trong việc cống hiến viện trợ cho các quốc gia nghèo.
Việc đầu tư vào vấn đề huấn luyện dân chúng và việc phát triển một
nền văn hóa đặc biệt và hội nhập tốt đẹp của việc kinh doanh hiện nay
dường như là một phương pháp thích hợp trung hạn và dài hạn.
Nếu các hoạt động kinh tế cần phải có một môi trường thích thuận để
phát triển, th́ không được bỏ qua nhu cầu cần phải làm nẩy sinh vấn đề
tổng thu nhập nữa. Thế nhưng dù việc nhấn mạnh tới vấn đề gia
tăng lợi tức tổng sản lượng không thể là mục đích tối hậu của
hoạt động chính trị và kinh tế có đúng chăng nữa, th́ việc gia tăng này
vẫn là một phương tiện để đạt được mục tiêu chống t́nh trạng đói khổ và
cực bần cùng. Thế nên, cần phải loại trừ đi cái ảo tưởng là chỉ
cần có một chính sách tái phân phối vấn đề giầu có hiện hữu là dứt khoát
có thể giải quyết được vấn đề. Nơi một nền kinh tế tân
tiến, giá trị của các nguồn vốn liếng hoàn toàn lệ thuộc vào khả năng
làm phát sinh ra việc tổng tu nhập trong hiện tại và tương lai.
Bởi vậy mà việc tạo lập vấn đề giầu có trở thành một nhiệm vụ bất khả
tránh, một nhiệm vụ cần phải nhớ để việc chống nghèo về thể chất được
hiệu nghiêm dài hạn.
12- Nếu người nghèo được ưu tiên th́ vẫn có đủ chỗ cho một
đường lối về đạo lư cho các nền kinh tế về phía của những ai
hoạt động trong thị trường quốc tế, một đường lối đạo lư cho các
thứ chính trị về phía những ai hoạt động cho quần chúng,
và một đường lối đạo lư cho việc tham phần có khả năng
củng cố những đóng góp của xă hội dân sự ở lănh vực địa phương và quốc
tế. Chính các cơ quan quốc tế đă tiến đến chỗ nhận thấy được giá trị và
lợi ích của những hoạt động kinh tế do các việc quản trị xă hội dân sự
và địa phương thực hiện để cổ vơ vấn đề giải phóng và bao gồm về xă hội
những thành phần dân chúng thường ở bên dưới mức độ cực bần cùng mà lại
không dễ dàng có được sự viện trợ cính thức. Lịch sử của việc phát triển
kinh tế thế kỷ 20 dạy chúng ta rằng những chính sách phát triển
tốt đẹp muốn có công hiệu đều lệ thuộc vào việc áp dụng hữu trách của
các tác nhân con người cũng như vào việc thiết lập những mối giao hữu
tích cực giữa các thị trường, xă hội dân sự và các Quốc Gia.
Xă hội dân sự đặc biệt đóng một phần chủ chốt trong hết mọi tiến
tŕnh phát triển, v́ phát riển là một hiện tượng về văn
hóa có tính cách thiết yếu, và là một thứ văn hóa được xuất phát và phát
triển trong lănh vực dân sự (13).
13- Như Vị Giáo Hoàng Tiền Nhiệm đáng kính Gioan Phaolô của tôi đă
có lần nhận dịnh, vấn đề toàn cầu hóa “là những ǵ mâu thuẫn đáng
kể trong tư tưởng” (14), và v́ thế cần phải được điều hành
một cách rất thận trọng khôn ngoan. Điều này bao gồm việc đặt ưu
tiên cho các nhu cầu của các người nghèo trên thế giới, cũng như việc
thắng vượt cái tai hại của t́nh trạng bất quân b́nh giữa những vấn đề
nghèo khổ và những biện pháp đă được chấp thuận để giải quyết chúng.
T́nh trạng bất quân b́nh này xuất phát từ cả lănh vực văn hóa lẫn
chính trị cũng như cả lănh vực thiêng liêng lẫn luân lư. Thật
vậy, chúng ta thường chỉ xem xét đến những căn nguyên nghèo khổ
theo bề ngoài và về phương tiện mà không lưu ư tới những lănh vực ẩn nấp
trong tâm can con người, như tham lam và thiển cận. Những vấn đề
của việc phát triển, của viện trợ và của việc hợp tác quốc tế đôi khi
được nói đến nhưng không hề thực sự chú trọng tới yếu tố nhân loại, mà
chỉ thuần là những vấn đề về kỹ thuật – tức là được giới hạn vào việc
thiết lập những cấu trúc, việc đặt ra những thỏa thuận mậu dịch, và việc
phân phối tài trợ bâng quơ. Những ǵ mà cuộc chiến chống nghèo cần
thực sự ở đây đó là con người nam nữ sống t́nh huynh đệ sâu xa và có thể
hỗ trợ các cá nhân, gia đ́nh và cộng đồng trong những cuộc hành tŕnh
phát triển dích thực của nhân loại.
Kết luận
14- Trong Thông Điệp “Bách Niên”, Đức Gioan Phaolô II đă cảnh giác
về nhu cầu “cần loại trừ đi cái tâm thức coi người nghèo – cá nhân
cũng dân chúng – như là một gánh nặng, như là những kẻ đột nhập mang cảm
giác khó chịu đang cố gắng tiêu thụ những ǵ người khác sản xuất”.
Ngài đă viết, người nghèo “yêu cầu có được quyền đươc cia sẻ vào
việc hoan hưởng những sản vật về thể chất và sử dụng khả năng của họ để
làm việc, nhờ đó tạo nên một thế giới công bằng và tịnh vượng hơn cho
tất cả mọi người” (15). Trong thế giới được toàn cầu hóa ngày
nay, càng ngày càng thấy rơ là ḥa b́nh chỉ có thể được xây dựng
nếu hết mọi người được bảo đảm có được một khả thể phát triển hợp lư:
không sớm th́ muộn hết mọi người đều phải trả giá cho những méo mó lệch
lạc gây ra bởi những hệ thống bất công. Thật là ngu xuẩn trong
việc xây dựng một ngôi nhà sang trọng ở giữa sa mạc hay thối nát.
Vấn đề toàn cầu hóa tự nó không có khả năng xây dựng ḥa b́nh, và
ở trong nhiều trường hợp, nó c̣n thực sự tạo ra những thứ chia rẽ và
xung khắc nữa. Nếu cần phải nói tới nhu cầu th́ đó là việc
cần phải hướng tới một mục tiêu của t́nh liên kết sâu xa chỉ biết t́m
kiếm thiện ích cho mỗi và mọi người. Theo chiều hướng ấy th́ vấn
đề toàn cầu hóa cần phải được coi như là một cơ hội tốt để chiếm đạt một
cái ǵ đó quan trọng trong việc chống nghèo, cũng như trong việc sử dụng
những phương tiện về công lư và ḥa b́nh vốn hiếm thấy trước đó.
15- Giáo huấn về xă hội của Giáo Hội bao giờ cũng quan tâm
tới người nghèo. Vào thời điểm của bức Thông Điệp “Tân Sự”,
người nghèo được đồng hóa chính yếu với thành phần lao động trong xă hội
mới kỹ nghệ hóa; trong Huấn Quyền về xă hội của Đức Piô XI, Piô
XII, Gioan XXIII, Phaolô VI và Gioan Phaolô II, những h́nh thức nghèo
khổ mới đă dần dần được khám phá ra, như là phạm vi của vấn đề xă hội
được lan rộng để tiến đến những thứ cân xứng trên toàn cầu (16).
Việc lan rộng vấn đề xă hội này ra tầm cấp thế giới đă được coi không
phải chỉ là một thứ lan rộng về lượng mà c̣n như một thứ tăng trưởng về
phẩm nơi việc hiểu biết về con người cùng với những nhu cầu của ia đ́nh
nhân loại. Đó là lư do, trong khi thận trọng theo dơi hiện
tượng hiện nay của vấn đề toàn cầu hóa cùng với ảnh hưởng của nó trên
t́nh trạng nghèo khổ của con người, Giáo Hội vạch ra những khía cạnh mới
của vấn đề xă hội, không phải chỉ có bề rộng của nó mà c̣n cả chiều sâu
của nó nữa, v́ nó liên quan tới căn tính của con người và mối liên hệ
của họ với Thiên Chúa. Những nguyên tắc về giáo huấn xă
hội có mục đích làm sáng tỏ những mối liên hệ giữa t́nh trạng nghèo khổ
và vấn đề toàn cầu hóa, và chúng giúp hướng dẫn hành động hướng tới việc
xây dựng ḥa b́nh. Trong số những nguyên tắc ấy, thật là đúng lúc để đặc
biệt nhắc lại nguyên tắc “yêu thương biệt đăi người nghèo” (17),
theo chiều hướng căn bản của đức bác ái, một đức bác ái được chứng thực
qua truyền thống Kitô giáo, bắt đầu từ truyền thống của Giáo Hội sơ khai
(cf. Acts 4:32-36; 1Cor 16:1; 2Cor 8-9; Gal 2:10).
Đức Lêô
XIII vào năm 1891 đă viết rằng “hết mọi người phải bắt tay vào việc theo
phần vụ của ḿnh, ngay lập tức”, và ngài c̣n thêm rằng “đối với Giáo Hội,
việc hợp tác của Giáo Hội sẽ không bao giờ thiếu vắng, tùy lúc hay tùy
trường hợp những ǵ có thể” (18). Đó là tinh thần cho tới nay Giáo Hội
vẫn thi hành công việc của ḿnh đối với người nghèo là thành phần Giáo
Hội thấy được Chúa Kitô (19), và Giáo Hội liên lỉ nghe thấy âm vang nơi
tâm can ḿnh lệnh của Vị Hoàng Tử Ḥa B́nh truyền cho các Tông Đồ của
Người: “Vos date illis manducare - các con hăy đích thân kiếm ǵ
đó cho họ ăn đi” (Lk 9:13). Trung thành với lời hiệu triệu này của Chúa,
cộng đồng Kitô hữu bởi thế sẽ không bao giờ thôi bảo đảm với toàn thể
gia đ́nh nhân loại về việc hỗ trợ của Giáo Hội qua những cử chỉ của mối
liên đới sáng tạo, không phải bằng “việc cống hiến những ǵ dồi dào của
ḿnh” mà trên hết bằng “một thứ thay đổi những lối sống, những kiểu cách
sản xuất và tiêu thụ, và những cấu trúc được thiết định về quyền lực
đang quản trị xă hội ngày nay” (20). Bởi vậy, vào lúc mở màn cho một Tân
Niên, tôi muốn gửi đến hết mọi người môn đệ của Chúa Kitô cũng như hết
mọi con người thành tâm thiện chí lời mời gọi hăy ân cần trong việc vươn
rộng cơi ḷng của ḿnh ra để đáp ứng những nhu cầu của người nghèo và
hăy thực hiện những bước tiến cụ thể để giúp đáp họ. Không thể phủ
nhận được sự thật của câu châm ngôn “chống nghèo khổ là xây dựng ḥa
b́nh” vậy.
Tại
Vatican ngày 8/12/2008
Biển Đức
XVI
Những
chú dẫn:
[1]
Message for the 1993 World Day of Peace, 1.
[2]
Paul VI, Encyclical Letter
Populorum Progressio, 19.
[3]
John Paul II, Encyclical Letter
Sollicitudo Rei Socialis, 28.
[4]
John Paul II, Encyclical Letter
Centesimus Annus, 38.
[5]
Cf. Paul VI, Encyclical Letter
Populorum Progressio, 37; John Paul II, Encyclical Letter
Sollicitudo Rei Socialis, 25.
[6]
Benedict XVI,
Letter to Cardinal Renato Raffaele Martino on the occasion of the
International Seminar organized by the Pontifical Council for Justice
and Peace on the theme: “Disarmament, Development and Peace. Prospects
for Integral Disarmament”, 10 April 2008: L'Osservatore Romano,
English edition, 30 April 2008, p. 2.
[7]
Encyclical Letter
Populorum Progressio, 87.
[8]
Cf. John Paul II, Encyclical Letter
Centesimus Annus, 58.
[9]
Cf. John Paul II,
Address to the Christian Associations of Italian Working People, 27
April 2002, 4: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXV:1 (2002),
p. 637.
[10]
John Paul II,
Address to the Plenary Assembly of the Pontifical Academy of Social
Sciences, 27 April 2001, 4: L'Osservatore Romano, English
Edition, 2 May 2001, p. 7.
[11]
Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution
Lumen Gentium, 1.
[12]
Cf. Pontifical Council for Justice and Peace,
Compendium of the Social Doctrine of the Church, 368.
[13]
Cf. ibid., 356.
[14]
Address to Leaders of Trade Unions and Workers' Associations, 2 May
2000, 3: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXIII, 1 (2000), p.
726.
[15]
No. 28.
[16]
Cf. Paul VI, Encyclical Letter
Populorum Progressio, 3.
[17]
John Paul II, Encyclical Letter
Sollicitudo Rei Socialis, 42; cf. Encyclical Letter
Centesimus Annus, 57.
[18]
Encyclical Letter
Rerum Novarum, 45.
[19]
Cf. John Paul II, Encyclical Letter
Centesimus Annus, 58.
[20]
Ibid
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn
cầu của Ṭa Thánh
(những
chỗ được in đậm lên là do tự ư của người dịch trong việc làm nổi bật
những điểm chính yếu quan trọng)
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/peace/documents/hf_ben-xvi_mes_20081208_xlii-world-day-peace_en.html
|
|