|
Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II về Công Đồng Chung Vaticanô II
Có thể
nói, Công Đồng Chung Vaticanô II ở vào tiền bán thập niên 1960, từ ngày
Lễ Mẹ Thiên Chúa 11/10/1962 đến Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1965, là một cuộc
cách mạng (nhưng không cấp tiến theo kiểu mất gốc) của Giáo Hội Công
Giáo. Tại sao? Trước hết, Công Đồng Chung Vaticanô II là một cuộc cách
mạng ở tính cách nội tâm tự kiểm của công đồng này, chứ không có tính
cách bài bác lạc thuyết, phạt vạ bè rối hay tuyên bố một tín điều liên
quan tới t́nh h́nh khủng hoảng đức tin thuộc thời thế bấy giờ. Bởi đó,
người ta không hề thấy Công Đồng Chung Vaticanô II tuyên tín hay bài bác
một điều ǵ hết trong 16 văn kiện của công đồng này, bao gồm 4 Hiến Chế,
9 Sắc Lệnh và 3 Tuyên Ngôn. Sau nữa, Công Đồng Chung Vaticanô II là một
cuộc cách mạng ở chỗ, nhờ tự kiểm, Giáo Hội chẳng những canh tân nội bộ,
với cuộc canh tân vĩ đại nhất và hiển nhiên nhất là canh tân về phụng vụ,
mà c̣n cởi mở với thế giới nữa. Một cởi mở được thể hiện tỏ tường nhất
qua những chuyến tông du của Giáo Hoàng ngoài Ư quốc, ngay từ khi Công
Đồng chưa kết thúc, khi Đức Phaolô VI đến thăm Thánh Địa ngày
4-6/1/1964. Một cởi mở c̣n được thể hiện qua những chủ trương đối thoại
với thế giới, như đối thoại liên tôn, đối thoại văn hóa, đối thoại đại
kết v.v. Chúng ta hăy nghe Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói về biến
cố Công Đồng Vaticanô II hết sức quan trọng này, cùng với nội dung và
tác dụng của công đồng ấy, trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến của
ngài, ban hành ngày 10/11/1994, từ đoạn 18 đến 20.
18- Công Đồng này là một công đồng cũng giống như các công đồng trước
kia, song lại khác hẳn; đó là một công đồng chú trọng vào mầu nhiệm Chúa
Kitô và Giáo Hội của Người, đồng thời lại vươn ḿnh ra với thế giới.
Thái độ vươn ḿnh ra của Giáo Hội là một đáp ứng có tính cách phúc âm
đối với những đổi thay trong thế giới này, những đổi thay bao gồm cả
những kinh nghiệm về t́nh trạng hỗn loạn sâu rộng của thế kỷ 20, một thế
kỷ rùng rợn với hai cuộc Đại Chiến I và II, với kinh nghiệm về những
trại tập trung cùng với những cuộc tàn sát khủng khiếp. Tất cả những
biến cố này đă chứng tỏ một cách hết sức hùng hồn là thế giới cần phải
được thanh tẩy; nó cần phải cải thiện lại.
19- Công Đồng Chung Vaticanô II thường được coi như bắt đầu một kỷ
nguyên mới trong sinh hoạt của Giáo Hội. Điều này đúng, nhưng đồng thời
nó cũng khó bỏ qua sự kiện là Công Đồng đă rút tỉa rất nhiều kinh nghiệm
và suy tư của một qúa khứ vừa qua, nhất là từ di sản tinh thần do Đức
Piô XII để lại. Trong lịch sử của Giáo Hội, cái "cũ" và cái "mới" luôn
luôn đan kết chặt chẽ với nhau. Cái mới phát xuất từ cái cũ, và cái cũ
được diễn đạt trọn vẹn nơi cái mới. Điều này đă xẩy ra với Công Đồng
Chung Vaticanô II, cũng như với hoạt động của các vị giáo hoàng có liên
hệ với công đồng, bắt đầu từ Đức Gioan XXIII, tiếp đến Đức Phaolô VI và
Gioan-Phaolô I, cho đến vị giáo hoàng đương kim….
20- Công Đồng, cho dù không bắt chước tính cách nghiêm trọng của thánh
Gioan Tẩy Giả là vị trên bờ sông Dược-Đăng đă kêu gọi thống hối và cải
thiện (x.Lk.3:1-7), cũng đă tỏ ra cho thấy một điều của vị tiên tri xưa,
đó là, bằng một nghị lực mới, Công Đồng đă chỉ cho con người nam nữ của
ngày hôm nay thấy rằng Chúa Giêsu Kitô là "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa
tội trần gian" (Jn.1:29), Đấng cứu chuộc nhân loại và là Chúa của lịch
sử. Trong Công Đồng, theo ḷng ước ao thật sự muốn hoàn toàn trung thành
với thày ḿnh, Giáo Hội đă tự vấn về căn tính riêng của ḿnh, và đă nhận
thức lại mầu nhiệm của ḿnh là thân thể và là hiền thê của Chúa Kitô.
Khiêm tốn lắng nghe lời Thiên Chúa, Giáo Hội đă tái xác nhận ơn gọi nên
thánh phổ quát; đă phác họa điều khoản về việc canh tân phụng vụ là
nguồn mạch và là thượng đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội; đă thúc đẩy việc
canh tân cho nhiều phương diện trong sinh hoạt của Giáo Hội, ở cả lănh
vực hoàn vũ cũng như ở các Giáo Hội địa phương; đă cố gắng khơi dậy
những ơn gọi Kitô giáo khác nhau, từ những ơn gọi của người giáo dân đến
những ơn gọi Tu Tŕ, từ sứ vụ của các thày sáu đến sứ vụ của các linh
mục và giám mục; và nhất là Giáo Hội đă nhận thức lại được tính cách tập
đoàn của hàng giáo phẩm, đó là một thể hiện đặc biệt của việc mục vụ
được thi hành bởi các vị giám mục hiệp thông với vị thừa kế thánh Phêrô.
Trên căn bản của cuộc canh tân sâu xa này, Công Đồng vươn ḿnh đến các
Kitô hữu của các giáo phái khác, với các môn đệ của các tôn giáo khác và
với tất cả mọi người của thời đại chúng ta. Không có Công Đồng nào đă
từng nói rơ ràng về cuộc hiệp nhất Kitô giáo, về việc đối thoại với các
tôn giáo không phải là Kitô giáo, về ư nghĩa đặc biệt của cựu ước đối
với dân Yến
Diên, về những truyền thống văn hóa khác nhau mà trong đó Giáo Hội phải
thực hiện công cuộc truyền giáo của ḿnh, và về phương tiện truyền thông
xă hội.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|
|