|
Thánh Phaolô về Đức Tin bởi Đức Ái
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư
26/11/2008 – Bài Giáo Lư 14 trong Loạt bài cho Năm Thánh Phaolô
(tiếp)
T́nh yêu
của Kitô hữu là những ǵ rất ư là đ̣i hỏi v́ nó xuất phát từ t́nh yêu
trọn vẹn của Chúa Kitô đối với chúng ta:
T́nh yêu này đ̣i hỏi chúng ta, đón nhận chúng ta, ấp ủ chúng ta,
nâng đỡ chúng ta, thậm chí hành khổ chúng ta, v́ nó buộc chúng ta không
được sống cho ḿnh nữa, chỉ biết duy ngă độc tôn, mà là cho “Đấng đă
chết đi và sống lại v́ chúng ta” (cf. 2Cor 5:15). T́nh yêu của
Chúa Kitô làm cho chúng ta là một tạo vật mới trong Người (cf. 2Cor
5:17), thành phần làm nên nhiệm thể của Người là Giáo Hội.
Theo
chiều hướng ấy th́ cái chính yếu của vấn đề công chính hóa không phi
việc làm, mục tiêu chính của việc Thánh Phaolô rao giảng, không tương
phản với đức tin hoạt động nơi yêu thương.
Trái lại, nó đ̣i hỏi là chính đức tin của chúng ta cần phải được
thể hiện nơi một đời sống theo Thần Linh. Thường thấy xẩy ra một
chủ trương tương khắc thiếu cơ sở giữa thần học của Thánh Phaolô và của
Thánh Giacôbê, vị đă viết trong bức thư của ḿnh là: “Như một thân thể
vô hồn là một thân thể chết thế nào th́ đức tin không việc làm cũng là
một đức tin chết như vậy” (2:26).
Thực ra,
trong khi Thánh Phaolô trước hết bày tỏ cho thấy là đức tin nơi
Chúa Kitô là những ǵ cần và đủ, th́ Thánh Giacôbê lại nhấn mạnh đến mối
liện hệ theo đó giữa đức tin và việc làm (cf. James 2:2-4). Bởi
thế, đối với Thánh Phaolô cũng như với Thánh Giacôbê th́ đức tin
hoạt động qua yêu thương là những ǵ minh chứng thấy tặng ân nhưng không
của việc công chính hóa nơi Chúa Kitô. Ơn cứu độ, được lănh nhận
nơi Chúa Kitô, cần phải được bảo vệ và làm chứng “một cách sợ hăi và
rúng động. V́ Thiên Chúa là Đấng, v́ chủ ư tốt lành của Ngài, làm việc
nơi anh chị em về cả ḷng mong ước lẫn các việc làm. Hăy làm hết mọi sự
mà đừng có lèo nhèo hay thắc mắc… khi anh chị em trung thành tuân giữ
lời sự sống”, Thánh Phaolô thậm chí nói với Tín hữu thành Philipi (cf
Phil 2:12-14, 16).
Thường
chúng ta có khuynh hướng rơi vào cũng những hiểu lầm của cộng đồng tín
hữu Côrintô, ở chỗ, có những Kitô hữu đă nghĩ rằng một khi đă được công
chính hóa cách nhưng không bởi đức tin th́ “được phép làm hết mọi sự”.
Thế rồi họ nghĩ, và thường Kitô hữu ngày nay cũng đang nghĩ, là được
phép tạo ra những phân rẽ trong Giáo Hội là thân ḿnh của Chúa Kitô, ở
chỗ cử hành Thánh Thể mà không cần quan tâm ǵ tới những người anh chị
em đang thiếu thốn nhất, ở chỗ mong muốn có được những đặc sủng cao cả
nhất mà không nhận thấy rằng họ là phần tử của nhau, v.v.
Những
hậu quả của một đức tin không hiện thực trong yêu thương là những ǵ tàn
hại, v́ nó bị biến thành một thứ lạm dụng nguy hiểm và thành một thứ chủ
quan đối với chúng ta cũng như đối với anh chị em chúng ta.
Ngược lại, căn cứ vào Thánh Phaolô, chúng ta cần phải ư thức lại sự kiện
là, chính v́ chúng ta đă được công chính hóa trong Chúa Kitô mà
chúng ta không c̣n thuộc về ḿnh nữa nhưng đă được biến thành đền thờ
của Thần Linh và do đó được kêu gọi tôn vinh Thiên Chúa nơi thân thể của
chúng ta cũng như bằng cả cuộc đời của chúng ta (cf. 1Cor 6:19).
Giá trị khôn lường của việc được công chính hóa sẽ bị coi thường nếu,
một khi được chuộc bằng giá máu cao cả của Chúa Kitô, chúng ta không tôn
vinh Người nơi thân thể của chúng ta. Thật thế, đó vừa là việc tôn thờ
“hữu lư” vừa đồng thời “linh thiêng” được Thánh Phaolô huấn dụ chúng ta
trong việc “hăy hiến thân thể ḿnh làm hy tế sống động, thánh thiện hài
ḷng Thiên Chúa” (Rm 12:1).
Một đức
tin không thể hiện nơi đức ái ở chỗ nào khi cử hành phụng vụ chỉ hướng
về Chúa mà lại không đồng thời phục vụ anh chị em ḿnh? Vị Tông Đồ này
thường đặt các cộng đồng của ngài trước Cuộc Phán Xét Cuối Cùng, một
cuộc phán xét mà “chúng tất cả đều phải xuất hiện trước ṭa phán xét của
Chúa Kitô, để mỗi người lănh nhận thưởng phạt tùy theo những ǵ họ làm
tốt xấu trong thân xác” (2Cor 5:10; cf. Rm 2:16).
Nếu đạo
lư được Thánh Phaolô đề ra cho các tín hữu không bị rơi vào những h́nh
thức duy răn bảo, và nếu nó c̣n cho chúng ta thấy được tính cách hiện
đại của nó, là bởi v́, bao giờ nó cũng được bắt đầu từ mối liên hệ cá
nhân và cộng thông với Chúa Kitô nhờ đó nó chứng thực ḿnh nơi sự sống
theo Thần Linh. Đó là những ǵ thiết yếu, ở chỗ, đạo lư Kitô giáo
không xuất phát từ một hệ thống giáo điều mà là thành quả của mối thân
t́nh với Chúa Kitô. Mối thân t́nh này chi phối đời sống, ở
chỗ, nếu nó là những ǵ đích thực, nó sẽ hiện thực và nên trọn nơi t́nh
yêu thương tha nhân. Bởi thế, bất cứ một suy giảm nào về luân
thường đạo lư đều không chỉ giới hạn nơi lănh vực cá nhân mà c̣n đồng
thời làm mất đi giá trị của niềm tin tưởng cá nhân và cộng thông nữa,
một t́nh trạng suy giảm xuất phát từ niềm tin bị mất giá này và là một
suy giảm gây ra một thứ phản tác dụng trên niềm tin bị mất giá ấy.
Bởi vậy,
chúng ta hăy ôm ấp mối ḥa giải được tặng ban cho chúng ta trong Chúa
Kitô bởi Thiên Chúa, bởi t́nh yêu “điên khùng” của Thiên Chúa đối với
chúng ta: đến độ không một ai và không một sự ǵ có thể tách chúng ta
khỏi t́nh yêu của Ngài (cf. Rm 8:39). Chúng ta hăy sống bằng niềm tin
tưởng này. Và niềm tin tưởng ấy là những ǵ cống hiến cho chúng ta sức
mạnh để sống một cách cụ thể đức tin hoạt động qua đức ái.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 26/11/2008
(những
chỗ được in đậm lên là do tự ư của người dịch trong việc làm nổi bật
những điểm chính yếu quan trọng)
|
|