Hai chiều kích này
– chiều kích tiền hiện hữu vĩnh hằng với Cha và chiều kích hạ
giáng nhập thể của Chúa – là những ǵ đă được loan báo trong Cựu
Ước, nơi h́nh ảnh của Đức Khôn Ngoan. Chúng ta thấy được nơi thứ
văn chương khôn ngoan ở Cựu Ước này một số bản văn đề cao vai
tṛ của Khôn Ngoan hiện diện trước việc tạo dựng thế giới. Theo
chiều hướng ấy anh chị em có thể thấy các đoạn như Thánh Vịnh
90: ‘Trước khi núi non xuất hiện, trái đất và thế giới h́nh
thành, th́ từ đời đời kiếp kiếp Ngài đă là Thiên Chúa’ (câu 2).
Hay những đoạn nói về Đức Khôn Ngoan sáng tạo: ‘Chúa đă hạ sinh
tôi, đầu năo cho các đường lối của Ngài, tiền hô cho những việc
diệu kỳ ccủa Ngài từ lâu trước; Từ xa xưa tôi đă được tuôn ra
đầu tiên, trước trái đất’ (Proverbs 8:22-23). Việc ca ngợi Đức
Khôn Ngoan cũng được biệu lộ nơi cuốn sách mang tên Khôn Ngoan:
‘Thật vậy, nàng đă mănh liệt bao trùm đến cùng tận và cai trị
tất cả mọi sự nữa’ (Wisdom 8:1).
Những bản văn khôn
ngoan tương tự nói về sự tiền hiện hữu vĩnh hằng của Đức Khôn
Ngoan cũng nói về việc hạ giáng của đức này, về việc hạ cấp của
Đức Khôn Ngoan này, một đức đă cắm lều ở giữa loài người. Như
thế chúng ta có thể cảm thấy vang vọng những lời từ Phúc Âm
Thánh Gioan nói về cái lều xác thịt của Chúa. Một cái lều đă
được thiết lập trong Cựu Ước: Cái lầu này được ấn định là đền
thờ, thờ phượng theo bộ ‘Ngũ Kinh’; thế nhưng theo quan điểm Tân
Ước, chúng ta có thể hiểu rằng đó chỉ là tiền thân của một cái
lều thật sự và ư nghĩa hơn nhiều, đó là cái lều xác thịt của
Chúa Kitô.
Và trong các cuốn
sách Cựu Ước chúng ta đă thấy rằng việc hạ bệ này của Đức Khôn
Ngoan, việc đức này hạ giáng thành xác thịt, cũng bao hàm cả
những ǵ khả hữu bị loại trừ. Trong việc khai triển khoa Kitô
học của ḿnh, Thánh Phaolô thật sự đă đề cập tới chiều hướng
khôn ngoan này: Ngài đă nh́n nhận nơi Chúa Giêsu một Đức Khôn
Ngoan vĩnh hằng hiện hữu từ đời đời, một Đức Khôn Ngoan hạ giáng
và cắm lều giữa chúng ta, nhờ đó ngài đă có thể diễn tả Chúa
Giêsu như là ‘quyền năng của Thiên Chúa và là đức khôn ngoan của
Thiên Chúa’. Ngài có thể nói rằng đối với chúng ta th́ Chúa Kitô
đă trở nên “đức khôn ngoan bởi Thiên Chúa, cũng như sự chân
chính, sự thánh hóa và việc cứu chuộc’ (1Cor 1:24,30). Cũng thế,
Thánh Phaolô đă làm sáng tỏ là Chúa Kitô, như Đức Khôn Ngoan, có
thể bị loại trừ, trước hết, bởi thành phần thống trị của thời
đại này (cf. 1Cor 2:6-9), đến độ, theo dự án của Thiên Chúa, đă
xuất hiện một trường hợp ngược đời đó là thập giá, một thập giá
đă trở thành đường lối cứu độ cho toàn thể loài người.
Việc khai triển sau
này đối với chu kỳ của đức khôn ngoan ấy, một khai triển thấy
Đức Khôn Ngoan hạ bệ để sau đó được tôn vinh bất chấp bị loại
trừ, là những ǵ hiện lên ở bài thánh ca nổi tiếng trong Thư gửi
tín hữu Philiphê (cf 2:6-11). Việc khai triển này liên quan tới
một trong những bản văn sáng giá nhất của Tân Ước. Các nhà chú
giải Thánh Kinh nói chung tán thành việc cho rằng đoạn thánh
kinh này được viết trước bản văn của Thư gửi cho tín hữu
Philiphê. Đây là một chi tiết rất quan trọng, v́ nó nói lên cho
thấy rằng Kitô-Do Thái Giáo, trước Thánh Phaolô, đă tin tưởng
vào thần tính của Chúa Giêsu. Nói cách khác, niềm tin tưởng vào
thần tính của Chúa Giêsu không phải là một thứ sáng chế của nền
văn hóa Hy Lạp, xuất phát sau cuộc sống rần gian của Chúa Giêsu,
một sáng chế đă thần linh hóa Người mà không màng ǵ tới nhân
tính của Người. Thực sự chúng ta thấy rằng Kitô Do Thái Giáo
thuở ban đầu đă tin vào thần tính của Chúa Giêsu. Ngoài ra,
chúng ta có thể nói rằng chính các vị tông đồ, trong những giây
phút trọng đại của Thày ḿnh, đă hiểu được rằng Người là Con
Thiên Chúa, như tông đồ Phêrô đă tuyên xưng ở Caesarea Philippi:
‘Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’ (Mt 16:16).
Thế nhưng, chúng ta
hăy trở lại với bài thánh ca của Thư gửi tín hữu Philiphê. Cấu
trúc của bản văn này có thể được ghép lại thành ba đoạn, những
đoạn cho thấy các giây phút chính yếu của cuộc hành tŕnh Chúa
Kitô đă thực hiện. Việc tiền hiện hữu của Người được diễn tả qua
những lời này: ‘Mặc dù thân phận là Thiên Chúa, Người đă không
coi ḿnh cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được’ (câu 6).
Sau đó là việc tự nguyện hạ giáng của Người Con này ở trong đoạn
thứ hai như sau: ‘Người đă tự hủy ra như không, mặc lấy thân
phận tôi đ̣i’ (câu 7), ‘Người đă tự hạ, tỏ ra vâng lời cho dean
chết dù có phải chết trên cây thập giá’ (câu 8). Đoạn thứ ba của
bài thánh ca này loan báo việc đáp ứng của Cha đối với việc hạ
ḿnh của Con: ‘V́ thế, Thiên Chúa đă hết sức tôn vinh Người và
ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu’ (câu 9).
Cái nổi bật ở đây
là sự tương phản giữa việc thẳm sâu hạ ḿnh với việc nhờ đó được
hiển linh trong vinh quang của Thiên Chúa. Đoạn thứ hai này rơ
ràng tương phản với cái tự phụ của Adong, một con người muốn
biến ḿnh thành chính Thiên Chúa, và nó cũng tương phản với
những hành động của thành phần xây Tháp Babel, những kẻ muốn
dựng nên cho ḿnh một chiếc cầu bác lên tới trời và biến ḿnh
thành thần linh. Thế nhưng cái khởi động kiêu kỳ này đă bị kết
thúc ở chỗ tự hủy: ở chỗ, người ta không đạt tới thiên đàng, tới
hạnh phúc thật, tới Thiên Chúa. Cử chỉ của Con Thiên Chúa thực
sự là những ǵ tương phản: không kiêu căng nhưng hạ ḿnh, một
thứ hạ ḿnh làm trọn t́nh yêu thương, và t́nh yêu là thần linh.
Việc khởi động cho sự hạ ḿnh này, cho sự thẳm sâu khiêm tốn của
Chúa Kitô ấy, những ǵ tương phản với cái kiêu căng của loài
người, thực sự là những ǵ biểu hiện của t́nh yêu thần linh; từ
đó mới đưa tới việc nâng lên tới trời ấy, nơi Thiên Chúa thu hút
chúng ta tới bằng t́nh yêu thương của Ngài.
Ngoài Thư gửi cho
tín hữu Philiphê, c̣n có những nơi khác trong các bản văn của
Thánh Phaolô cho thấy mối liên kết giữa việc Người Con Thiên
Chúa tiền hiện hữu cùng với việc hạ giáng xuống trần thế của
Người. Ở trong Thư Thứ Nhất gửi cho Timôthêu người ta thấy được
việc tái khẳng định về sự đồng hóa giữa Đức Khôn Ngoan và Chúa
Kitô, kèm theo tất cả những ǵ là thành quả về vũ trụ học cùng
nhân loại học như sau: ‘Người đă được tỏ hiện nơi xác thịt, được
chứng thực nơi thần linh, được chiêm ngưỡng bởi các thần trời,
được loan báo cho dân ngoại, được tin tưởng trên khắp thế giới,
được về trời trong vinh quang’ (3:16). Trước hết, căn cứ vào
những toát lược này mà phận vụ của Chúa Kitô như vị trung gian
môi giới có thể được xác định một cách tốt đẹp hơn, theo chiều
hướng của một vị Thiên Chúa duy nhất trong Cựu Ước (cf 1Tim 2:5
liên quan tới Is 43:10-11,44:6). Chúa Kitô thực sự là chiếc cầu
đưa chúng ta về trời, hiệp thông với Thiên Chúa.
Sau hết, c̣n một
điểm nữa liên quan tới những tiến triển cuối cùng nơi khoa Kitô
học của Thánh Phaolô trong các Thư gửi cho tín hữu Côlôsê và
Êphêsô. Trong thư gửi tín hữu Côlôsê, Chúa Kitô đă được nhận
định như là ‘trưởng tử của toàn thể tạo vật’ (1:15-20). Chữ
‘trưởng tử’ này bao hàm ư nghĩa là người con đầu tiên trong
nhiều người con, người anh cả trong nhiều anh chị em, đă hạ ḿnh
để lôi kéo chúng ta và làm cho chúng ta thành những người anh
chị em của Người. Trong Thư gửi tín hữu Êphêsô, chúng ta thấy
một bộc lộ tuyệt vời của dự án cứu độ thần linh, khi Thánh
Phaolô nói rằng trong Chúa Kitô, Thiên Chúa muốn qui tụ lại hết
mọi sự (x Eph 1:23). Chúa Kitô là việc qui tụ lại hết mọi sự,
Người tiếp nhận hết mọi sự và dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa.
Và như thế bao hàm một thứ vận chuyển hạ giáng và thượng thăng,
mời gọi chúng ta tham dự vào sự khiêm nhượng của Người, tức là
vào t́nh yêu thương của Người đối với tha nhân, để nhờ đó được
tham dự vào vinh quang của Người, biến chúng ta ở nơi Người
thành con cái trong Người Con. Chúng ta hăy xin Chúa giúp chúng
ta tuân hợp bản thân ḿnh với sự khiêm nhượng của Người, với
t́nh yêu của Người, nhờ đó được tham dự vào việc thần linh hóa
của Người.
|