CN III MÙA VỌNG B
Mc. 1, 1 - 8
14-12-2008
Ông Gioan, người làm chứng ....Lm. PX Vũ
Phan Long, ofm 02
CN III mùa vọng............................Lm.
Ignatio Hồ Thông 10
Vui mừng ví Chúa sắp đến..........Lm Carolô
Hồ Bặc Xái 20
Chúa đến mang lại niềm vui ......Lm
Giuse Đinh Lập Liễm
30
Ông có phải là đấng Cứu Thế.....Lm Mark
Link, SJ 39
CN III Mùa Vọng
B........................Lm Augustine, SJ
43
Chứng nhân cho Đức Kitô..........Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
49
Có một người ở giữa anh em.....Lm. An
Phong, OP 56
Tin mừng giải phóng ..................Lm
Giuse Đỗ Vân Lực, OP 58
Đơn giản là như thế.....................Lm
Giuse Nguyễn Cao Luật, OP 62
Chứng nhân,Gioan Tẩy giả........Lm Giacob
Phạm Văn Phượng, OP 67
CN III Mùa Vọng B.......................Gp
Vĩnh Long 71
Làm chứng trong niềm vui........Gp Vĩnh
Long 74
Niềm vui đích thực...... ..............Gp
Vĩnh Long 75
Làm chứng.
................................Gp Vĩnh Long
79
Làm chứng cho sự thật .............Gp
Vĩnh Long 83
Chúa nhật hồng...........................Gp
Vĩnh Long 85
Khiêm nhường............................Gp
Vĩnh Long 88
Người làm chứng......................Manna
90
Niềm vui.........
...........................Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm 93
Ngôi lời nhập thể và ơn cứu ...Lm. PX Vũ
Phan Long, ofm ............102
ÔNG GIOAN, NGƯỜI LÀM
CHỨNG
Gioan 1,6-8.19-28
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
I. NgỮ cẢnh
Tin Mừng IV có
một Mở đầu trong đó có Lời Tựa là một bài suy niệm cao sâu về mầu nhiệm Ngôi
Lời (1,1-18), và Các chứng từ về Đức Giêsu, do Gioan Tẩy Giả, Anrê và
Natanaen nêu ra (1,19-51). Bản văn được đọc trong Phụng vụ hôm nay gồm một
đoạn nhỏ trích từ Lời Tựa (1,6-8) và đoạn đầu trích từ Các chứng từ
(1,19-28).
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể
chia thành hai phần:
1)
Gioan là người làm chứng (1,6-8);
2)
Gioan làm chứng (1,19-28):
a) Làm chứng cho phái đoàn sứ giả (1,19-23),
b) Làm chứng cho người Pharisêu (1,24-28).
III. Vài điỂm chú giẢi
- lời chứng
(19): Điểm đáng lưu ư nhất, đó là tác giả đă chọn ra từ trong ngôn ngữ
thuộc ngành tư pháp từ ngữ “lời chứng/làm chứng” (martyria: 14 lần trong Ga;
4 lần trong TMNL: Mc 14,55.56.59 và Lc 22,71; cả 4 lần này đều thuộc về
cuộc xử án Đức Giêsu), và đă dùng từ đó mà mở ra hoạt cảnh này, cùng với
động từ tương ứng là “làm chứng” (martyreô: 33 lần trong Ga; 2 lần trong
TMNL). Cũng ghi nhận rằng các từ ngữ martyria và martyrein xuất hiện
trong đa số các chương của TM IV ngoại trừ các ch. 6, 9, 11, 14, 16, 17 và
20; tuy thế, các chương này cũng nói đến “làm chứng”. Các TMNL ưa dùng các
từ như “công bố” (kêryssô) hoặc “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai). Rất có
thể tác giả TM IV đă dùng ngôn ngữ tư pháp do hoàn cảnh trong đó ngài viết
Tin Mừng (giữa hoặc cuối những năm 90 [?], lúc mà quan hệ giữa người Do-thái
và các Kitô hữu khá căng thẳng: x. Ga 9,22; 12,42; 15,26–16,2).
- người Do-thái
từ Giêrusalem (19): Bởi v́ họ có thể cử các tư tế và các thầy Lêvi đi,
hẳn “người Do-thái từ Giêrusalem” chính là giới lănh đạo Do-thái giáo.
- ông tuyên
bố thẳng thắn (20): dịch sát là “ông không chối”.
- vị ngôn sứ
(21): Đây chính là dung mạo ngôn sứ được hứa trong Đnl 18,18.
- cởi quai
dép (27): Đây là công việc của một nô lệ.
IV. Ư nghĩa cỦa bẢn văn
* Gioan
là người làm chứng (6-8)
“Có một người
được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). TM IV đă giới thiệu Gioan
bằng một câu như thế ngay giữa Lời Tựa. Đối diện với Ngôi Lời, ngôi vị Thiên
Chúa toàn năng luôn luôn “có” từ muôn thuở đến muôn đời muôn kiếp (1,1-5),
đây là Gioan, một con người tầm thường xuất hiện, đi từ hư vô ra cuộc sống.
Sau khi đă nêu bật sự cao vời vô biên của Đức Kitô, tác giả mau mắn xác định
sự cao cả của Gioan: ông được Thiên Chúa sai phái và có sứ mạng làm chứng
cho ánh sáng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (1,7).
Sau Lời Tựa,
tác giả bắt đầu bài tường thuật cách trang trọng, và cũng bằng một
câu nói về Gioan: “Và đây là lời chứng của ông Gioan” (1,19). Chúng ta sẽ
suy ngẫm về tư cách và công việc làm chứng của Gioan.
* Gioan
làm chứng (19-28)
² Ga 1,19-23
Vừa nghe câu mở
này, chúng ta có cảm tưởng là ḿnh được gợi ư nh́n vào một cảnh trong
pḥng xử án. Ấn tượng này dường như có cơ sở. Ngay tức khắc, tác giả giới
thiệu Gioan như người đang bị thẩm vấn. Bản văn nói, “người Do-thái”, hẳn
đây là giới lănh đạo Do-thái giáo, đă gửi một phái đoàn đến đặt các câu hỏi
cho ông Gioan. Phái đoàn đó gồm có các tư tế và mấy thầy Lêvi, tức đây là
giới chức trách có nhiệm vụ chăm sóc Đền thờ Giêrusalem. Câu hỏi thứ nhất họ
đặt ra có vẻ nhẹ nhàng, không có ǵ thâm độc: “Ông là ai?”, câu hỏi bật ra
như một lời hỏi về lư lịch. Tuy nhiên, câu trả lời của Gioan th́ lại có ǵ
đó trầm trọng. Thay v́ khai ra lư lịch, ông lại trả lời trang trọng, hầu như
là nói lên một lời thề, rằng ông không phải là người nào đó. Ông tuyên xưng
rằng ông không phải là Đấng Kitô.
Thế là phái
đoàn chính thức thúc ép ông tiếp, để có thể trả lời hết các câu hỏi nhằm
điều tra lư lịch của ông. Các câu hỏi tuôn ra thật nhanh. “Ông có phải là
ông Êlia không?” “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”. Với cả hai câu hỏi này,
vị chứng nhân vẫn cứ trả lời không. Đến đây dường như đă cảm thấy bực bội
khó chịu, phái đoàn hỏi: “Thế ông là ai?”. Tuy bị thúc bách như thế, nhưng
với giọng hẳn là nhẹ nhàng và vẫn trang trọng mà nghe ra th́ có vẻ khôi hài
nữa, vị chứng nhân đáp bằng những lời lẽ trích từ sách Isaia: “Tôi là tiếng
người hô [= tiếng nói của người hô] trong hoang địa: Hăy sửa đường cho thẳng
để Đức Chúa đi” (x. Is 40,3).
Trong các cuộc
xử án, việc xác minh lư lịch của người chứng chỉ là một chuyện thủ
tục được thực hiện nhanh chóng, nhưng ở đây, lại không phải là như thế với
vị chứng nhân tên là Gioan. Ông cứ toàn lo trả lời là ông không phải là ai
thôi – như một kiểu xác minh lư lịch tiêu cực – chứ không nói ông là
ai. Cuối cùng khi ông xác minh về ông, bản lư lịch tự khai của ông lại cho
biết ông là “tiếng người hô” (tiếng nói, phônê).
H́nh ảnh vị
chứng nhân cứ tránh né nêu lư lịch góp phần làm cho tấn bi kịch được triển
khai. Óc ṭ ṃ của chúng ta bị kích thích. Các câu hỏi phát sinh: Đấng Kitô
là ai mà Gioan nói ông không phải là Người. Và nếu Gioan chỉ là một tiếng
nói, th́ ông phải nói ǵ?
Hoạt cảnh cuộc
thẩm vấn vừa rồi không có trong các TMNL. Tuy nhiên, những suy diễn về Đấng
Mêsia th́ đă quá quen thuộc tại Paléttina vào tk i. Lúc đó người ta đang chờ
đợi một số gương mặt trở lại. Trong Lc, ta thấy dân chúng rất tín nhiệm
Gioan (x. Lc 3,15); rồi có chuyện vua Hêrôđê băn khoăn về cái chết của Gioan
(Lc 9,7-9). Những tin đồn và suy đoán như thế là bối cảnh cho câu hỏi Đức
Giêsu đặt ra cho các môn đệ Gioan khi họ đến gặp Đức Giêsu theo ư ông (x. Mt
11,2-6; Lc 7,18-23) cũng như cho các câu trả lời các môn đệ đă nêu ra khi
Đức Giêsu hỏi người ta bảo Người là ai (Mt 16,13-16; Mc 8,27-29; Lc
9,18-20). Dù sao, Đấng Kitô sẽ là vị vua lư tưởng như Đavít; Người sẽ khôi
phục quyền tự chủ trên đất nước và qui tụ người Do-thái đang tản mác lại.
Người cũng có thể là như ngôn sứ Êlia, mà truyền thống tin là sẽ trở lại vào
Ngày của Đức Chúa (x. Ml 3,23). Người cũng có thể là chính Môsê trở lại.
Gioan đă thề là ông không phải là bất cứ dung mạo trứ danh nào như thế,
những dung mạo đang được mong chờ tha thiết. Ông chỉ là “tiếng nói”.
² Ga 1,24-28
Tuy nhiên, cuộc
thẩm vấn vẫn tiếp tục. Người ta hỏi thế th́ tại sao ông lại làm phép rửa.
Tác giả ghi nhận là trong nhóm được cử đi, có những người thuộc phái
Pharisêu, tức những người Do-thái giữ thật nghiêm nhặt Luật Môsê. Như thế,
Gioan vừa mạnh mẽ từ chối đồng hóa ḿnh với bất cứ dung mạo cánh chung nào
đang được dân chúng chờ đợi, vừa làm chứng trước những đại biểu của toàn thể
thế giới Do-thái.
Không có một
chi tiết nào trong các nguồn văn chương Do-thái nói rằng Đấng Kitô, Êlia
hoặc Môsê, hoặc vị ngôn sứ nào sẽ làm phép rửa. Như thế câu hỏi đăït ra cho
Gioan là câu hỏi về quyền. Do quyền nào mà ông làm phép rửa? Một lần nữa,
dường như Gioan lại né tránh câu hỏi. Ông chỉ trả lời theo cách bí ẩn.
“Tiếng nói” chỉ nh́n nhận rằng ông làm phép rửa trong nước. Nhưng rồi ông
nói rằng “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến
sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,26-27).
Dường như ở đây
Gioan quy chiếu về một truyền thống Do-thái nói rằng Đấng Mêsia sẽ cứ ở
trong t́nh trạng tăm tối cho tới khi Người được Êlia giới thiệu cho Israel.
Lời ông nói, “Tôi th́ tôi không phải là Đấng Kitô” hàm ư là Đấng Kitô đă có
mặt đâu đây, nhưng đang c̣n ẩn ḿnh, và tuy ẩn ḿnh, Người rất vĩ đại.
Tác giả TM IV
không nhấn mạnh về vai tṛ của Gioan là làm phép rửa cho Đức Giêsu như các
TMNL (Mt 3,1-17; Mc 1,2-11; Lc 3,1-20); do đó ngài không gọi Gioan là “Tẩy
Giả” (Mt 3,1) hay “người làm phép rửa” (Mc 1,4). Nếu ngài có nói đến phép
rửa ấy chỉ là để đưa đến cuộc tra hỏi thôi. Tác giả TM IV cũng không giới
thiệu Gioan là như một dung mạo ngôn sứ kêu gọi người ta mau mau hoán cải v́
Nước Thiên Chúa đă đến gần. Ngài chỉ quan tâm xác định chân tính của Gioan
là “tiếng nói” thôi; ông phải nói điều ǵ đó. Thật ra cả bốn Tin Mừng đều
vận dụng bản văn Is 40,3 (Mt 3,3; Mc 1,3; Lc 3,4), nhưng trong TM IV,
chính Gioan lại gán cho ḿnh vai tṛ làm tiếng nói: tác giả muốn nhân vật
Gioan của ḿnh “nói cho chính ḿnh”. Trong khi các TMNL trích Is 40,3
như là một lời b́nh về ông Gioan, câu này lại được Ga 1,23 trích như là lời
của chính Gioan.
Truyện về Gioan
trong TM IV là truyện của riêng tác giả. Ngài có cách thức riêng cũng như
ngôn ngữ và văn phong riêng mà miêu tả ông Gioan, mà chia sẻ cái nh́n của
ngài về ông. Ở đây hoạt cảnh đúng là như một cuộc xử án gồm hai giai đoạn
thẩm vấn Gioan. Ngôn ngữ của chương 1 (và của cả TM IV) phù hợp với bầu khí
của pḥng xử án: ngài viết về lời chứng (martyria, c. 19), lời tuyên xưng
(homologeô, 2 lần trong c. 20), và việc chối (arneomai, c. 20); ngài cũng
viết về việc hỏi (erôtaô, cc. 19.21.25) và trả lời (apokrinomai, cc. 21;
apokrisis, c. 22) và về những người đă được cử đi (apostellô, cc. 19.22.24).
Câu truyện được đặt trong một tác phẩm trong đó các từ ngữ rơ ràng mang màu
sắc pháp lư, như kết án (katêgoreô, 5,45; 8,6), và thuyết phục (elegchô,
3,20; 8,46; 16,8), bảo vệ (paraklêtos, 14,16.26; 15,26; 16,7), án xử (krisis,
3,19; 5,22.24.27.29.30; 7,24; 8,16; 12,31; 16,8.11) và xét xử (krinô,
3,17.18 (2x); 5,22.30; 7,24 (2x).51; 8,15 (2x).16.26.50; 12,47 (2x).48 (2x);
16,11; 18,31).
+ Kết
luận
Từ phân đoạn
1,6-8, ta thấy Gioan không phải là đại sứ đặc mệnh toàn quyền; ông được
Thiên Chúa sai đến với một mục tiêu rơ rẹât: “làm chứng về ánh sáng” (cc.
7.8). Sứ mạng của ông phải được nh́n trong viễn tượng vũ trụ, siêu lịch sử,
nhưng vai tṛ của ông là chứng nhân và chỉ là chứng nhân mà thôi. Nhiệm vụ
của ông tập trung vào việc làm cho Ít-ra-en nhận biết Đức Giêsu. Tuy nhiên,
tác giả cũng muốn nói một điều quan trọng hơn khi tinh tế đặt đối lập
dung mạo Gioan, người được Thiên Chúa sai đến (1,6), với các tư tế và các
thầy Lêvi được người Do-thái gửi đến từ Giêrusalem (1,19). Cuộc thẩm vấn có
thật, nhưng đây chỉ là cuộc đụng chạm giữa hai đoàn tiền quân.
V. GỢi ư suy niỆm
1. Sứ mạng của
Gioan là làm chứng cho Đức Giêsu. sứ mạng này quan trọng đến nỗi trong Lời
Tựa, ông được nhắc đến hai lần: một lần như là “chứng nhân” (1,6) và lần kia
th́ nhắc lại lời chứng của ông (1,15). Do đó, cứ theo TM IV, hẳn là ông phải
được gọi là “Gioan người làm chứng”. Danh hiệu mà Họâi Thánh Đông phương gán
cho ông, “Gioan vị Tiền Hô”, mở ra hai sứ mạng của ông, làm phép rửa và làm
chứng.
2. Gioan là
chứng nhân của ánh sáng (1,6-8). Điều nghịch lư là ánh sáng lại cần đến một
chứng nhân. Ánh sáng thật đang rạng soi cho mọi người (x. 1,9), thế mà không
phải là loài người đang tự nhiên sống dưới ánh huy hoàng của ánh sáng này.
Như một kho báu được chôn giấu, trước tiên ánh sáng này cần được khám
phá; chỉ sau đó ánh sáng mới tỏa rạng và mọi người có thể thực sự thấy được.
Đặc điểm của Đức Giêsu là thực tại chân thật của Người không chỉ thấy được ở
bề mặt, và không phải bất cứ ai cũng có thể tiếp cận Người. Người không tỏ
ḿnh ra với cung cách áp đảo, Người không ép buộc bất cứ ai; người ta luôn
luôn có thể tránh Người và sống không cần Người. Đức Giêsu là ánh sáng đ̣i
hỏi tự do quyết định của con người. chính v́ Người ở trong t́nh trạng ẩn
ḿnh, Đức Giêsu cần có những chứng nhân. Gioan là chứng nhân đầu tiên của
Người, giúp cho người ta có thể đến với Người để nhận được ánh sáng. Nhưng
cả lời chứng của Gioan cũng không phải là một bằng cớ bó buộc: mọi người
phải tin nhờ ông (1,7). Chỉ ai nhờ ông mà tin th́ mới đến được với Đức Giêsu
là ánh sáng.
3. Gioan nói
như chứng nhân và khẳng định tính khả tín của chính ông. Ông nói thẳng ra
ông không phải là ai (1,19-21) và ông là ai (1,22-23) và ai sẽ đến sau ông
(1,25-27). Ngay trong Lời Tựa, tác giả Ga đă cho biết: “Ông không phải là
ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1,8). Trước tiên ông nói
ông không là ai, như để tránh che mất Đấng ông phải làm chứng cho, nếu như
ông lo khẳng định về bản thân. Rồi khi phải nói ông là ai, th́ ông cho biết
ông chỉ là tiếng của người hô trong hoang địa: hoạt động của ông có tầm quan
trọng đặc biệt v́ được chính Kinh Thánh loan báo, được Thiên Chúa quy định,
nhưng chỉ là một tiếng nói loan báo rằng Chúa đang đến và khuyến khích người
ta dọn ḷng đón tiếp Người.
4. Về nhân vật
cao trọng mà ông làm chứng cho, Gioan chỉ khẳng định hai điều: Người đang ở
giữa họ, nhưng họ không nhận biết Người; Người cao trọng đến mức chính Gioan
cũng không xứng đáng phục vụ Người theo cách thức của một nô lệ. Ẩn ḿnh và
cao trọng vẫn là hai nét tiêu biểu của Đức Giêsu. Người là ánh sáng tỏa rạng
trong t́nh trạng ẩn tàng đồng thời là ánh sáng chân thật duy nhất.
5. Bất cứ Kitô
hữu nào hôm nay cũng cần thấy ḿnh là một chứng nhân như Gioan. Họ
biết ḿnh không là ǵ cả khi sánh với Đấng họ phải làm chứng cho. Tuy nhiên,
chính Đấng ấy lại muốn chọn họ để tỏ ḿnh ra cho thế giới. Cao cả mà thật ra
thấp hèn, thấp hèn nhưng cũng cao cả, đă là tư cách của Gioan, th́ cũng là
thân phận của mọi Kitô hữu.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
CHÚA NHẬT III
MÙA VỌNG
Lm. Inhaxiô Hồ
Thông
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng nầy, Phụng Vụ
tham dự trước niềm hân hoan của ngày lễ Giáng Sinh. Tất cả các bài đọc đều
vang lên sứ điệp nầy: “Hăy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Bài đọc I liên kết niềm vui với lời loan
báo Tin Mừng được gởi đến cho những người nghèo, những người bất hạnh, những
người tù đày.
Is 61: 1-11
Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu
Thê-xa-lô-ni-ca hăy luôn luôn vui lên và tạ ơn Chúa v́ những thiên ân mà họ
lănh nhận được.
1Th 5: 16-24
Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy
giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa
anh em.
Ga 1: 6-8, 19-28
BÀI ĐỌC I Is
61: 1-2, 10-11
Bài đọc I của
Chúa Nhật III Mùa Vọng nầy được h́nh thành bởi hai đoạn trích khác nhau từ
chương 61 của sách I-sai-a. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2) là phần mở đầu của
bài thi ca: chính vị ngôn sứ đích thân bày tỏ. Đoạn trích thứ hai (61:
10-11) là phần kết của bài thi ca. Đây là một bài thánh thi ca ngợi, được
cộng đoàn xướng hát.
1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2).
Trong đoạn
trích thứ nhất, chúng ta nhận ra bản văn mà vào một ngày sa-bát, trong hội
đường Na-da-rét, Đức Giê-su đă công bố trước cộng đoàn (Lc 4: 18-20). Sau
khi đă công bố đoạn văn nầy, Ngài ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều
chăm chú nh́n Người. Người bắt đầu nói với họ:
“Hôm nay đă ứng nghiệm lời Kinh Thánh quư
vị vừa nghe”. Như vậy Đức Giê-su áp dụng vào chính ḿnh lời của
ngôn sứ I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự
trên tôi, v́ Chúa đă xức dầu tấn phong tôi để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo
hèn…” Đức Giê-su cũng sẽ trích đoạn văn nầy để trả lời cho những
sứ giả của Gioan Tẩy giả được phái đến để hỏi Ngài. V́ thế, vị ngôn sứ nầy
là ai mà Đức Giê-su quy chiếu đến hai lần? Và sứ điệp của ông ngỏ lời với
ai?
1.1- Tác giả.
Những sự kiện
được định vị vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người hồi
hương đầu tiên trở về Giê-ru-sa-lem từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.
Tác giả của bản
văn nầy là một vị ngôn sứ vô danh sống ở giữa những người hồi hương ở
Giê-ru-sa-lem. Ông thường được các nhà chuyên môn gọi I-sai-a đệ tam, hay
I-sai-a của thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm
của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày (Is 40-55) và
ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ của thời tiền lưu đày (Is 1-39).
Vào Chúa Nhật I
Mùa Vọng, chúng ta đă đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ hậu lưu đày nầy.
Bản văn được trích hôm nay, xét về niên biểu, có trước lời khẩn nguyện.
Trong bản văn nầy, vị ngôn sứ biện minh sứ mạng của ḿnh: ông đă được Thần
Khí Chúa xức dầu tấn phong, đây cốt là xức dầu thiêng liêng bởi v́ không có
nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đă chọn các
ngôn sứ của Ngài. Sứ mạng của các ngài liên quan đến đời sống luân lư của
dân Thiên Chúa, nhưng vị ngôn sứ nào đă được Thiên Chúa chọn, không thể nào
thoái thác sứ mạng của ḿnh.
1.2- Sứ điệp.
Sứ mạng của vị
ngôn sứ là loan báo “Tin Mừng”
(ông lấy lại diễn ngữ của vị tiền nhiệm của ḿnh là I-sai-a đệ nhị được
trích trong bài đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng). Tin Mừng nầy có thể được
tóm tắt như sau: “Phúc thay những người
nghèo khổ!”, âm vang lời công bố những mối phúc thật của Đức
Giê-su.
Những người hồi
hương thất vọng và vỡ mộng trước thực trạng quê hương muôn vàn khó khăn. Họ
là những người nghèo, trái tim tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là những
“tù nhân”, những
“người bị giam giữ” cho dù hiện
nay họ không c̣n nữa, qua đó nhấn mạnh nỗi cùng cực của họ, bởi v́ những
thuật ngữ nầy giải thích rơ hơn h́nh ảnh sau đó:
“công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”,
nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha
bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm
hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Đây là sự khai
triển của “năm sa-bát”,
được cử hành cứ bảy năm một lần. Năm hồng ân biểu tượng một lư tưởng công
b́nh xă hội. Tuy nhiên, người ta không có đủ bằng chứng cho việc thực hành
thực sự nầy.
Đây là diện mạo
của những “người nghèo của Đức Chúa”,
những người mà Kinh Thánh gọi là
“anawin”. Chữ “anawin”
không thể dịch được, nó bao hàm sự nghèo khổ, đức khiêm hạ và niềm tin tưởng
phó thác vào Thiên Chúa. Ngữ căn của từ mang một nét nghĩa căn bản là
“c̣ng lưng xuống”, c̣ng lưng
xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhă; cũng
“sấp ḿnh” v́ thái độ tôn giáo
của họ, thái độ tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của
Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính
những kẻ bé mọn nầy mà Đức Giê-su sẽ ưu đăi.
Một trăm năm
sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đă tiên báo việc tăng tiến những
người nghèo nầy: “Ngày ấy, ngươi sẽ
không c̣n phải hổ thẹn v́ mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta
sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không
nghêng ngang trên núi thánh của Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân
nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ t́m nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân
Ít-ra-en c̣n sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian
nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không c̣n phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn
dắt và nghỉ ngơi mà không c̣n bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3:
11-13).
2. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).
Được an ủi như
vậy, cộng đoàn xướng lên một bài thánh thi chúc tụng ngợi ca:
“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, vâng
nhờ Người, tôi hớn hở biết bao”.
Bài hoan ca nầy
được diễn tả bởi hai h́nh ảnh:
- Trang
phục: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính
như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa nàng dâu lộng lẫy điểm trang.
- Khu vườn:
Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được chăm sóc tận t́nh: khu vườn của
Đức Chúa ở đó đức công chính sẽ nẩy hạt sinh mầm, đâm chồi nẩy lộc.
3. Ư nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích
nầy:
Khi đặt hai
đoạn trích đầu và cuối bài thơ nầy bên cạnh nhau, phụng vụ mời gọi chúng ta
hăy suy niệm về mối liên hệ sâu xa của chúng, mối tương quan giữa
“ơn cứu độ” được hứa bởi Đấng
được xức dầu tấn phong (Đức Ki tô tự đồng hóa với Đấng ấy) và
“vẽ đẹp lộng lẫy” của
Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại
h́nh ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc được điểm trang lộng lẫy như Hiền Thê nhờ
máu của Con Chiên.
Một viễn cảnh
như thế không thể là viễn cảnh của vị ngôn sứ của thế kỷ thứ sáu trước Công
Nguyên. Tuy nhiên, cách tiếp cận lịch sử nầy có thể hiểu được nhờ những đau
khổ của nhóm nhỏ trung thành c̣n sót lại, những
“người nghèo hèn” nầy mà nổi
khốn khổ của họ lôi kéo ḷng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ
mà ḷng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.
BÀI ĐỌC II (1Th 5: 16-24)
Thư thứ nhất
của thánh Phao-lô gởi cho giáo đoàn Thê-xa lô-ni-ca là bản văn xưa nhất của
văn chương Ki tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51.
Thánh Phao-lô
đă thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca ở Hy lạp vào mùa hè của năm 50, nhưng
ngài đă phải vội vàng trốn chạy khỏi thành phố v́ người Do thái tức giận t́m
cách giết ngài do lời rao giảng khác thường nầy khiến nhiều người Ít-ra-en
lẫn lương dân ăn năn sám hối.
V́ thế, thánh
nhân thật sự bận ḷng cộng đoàn nhỏ bé bị hăm dọa nầy. Sau nầy, người cộng
tác của ngài, Ti-mô-thê, quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và tường thuật những
tin tốt lành: Giáo Đoàn non trẻ nầy vẫn kiên vững trước những đe dọa và quấy
nhiễu của người Do thái.
Thế nên, thánh
Phao-lô viết bức thư nầy cho Giáo Đoàn Thê-xa-lô-ni-ca với cung giọng nồng
nàn ḥa chung với niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn văn chúng ta đọc được định
vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.
1. Vui mầng, cầu nguyện và tạ ơn:
Thánh nhân
khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hăy
vui mừng luôn măi và cầu nguyện không ngừng. Hăy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Trước hết,
“Anh em hăy vui mừng luôn”.
Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki tô giáo. Niềm vui là hoa quả của
Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách.
Thánh nhân “chứa chan niềm an ủi và
tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7:
4). Niềm vui phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên
Chúa ngay từ cơi thế nầy.
Tiếp đó,
“Hăy cầu nguyện không ngừng”.
Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện
“không ngừng”,
“mọi lúc”,
“đêm cũng như ngày”. Chung
chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, nhờ Chúa Ki tô; hiếm khi thánh
nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí
mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là
“Cha”.
Sau cùng,
“Hăy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền
thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm t́nh cảm tạ tri ân. Bài ca
“Chúc Tụng” (Benedictus) là bài
ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên
Chúa…” Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của ḿnh
với lời chúc tụng Thiên Chúa.
2. Đừng chối từ những ân ban Thần Khí:
Đây là lời
khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí.
Họ nghi ngại những người được ơn Thần Khải. Có lẽ họ là những người Hy lạp
phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô
viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên
các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em
chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên theo những ân ban
của ḿnh, ngay cả ơn nói tiên tri. Điều quan trọng là phải biết
“cân nhắc mọi sự: điều ǵ tốt th́ giữ lấy;
c̣n tất cả những ǵ xấu th́ lánh cho xa”.
3. Ơn thánh hóa:
Đây là đề tài
rất tâm đắc với thánh Phao-lô và thánh nhân sẽ khai triển thêm nữa sau nầy:
ơn thánh hóa của chúng ta dựa trên tác động của Thiên Chúa hơn trên nổ lực
của cá nhân chúng ta.
Việc kể ra:
thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các
thư của thánh nhân. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành
ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người
như thế. Thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn thể con người: theo thói quen
của ḿnh, thánh nhân khai triển chữ
“toàn diện” đi trước và tô đậm chữ
“thần trí” theo sau với ư nghĩa
Ki tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.
TIN MỪNG Ga
1: 6-8, 19-28
Tin Mừng hôm
nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một từ Tựa Ngôn (1: 6-8) và một từ
phần mở đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-28).
1. Gioan Tẩy giả, chứng nhân (1: 6-8).
Tựa Ngôn là một
bài thánh thi về “Ngôi Lời”
bị ngắt nhịp hai lần để kể đến vị Tiền Hô. Lần ngắt nhịp thứ nhất được dùng
như lời mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trong phần mở
đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng
như ư nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng
“chứng nhân” của vị Tiền Hô.
Đối với thánh kư, “chứng nhân”
là quan trọng bậc nhất như ông nhấn mạnh trong thư thứ nhất của ḿnh:
“Điều chúng tôi đă nghe, điều chúng tôi đă
thấy tận mắt, điều chúng tôi đă chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đă chạm đến,
đó là Lời sự sống…Điều chúng tôi đă thấy và đă nghe, chúng tôi loan báo cho
cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).
2. Lời chứng của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).
Vị Tiền Hô chối
từ tất cả những ǵ người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của
ḿnh trên sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi.
Ông không phải
là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang chờ đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà
truyền thống truyền tụng rằng vị ngôn sứ được rước lên trời nầy và sẽ trở
lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ
đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật:
“Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một
ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
Sau khi đă phủ
nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về ḿnh, Gioan
Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị
đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ
đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn ḿnh. Thật vậy, sách Tin Mừng
thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a
không chỉ sắp đến nhưng hiện có mặt ở giữa họ rồi.
Tại sao những
lời chứng vừa phủ nhận về ḿnh vừa khẳng định về Đức Ki tô của Gioan Tẩy giả
mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế?
Để có thể lĩnh
hội được Tin Mừng Gioan, cần phải giải mă những ẩn ư nầy. Tin Mừng Gioan vốn
giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và
nghĩa ẩn dụ.
2.1- Nghĩa trực tiếp:
Theo nghĩa trực
tiếp, chúng ta có thể gặp thấy ch́a khóa ở nơi việc dàn dựng phần mở đầu
cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi
“tuần lễ khai mạc” (song đối
với bảy ngày cuối đời của Đức Giê-su).
Tuần lễ khai
mạc được tŕnh bày như sau:
-
Ngày thứ nhất: chứng từ của
Gioan Tẩy giả về chính ḿnh và về Đức Ki tô trước những lời chất vấn của các
tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem.
-
Ngày thứ hai: chứng từ của
Gioan Tẩy giả về “Chiên Thiên Chúa”
và Thần Khí ngự xuống vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa.
-
Ngày thứ ba: An-rê và người môn
đệ vô danh (có thể là chính thánh Gioan) đi theo Đức Giê-su, đoạn kéo theo
Phê-rô.
-
Ngày thứ tư: Phi-líp và
Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên.
-
Ngày thứ năm và thứ sau: hành
tŕnh về miền Ga-li-lê.
-
Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na.
Các môn đệ, chứng nhân của dấu lạ nầy,
“tin” vào Ngài, v́ họ đă
“chứng kiến vinh quang của Ngài”.
Khi tŕnh bày
phần mở đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh kư thiết lập
sự song đối với bảy ngày của Công Tŕnh Sáng Tạo, qua đó thánh kư muốn nói
rằng việc Giáng Trần của Đức Ki tô là một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn,
một cuộc tái tạo.
2.2- Nghĩa ẩn dụ:
Chứng từ của
Gioan Tẩy giả trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong
tuần lễ khai mạc. Vào lúc sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi
việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối.
Do đó, tất cả
ư nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy đó là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng
về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về
Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa sám hối ăn năn, v́ thế, không rộng
mở ḷng ḿnh ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đă được loan báo cho
biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà
các ông không biết” (động từ
“biết” của nền văn hóa Do thái
không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt
c̣n cả trọn tấm ḷng nữa).
Như vậy, giáo
quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm ḿnh trong bóng tối. Sự việc nầy sẽ chi
phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki tô.
Việc đối lập
của cặp tương phản ánh sáng và bóng tối nầy h́nh thành nên một trong những
đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đă được minh chứng rồi
ngay từ trong Tựa Ngôn.
Lm. Inhaxiô Hồ
Thông
Vui mỪng v́
Chúa sẮp đẾn
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪn vào Thánh lỄ
Trong cuộc
sống, chúng ta thường gặp những niềm vui: vui khi thấy những nụ hoa hé nở
trong vườn, vui khi nh́n những cặp vợ chồng trẻ hân hoan trong ngày cưới,
vui với những tù nhân măn hạn trở về. Ngày xưa, một ngôn sứ cũng đă dùng
những h́nh ảnh tương tự để loan báo niềm vui khi Chúa đến. Thật vậy, khi
Chúa đến, Ngài sẽ làm cho cuộc sống ta tràn ngập niềm vui. Vậy chúng ta hăy
chuẩn bị đón tiếp Ngài.
II. GỢi ư sám hỐi
Chúng ta không
nghĩ rằng sống đạo là một niềm vui, trái lại nhiều khi c̣n coi đó là gánh
nặng khó chịu.
Chúng ta ít
nghĩ đến việc làm cho những người chung quanh được vui tươi hạnh phúc.
Chúng ta không
sẵn sàng để cho Chúa giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi và
những đam mê bất chính.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc
I: Is 61, 1-2. 10-11
Đoạn này thuộc
phần thứ ba sách Isaia (các chương 56-66) do một (hoặc một số) tác giả không
được biết tên nên người ta tạm gọi là Đệ Tam Isaia.
Có hai giả
thuyết về thời gian soạn tác phần này: a/ Đó là thời sau lưu đày từ lúc xây
xong Đền thờ mới cho đến năm 445 trước công nguyên (Nhóm dịch CGKPV); b/ Một
vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đày. Nội dung đoạn được trích hôm nay
xem ra phù hợp với giả thuyết thứ hai hơn.
Tác giả nghĩ
đến lúc được giải thoát khỏi ách lưu đày.
- Trong phần
đầu (cc 1-2), tác giả tự đồng hóa ḿnh với một nhân vật được Thiên Chúa chọn
làm sứ giả đặc biệt để loan tin vui ấy. "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai
tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau
thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù
nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
- Trong phần
sau (cc 10-11), tác giả lại tự đồng hóa ḿnh với dân được giải thoát: "Tôi
hớn hở vui mừng trong Chúa, v́ Ngài đă mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo
công chính cho tôi..."
Sau này,
trong bài ca Magnificat, Đức Maria đă lấy lại một số tâm t́nh của tác giả;
và Đức Giêsu, tại hội đường Nadarét, cũng đă áp dụng những lời này cho chính
bản thân Ngài.
2. Đáp ca:
Trích bài Magnificat,
Lc 1, 46-48. 49-50. 53-54.
Bài ca diễn tả
tâm t́nh của Đức Maria. Đó cũng là tâm t́nh của Đệ Tam Isaia ngày trước, mà
cũng là tâm t́nh của Giáo Hội ngày nay: vui mừng v́ được Chúa đến thăm và
dùng ḿnh làm sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa.
3. Bài đọc
II: 1 Tx 5, 16-24
Thêxalônica là
một giáo đoàn mà thánh Phaolô rất quan tâm, bởi v́ ngài mới thành lập giáo
đoàn này không bao lâu th́ phải bị buộc rời họ đi xa. Nhưng dù non trẻ, giáo
đoàn này đă sống đạo khá tốt. Bởi thế khi biên thư cho họ, Phaolô bảo họ một
mặt hăy luôn vui mừng trong Chúa và mặt khác hăy cầu nguyện không ngừng và
cảm tạ Chúa trong mọi việc.
4. Tin Mừng:
Ga 1, 6-8. 19-28
Sứ giả loan Tin
Mừng mà Đệ Tam Isaia đă tiên báo chính là Gioan Tiền hô, và Tin Mừng mà
Gioan công bố chính là Đức Giêsu.
Đoạn Tin Mừng
Chúa nhật tuần trước đă cho biết Gioan là người dọn đường và ông đă dọn
đường như thế nào. Đoạn Tin Mừng hôm nay (của thánh Gioan Tông đồ) cho biết
nhiều hơn:
·
Đấng Messia mà Gioan dọn đường chính là Ánh sáng. Ngài đến thế
gian như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.
·
Phần Gioan tiền hô, ông rất khiêm tốn: nói rơ ḿnh không phải
là Messia và tuyên bố Đấng Messia là Đức Giêsu cao trọng hơn ông.
IV. GỢi ư giẢng
* 1. Vui
mừng theo mệnh lệnh?
Lời kêu gọi rất
rơ của Giáo Hội trong Thánh lễ hôm nay là "Anh em hăy vui lên".
Nhưng có thể
vui mừng theo mệnh lệnh như thế chăng? Vả lại, trong cuộc sống cũng có nhiều
nỗi buồn. Đâu phải bất cứ lúc nào hễ Giáo Hội kêu chúng ta vui lên th́ chúng
ta vui lên ngay được?
Thiết tưởng ta
nên phân biệt cho rơ. Cuộc đời gồm nhiều phương diện lắm khi không hoàn toàn
phối hợp hài ḥa với nhau. Bởi thế người ta vẫn có thể vui về phương diện
này đang khi gặp điều không vừa ư thuộc phương diện khác. Chẳng hạn nghèo mà
vui, bị sỉ nhục vẫn vui v. v. Phương diện lúc nào cũng có thể vui chính là
phương diện siêu nhiên: vui v́ Chúa, vui trong Chúa. Thứ niềm vui này ở tận
trong ḷng nên bất cứ thứ xáo trộn bên ngoài nào cũng không ảnh hưởng tới nó
được.
Tác giả Sách
Huấn ca đă viết: mọi việc đều có thời của nó. Có thời để khóc và có thời để
cười, có thời để buồn và có thời để vui... Giáo Hội chỉ cho chúng ta biết
rằng thời để vui chính là thời bây giờ đây, thời chuẩn bị đón Chúa Giáng
sinh. Chúng ta vui v́ Chúa đă "công bố năm hồng ân" (bài đọc I), v́ "Chúa đă
đoái nh́n phận hèn tôi tớ" của chúng ta (Bài đáp ca) và v́ ư Thiên Chúa muốn
rằng chúng ta luôn được hân hoan hạnh phúc (Bài Thánh Thư).
* 2. Vui
và sướng
Trong bài đọc
II, Thánh Phaolô bảo: "Anh em hăy vui luôn". Flor McCarthy có những suy nghĩ
sau đây về vui và sướng (joy and pleasure).
Vui và sướng
rất khác nhau:
·
Ta có thể vạch kế hoạch để ḿnh được sướng, nhưng không thể
làm thế để được vui.
·
Sung sướng đến ngay, c̣n niềm vui thường đến sau; và niềm vui
ngọt ngào hơn cả là thứ niềm vui đến sau đau khổ.
·
Sung sướng đến do ḿnh trả lời "có" với ḿnh; niềm vui đến do
ḿnh trả lời "không" với chính ḿnh.
·
Sung sướng giống như một ánh lửa loé lên trong đêm tối, chiếu
sáng mọi sự trong giây lát rồi tắt lịm, sau đó ta cảm thấy tối tăm và trống
rỗng hơn bao giờ hết; Niềm vui giống như một ngọn lửa trong tim, sau đó dù
lửa đă tàn nhưng vẫn c̣n để lại hơi ấm trong ta.
* 3. Vui
luôn
Thánh Phaolô
kêu gọi "Anh em hăy vui mừng luôn măi".
"Luôn măi" là
cả khi bị người ta đối xử xấu với ḿnh nữa chăng?
"Luôn măi" là
cả khi làm việc thất bại nữa chăng?
"Luôn măi" là
cả khi người thân bị chết hay bị bệnh nặng nữa chăng?
"Luôn măi" ngay
cả khi đă phạm tội chăng? v. v.
Chắc chắn là
thánh Phaolô đă nghĩ đến những t́nh huống đó, dù vậy Ngài vẫn kêu gọi "Hăy
vui mừng luôn măi". Tại sao?
Liền sau lời
kêu gọi ấy, thánh Phaolô viết tiếp "Hăy cầu nguyện không ngừng". Đúng rồi,
nếu gặp phải những t́nh huống ấy mà biết cầu nguyện th́ mọi buồn sầu lo lắng
sẽ sớm tan biến và trở thành niềm vui.
4. Có
Đấng mà các ngươi không biết, Ngài sẽ đến sau tôi
Đấng mà người
ta không biết chính là Thiên Chúa. Thật vậy, rất nhiều người không biết
Thiên Chúa, thậm chí c̣n không tin là có Thiên Chúa. Điều này cũng tự nhiên
thôi, v́ chính Thánh Kinh cũng nói rằng khả năng con người không thể biết
được Thiên Chúa: Thánh Gioan tông đồ đă viết "Chưa ai trông thấy Thiên Chúa
bao giờ" (Ga 1, 18); Thánh Phaolô cũng viết rằng Thiên Chúa là Đấng "ngự
trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đă thấy hay có thể thấy"
(1 Tm 6, 16).
Thế nhưng, v́
yêu thương loài người, Thiên Chúa đă khấng cho loài người biết Ngài, qua Đức
Giêsu con yêu dấu của Ngài nhập thế sống giữa loài người chúng ta. Gioan
Tiền hô đă báo cho người ta biết tin vui đó: "Ngài đang ở giữa các ngươi mà
các ngươi không biết".
Chúng ta là
những người được biết, vậy chúng ta hăy vui mừng; và cũng như Gioan, chúng
ta hăy chỉ Ngài cho nhiều người khác được biết.
5. Điều
kiện của người làm chứng
Điều kiện tiên
quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của ḿnh.
Gioan Tẩy giả
là người làm chứng như thế. Đoạn Tin Mừng hôm nay viết: "Ông đến để làm
chứng về ánh sáng". Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho
người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy
th́ ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút
lui: "Ngài phải sáng lên, c̣n tôi phải mờ đi".
Câu chuyện sau
đây được thuật lại trong quyển The Tablet (Tháng 5 năm 1998):
Một cặp vợ
chồng trẻ kia đều là bác sĩ. Họ đă học chung với nhau ở Đại học Y khoa, quen
nhau, rồi cưới nhau. Người vợ là công giáo, người chồng th́ không. Đă nhiều
lần người vợ cố gắng thuyết phục chồng Rửa Tội, nhưng anh không hề quan tâm,
có lẽ v́ chưa thấy đạo công giáo có cái ǵ hay.
Thế rồi trong
một đợt thanh lư công nhân viên, người chồng bị bắt đi cải tạo cùng với một
số nhà trí thức khác. Người vợ không vào tù nhưng bị làm áp lực bỏ đạo và ly
dị chồng. Nhiều nữ bác sĩ khác cùng cảnh ngộ đă đành ch́u theo những áp lực
ấy. Nhưng bà này vẫn cương quyết sống theo niềm tin và t́nh yêu của ḿnh,
mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn.
Nhưng một ngày
kia, người chồng được trả tự do cùng với nhiều bác sĩ khác. Xảy ra rất nhiều
t́nh huống trớ trêu dở khóc dở cười: nhiều bà vợ vui mừng v́ chồng trở về
nhưng không dám đón chồng v́ đă trót ly dị. Riêng cặp vợ chồng này th́ niềm
vui rất trọn vẹn.
Sau đó người
chồng xin gia nhập đạo công giáo. Anh đă thấy được giá trị của đức tin và
t́nh yêu hiện thân nơi vợ ḿnh. Đó là một chứng từ, không phải bằng lời nói
suông mà bằng cả cuộc sống.
6. Làm chứng
cho Đức Kitô
Linh mục
Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đ́nh kia
đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa,
xây những lâu đài bằng cát trên băi biển, th́ có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà
rối bời trong gió, quần áo bẩn thỉu rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm một ḿnh, vừa
cúi nhặt những vật ǵ đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ
gọi chúng lại và bảo chúng hăy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà
mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.
Nhiều tuần sau,
cả gia đ́nh mới biết rằng đă lâu lắm rồi, người đàn đà ấy đă tự nguyện, làm
công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên băi biển, để bọn trẻ khỏi bị
đứt chân.
* "Giữa
các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết" (Ga. 1, 26).
Sứ mạng của
Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Đức Kitô. Đức Kitô
đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả
lời cho câu hỏi này: "Giêsu Nagiarét, Người là ai?" Gioan không dùng danh từ
Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ "chứng nhân". Động từ "làm chứng" được Gioan nhắc
đến 33 lần. Tin mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và
kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: "Chính môn đệ này làm chứng về
những việc đó và đă viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực"
(Ga. 21, 24).
Qua lối sống
khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: "Tôi là
tiếng kêu trong hoang địa: Hăy sửa cho ngay đường Chúa đi" (Ga. 1, 23) đă
minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên
Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút
lui vào bóng tối.
Có thể nói,
Gioan là người tôi tớ, c̣n Đức Giêsu là ông chủ, Gioan là đèn soi, c̣n Đức
Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Đức Giêsu là lời hằng sống.
Như Gioan,
người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm
này, Teihard de Chardin đă ví von rất sống động: "Ánh sáng xuyên qua những
áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nh́n vào đời sống chúng ta
mọi người cũng đoán được có Đức Kitô". Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello
phản ánh một tấm gương sáng ngời về ḷng thương người, luôn quan tâm tới kẻ
khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của ḿnh, để cho
niềm vui của người khác được trọn vẹn.
Martin Luther
King viết: "Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà c̣n làm chứng bằng
cuộc sống của ḿnh". Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta,
nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: "Sống chứng nhân không
phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo
ta".
Ước ǵ khi nh́n
vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đă nói về Thánh Gioan
Vianey "Tôi đă thấy Thiên Chúa trong một con người".
* Lạy
Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng
và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm
nhường: không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy
uy. Nếu có khi nào thành công việc ǵ xin cho chúng con biết hướng vinh dự
về cho Chúa, để qua đó, người ta nhận biết Chúa là Đấng quyền năng và yêu
thương con người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đă yêu")
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến,
chúng ta đă tiến đến Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng, niềm vui ngày Chúa đến dịp lễ
Giáng Sinh đă gần kề. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hăy vui mừng cầu nguyện
và tạ ơn. Chúng ta hăy dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta:
1. Thánh
Gioan đă dọn đường về Đức Giêsu là ánh sáng, là niềm vui cứu độ / Xin cho
cộng đoàn Hội thánh trở thành chứng tá cho Chúa xuyên qua việc gieo rắc và
bồi dưỡng niềm vui cho mọi người.
2. Đức Giêsu
được sai đi để đem Tin mừng cho người nghèo khổ bất hạnh / Xin cho các nhà
cầm quyền trở thành những người bênh vực kẻ hèn yếu và đem an vui cho những
người thiếu may mắn.
3. Đức Giêsu
đến trần gian để băng bó những tấm ḷng tan nát / Xin cho những người nghèo
đói thất nghiệp, tù đày, bị bỏ rơi / t́m được niềm an ủi và hy vọng nơi
những người họ gặp gỡ.
4. Chúng ta
đă được hiệp thông với Đức Giêsu qua các Bí tích / Xin cho mọi người trong
cộng đồng họ đạo chúng ta / luôn thắp lên trong đời ḿnh ánh sáng của Chúa /
để sưởi ấm và soi sáng cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con
đang sửa soạn để đón nhận niềm vui ngày Đức Giêsu Giáng Sinh, xin Chúa sai
Thánh Thần Chúa đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để chúng con trở
thành niềm an vui cho mọi người chúng con gặp gỡ. Chúng con cầu xin nhờ Đức
Kitô.
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI
Lm Giuse Đinh lập Liễm
I. GIOAN,
ÔNG LÀ AI ?
Đă từ 400 năm,
tiếng nói tiên tri đă im bặt, bây giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên.
Qua đó một số người đă ngưỡng mộ ông Gioan Tẩy giả đến độ dành cho ông địa
vị cao hơn địa vị thích đáng, c̣n cao hơn cả Đức Giêsu. Tiếng nói của Gioan
đă vang dội và đánh động nơi nhiều người.
Cấp lănh đạo Do
thái sợ Gioan chiếm mất địa vị của ḿnh, đă sai mấy tư tế và Lêvi đến điều
tra xem Gioan là ai. Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đă thiêu sống hơn
500 tư tế của hoàng hậu Giêzabel thời vua Achab. Họ sợ ông là một tiên tri,
như bao tiên tri của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn
thời thế, làm mất quyền lợi địa vị của họ. Họ phải đề pḥng, kiểm soát, canh
chừng mọi bất trắc xẩy ra. Họ đă biết có nhiều người được dân coi là Đấng
Cứu thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây,
nhất là tầng lớp lănh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt.
V́ vậy, cấp
lănh đạo tôn giáo sai tư tế và Lêvi đến đặt câu hỏi, yêu cầu Gioan phải trả
lời cho ho biết : Ông là ai ?
1. Gioan là
Đấng Messia ?
Tâm lư chung
của các nước các dân bị trị đều mong có một vị cứu tinh nào đến giải phóng
họ khỏi cảnh ḱm kẹp của ngoại bang. Dân Do thái đang sống trong tâm trạng
đó. Họ tin rằng họ là dân tuyển chọn của Giavê, họ không nghi ngờ ǵ về
việc chẳng chóng th́ chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Không
phải chỉ có một quan niệm về Đấng Messia : có người tin rằng Đấng Messia sẽ
đem lại ḥa b́nh cho cả thế giới. Có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất
nước bằng sự công chính. Có người trông chờ có một siêu nhân đến từ Thiên
Chúa. Nhưng đa số trông mong một vị tướng lănh vô địch sẽ cầm đầu quân đội
quốc gia Do thái đi chinh phục cả thế giới.
Trước câu hỏi
đó, Gioan hoàn toàn bác bỏ danh xưng Messia, nhưng lại tiết lộ một phần
khác. Trong tiếng Hy lạp có vẻ như Gioan muốn nói : “Tôi không phải là Đấng
Messia, nhưng Đấng Messia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.
2. Gioan là tiên tri Êlia ?
Người Do thái tin rằng tiên tri Êlia và ông Hênốc đă được
đưa về trời trên chiếc xe bằng lửa, và khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ
trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Họ tin
rằng Êlia sẽ đến sắp xếp lại mọi công việc cho người Do thái : dàn xếp những
bất ḥa, đem lại sự đoàn kết và nối lại các gia đ́nh. Niềm tin rằng Êlia
phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta c̣n tin rằng
chính Êlia xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như cho tất cả các vị vua
được xức dầu. Nhưng Gioan tẩy giả đă bác bỏ mọi vinh dự đó.
3. Gioan là một tiên tri nào đó ?
Nhiều người Do thái tin Isaia và đặc biệt là Giêrêmia hoặc
một trong các vị anh hùng cứu nước như Samuel, Maisen... sẽ có ngày trở
lại. Niềm tin đó dựa vào sách Đệ nhị luật (18,15) nói có vị tiên tri sẽ
xuất hiện. Đó là lời hứa dân Do thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất
hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất. Họ hỏi Gioan có phải là
một trong các vị tiên tri được hứa trong sách Đệ nhị luật không ? Một lần
nữa, Gioan Tẩy giả trả lời là “không”. Sự thực ngài cũng là tiên tri, nhưng
không phải là tiên tri theo sách Đệ nhị luật nói.
4. Gioan là người làm chứng ?
Để trả lời cho họ, Gioan không trả lời trực tiếp : Tôi là
Tiền sứ của Chúa Cưu thế v́ ông khiêm tốn nhưng ông mượn lời tiên tri Isaia
:”Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa : hăy dọn đường cho Chúa.
Muốn hiểu rơ câu nói đó của Gioan Tẩy giả, ta nên nhớ rằng
những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, c̣n đa số là
những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong
vương quốc của ḿnh, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho
dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng
thắn lại. Người “tiền hô” c̣n một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng
những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy giả cũng
lưu ư tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói :”Hăy ăn
năn hối cải tội lỗi ḿnh và hăy lănh nhận phép rửa”.
Tóm lại, chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan
như sau :”Tôi không phải là Đấng Cứu thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho
Ngài. Hăy chuẩn bị v́ Ngài sắp đến”. Gioan đă làm những ǵ mà mọi vị lănh
đạo tôn giáo đích thực phải làm. Ông không để cho người ta chú ư tới ông, mà
hướng mọi sự chú ư của họ vào Đức Giêsu.
C̣n một điều khác làm cho phái đoàn Do thái thắc mắc : Gioan
lấy quyền ǵ mà làm phép rửa ? Nếu ông là Đấng Messia, là Êlia hay là một
tiên tri th́ ông mới có quyền làm ! Nhưng bằng một giọng thản nhiên, Gioan
nói rơ : ông là tiên tri dọn đường Chúa Cứu thế th́ cố nhiên phép rửa của
ông cũng chính là phép dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu
thế. Và ông nhấn mạnh thêm : Chúa Cứu thế đă đến rồi và hiện nay đang ở
giữa họ, thế mà họ đă không nhận ra Ngài.
II. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI ?
1 . Là chứng nhân của Chúa
Kitô hữu là người được mang danh Chúa Kitô, danh hiệu này đă
được thánh Phaolô lần đầu tiên gọi các tín hữu ở Antiochia. Kitô hữu là
người thuộc về Chúa Kitô, được đồng hoá với Chúa Kitô đang sống giữa chúng
ta. Chúng ta không như người Do thái phải mất mấy thế kỷ mong đợi Đấng Cứu
thế đến. Hơn nữa, cũng không phải sống lại những biến cố đă qua. Đức Kitô
đă đến. Ngài đang có đó. Liên tục hiện diện giữa chúng ta để loan báo Tin
mừng cho người nghèo, để chữa lành các tâm hồn bị tan vỡ và giải thoát những
kẻ bị xiềng xích.
Tuy Chúa Cứu thế đă đến rồi và ở giữa chúng ta, nhưng trong
thực tế , chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài không ? Phải chăng lời
khiển trách của Gioan Tẩy giả lại không nhằm đến chúng ta, cũng như những
người Do thái đời ông :”Giữa các ngươi có một Đấng , mà các ngươi
không biết”. Do đó, lời mời gọi khẩn thiết được trao gửi cho ta, giúp
chúng ta dễ chấp nhận những nỗ lực và hy sinh cần thiết, để từ bỏ mọi kiêu
căng, thoát khỏi những lố lăng trần thế, hầu nhận biết Đức Kitô.
Truyện
: T́nh nghĩa vợ chồng.
Tại một trung tâm bài phong, đa số các bệnh nhân đều buồn
chán, v́ cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người
vẫn c̣n biết cười và vẫn c̣n tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ. Vị nữ tu coi
sóc trung tâm muốn t́m hiểu xem đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau
nhiều ngày theo dơi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên
vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một
người đàn bà đến nh́n vào và mỉm cười rất tŕu mến. Đó là tất cả sức mạnh
và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày ông chờ đợi nụ cười ấy,
khuôn mặt người đàn bà khi xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông
duy nhất c̣n biết cười nơi trung tâm bài phong đó đă giải thích cho vị nữ tu
đó như sau :
“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi ; trước khi tôi đến đây,
nàng đă t́m đủ mọi cách để chữa chạy cho tôi. Mỗi ngày nàng lau chùi một
khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn. Nhưng cuối cùng
nàng không thể giữ tôi lâu hơn, người ta đă đến đưa tôi vào trung tâm này,
nhưng vợ tôi đă không bỏ tôi, mỗi ngày nàng đến nh́n qua vách tường và mỉm
cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn c̣n sống, nhờ nàng, tôi vẫn
c̣n muốn sống”.
Người vợ đă làm sống lại niềm tin của chồng. Ông ta không
c̣n thất vọng, không bi quan, không chán đời và c̣n muốn sống v́ đă được
t́nh thương của người vợ ấp ủ. Chính t́nh yêu của người vợ đối với chồng đă
làm chứng cho t́nh yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Người Kitô hữu cũng là chứng nhân của Đức Kitô trong cuộc
sống. Về điểm này, nhaThần học Teilhard de Chardin đă ví von rất sống động
:”Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó.
Nh́n vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”.
Người vợ trong câu chuyện kể trên phản ảnh một tấm gương
sáng ngời về ḷng thương người, luôn quan tâm tới người khác, sẵn sàng hy
sinh cho tha nhân v́ t́nh yêu Đức Kitô như thánh Phaolô nói :”Caritas
Christi urget me” : T́nh yêu Đức Kitô thúc đẩy tôi.
Mục sư Martin Luther King nói :”Chúng ta không làm chứng
chỉ bằng lời nói, mà c̣n làm chứng bằng cả cuộc sống của ḿnh”,
đúng như người ta nói :
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
Có những tâm
hồn dần dần được cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ.
J. Basquin nói
:”Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao
để các tâm hồn chạy theo ta”.
Ước ǵ nh́n vào
đời sống chúng ta, mọi người có thể nói như đă nói về thánh Gioan Vianney :”Tôi
đă thấy Thiên Chúa trong một người”.
2. Chờ đợi
ngày Chúa trở lại.
Người Kitô luôn
nhớ lời Chúa hứa mà phấn khởi trong cuộc sống :”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho
các con, th́ Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các
conb cũng ở đó
(Ga 14,3).
Trong suốt Mùa
Vọng, Giáo hội hướng ḷng chúng ta về Chúa Kitô như một điểm qui chiếu. Giáo
hội hành động giống như vị “tiền hô” của Ngài. Và cuối cùng Giáo hội giải
thích cho chúng ta phải chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa Vọng nói
với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong ḍng lịch
sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm ngày lễ Giáng sinh, mà c̣n đến lần chót
vào cuối ḍng lịch sử nữa, để lúc ấy sẽ có trời mới đất mới.
Và việc Chúa sẽ
trở lại lần thứ hai với loài người trong ngày chung thẩm, Tin mừng thánh
Matthêu c̣n ghi rơ :”Khi con người đến với tư cách là vị Vua, Ngài sẽ
ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ đều qui tụ trước mặt
Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra thành hai nhóm, y như người chăn tách
chiên ra khỏi dê... Nhà Vua sẽ nói với những người ở bên phải : Hăy đến, hỡi
những kẻ được Cha Ta chúc phúc ! Hăy đến và lănh lấy Nước Trời làm cơ
nghiệp... Rồi Ngài nói với những người ở bên trái : Hăy đi khỏi mặt Ta mà
vào lửa đời đời” (Mt 25,34-41).
3. Chờ đợi
trong niềm vui.
Đối với Kitô
hữu, cuộc sống ở trần gian này là thời gian chờ đợi Chúa đến. Chúa đến
trong ngày chung thẩm và Chúa đến với ta trong ngày sau hết của đời ḿnh.
Đời là một cuộc lữ hành đi về trời. Trong cuộc lữ hành đó có buồn vui sướng
khổ xen lẫn nhau. Nhưng trong bài Thánh thư hôm nay, thánh Phaolô khuyên
tín hữu Thessalonica :”Anh em hăy vui mừng luôn măi”(Tx 5,16).
Tại sao Ngài
khuyên chúng ta “hăy vui mừng luôn măi” ? Ngài bảo chúng ta hăy vui mừng v́
chúng ta đă được Thiên Chúa cứu độ :”Linh hồn tôi nhảy mừng trong Thiên
Chúa Đấng cứu độ tôi”. Ngoài ra, chúng ta là con cái Chúa,
con cái Chúa th́ phải vui luôn, vui trong lúc buồn, vui trong lúc khổ, vui
trong thất bại v́ tất cả nằm trong thánh ư Thiên Chúa.
Làm sao chúng
ta mang một nét mặt buồn rầu khi chúng ta đến gần Chúa là nguồn vui, như lời
thánh vịnh nói :”Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi
thanh xuân tôi được vui tươi”. Chúa là nguồn vui, tại sao gần
nguồn vui mà lại buồn ? Ta hăy bắt chước thánh Têrêsa Hài đồng mà chấp nhận
trong vui tươi :
Vâng, con sẽ
hát, con c̣n hát măi
Dù trăm gai
con vẫn hái hoa hồng.
Gai càng
nhọn, tiếng con hát càng trong
Gai càng
dài, lời ca càng thánh thót.(Têrêsa Hài
đồng)
Truyện
: kịch sĩ hài lại buồn
Người ta cho
biết tại một thành phố kia có một kịch sĩ nổi tiếng v́ tài nhạo cười. Ai
buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu nghe kịch sĩ này pha tṛ th́ thế nào cũng
phải bật cười.
Cũng trong
thành phố ấy có một nhà tâm lư nổi tiếng chữa được hầu hết mọi tâm bệnh.
Ngày nọ một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày rầu rĩ đến xin gặp nhà tâm lư.
Được nhà tâm lư
hỏi nguyên do, ông trả lời :
- Thưa bác sĩ,
tôi là một người thiếu hạnh phúc, cuộc đời tôi quá buồn khổ. Bác sĩ có cách
nào làm cho tôi vui được không ?
Nhà tâm lư hỏi
:
- Ông có quá
túng thiếu về tiền bạc không ?
Ông đáp :
- Thú thật với
bác sĩ, tôi là người khá giầu.
Nhà tâm lư hỏi
tiếp :
- Thế vợ con
ông ra sao ?
Ông ta gật đầu nói :
- Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ
thương.
Sau khi hỏi thêm một vài điều khác, nhà tâm lư đề nghị :
- Tôi nghĩ ông nên đến nghe kịch sĩ nổi tiếng trong thành
phố chúng ta. Thế nào ông cũng quên đi được nỗi buồn chán và t́m lại được
niềm vui.
- Thưa bác sĩ, tôi xin cám ơn lời khuyên của bác sĩ.
Nhưng... Tôi lại chính là kịch sĩ đó !
Nghe câu chuyện có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế là vậy. Một
con người có biệt tài làm cho người khác dù buồn chán đến đâu cũng phải vui
lên được mà chính ḿnh lại là nạn nhân của sự buồn rầu. Cái mâu thuẫn đó dễ
hiểu v́ kịch sĩ đó ngay trong tâm hồn không có nguồn vui th́ làm sao ḿnh
cảm thấy vui được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là
chính niềm vui vĩnh cửu cho chính Ngài và từ nơi Ngài, niềm vui ấy được trao
ban cho con người.
Chúa Giêsu chính là hiện thân niềm vui của Thiên Chúa. Từ
cung ḷng Chúa Cha, Ngài đến báo tin vui cho nhân loại và giải thoát con
người khỏi mọi sầu khổ đau thương gây nên bởi tội lỗi và sự chết. Ngài đă
đem niềm vui đó đến với nhân trần trong đêm Giáng sinh tại Belem : Vinh danh
Thiên Chúa tên trời, b́nh an dưới thế cho người Chúa thương.
Trong Mùa Vọng này, chúng ta hăy đến với Chúa. Gặp gỡ Chúa
là đến với nguồn vui bất tận, có niềm vui Thiên Chúa trong ḷng ḿnh, chúng
ta sẽ làm cho người khác hưởng được niềm vui chân thật và bền vững.
Chúng ta hăy nhớ một câu trong bản nhạc rất hay của nhạc sĩ
trứ danh Sebastian Bach :
“Lạy Chúa Giêsu su, xin cho niềm vui của con luôn tồn
tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.
Lạy Chúa, xin hăy đến : Maranatha, xin viếng thăm và ban cho
chúng con niềm vui Giáng sinh bất tận.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?
Chủ đề:
"Gioan là người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Hăy sẵn sàng! Đấng Cứu Thế sắp đến!"
Lm. Mark Link, S.J.
Jim Bishop có
viết một tác phẩm nhan đề "Ngày Đức Kitô chết". Tác phẩm đó có một đoạn văn
rất hay mô tả những ǵ người Do Thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến. Đoạn
văn đó như sau:
"Việc Đấng Cứu
Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia. Đó là một niềm vui
ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin. Đó là niềm an ủi
cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đ́nh nằm trên
giường chờ giấc ngủ đến. Đó là giấc mơ của người tóc đă hoa râm. Đó là điều
mà trẻ em mong được nh́n thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến. Đó là
niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế
luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai."
V́ thế nên khi
Gioan tẩy Giả xuất hiện bên gịng sông Giođan, dân chúng rất phấn khởi.
Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa Biển Chết. Đó là tụ
điểm b́nh dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế
giới đến. Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những
tin tức thế giới. V́ thế đó là một nơi lư tưởng để Gioan Tẩy Giă bắt đầu rao
giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rơ ràng: "Hăy từ bỏ tội
lỗi ḿnh… Hăy dọn đường cho Chúa đến, hăy làm một lối thật thẳng để Người đi"
(Lc. 3, 3-4)
Chẳng mấy chốc,
tin tức về hoạt động của Gioan Tẩy Giả đă đến tai những nhà lănh tôn giáo ở
Giêrusalem. V́ thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến
nói chuyện với Gioan. Các tư tế đặc biệt lưu ư đến Gioan v́ ông là con của
Zacaria, cũng là một tư tế. Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể
làm tư tế là phải thuộc ḍng dơi tư tế. Nếu có ai là con cháu của Aaron, th́
không ai có quyền cầm người ấy thực hiện chức năng tư tế của ḿnh. Do đó các
tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại
sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.
Khi phái đoàn
các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: "Ông là ai?". Gioan biết
trong tâm trí họ nghĩ ǵ, nên ông nói: "Tôi không phải là Đấng Cứu Thế ".
Các tư tế hỏi: "Nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai? Ông có
phải là Êlia không?". Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu.
Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đă được cất lên trời
bằng một chiếc xe rực lửa vào cuối đời. Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ
trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến. Ngay cả thời nay cũng có một số người Do
Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ. Họ
cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến. Nhưng
Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đă được cất lên trời trên
chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.
Họ hỏi: "Vậy
ông có phải là một vị tiên tri không?" Gioan lại trả lời: "Không!Tôi không
phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel". Họ hỏi tiếp: "Vậy
th́ ông là ai?" Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: "Tôi là tiếng kêu gào
trong sa mạc: 'Hăy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến'". Muốn hiểu rơ câu
nói đó của Gioan Tẩy Giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có
một ít là trải sỏi hoặc đá, c̣n đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị
vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của ḿnh, ông sẽ sai một
người "tiền hô" tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những
vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người "tiền hô" c̣n có
một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích
hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Gỉa cũng lưu ư tới thái độ tiếp tân cần
phải có để đón Chúa tới. Ông nói: "Hăy ăn năn hối cải tội lỗi ḿnh và hăy
lănh nhận phép rửa". (Mc. 4)
Tóm lại chúng
ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: "Tôi không phải là
Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người 'tiền hô' cho Ngài. Hăy chuẩn bị, v́ Ngài
sắp đến. Gioan đă làm những ǵ mà mọi vị lănh đạo tôn giáo phải làm. Ông
không để cho người ta chú ư tới ông, mà hướng mọi sự chú ư của họ vào Đức
Giêsu.
Đó chính là
những ǵ Giáo Hội làm suốt Mùa vọng. Giáo Hội hướng mọi chú tâm của chúng ta
vào Đức Giêsu. Giáo Hội hành động giống như vị "Tiền hô" của Ngài. Và cuối
cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa vọng nói
với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong gịng lịch
sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài c̣n đến lần
chót vào cuối ḍng lịch sử nữa.
Tin Mừng
Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: "Khi Con Người đến với tư cách một
vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ
trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn
tách chiên ra khỏi dê… Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hăy đến
hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hăy đến và hăy lănh lấy nước trời làm cơ
nghiệp… Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hăy đi khỏi Ta và vào lửa
đời đời" (Mt. 25, 34-41).
Những bài đọc
trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, ông
chỉ là người "Tiền hô" của Ngài. Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày
Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.
Để kết thúc,
chúng ta hăy ăn năn thống hối như khi lănh nhận bí tích hoà giải. Xin các
bạn hăy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
"Lạy Cha chí
nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đă
lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như
người trộm lành mà Chúa đă hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hăy
nhớ đến con trong nước của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch t́nh yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin
hăy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng".
Lm. Mark Link, S.J.
CHÚA NHẬT III
MÙA VỌNG
Lm. Augustine, SJ
Yêu thương
là phục vụ
Hai ông bà Đoàn
Tư Hộ (Santi Rillô) có tám người con. Cả tám đều ngoan ngoăn dễ bảo khi c̣n
nhỏ. Nhưng khi lớn lên, chúng chịu ảnh hưởng bạn bè, trở nên xa lạ với gia
đ́nh.
Hai lần ông bà
khuyên bảo được các con đi dự cuộc họp thành phố của Đức Maria dành cho giới
trẻ, nhưng sự việc đă chấm dứt ở đó. Mỗi đứa con là một thế giới riêng mà
sinh hoạt tôn giáo xem ra chẳng mang lại một biến chuyển nào.
Ông Tư Hộ không
muốn nêu tên người con nào, nhưng về một người con gái ông không ngại nêu
chi tiết về những khó khăn ông gặp phải để biểu lộ t́nh yêu mà ông dành cho
người con này. Ông chia sẻ như sau:
"Người con gái
ấy của chúng tôi sau khi tốt nghiệp đại học đă xin đi làm bên Hoa Kỳ. Chỉ
sau hai năm Xuyên (tạm gọi như vậy) trở về Phi Luật Tân, chỉ v́ chán với
công việc bên Mỹ. Thời gian tiếp theo, Xuyên đi học tạp nham, như cắt may,
ngoại ngữ tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha. Thậm chí, có lần Xuyên ghi tên học
làm thư kư nữa!
Chẳng bao lâu
sau đó Xuyên đánh bạn với lớp người x́ ke, đêm về nhà trễ. Chúng tôi có
trách mắng, Xuyên cũng bỏ ngoài tai và c̣n tỏ ra giận dữ hơn trước.
Khi ấy Xuyên đă
25 tuổi. Tôi chẳng biết xử trí ra sao nên đem câu chuyện đau ḷng này bàn
với một người bạn thân ở Tổ Aám. Lời khuyên mà tôi nhận được là: "Hăy cứ
tiếp tục yêu thương Xuyên hơn nữa. Hăy yêu và phó thác mọi sự nơi Mẹ Maria."
Đó chính là
điều vợ chồng chúng tôi rắp tâm thực hiện, tức là yêu thương Xuyên hơn nữa
cách vô điều kiện. Khi ấy vợ tôi có việc phải đi Mỹ. Thế là tôi một ḿnh ở
nhà t́m đủ cách để tỏ t́nh thương đối với Xuyên. Tôi hiểu yêu thương là phục
vụ nên cần phải quên ḿnh đi. Ngày nào tôi cũng xuống bếp lo việc bếp núc
thay cho nhà tôi. Tôi giặt đồ cho Xuyên. Ban sáng tôi dậy sớm nấu bữa sáng
cho Xuyên. Khi nước nhà máy yếu không đủ sức vọt, tôi xách sô nước lên lầu
cho Xuyên dùng. Cứ như vậy suốt sáu tháng, tôi tiếp tục biểu lộ t́nh yêu qua
những việc thường ngày, mặc dầu nhiều lúc tôi cảm thấy ḿnh không được khoẻ
lắm.
Một hôm Xuyên
đến nói với tôi: "Có khi tốt hơn con nên sang bên Canada thay v́ ở Phi Luật
Tân? Thế là tôi đă chiều theo mà sắp xếp mọi sự để Xuyên sang ở bên Canada.
Tôi cũng mua những đồ Xuyên cần cho chuyến đi này.
Chứng từ trở
nên đáng tin
Sau khi Xuyên
ra đi, tôi đă phải nằm bệnh viện một tuần v́ kiệt sức do cố gắng chăm sóc
Xuyên. Nhưng khi tôi xuất viện, vợ chồng tôi đă nhận được lá thư bất ngờ sau
đây:
Ba rất quí mến,
con cám ơn ba về tất cả những ǵ ba đă dành cho con. Con được thôi thúc rất
nhiều do việc ba hằng cố công giúp đỡ và dẫn dắt con. Tất cả những điều đó
giờ đây trở nên tươi đẹp dưới cái nh́n của con và con cảm nhận được sự hiện
diện của Chúa ngang qua ba. Con xin hiệp ḷng hiệp ư với ba nguyện xin Chúa
cho biết Người hiện muốn cha con ta phải làm ǵ tới đây. Ba đă cho con hơn
điều mà người cha có thể cho con ḿnh. Đó là điều con sẽ luôn giữ làm kho
báu để luôn nhận Chúa là quan trọng hơn hết trong đời con. Con đă nhận ra
tất cả những điều vừa nói và đă h́nh thành điều chọn lựa ấy nhờ ba dẫn dắt.
Con cám ơn ba rất nhiều. Con yêu ba."
Từ ba năm nay
Xuyên vẫn ở thành phố Đông Đô (Toronto), Canada, vừa đi học vừa đi làm.
Xuyên năng viết thư về nhà để biểu lộ t́nh yêu và ḷng hiếu thảo.
Xuyên cũng tham
gia Tổ ấm tại Đông Đô và giúp giới trẻ của Phong Trào.
Gioan Tẩy
Giả và những người chứng
Lời chia sẻ vừa
trích của ông Tư Hộ chẳng thể ăn khít với nội dung của bài Tin Mừng hôm nay,
Chắc chắn ơn sám hối của cô Xuyên, con ông phải do Chúa tác động. Nhưng cách
nào đó chính Chúa đă khơi dậy nơi ông một t́nh yêu bất khuất làm cho con ông
được khắc phục mà nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi ông.
C̣n bài Tin
Mừng hôm nay chủ yếu cho thấy Phụng Vụ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, muốn chính ông
Gioan Tẩy Giả lên tiếng tự giới thiệu ông là ai và Đức Giêsu là ai
Ông là tiếng
người hô trong hoang địa:
Hăy sữa
đường cho thẳng để Đức Chúa đi.
Như ngôn sứ
Isaia đă nói (Mc 1,23). C̣n Đức Giêsu mới là nhân vật chính: "Đấng ấy là
Đấng đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (c.27)
Nhưng tác giả
Tin Mừng thứ bốn luôn đưa ông Gioan Tẩy Giả ra sân khấu trong một khung trời
sáng tạo. Ở lời tựa cũng như ở khởi đầu của Sách Tin Mừng thứ bốn, ông Gioan
Tẩy Giả đều là người chứng.
Lời tựa gồm 18
câu mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập hai câu 6-8 mà thôi. Lời tựa khởi sự với
lời khởi đầu của sách Sáng Thế, tức Lúc khởi đầu (in the beginning). Ở đâu
Ngôi Lời được nh́n nhận là Thiên Chúa (Ga 1,1). Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được
tạo thành và không có Người th́ chẳng có ǵ được tạo thành. Điều đă được tạo
thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (cc.
3-4). Thế mà Gioan vẫn được giới thiệu là "người làm chứng về ánh sáng"
(c.7). Tại sao? V́ trong kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa đă muốn dùng người
chứng thay v́ thiên thần làm chứng để con cháu Ađam tin mà được sống.
Từ lời tựa ấy
Gioan Tẩy Giả bước vào chương đầu sách Tin Mừng để làm chứng. Ở đây ông xuất
hiện, giữa công tŕnh tạo dựng như thấy ở đầu sách Sáng Thế. Bảy ngày tạo
thành được tŕnh bày như sau.
Ngày thứ
nhất (cc.19-28):
Người chứng:
Gioan Tẩy Giả ngỏ lời cùng một số thầy Tư tế và Lêvi từ Giêrusalem.
Chứng từ:
bản thân ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là ngôn sứ Eâlia (Mal
3,23) mà người Do thái từng mong đợi. Cũng không phải là vị ngôn sứ nói đến
trong Đệ Nhị Luật 18,15-18, nhưng là "Tiếng người kêu trong hoang địa,"
chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ông.
Ngày thứ
hai (cc.29-34):
Người chứng:
Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa Giêsu.
Chứng từ:
cho biết Đức Giêsu Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, Đấng có Thánh
Thần ngự xuống và là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần; Người là Đấng được
Thiên Chúa tuyền chọn.
Ngày thứ
ba (cc.35-39):
Người chứng:
là Gioan Tẩy Giả ngỏ lời cùng hai môn đệ của ông với kết quả là họ đă trở
nên môn đệ của Đức Giêsu.
Chứng từ:
được nêu: "Đây Chiên của Thiên Chúa" có ư nói Đức Giêsu là Chiên của Lễ Vượt
Qua; hoặc Người tôi tớ chịu đau khổ cách lặng lẽ như chiên bị xén lông trong
Is 53,7.
Ngày thứ
bốn (?) (cc.40-42):
Người chứng:
là Anrê và Simon.
Chứng từ:
"Chúng tôi đă t́m thấy Vị Cứu Tinh"
Ngày thứ
năm (cc.43-51):
Chứng nhân:
Philip ngỏ lời với Nathanaen.
Chứng từ:
Đấng mà Môsê và các ngôn sứ đă loan báo, chúng tôi đă gặp.
Ngày thứ
sáu
Chứng nhân:
Nathanaen
Chứng từ:
"Ngài là Con Thiên Chúa; Ngài là vua Ít-ra-en."
Ngày thứ
bảy (Ga 2,1-11)
Chứng nhân:
Phép lạ của Đức Giêsu tại tiệc cưới Cana.
Chứng từ:
Đức Giêsu đă mạc khải vinh quang Người cho các môn đệ Người (2,11).
Rơ ràng ông
Gioan Tầy Giả là người chứng nổi bật: ba lần làm chứng với ba chứng từ quan
trọng khác nhau. Tin Mừng Matthêu đă giới thiệu Đức Giêsu là Đấng cứu dân
ḿnh khỏi tội (1,21). Gioan Tẩy Giả đi xa hơn khi làm chứng Người thực hiện
việc xóa tội trần gian với tư cách là chiên của Thiên Chúa để ám chỉ về
người tôi tớ của Thiên Chúa chịu đau khổ để đền tội cho dân (x. Is 53,6-10)
Riêng về bản
thân, ông Gioan Tẩy Giả khẳng định ông chỉ là tiếng người kêu trong hoang
địa (Gz 1,23.27). Oâng không chỉ khiêm nhường nói rằng ḿnh chẳng đáng cởi
quai dép cho Đấng đến sau ông là Đức Giêsu, mà chính ông c̣n giới thiệu đề
hai môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu (c.37). Lời chứng cuối cùng của ông là
Đức Giêsu phải nổi bật lên, c̣n ông phải lu mờ đi (x. 3,30).
Sau Người chứng
Gioan Tẩy Giả, là cả một loạt những người chứng khác xuất hiện nhờ tiếp cận
với Đức Giêsu. Điều được hiểu ngầm là họ cũng phải theo con đường của người
chứng thứ nhất. Cả họ nữa cũng phải theo con đường từ bỏ ḿnh là con đường
mà Gioan Tẩy Giả đă đi, để điều họ làm chứng trở nên đáng tin.
Quả thật lời
chia sẻ của ông Tư Hộ cho thấy lời chứng của ông đáng tin đối với người con
gái của ông v́ chính ông đă đi trên con đường phục vụ trong khiêm hạ là con
đường mà Gioan Tẩy Giả đă đi.
Một số câu
hỏi gợi ư
1. Đọc lời chia
sẻ của ông Tư Hộ, bạn tâm đắc được điều ǵ về điều ông nói: "Tôi hiểu yêu
thương là phục vụ nên phải quên ḿnh đi" và ông đă quên ḿnh như thế nào?
2. Bạn tâm đắc
được ǵ về thư cô Xuyên gởi ông Tư Hộ?
3. Bạn hăy kể
ra những người chứng và những chứng từ của họ về Đức Giêsu trong bài Tin
Mừng hôm nay.
Lm. Augustine, SJ
ChỨng nhân cho
ĐỨc Kitô
Ga 1, 6-8.19-28
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
Chúa nhật 3 Mùa
Vọng gợi lên cho chúng ta hai h́nh ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí
hóa: một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi v́ thời cứu độ đầy khích
lệ, đầy an ủi đă gần kề chúng ta; hai là h́nh ảnh kham khổ, khiêm tốn của
Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan
Tiền Hô là ai vậy ?
Cuộc đời của
các Kitô hữu là cuộc hành tŕnh tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn c̣n
lo âu, vẫn c̣n thử thách, vẫn c̣n tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người
những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hăy vui
lên. Bởi v́ Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm
cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên
Chúa. Tuy nhiên, sự an b́nh chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, ḷng
khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đă nêu gương cho chúng
ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đă
trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa.
THỜI GIAN GIÚP NHÂN LOẠI NHẬN RA LỜI HỨA CỦA THIÊN CHÚA ĐƯỢC THỰC HIỆN
NƠI LỊCH SỬ CON NGƯỜI :
Thời gian là
một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Ḍng
đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân
chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái ǵ đó con người khó ḷng định
nghĩa, khó ḷng xác định. Con người chỉ biết được ḿnh được sinh ra tại một
nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định. Chỉ
có một ḿnh Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của
thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi v́ Ngài sống
trong cơi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cơi vĩnh
cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong
khoảng khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này,
thời gian đă trở thành một thực tại không ai có thể chối căi được. Do đó,
chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào
một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế
giới bắt đầu. Thiên Chúa đă ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu
Thế đă sinh ra bởi ḍng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời
gian nhất định:” Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà
nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến “.
GIOAN TIỀN HÔ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA ĐỨC KITÔ:
Thánh Gioan
trong chương 1,6-8 đă viết: ” Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là
Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông
mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng
“. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng
cho Chúa, Gioan đă là chứng nhân trung thành nhất, kiên tŕ và hoàn hảo nhất
cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng
gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đă sống đời sống hết sức khổ
hạnh, Người đă rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của
Người: ” Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hăy sửa cho ngay đường Chúa đi “
( Ga 1, 23 ). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian
Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối:” Ngài phải lớn lên, c̣n
tôi phải nhỏ lại “. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô
là chủ, là Chúa và là Thầy.
CHÚNG TA CŨNG PHẢI LÀ CHỨNG NHÂN CHO CHÚA:
Như thánh Gioan
Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống
của ḿnh. Bởi v́, Chúa Cứu Thế đă tới trần gian như thánh Gioan viết:” Ngôi
Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1,
9 ). Con Thiên Chúa đă thực sự làm người và ở giữa thế gian:” Người ở giữa
thế gian, và thế gian đă nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người “(
Ga 1, 10 ). Chính v́ thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô
hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan
Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang
sống với, sống v́, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các
Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng: ” Ngôi Lời đă trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đă được nh́n thấy vinh quang của Người, vinh
quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “(
Ga 1, 14 ). Các Tông Đồ đă nh́n thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời
điểm trong cuộc đời trần thế của Người ( Ga 2, 11 và Lc 9, 32 ). Chính các
Tông Đồ đă nh́n thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức
Kitô. Các Ngài đă làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng
như Gioan Tẩy Giả đă làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa
trần gian, chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Giêsu như các Ngài đă làm
chứng.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Chúa đă đến
trần gian, đă chết và sống lại v́ yêu thương con người. Chúng ta đang trên
con đường hành tŕnh lữ thứ, chúng ta phải năng lắng nghe và thực thi lời
Chúa qua đời sống cụ thể hằng ngày. Làm chứng cho Chúa bằng gương sáng và
bằng những hành động bác ái cụ thể trong đời sống mỗi người chúng ta. Bí
tích Thánh Thể là lương thực nuôi sống chúng ta và là bằng chứng chúng ta
tôn kính, thờ lạy và làm chứng cho Ngài.
Lạy Chúa, xin hăy dạy chúng con sống thánh thiện để được rước Chúa và siêng
năng, cần mẫn rước Chúa mỗi ngày. Xin làm cho tâm hồn chúng con trở nên đền
thờ sống động, xứng đáng cho Chúa ngự trị. Amen.
GỢI Ư ĐỂ CHIA SẺ:
1.
Chúa nhật 3 Mùa Vọng day chúng ta những ǵ ?
2.
Tại sao Gioan Tẩy Giả lại là người chứng quan trọng?
3.
hánh Gioan Tiền Hô đă làm ǵ để cho nhiều người nhận ra Chúa Cứu Thế
đến và xuất hiện ?
4.
Thái độ nào chúng ta phải có để làm chứng cho Đức Kitô.
Lm. Giuse Nguyễn
Hưng Lợi,CSsR
Có MỘt NgưỜi Ở
GiỮa Anh Em
Ga 1,6-8. 19-28
Lm. An Phong, OP
Trong mùa Vọng,
ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là : Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan
- người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa
nói ở trên, với một chứng từ rơ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo
Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận
tất nhiên : Gioan nhận ra ḿnh không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.
Cùng với Gioan,
mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là
mùa nhận ra ḿnh không xứng đáng.
Thiên Chúa vốn
là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đă hao tổn biết bao giấy mực để cố
khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng
sinh, người ta mặc sức h́nh dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với
Abraham, Ngài không có tên; Ngài là "sự sợ hăi của Isaác" (St 31,42), là
"Đấng Tối Cao của Giacóp" (St 49,24)... Với Isaia, Ngài là "Người Tôi Tớ đau
khổ"...
Như thế, Ngài
luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho
thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ
ḍ ư tưởng riêng của ḿnh. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời
"tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu"; hoặc "có một người ở giữa anh em
mà anh em không nhận ra".
Như thế, cùng
với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị
Thiên Chúa t́nh yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang
ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ "đứng đường"... bởi
Ngài là t́nh yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.
Như Gioan, nhận
ra ḿnh không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa
t́nh yêu bao la; ta đấm ngực "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nghĩa là
dám nhận ra ḿnh c̣n "những điều thiếu sót", chưa làm những điều phải làm để
gia tăng t́nh yêu. Victor Hugo đă có lần lên tiếng cảnh tỉnh : Ngày nào
chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa t́nh yêu, chắc chắn sẽ có
người chết rét".
Như thế, cùng
với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao t́nh yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng
sống bác ái với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hẳn cũng có lần
con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;
Nhưng h́nh như
con chưa dám "đóng vai Chúa" để đến với những người nghèo khó, khổ đau chung
quanh con. Và h́nh như con chưa nhận ra Chúa là t́nh yêu, Chúa đang mời gọi
t́nh yêu nơi chính tâm hồn của con. Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên t́nh
yêu trong con và đốt nóng tâm hồn của con bằng t́nh yêu của Chúa.
Lm. An Phong, OP
TIN MỪNG GIẢI PHÓNG
Ga 1,6-8. 19-28
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
TIN MỪNG đem
lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu
tại sao Kitô giáo là một đạo Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân
loại. Đức Giêsu đă xuống trần gian để mạc khải t́nh Cha yêu thương hết mọi
người, không trừ ai. Đúng hơn, "Ngôi Lời hằng hữu đời đời đă nhập thể làm
người Á châu," (ĐGH Gioan Phaolô II :VietCatholic:8/12/1999) để đem TIN MỪNG
giải phóng đến cho miền đầy cơ chế bất công nhất thế giới.
DỌN ĐƯỜNG
CHO CHÚA ĐI
Cho đến hôm
nay, Đức Giêsu vẫn c̣n là một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào,
cần phải nh́n Đức Phật, Khổng Tử, Lăo tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho
Chúa đến với dân Người. Nhưng hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn
nhất. Hôm nay "ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người
nhờ ông mà tin" (Ga 1:7). Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh
hưởng. Ông ư thức rất rơ sứ mệnh và vai tṛ của ḿnh. Ông chỉ là trung gian
giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân, chứ không phải là người muôn dân trông
đợi. Bởi vậy khi bị những người thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đă khẳng
định: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : Hăy dọn đường cho thẳng để
Đức Chúa đi" (Ga 1:23; Is 40:3). Những người Pharisêu "cứ gặng hỏi xem Gioan
Tẩy giả là ai, nhưng Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là ai" (Life
Application Study Bible:1991).
Dọn đường cho
Chúa đi vào ḷng người. Chúa là nguồn b́nh an và hoan lạc sẽ đem đến cho
nhân loại một mùa xuân rực rỡ. Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến ?
Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi người : "Có một vị đang ở giữa các ông mà các
ông không biết" (Ga 1:26). Chính v́ thế, vai tṛ Gioan cực kỳ quan trọng.
Ngoài Gioan, không ai có thể thấy được Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa,
Đấng xóa tội trần gian." (Ga 1:29) Ông đă đến như một chứng nhân TIN MỪNG.
Chính ông đă chỉ cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Đức Giêsu.
"Ông không phải
là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng" (Ga 1:8). Chính khi làm
chứng như thế, ông mới giữ trọn được niềm vui cho ḿnh và các môn đệ. Đức
Giêsu đă không hề "dập tắt thần khí" (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả,
ngay cả khi ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái
lại, nhiều lần Người c̣n ca ngợi ông cao trọng "hơn cả ngôn sứ" (Mt 11:9) và
bất cứ "phàm nhân" nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ
bất xứng : "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Ga 1:27).
Đúng thế. Đức
Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa."Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành" (Ga
1:3), trong đó có Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Đấng
Tạo hóa ?! Nhưng "Ngôi Lời đă trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta"
(c.14). Nghĩa là "Người đă đến nhà ḿnh, nhưng người nhà chẳng chịu đón
nhận" (c. 11). Chính v́ thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đă t́m
được niềm vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đă thành công rực rỡ tới mức đổ máu
v́ sự công chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.
NHẬN DIỆN
TIN MỪNG đă bắt
đầu vang lên với chứng từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu
lực từ lúc Đức Giêsu xuất hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh
giải thoát. Thực vậy chính Chúa đă công khai xác nhận "hôm nay ứng nghiệm
lời Kinh Thánh" (Lc 4:21) : "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, V́ Chúa đă xức dầu
tấn phong tôi, Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đă sai tôi
đi công bố Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, Cho người mù biết họ được
sáng mắt, Trả lại tự do cho người bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của
Chúa." (c.18-19; Is 61:1-2).
Từ nay TIN MỪNG
đă trả lại cho tất cả những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ.
Như thế xă hội đă được Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ư
với việc "Phúc Âm hóa Á châu" trong thông điệp "Giáo hội tại Á châu" của Đức
Giáo Hoàng ? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả
thực Giáo hội đang đi ngược ḍng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xă hội đời
sống "công chính, b́nh an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17), Giáo hội
đáp ứng những ǵ các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. "Giáo hội xác tín
rằng trong ḷng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát
"Nước Hằng sống" (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đă tạo ra và
chỉ có ḿnh Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa măn đầy đủ" (Giáo hội tại Á
châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do
thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đă nêu lên được
lư tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ,
chứ không muốn khống chế con người.
Thế nhưng, cho
tới nay vẫn có những "chuyên viên" Phúc Âm hóa "lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin
Mừng với khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu"
(Cuộc tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999).
Lối khống chế đó đă làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu tŕ trệ và thất
bại.
Tuy thế, vẫn
chưa đến nỗi thất vọng. Thực tế "Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trên Á châu
trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và hoạt động c̣n mănh liệt hơn nữa trong
thời Chúa Giêsu và Giáo hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người
Kitô hữu Á Châu, tăng cường bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các
nền văn hóa và tôn giáo của lục địa" (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có
Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của
các dân tộc.
Vậy các dân tộc
Á châu đang mơ ước những ǵ ? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác
nhau, họ muốn thấy công lư ngự trị. Đây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa
tại Á châu. Hơn lúc nào hết, chúng ta cố gắng "thiết lập lại công bằng và
làm cho công bằng được triển nở ở mọi cấp bực xă hội" (ĐGH Gioan Phaolo II:
Nhưng muốn thực
hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lư tưởng Kitô hữu sau đây :
T̀NH YÊU
phục vụ tha nhân,
Sống là TIẾN
BỘ, dấn thân suốt đời.
TÍN THÀNH
sống đạo làm người,
Hồng ân thắp
sáng bầu trời TỰ DO.
Hai vai
TRÁCH NHIỆM 'tiền hô' :
TIN MỪNG cứu
độ, điểm tô Nước Trời.
Lư tưởng đó đă
được Thần Khí khơi dậy nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lư tưởng tuổi trẻ đă bị
vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô cảnh cáo : "Anh em đừng dặp tắt Thần Khí." (1
Tx 5:19) Đặc biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như "trung tâm đời
sống phụng vụ" (ĐGH Gioan Phaolô II : CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào
luyện giáo lư và luân lư cho giới trẻ Kitô hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ
điểm quan trọng để giáo dân "uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống.
Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc
nuôi dưỡng đức tin, "bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong
t́nh thân ái, và duy tŕ nỗ lực chúng ta trên cuộc hành tŕnh dương thế."
(CWNews 25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những
ảnh hưởng văn hoá trần tục. Muốn t́m được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ
"cần phải tiếp tục cuộc hành tŕnh, khởi sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích
Thánh Thể." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần
giáo dân "ư thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng" và sẵn sàng đem sứ điệp Tin
Mừng vào trần gian. Muốn "làm chứng về ánh sáng"(Ga 1:7.8) là Đức Kitô giữa
thế giới ch́m đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh mẽ (ĐGH
Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin Mừng.
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Đơn GiẢn Là
Như ThẾ
Ga 1,6-8. 19-28
Lm. Giuse NguyễnCao Luật, OP
Tôi chẳng
phải là ai cả
Câu chuyện xảy
ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân
Do-thái đă vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang
có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng
đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn
đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết
bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lănh nhận phép rửa ? Con người này
có sứ mạng ǵ mà lời rao giảng của ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị
ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đă im vắng được ba thế kỷ ?
Người Do-thái,
hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đă muốn xác định xem ông
là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của
ḿnh. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết của ḿnh.
Trước hết, họ
muốn biết có phải là Đấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy
giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đă mường
tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ h́nh ảnh cứng ngắc. Trong
thực tế, họ đă có nhiều h́nh ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo
khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lănh đạo dân đang cố gắng kiểm
chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ
cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ đă nêu vấn
đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và đón nhận
phép rửa.
Ông có phải là
ngôn sứ Ê-li-a không ? Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đă
tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn
công nhận ngôn sứ Ê-li-a là một chứng nhân vĩ đại về ḷng tin. Ông đă được
cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng
Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Ê-li-a đă bị mọi người loại bỏ.
Nhưng giờ đây, người ta đă biết ông là ai. Con người xưa kia bị bách hại,
nhưng giờ đây lại được tôn phong.
Người ta vẫn
dựa trên những h́nh ảnh quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có
vai tṛ riêng của ḿnh, và ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.
Đơn giản
là một chứng nhân
Câu trả lời của
ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.
Ông tuyên bố
ông không phải là Đấng Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là
ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta
vẫn chờ đợi.
Ông chỉ là vị
tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai tṛ hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng
ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức
Ki-tô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có
thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.
Cách trả lời
của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho người ta xác định về ḿnh.
Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. V́ vậy, ông là người của
bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan
niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn ḿnh là điểm cần đi qua. Ông làm
chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng
lại soi chiếu cho họ trên con đường của ḿnh. Ông Gioan chỉ muốn ḿnh là
người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào ḿnh. Một thái độ tuyệt
vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Đây cũng là đặc tính của mọi
ngôn sứ Ít-ra-en.
Đàng khác, câu
trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lư lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn
tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta
không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết và quư giá để chỉ cho
mọi người thấy rằng : có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết".
Tuy vậy, phải
nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết rơ về Đức Giêsu. Đang khi
ông d́m người khác trong nước để thức tỉnh và thanh tẩy họ, th́ chính ông
lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng
Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều : "Người
đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người" ; "có người đến sau
tôi nhưng trỗi hơn tôi, v́ có trước tôi" ; ông cũng cảm thấy một sự đứt
đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của
Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà
con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.
Ông chỉ biết
rằng chính ông không phải là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết
điều này rất rơ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành
sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức Ki-tô khi tới thời gian đă được ấn định. Ông
biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh
Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức
Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô h́nh, Thiên Chúa không thể
đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.
Về một
Thiên Chúa đă biết và chưa biết
Không ai thấy
Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được
Thiên Chúa.
Làm thế nào bây
giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nh́n thấy được
? Đấng tự nhận ḿnh là Chân Lư tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt
không thực, Người là ai ? Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng
mặt, Người là ai ?
Các nhà thần
học luôn t́m ra những lư luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn ḿnh để tôn
trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi
chúng ta chết, v.v... Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả măn với những
giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích này cũng
chẳng làm cho những người đă đề ra chúng được thoả măn.
Thiên Chúa là
Đấng không thể hiểu thấu : chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện
không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nh́n rơ
chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người,
tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi
Người.
Như vậy, nếu
Thiên Chúa không để cho cảm giác và lư luận của chúng ta đụng chạm tới
Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính ḷng tin của chúng ta nắm bắt được
Người, thế th́ phải chăng chúng ta bị kết án phải t́m đến Người trong bóng
đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ
chạy theo một ảo ảnh ?
Những câu hỏi
như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được
câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân
trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng
cho Người.
Như ông Gioan
Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một
Thiên Chúa đang ẩn ḿnh nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi
đóng vai tṛ rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu : giới thiệu về Thiên Chúa
đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm
nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người t́m kiếm Thiên Chúa, t́m
kiếm Chân Lư và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn đèn,
thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.
* * *
Thiên Chúa của
tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường. Thiên Chúa của tôi là thế
này : kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.
Người là hữu
thể, nhưng lại là chuyển biến,
Người là những
ǵ đă có, hiện có và sẽ có,
Người là tất
cả, nhưng không có ǵ là Người,
Chúa tôi gây
sững sờ
là Đấng
người ta tin nhưng không thấy,
người ta yêu
mến nhưng không sờ được,
người ta
trông chờ nhưng không nghe theo,
người ta
chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.
(Juan Arias - Thiên Chúa mà tôi không tin,
trang 32)
Lm. Giuse NguyễnCao Luật, OP
ChỨng nhân
Gioan TẨy GiẢ
Ga 1,6-8.19-28
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Gioan Tẩy Giả
là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, v́ ngài là vị
Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến
bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một
điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa
Ki-tô, Ngài đă sống và chết cho vai tṛ chứng nhân của ḿnh.
Ngay những
trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan tông đồ đă cho chúng ta biết
mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy Giả là làm chứng cho Đấng Cứu Thế :
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đă đến để làm
chứng, để chứng thực về Sự Sáng, ngơ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không
phải là Sự Sáng, nhưng là người làm chứng cho Sự Sáng”. Sự Sáng đây là Đấng
Cứu Thế và Gioan đă làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất,
bất vụ lợi nhất, kiên tŕ nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đă làm chứng bằng lời
nói, bằng hành động và bằng máu.
Gioan Tiền Hô
đă làm chứng bằng lời nói : chúng ta biết vai tṛ hay sứ mạng của một ngôn
sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô
đă đóng vai tṛ đó, ngài đă nói những ǵ ? ngài bảo cho mọi người biết :
“Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế,
sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đă có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều,
và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đă chỉ
vào Chúa và nói với dân chúng : “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi
tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để
cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan c̣n cho mọi người biết Chúa Giêsu là
Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa,
đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người : thưởng phạt mỗi người tùy theo
công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan
báo cho mọi người biết : Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu
Thế.
Không những làm
chứng bằng lời nói, Gioan c̣n làm chứng bằng hành động và gương sáng. Chúng
ta biết Gioan là một người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn
năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời
chú ư, tại sao vậy ? bởi v́ ngài chỉ nói sau khi đă làm hay đă sống, đă
kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công của ngài là làm rồi mới nói,
hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đă lấy cuộc đời khổ hạnh để
làm chứng cho người tôi tớ của Gia-vê, ngài đă sống khó nghèo để làm chứng
cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô ngài cũng có
một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu,
không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi v́ ngài biết Chúa
Giêsu mới là vị tân lang của họ, c̣n ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc
cưới mà thôi. Nói rơ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu ngài
không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu ngài
không quên cái tôi của ḿnh, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành bác
ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người
ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh v́ người khác. Tóm lại,
ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là v́ ngài chỉ nói
những ǵ ngài đă sống, đă làm, đă kinh nghiệm : “Lời nói lung lay, gương bày
lôi kéo”, lời nói của Gioan đă làm chuyển biến ḷng người, nhưng đời sống và
gương sáng của ngài đă thuyết phục được mọi người.
Sau hết, bởi v́
Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đă
làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động, ngài c̣n muốn làm chứng bằng
chính máu của ḿnh nữa. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hê-rô-đê
với bà Hê-rô-đi-a, vợ của anh vua, nên ngài đă bị tống giam vào ngục. Bà
Hê-rô-đi-a vẫn chưa hài ḷng, v́ Gioan luôn là mối cản trở cho hành động
ngang trái của bà, bà t́m cách giết cho được Gioan, chính v́ thế mà trong
bữa tiệc mừng sinh nhật Hê-rô-đê, lợi dụng lúc ông đă ngà ngà say, bà xúi
con gái là Sa-lô-mê xin chiếc đầu của Gioan, v́ Hê-rô-đê vui thú trước những
điệu múa của Sa-lô-mê và hứa cho cô bé bất cứ thứ ǵ dù là nửa nước. Thế là
Gioan đă phải chết, ngài đă chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lư
bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài.
Cuộc đời chứng
nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của
một Ki-tô hữu phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa
trong mọi hoàn cảnh : thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đ̣i
chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đ̣i chúng
ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của ḿnh,
nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống
như bông sen giữa bùn lầy, như bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh
hùng như ngài, ngài là một anh hùng của sự thật : suốt đời ngài chỉ sống
theo sự thật và nói sự thật, điều ǵ có ngài chân nhận, điều ǵ không có
ngài nói không.
Chúng ta hăy
kiểm điểm và suy nghĩ : chúng ta có bao giờ nói dối không ? Chúng ta phải
nh́n nhận rằng không những chúng ta có nói dối mà c̣n nói dối nhiều nữa, rồi
nhiều khi chúng ta c̣n ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho
là ḿnh thật thà, thẳng thắn, vô vị lợi…để lấp đầy đi cái thiếu thành thật
của ḿnh. Nếu chúng ta đă sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống
thành thật, có nói có, không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên,
chúng ta phải cẩn thận, v́ sự thật dễ mất ḷng. Chúng ta phải sống thành
thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng
ta phải nói tất cả những ǵ ḿnh nghĩ, ḿnh biết, đức tính này buộc chúng ta
suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hăy nói, mà đă nói th́ không bao giờ nói
sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin
Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn măi.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG.
Jn. 1,6-8. 19-28.
Gp.Vĩnh Long
Anh chị em thân
mến.
Trong thời buổi
kinh tế thị trường của thời đại, nghệ thuật quảng cáo chiếm một vị trí hết
sức quan trọng. Trên đường phố, những nơi nào có thể được là có những h́nh
ảnh giới thiệu những ǵ mà người ta cần đến. Trên TV cũng thế, bất cứ giờ
phút nào cũng có những thông tin cần thiết về những sản phẩm, có khi làm cho
người nghe phải khó chịu. Nhưng lại rất hiệu quả, v́ khi qua những giây phút
khó chịu đó, nó dường như có một chút ǵ c̣n lại nơi người nghe. Không chỉ
có thế, c̣n có những con người mang sản phẩtm đến tận nơi người tiêu dùng,
với những kiểu nói hết sức duyên dáng và thu hút, làm cho người đối diện
không thể nào làm ngơ được. Những người quảng cáo nầy c̣n được goi là nhân
viên tiếp thị, họ chịu trách nhiệm về mặt hàng, họ giải thích hiệu quả và
chỉ cách cho khách hàng xử dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài
ra c̣n có những giải thưởng hết sức hấp dẫn cho người tiêu dùng, khiến cho
mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng tận t́nh.
Chúng ta vừa
lắng nghe một nhân viên tiếp thị, nhưng không phải tiếp thị cho mặt hằng
nào, mà là thông báo và quảng cáo phần thưởng cho những ai biết chuẩn bị chu
đáo để đón mừng Đấng có uy quyền đến với họ. Nhân viên tiếp thị không chỉ
bằng lời nói, nhưng bằng hành động và cả cuộc sống. Một đời sống khiêm
nhường chân thật để làm chứng cho sự thật. Một đời sống thanh thoát để hướng
mọi người về trời cao. Một đời sống khắc khổ để kêu gọi mọi người hy sinh,
chịu khó để dâng cuộc đời cho Chúa. Oâng biết chấp nhận sự thật, quên ḿnh
đi, để hướng mọi người về Đấng Cứu Thê mà ông giới thiệu. Oâng kêu mời mọi
người thay đỗi đời sống cho tốt hơn để xứng đáng chuẩn bị đón chờ Chúa đến.
Oâng cũng làm gương cho mọi người biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, chấp
nhận những ǵ là của ḿnh, để biết sống trọn vẹn và chu toàn trách nhiệm
thật chu đáo.
Những người của
ngày xưa không thể nào ngồi yến bất động, khi nghe thấy những lời mời gọi
của Gioan Tẩy Giả, họ chạy đến với Gioan, nhận phép rửa thống hối. Họ cũng
đến với Gioan để t́m cho ḿnh một con đường sống theo Thánh ư Chúa.
Chúng ta, những
con người của ngày hôm nay, cũng nghe những lời của ngày xưa, cũng gợi lại
trong tâm trí chúng ta h́nh ảnh sống động của một chứng nhân. Nhưng nhân
viên tiếp thị hết sức thuyết phục của ngày xưa, cũng đang dùng hết khả năng
của ḿnh cho những người của ngày nay, không biết có mang lại chút kết quả
nào không?
Mỗi người trong
chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, nhưng chúng ta sống như thế nào? Giờ đây
lời kêu mời lại vang lên một cách sống động và tha thiết. Nếu chúng ta thấy
được ḿnh thiếu thốn về đạo đức, thiếu về ḷng nhân ái, thiếu thốn về nhân
cách làm người mà biết chạy đến với Chúa khi nghe lời kêu mời của Gioan, để
xin Chúa đong đầy những ǵ c̣n thiếu nơi chúng ta.
Nh́n vào gương
làm chứng của Gioan Tẩy Giả, chứng ta cũng quyết là những chứng nhân sống
động như Ngài; khi chúng ta biết làm cho Chúa Kitô hiện điện trong đời sống
của ḿnh thật sự. Đó là những lúc chúng ta biết quên ḿnh mà đến với người
khác để giúp cho họ sống tốt hơn qua những lời nói chân thành, qua sự giúp
đở nhẹ nhàng đối với những ǵ mà người ta cần. Cũng là những lúc chúng ta
nh́n thấy được trách nhiệm, những ǵ phải làm mà không ngần ngại, cho dù
nh́n thấy những khó khăn trước mắt. Trong những lúc chúng ta nh́n thấy những
lợi lộc của trần gian, những niềm vui không phải của ḿnh, chúng ta không
cần đến cũng không t́m cách chiếm hữu nó; những lúc đó chúng ta đă trở nên
một chuyên viên tiếp thị xuất sắc cho chúa Kitô như vị Tiền Hô của ngày xưa.
Khi đó mọi người nh́n vào chúng ta và họ cũng nh́n thấy, cũng lắng nghe được
sứ điệp loan báo về Chúa sắp ngự đến. Khi đó chúng ta không chỉ loan báo
bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống và cả con người của chúng ta. Khi
đó Chúa đă đến thật sự.
Chúng ta cùng
nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, đễ biết nhận ra
Chúa và sống xứng đáng là Chứng nhân trung thành của Chúa trong cuộc sống
đời thường.
Gp.Vĩnh Long
LÀM CHỨNG TRONG NIỀM VUI
Ga 1, 6.8.19 – 28
Gp.Vĩnh Long
Cùng với Giáo
hội chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng của năm Phụng vụ 2009. Với
Chúa nhật này chúng ta đă đi được nửa đoạn đường của mùa vọng năm nay. Chúa
nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Vui mừng v́ ngày Đại lễ
Giáng sinh sắp tới. Ngày đại lễ Giáng sinh nhắc nhớ chúng ta về một niềm vui
trọng đại. Niềm vui con người chúng ta được đón nhận Đấng Cứu Thế Giêsu.
Niềm vui này không thể giữ cho riêng ai mà cần phải được loan báo cho nhiều
người được biết.
Đoạn Tin mừng
hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chứng nhân loan báo niềm vui ấy. Chứng
nhân ấy là Thánh Gioan Tẩy Giả. Mở đầu đoạn Tin mừng Thánh sử Gioan giới
thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm
chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1, 6- 7).
Kế đến, người Do thái muốn biết Gioan là ai th́ ông đă trả lời: “ Tôi là
tiếng người hô trong hoang địa: Hăy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga
1, 23) và “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các
ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai
dép cho Người” (Ga 1, 26b – 27).
Chính trong
niềm vui mà Thánh Gioan Tẩy giả đă ư thức được vai tṛ làm chứng của ḿnh.
Vai tṛ giới thiệu làm chứng cho Đấng Cứu Thế Giêsu. Thánh Phaolô trong bài
đọc 2 cũng đă kêu mời chúng ta hăy vui mừng luôn măi (1Tx 5, 16 ). Thánh
nhân cũng là một trong những người cảm nhận được niềm vui trong Chúa. Do đó,
cả đời thánh nhân từ một con người căm ghét những ai tin vào danh Đức Kitô
trở thành một chứng nhân hăng say rao giảng Đức Kitô.
Đấng Cứu Thế
Giêsu đến trần gian này đem lại cho nhân loại một niềm vui mới. Người ta nói
niềm vui đem chia sẻ th́ niềm vui sẽ nhân đôi. Mỗi người chúng ta chắc chắn
ít nhiều cũng cảm nhận được niềm vui mà Chúa mang đến cho ḿnh. Chúng ta hăy
đem chia sẻ niềm vui ấy cho những anh chị em xung quanh bằng cách sống theo
những ǵ Chúa dạy. Đó là chúng ta đang làm chứng cho Người trong niềm vui.
NIỀM VUI ĐÍCH THỰC
Ga 1, 6-8, 19-28
Gp.Vĩnh Long
Hôm nay chúng
ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, nghĩa là chúng ta đă trải qua hơn nữa
chặng đường của Mùa Vọng. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta hăy vui lên.
Tại sao vậy? Điều ǵ khiến chúng ta cần phải sống tâm t́nh hân hoan như thế?
Vâng, chúng ta có rất nhiều lư do để vui mừng:
Trước hết,
chúng ta vui mừng v́ Chúa đă nhập thể làm người và đă mang lại cho chúng ta
ơn cứu độ. Chúa đă đến và đă hiện diện trong lịch sử nhân loại, mang lại cho
con người hồng ân lớn lao là cứu con người khỏi quyền lực sự chết và phục
hồi cho con người địa vị làm con cái Thiên Chúa. Nhưng có lẽ nhiều người
chúng ta không cảm thấy đây là một vinh dự lớn lao mà lại xem thường v́ thấy
làm con cái Thiên Chúa đâu có hơn ǵ người khác đâu. Quả thật, nếu nh́n theo
phương diện phàm trần th́ được làm con Chúa không hơn và không khác ǵ với
những người khác, thậm chí c̣n phải mang lấy nhiều trách nhiệm hơn những
người khác. Nhưng về phương diện đời sống thiêng liêng, chúng ta đang nắm
giữ một vinh dự quá lớn lao, đang sở hữu một gia nghiệp sung măn và vững
chắc mà không ai trên trần gian này có thể có hay dám nghĩ tới. Chúng ta có
quyền hy vọng như thế v́ Chúa đă ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu của
Ngài rồi th́ không c̣n có ǵ mà Ngài lại từ chối không ban cho chúng ta. Tuy
nhiên, hạnh phúc Nước trời chỉ nằm ở cuối chặêng đường trong hành tŕnh đức
tin của chúng ta. Phần thưởng ấy dành cho những ai hết ḷng tin tưởng và tín
thác vào Thiên Chúa qua nỗ lực sống thánh thiện trong từng ngày sống của
ḿnh. Sống tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa chính là chu toàn sứ mạng
của ḿnh, chu toàn những phận vụ mà ḿnh đă lănh nhận từ nơi Thiên Chúa như
những nén bạc được Thiên Chúa trao ban.
Tin mừng hôm
nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sống niềm vui và sống tín thác vào Thiên
Chúa, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là người sống niềm vui tràn đầy
v́ ngài được kêu gọi làm Ngôn sứ của Chúa và làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế.
Thánh Gioan đă sống hết ḿnh và hết t́nh với nhiệm vụ của ḿnh trong sự
khiêm tốn lạ lùng để làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô và
là Đấng Cứu Độ muôn dân hằng mong đợi. Thánh Gioan đă hạ ḿnh xuống để cho
làm cho Đức Giêsu được sáng lên. Ngài đă nói “Người phải lớn lên c̣n tôi
phải nhỏ lại”. Thánh Gioan làm được điều đó v́ ngài đang mang trong ḿnh
niềm tin yêu và hy vọng vào Thiên Chúa của ngài. Chúng ta cũng cần mang lấy
tâm t́nh đó để sống vui trong từng ngày sống làm Kitô hữu và làm chứng nhân
cho Thiên Chúa.
Chúng ta c̣n
phải vui mừng v́ biết bao những ơn lành người đă ban cho chúng ta trong cuộc
sống hằng ngày. Nhưng đây là điều ít ai trong chúng ta nghĩ tới. Chúng ta
thường có quan niệm coi Thiên Chúa như một vị khách hoà hiệp nào đó, lâu lâu
ghé thăm chúng ta một lần rồi tặng cho chúng ta một món quà nào đó, thấy
cũng vui vui vậy thôi. V́ nh́n Thiên Chúa như thế, cho nên chúng ta không
thấy cần Thiên Chúa trong cuộc đời của ḿnh bao nhiêu: có Ngài cũng được,
không có Ngài cũng chẳng sao. Thậm chí nhiều lúc, chúng ta c̣n nghi ngờ về
sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này khi chúng ta thấy thiên tai,
bệnh tật, bất công, đói nghèo xảy ra nhan nhản trước mắt; khi chúng ta thấy
kẻ ác lại sống sung túc và dư dật, c̣n kẻ lương thiện, hiền lành th́ lại
sống chật vật và bị chèn ép tứ bề. Nh́n thấy nhân t́nh thế thái như vậy th́
làm sao chúng ta vui được? Làm sao chúng ta có thể hân hoan tiến bước trong
đời sống đức tin của chúng ta được? . . .
Tất cả những
điều ấy chỉ có thể giải đáp trong đời sống đức tin mà thôi. Nhưng tắt một
lời là nếu vắng bóng Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta một giây phút
thôi, nếu Thiên Chúa ngưng ǵn giữ vù trụ này một giây phút thôi th́ tất cả
sẽ ra tro bụi hết, sẽ về cơi hư vô hết. Chúng ta cũng cần hiểu biết rằng:
nếu không có cuộc sống đời sau và sự sống vĩnh cửu th́ cuộc đời này sẽ vô
lư, vô nghĩa và nói như Jean Paul Sarte: “Cuộc đời này buồn nôn” vô
cùng. Nhưng chúng ta tin có sự sống đời sau, có thưởng phạt trong cuộc sống
mai sau. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Ngài cũng công bằng vô
cùng: Số phận của con người chúng ta sẽ khác biệt nhau trong cuộc sống mai
sau tuỳ vào lối sống hiện tại của chúng ta. Kẻ dữ, người lành sẽ được Thiên
Chúa tách biệt ra như “mục tử tách chiên ra khỏi dê” vậy. V́ thế, mọi việc
làm của chúng ta ở cuộc đời này cần phải được đặt nền móng trong Thiên Chúa,
trong cuộc sống mai sau. Có như thế th́ chúng ta mới thấy phấn khởi và hân
hoan tiến bước. Chúa Giêsu đă khuyên nhủ chúng ta rằng: “anh em hăy ra
công làm việc không phải v́ lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực
thường tồn đem lại phúc trường sinh, " (Ga 6,27). Nếu chúng ta giữ đạo
chỉ v́ muốn được hạnh phúc ở đời này thôi th́ quả thật đức tin của chúng ta
c̣n non yếu lắm và coi chừng chúng ta là những kẻ khờ dại trước mặt Thiên
Chúa. Chúa không hứa hạnh phúc ở đời này cho bất cứ ai theo Ngài, có hứa
chăng là Ngài hứa cho chúng ta được nên giống Ngài trên con đường Thập giá
để mai sau chúng ta được Phục sinh vinh quang với Ngài trên trời. Chúa nói:
“phúc cho anh em khi v́ Thầy mà bi người ta bắt bớ và vu khống mọi điều xấu
xa”. Chúng ta có dám đón nhận phúc lành của Chúa không? Chúa Giêsu cũng nói
với thánh Phêrô rằng: “Con ráng làm Giáo hoàng cho ngon lành và tốt đẹp nhé,
Thầy sẽ cho con được chết giống như Thầy”. Như vậy, cuộc đời theo Chúa của
từng người chúng ta không nhằm vinh quang ở đời này, không nhằm hạnh phúc
chóng qua ở đời này, nhưng là hạnh phúc lớn lao mai sau. Đó là động lực, là
niềm vui mà Giáo hội mời gọi chúng ta hân hoan đón nhận và tích cực sống đời
sống Kitô hữu của ḿnh.
Chúng ta c̣n
một lư do nữa để vui mừng là chúng ta đang mang trong ḷng một niềm hy vọng
về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Trong sứ điệp Mùa vọng năm nay, Đức
Thánh Cha Bênêđictô mời gọi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng. Như
vậy, sống Mùa vọng là sống niềm hy vọng. Quả thật, đời sống của người
Kitô hữu của chúng ta được đông đầy bởi niềm hy vọng: hy vọng vào vào
t́nh yêu cứu độ của Thiên Chúa, hy vọng vào một tương lai huy hoàng mai sau.
Nói cách khác, niềm tin Kitô giáo của chúng ta được xây trên niềm hy vọng
vững chắc cho cuộc sống mai sau.
Ước ǵ chúng ta
luôn sống vui mừng và hy vọng trong từng ngày sống của chúng ta trong niềm
tin vào Thiên Chúa t́nh yêu qua thái độ sống tích cực, vui tươi với mọi
người, hăng hái làm việc thiện, khát khao t́m gặp Chúa và t́m mọi phương thế
cũng như tận dụng mọi khả năng để làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc đời
chúng ta và trong vũ trụ này. Amen.
LÀM CHỨNG
Ga 1, 6-8, 19-28
Gp.Vĩnh Long
Anh chị em thân
mến,
Chị Rơ Châm
H'Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo
lư tân ṭng th́ bị chính quyền xă gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế,
chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng
khái trả lời: “Tôi chọn theo đạo Chúa.” Thế là bị nghỉ việc. Chị kể
lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đ́nh, con cái đều
sụp đổ… Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo
đă đến xin chị dạy đạo cho họ. Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng
ḿnh; nhưng sau v́ thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy
niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng
đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt
vạ, v́ họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rơ cái được, cái mất
hơn nữa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh mà
theo” ( Mt 16, 24 ). Cũng từ nay, chị nhận ra ḿnh là sứ giả của Tin mừng
cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời
Chúa, mà c̣n để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh.
(Vietcatholic news, 18.01.2003). Đây chính là h́nh ảnh của thánh Gioan nói
trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô. Kính mời cùng suy
niệm…
a/. Gioan
Tẩy giả, trước mắt người phàm:
Thánh Gioan Tẩy
giả được kinh thánh tuyên xưng là vị đại Tiên tri, Đấng Tiền hô đi trước dọn
đường cho Đấng Cứu thế, vậy mà cuộc đời của ngài vinh quang đâu chẳng thấy,
chỉ thấy toàn là long đong, vất vả. Lớn lên nhận được ơn gọi làm chứng nhân,
người tiền phong cho Chúa Cứu thế, thánh nhân đă vào sa mạc sống khắc khổ,
ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng da lông thú. Chính Chúa Giêsu
đă nói về Gioan: “các ông vào sa mạc t́m ǵ? Có phải t́m cây sậy phất phơ
trước gió không? – Không. Hay có phải t́m một người ăn mặc lụa là gấm vốc?
Nhưng hạng người đó lại chỉ ở trong cung điện nhà vua. Vậy có phải các ông
đi t́m một vị tiên tri không? Đúng và c̣n hơn một tiên tri nữa…”(Gn 11, 7-9)
Thánh Gioan là
một tiên tri, một chứng nhân như thế, v́ lời thẳng thắn đă không làm hài
ḷng nhóm tư tế, kinh sư do thái. Thánh Gioan c̣n làm phật ư cả vua Hêrôđê,
đến nổi bị bà Hêrôđiađê dùng mưu mà chém đầu. Trước mặt thế gian, ai cũng
cho là thất bại, là điên rồ. Cuộc đời của các thánh hiển tu, các vị tử đạo
cũng thế. Các ngài bị chê là những kẻ khờ dại, mê lầm, những người không
hiểu biết nên mới chối bỏ vinh hoa phú quí trần gian… Những con người bị
chê; thả mồi bắt bóng… Có đúng như thế không?
b/. Gioan
Tẩy giả, trước mặt TC, là một chứng nhân tận tụy và trung kiên:
“Có người hỏi:
Ông là ai? Có phải là Đấng Cứu thế không? Gioan trả lời: Tôi chỉ là tiếng
kêu trong sa mạc…”(Gn 1, 20-29)
“Tôi chỉ làm
phép rửa cho anh em trong nước; Đấng đến sau tôi, sẽ rửa anh em trong Thánh
Thần và trong lữa…”(Mt 3, 11)
“Khi Đức Giêsu
đến xin Gioan làm phép rửa, Gioan nói: chính tôi mói cần được ngài làm phép
rửa.” (Mt 3, 14).
“Đấng đến sau
tôi, cao trọng hơn tôi; tôi không đáng cởi quai dép cho Người…”(Gn 1, 27)
Thánh Gioan
Tiền hô quả là một chứng nhân tận tụy và trung kiên. Dù là một đại Tiên tri
đi trước mở đường cho Đấng Cứu thế, nhưng rơ ràng ngài khiêm tốn biết bao
khi nói lên chính sự thật này: “tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.Tôi chỉ
rửa anh em trong nước mà thôi…” Một con người sống sau thánh Gioan không bao
lâu, nhỏ hơn ngài cũng không nhiều, cũng đă sống như một chứng nhân tận tụy
và trung kiên như Gioan Tẩy giả, đó là Thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại.Thánh
nhân cũng đă từng nói những lời không khác thánh Gioan là mấy:
“Tôi sống nhưng
không c̣n phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gal 2, 20). “Tôi
biết tôi đang tin vào ai…” (II Tim 1, 12)
“Ước ǵ tôi
chẳng hảnh diện điều ǵ, ngoài thập giá Đức Kitô.”(Gal 6, 14)
“Khốn cho tôi,
nếu tôi không rao giảng phúc âm.”(I Cor 9, 16)
“Ai tự hào, hăy
tự hào trong Chúa.” (I Cor 1, 31)
“Tôi có thể làm
được mọi sự trong Đấng cho tôi được mạnh mẻ.” (Phil 4, 13)
Thánh Gioan TG,
thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, họ là những chứng nhân tận tụy kiên cường
như thế, làm sao chúng ta có thể nghỉ họ là người ngây dại mê muội, không
khôn ngoan?
Câu chuyện:
Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết ḿnh
mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự. Luôn tin
tưởng vào sự Quan Pḥng và T́nh thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến
mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị
phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hăy cứu sống đứa
bé, v́ tôi mong muốn như vậy! Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh
một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi
thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con
yêu mến Chúa”. Bà hưởng thọ 40 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đă
tôn phong bà là Mẹ các gia đ́nh, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994.
Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào
ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46
tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của ḿnh.
c/. Gợi ư
sống và chia sẻ: Thánh Gioan đă là vị đại tiên tri, vậy mà Gioan chỉ
nhận ḿnh là tiếng kêu trong sa mạc, chứng nhân can trường đi trước dọn
đường cho Chúa Cứu thế. Ta có tin nơi lời Gioan nói, tin vào việc ngài làm
không? Nhất là ta có sẵn sàng sống như là chứng nhân cho Chúa Kitô ở giữa
ḷng thế giới hôm nay không?
Gp.Vĩnh Long
LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Ga 1, 6-8, 19-28
Gp.Vĩnh Long
Gioan Tẩy Giả
có một vai tṛ rất đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ v́ thế mà
Thánh sử Luca đă nói về Gioan ngay sau câu giới thiệu tóm tắt quyển Tin
Mừng: “ Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: chiếu theo lời đă
chép trong sách ngôn sứ Isaia: ‘Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con,
người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa, hăy dọn đường
…” (x. Mc 1, 1-4). Gioan Tẩy Giả đến để làm chứng cho sự thật về vai tṛ của
ḿnh, về t́nh thương của Thiên Chúa và về Đấng Cứu Độ đến trong trần gian.
1. Làm chứng
cho sự thật về ḿnh :
Gioan rao giảng
và làm phép rửa sám hối cho mọi người. Khi ông đă nổi danh, người ta thắc
mắc về vai tṛ của ông. Ông có phải là một vị tiên tri như bao vị tiên tri
đă qua đi hay là Đấng Cứu Độ phải đến trong trần gian. Những người đại diện
tôn giáo muốn có tin chính xác về ông nên đă cử người đến gặp ông. Họ hỏi:
“ông là ai?” Ông nói rơ : tôi không phải là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là
Êlia nhưng là “tiếng hô trong hoang địa”. Phái đoàn này gồm những luật sĩ và
biệt phái chắc hẳn hiểu ngay là Gioan ám chỉ ḿnh là Tiền hô cho Đấng Cứu
Thế và phép rửa của ông chỉ là h́nh bóng cho phép rửa chính thức của Đấng
Cứu Thế.
2. Làm chứng
cho t́nh thương của Chúa:
Tên Gioan nghĩa
là Chúa thương. Gioan sinh ra do t́nh thương của Chúa đối với gia đ́nh :
sinh ra trong hoàn cảnh cha mẹ già. Kể cả Giacaria cũng không tin nổi là
ḿnh c̣n có thể sinh con dù ông tha thiết muốn có con! Chính ông làm mọi
người phải để tâm suy nghĩ về hồng ân Chúa ban cho gia đ́nh, và xa hơn nữa
là t́nh thương của Chúa đối với dân Israel. Mỗi lần kêu đến tên Gioan là mọi
người nghĩ ngay đến t́nh thương Chúa.
3. Làm chứng
về Đấng Cứu Độ đă đến trong trần gian:
Gioan khẳng
định ḿnh là tiếng hô trong hoang địa, cũng là cách khẳng định về ơn cứu độ
đang dành sẵn cho dân Israel. Thời kỳ cứu độ đă đến gần. Gioan nói rơ: Đấng
đó đă đến, đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Đấng đó cao trọng
hơn tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Đấng đó là Ngôi lời
Thiên Chúa, là Sự Sáng, c̣n Gioan chỉ là người phàm được Chúa sai đến làm
chứng cho Sự Sáng, giúp cho thiên hạ nhận biết Ngôi Lời và tin phục Người.
Gioan dọn đường
cho Chúa bằng việc làm chứng cho sự thật về ḿnh, về Đấng cứu thế. Đời sống
khổ hạnh của Ngài là lời mời gọi chúng ta hôm nay hăy hoán cải tận đáy ḷng,
thể hiện đức tin của ḿnh bằng những việc làm cụ thể như sống ḥa thuận
trong gia đ́nh, hàng xóm láng giềng, bác ái với mọi người, biết tha thứ cho
những người làm phiền ḷng ḿnh… lời rao giảng và bằng đời sống khổ hạnh.
Chúng ta cũng hăy nối tiếp vai tṛ của Gioan nhắc nhở những người xung quanh
bằng cuộc sống gương mẫu và lời khuyên để họ biết chuẩn bị đón Chúa đến luôn
luôn.
Là con cái
Chúa, chúng ta trả lời mạnh dạn cho mọi người về vai tṛ và niềm tin của
chúng ta hiện nay trong thế giới, ư thức về bổn phận của ḿnh đối với việc
truyền giáo và sống đạo, để xứng đáng với t́nh thương của Chúa trên mỗi
người chúng ta. Ngay khi làm được nhiều việc Chúa trao, chúng ta cũng hăy
biết vai tṛ của ḿnh chỉ là người dọn đường và biết nói như thánh Gioan
Tiền Hô: để Chúa lớn lên c̣n tôi nhỏ đi.
CHÚA NHẬT HỒNG
Ga 1, 6 – 8 , 19 – 28
Gp.Vĩnh Long
Chúa Nhật hôm
nay được gọi là : “Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật Vui”. Đây là một niềm vui rất
to lớn và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân
hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này chúng ta được nghe trong Lời Chúa hôm nay :
“Anh chị em hăy vui lên trong Chúa.! Tôi nhắc lại một lần nữa : Anh chị em
hăy vui lên v́ Chúa đă đến gần!...”. Niềm vui này là một niềm vui được ơn
Chúa cứu độ, niềm vui được an b́nh, niềm vui được hạnh phúc! Vậy th́ chúng
ta phải sống như thế nào trong Mùa Vọng này, để hưởng được trọn vẹn hạnh
phúc Chúa ban.?
Chuyện kể rằng
Có một Ông Vua kia lúc nào cũng lo âu, mặc dù sống trong quyền lực và nhung
lụa sung sướng nhưng ông không có hạnh phúc, không biết cách nào để có được
hạnh phúc. Nhà Vua gọi các nhà khôn ngoan lại bàn hỏi xem làm thế nào trút
bỏ những âu lo đang đè nặng tâm trí Vua đến nỗi Vua không thể nào có được
một cuộc sống hạnh phúc? Nhà thông thái trả lời: “ Chỉ có một cách duy nhất
để giúp nhà Vua . Đó là Vua phải mặc chiếc áo của người có hạnh phúc thật
sự!”. Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để t́m kiếm một người đang mặc
chiếc áo hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào được hỏi đến cũng có lư do để đau
khổ, buồn sầu,.. một điều ǵ đó đă cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng th́
họ cũng t́m một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin này ngồi
mĩm cười ở giữa chợ và tự xưng ḿnh là người hạnh phúc nhất, không có một
điều ǵ buồn rầu, lo âu. Sứ giả của Nhà Vua nói với người ăn xin về điều Nhà
Vua cần mặc chiếc áo hạnh phúc ấy, và hứa trả cho người ăn xin một món tiền
thật lớn để mua chiếc áo hạnh phúc ấy. Chúng ta nghĩ sao? Anh chàng ăn xin
này có đồng ư bán chiếc áo hạnh phúc của ḿnh không? Chúng ta có biết phản
ứng của người ăn xin ra sao không ? Không nín được cười , người ăn xin bật
cười to lên và nói rằng: “ Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài ḷng
Nhà Vua được. V́ tôi chẳng có chiếc áo nào cả!!!”. Vâng người hạnh phúc nhật
trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả!!!
Bài Tin mừng
hôm nay Ga 1, 6 – 8 , 19 – 28 cho chúng ta thấy nhiều người kéo đến với
Gioan Tiền Hô để t́m kiếm hạnh phúc. Và ông cũng đă vạch ra cho họ những con
đường trong chính cách sống của ông để họ thực sự hạnh phúc khi họ biết tin
vào Đấng Cứu Thế đang đến gần. Đó là những con đường như:
Con đường
sống khổ hạnh : Gioan sống ần dật trong samạc. Sống trong samạc đồng
nhĩa với sống khổ hạnh: sống trong sự khắc nghiệt của thời tiết, trong sự
hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ. Sống khó nghèo , đơn sơ đạm bạc: mặc
áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng.
Con đường
sống khiêm nhường : Gioan từ chối vinh quang mà người ta ban tặng cho
ḿnh. Ông thành thật nhận ḿnh không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là “tiếng
kêu trong sa mạc”, không đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.
Con đường
sống trung thực : Gioan đến để làm chứng về ánh sáng. Trung thực với sứ
mạng của ḿnh, một mặc ông chỉ cho chúng ta thấy ánh sáng thật là ai, mặc
khác khi có người lầm tưởng ông là ánh sáng ấy th́ ông thẳng thắn phủ nhận.
Trung thực về những lời nói về ḿnh nên ông không nhận vinh quang mà người
ta lầm tưởng ban tặng. Trung thực với ḷng ḿnh nên Ông sống khổ hạnh, không
phô trương, không giả dối,... Trung thực trong phán đoán nên ông thẳng thắn
khuyên Vua Hêrôđê không được lấy chị dâu
Con đường
sống quên ḿnh : nh́n nhận là người đưa tin nên ông quên ḿnh để cho Đức
Giêsu nổi bật lên. Ông tự hủy ḿnh để Đấng Cứu Thế được nhận biết.
Tóm lại Gioan
Tiền Hô là một chứng nhân tuyệt hảo, Ông là chứng nhân của ánh sáng, chứng
nhân của hy vọng, của hạnh phúc. Ông là làm chứng cho sự sáng thật là Đức
Kitô.
Mùa vọng này,
mọi ngướ đang chờ Chúa đến, Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho người
khác, Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Thế nhưng rất nhiều khi thay v́
mở đường cho Chúa, chúng ta chỉ lo mở đường cho chúng ta. Hay thay v́ làm
chứng cho Chúa th́ chúng ta làm chứng cho ta....
Hôm nay Chúa
mời gọi chúng ta hăy nh́n vào tấm gương của Gioan Tiền Hô để biết cách dọn
đường cho Chúa ngự đến bằng đời sống chứng tá là “ để Chúa lớn lên” và để
cho chúng ta biết đường t́m đến hạnh phúc đích thực.
Xin Thánh Gioan
giúp chúng ta sống trong ánh sáng Của Chúa Cứu Thế để chúng ta được hưởng
trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.
Gp.Vĩnh Long
KHIÊM NHƯỜNG
Ga 1,6-8 . 19-28.
Gp.Vĩnh Long
Người ta thường
ví Gioan Tẩy Giả như một ngọn đèn biết tỏa sáng và biết mờ đi một cách đúng
lúc. Có những lúc ông tỏa sáng đến nỗi người ta hiểu lầm ông là Đấng Kitô
màDân Do Thái đang trông chờ, cho đến ngày nay người ta vẫn đang trông đợi
Đấng Kitô. V́ bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải
phóng. Có người c̣n hy vọng Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Khi
ông phủ nhận ḿnh không phải là Đấng Kitô th́ họ lại lầm tưởng là Eâlia. Đối
với họ Ê-li-a phải đến trước Đấng Messia Người ta c̣n tin rằng chính Ê-li-a
xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đă được xức dầu.
Nhưng Gioan Tẩy Giả đă phủ nhận tất cả những vinh dự đó.
Vậy, Gioan Tẩy
giả là ai? Ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa hay nói đúng hơn ông chỉ là
người cởi giày cho Đấng đến sau ông mà thôi. Một mẫu người cho đi, một mẫu
người lănh đạo, một mẫu người với tinh thần phục vụ biết làm đúng công việc
của ḿnh. Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền
đạo, các giáo sư đều phải nên như thế, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón
tay chỉ nhà vua. Ông muốn mọi người hăy quên ông, chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.
Điều ngạc nhiên
hơn nữa là phép rửa do tay người làm th́ không dành cho Israen mà chỉ dành
cho những người ngọai nhập vào Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo
khác, mới tin theo đạo Do Thái . Một người Israen không bao giờ chịu phép
rửa, họ đă thuộc về Chúa Giavê, nên không cần rửa sạch nữa. Nhưng những
người ngoại bang đến gia nhập Do Thái giáo th́ phải chịu rửa sạch bằng phép
rửa. Gioan Tẩy Giả đă bắt dân Israen làm một việc mà chỉ có dân ngoại mới
phải làm. Ông có ư nói tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan
tẩy Giả tin, nhưng ông đă không trả lời trực tiếp.
Ông nói: “về
phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà
các ngươi không biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy
Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, mở dây giày là công việc
của một người nô lệ. Một ngạn ngữ của các ra-bi bảo rằng môn đệ có thể làm
cho thầy ḿnh bất cứ việc ǵ một đầy tớ phải làm ngoại trừ việc “cởi dây
giày”. Việc đó quá hèn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dầu vậy, Gioan Tẩy Giả
ngụ ư: “Với Đấng đang đến th́ cả việc làm đầy tớ cho Ngài cũng không xứng
đáng”.
Chúng ta phải
hiểu là lúc đó Gioan đă làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đă nhận ra
Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ư đó một lần nữa, và ngụ ư: “Nhà Vua đang đến, để
chuẩn bị đón Ngài , các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại
bang nào. Hăy dọn ḿnh sửa soạn để đi vào lịch sử của nhà vua”. Chức vụ của
Gioan Tẩy Giả là chức vụ dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được đều
đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Gioan tẩy Giả là tấm gương lớn
về con người sẵn sàng xóa ḿnh đi để người ta chỉ nh́n thấy Chúa Giêsu . Ông
nhận thấy ḿnh là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa,
Nguyện Chúa ban cho chúng con ơn biết quên ḿnh, chỉ nhớ đến Chúa Giêsu
thôi. Và nhất là trong mùa vọng này chúng con luôn biết hướng về Ngài. Amen.
Gp.Vĩnh Long
NgưỜi Làm
ChỨng
Manna
X
LỜi
Chúa:
Ga 1, 6-8.19-28
6
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. 7 Ông đến để
làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8
Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
19
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số
tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" 20 Ông tuyên bố
thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". 21
Họ lại hỏi ông: "Vậy th́ thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói:
"Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." 22
Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi c̣n trả lời cho những
người đă cử chúng tôi đến? Ông nói ǵ về chính ông?" 23 Ông nói:
"Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hăy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa
đi, như ngôn sứ I-sai-a đă nói". 24 Trong nhóm được cử đi, có mấy
người thuộc phái Pharisêu. 25 Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm
phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay
vị ngôn sứ?" 26 Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong
nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 27
Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." 28
Các việc đó đă xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm
phép rửa.
X
Suy
NiỆm
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ làm chứng
được dùng đến bốn lần. Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để
làm chứng (x. c.6-7).
Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông
Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).Gioan không làm chứng
cho ḿnh hay về ḿnh, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn
(Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa,
tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lănh đạo tôn giáo cử một phái
đoàn đến t́m hiểu con người ông. Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai ?
Gioan đă đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" -
"Không phải" - "Không".
Những tiếng không dứt khoát và trung thực. Ông không nhận những danh hiệu
người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn
Sứ phi thường như Môsê.
Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về
ḿnh khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất. Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai
?
Gioan đă định nghĩa ḿnh là một tiếng hô trong hoang địa,
là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô. Ông biết rơ ḿnh là người
đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng
(Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô,
ông nhận ḿnh không xứng. Gioan tự xóa ḿnh trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất
uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nh́n nhận phép rửa của ông chỉ nhằm
chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần. Gioan không ngại giới
thiệu môn đệ ḿnh theo Đức Giêsu, và ông b́nh an khi người ta đổ xô đến với
Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan? Ông từ bỏ trong
niềm vui hồn nhiên.Ông hạnh phúc v́ ḿnh đă hoàn thành sứ mạng.
"Người phải lớn lên, c̣n tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30). Sự khiêm hạ làm cho
lời chứng của Gioan đáng tin hơn.
"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông
không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người. Con người vẫn khắc
khoải đi t́m những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đă đến từ 2000
năm. Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ
đang t́m kiếm.
X
GỢi Ư
Chia SẺ
·
Giới trẻ hôm nay say mê các
ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao... Theo ư bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu
có thể làm cho giới trẻ say mê?
·
Đức Giêsu có phải là mẫu người
lư tưởng của các bạn trẻ không?
·
Gioan là con người siêu thoát.
Ông không t́m ḿnh, ông vượt lên trên cái ṿng danh lợi. Bạn có quen biết ai
làm chứng tuyệt như Gioan không?
X
CẦu
NguyỆn
Chỉ mong tôi chẳng c̣n ǵ, nhờ thế Người là
tất cả của tôi. Chỉ mong ư muốn trong tôi chẳng c̣n ǵ, nhờ thế tôi cảm thấy
Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người t́nh yêu trong
mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng c̣n ǵ, nhờ thế tôi không
bao giờ muốn tránh gặp Người. Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng c̣n ǵ,
nhờ đó tôi gắn bó với ư muốn của Người và thực hiện ư Người trong suốt đời
tôi. (R. Tagore)
Manna
NiỀm Vui
Is 61,1-2a.10-11; 1Thes 5,16-24; Ga.
1,6-8.19-28
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
I. Phúc Âm:
Ga 1, 6-8. 19-28
"Giữa các
ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết".
Có người đă
được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự
sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ
làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ
Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông
liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là
Đấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là ǵ? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả
lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp:
"Không phải".
Họ liền bảo: "Vậy
ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng
là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hăy sửa cho ngay đường
Chúa đi, như tiên tri Isaia đă loan báo". Và có những người thuộc nhóm biệt
phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Đức Kitô,
cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?"
Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Đấng
mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đă có
trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra
tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
II. Suy NiỆm Niềm Vui
"Hăy vui lên,
hỡi anh em, hăy vui lên! Hăy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, v́ đó là thánh
ư Người về tất cả anh em trong Đức Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của
Thánh Thần" (1Thes 5,16-17).
Lời thánh
Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công
bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng này.
Trong lúc chờ
đợi Đức Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu
gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Yoan Tẩy giả đă làm
chứng, khi ông nói về vai tṛ tiền hô của ḿnh đối với Đấng Cứu thế.
"Niềm vui của
tôi là được nghe tiếng Ngài.
Niềm vui của
tôi đă sung măn.
Ngài phải
lớn lên, c̣n tôi phải nhỏ dần đi"(Gioan
3,29-30)
1. Giáo Hội
Kêu Gọi Chúng Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?
Theo kinh
nghiệm thông thường, vui là khi một ước vọng của ta được toại nguyện; khi ta
thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước
đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người
thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một lời, ta vui khi ḷng ta đang
trống mà được lấp đầy.
2. Niềm Vui,
Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị Là Trạng Thái Của Con Người Được Thiên Chúa
Đổ Đầy Thánh Thần. Bài sách Isaia hôm nay (Is 61,1-2a.10-11) phác họa cho ta
h́nh ảnh Đấng Thiên Sai được Thánh Thần xức cho dầu hoan lạc: "Thánh Thần
Chúa ngự xuống trên tôi... Ngài sai tôi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Năm hồng ân
trong Cựu Ước - mà Năm Thánh là điệp ảnh - quả là một sáng kiến độc đáo
Thiên Chúa đề ra cho Dân Ngài. Nó là khoảng thời gian đặc biệt nhắc cho mọi
người nhớ rằng: tất cả những ǵ ḿnh có đều là do Thiên Chúa ban, và mọi
người phải nghĩ đến quyền lợi của kẻ khác: bởi v́ mọi người đều có quyền
sống tự do và hưởng dùng tài nguyên trên mặt đất. Năm hồng ân làm nổi bật,
nguyên tắc công bằng và quyền b́nh đẳng của mọi người trước mặt Thiên Chúa
(Lêvi 25,1-55).
Mở đầu cuộc đời
công khai, Đức Yêsu đă đọc cho mọi người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong
hội đường Nadarét. Và Ngài kết luận: "Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đă thực sự
ứng nghiệm cho anh em" (Lc 4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng "loan
báo Tin Mừng cho những người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những tấm
ḷng tan nát, công bố ân xá cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những
người bị áp bức" (Is 61,1-2; cf Lc 4,18-19).
Đó là những
quyền căn bản của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của
ḿnh và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và b́nh
đẳng. Nhưng hơn thế nữa, sứ mạng cứu thế của Đức Yêsu Kitô c̣n nhằm biến đổi
mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Điều quan trọng hơn cả trong Tin
Mừng Ngài mang đến cho chúng ta là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người liên
đới với nhau như một cộng đoàn hợp nhất, thánh thiện và ḥa b́nh. Sứ điệp đó
thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xă hội công b́nh và
huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh
Đức Yêsu Kitô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm 8,14-17).
Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo choàng công
chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh Phaolô họa lại bằng lời nguyện cầu "xin
Thiên Chúa b́nh an thánh hóa anh em" (1Thes 5,23). Niềm vui Đức Yêsu Kitô
mang tới cho ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.
3. Sứ Điệp
Tin Mừng Là Thế - Sứ Điệp Đấng Thiên Sai Là Thế Nhưng người Kitô hữu
chúng ta phải làm ǵ để nhận được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: "Anh em
đừng dập tắt tác động của Thánh Linh" (1Thes 5,19) v́ chính Thánh Thần làm
nảy sinh mọi sự tốt đẹp, mọi hoa quả nhân đức "bác ái, hoan lạc, b́nh an,
cao thượng, tận tâm, nhân từ, tín thác, hiền lành, tự chủ" (Gal 5,22-23), và
"đâu có Thánh Thần, đấy có tự do" (2Co 3,7). Đặc điểm của thời đại Đấng
Thiên Sai là Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm cho mọi tâm hồn
chan chứa niềm vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được Ngài chúc phúc
và ban ơn cứu độ.
Nhưng hạng
người được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm là những người nghèo (xem Lc 2,24).
Họ được, Ngài chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3) và Tin Mừng cũng được loan báo
trước tiên cho họ (Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa ban đầy hồng ân, v́ ḷng họ
sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Những người tiếp xúc với Đức Yêsu thuở Ngài
c̣n thơ ấu; cũng như khi Ngài hoạt động công khai đều là những con người
nghèo hèn bé mọn của Yavê: Yacaria, Isave, Maria, Giuse, đám mục đồng,
Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm môn đệ và đoàn dân nghèo theo Ngài để đi
giảng. Đó là một xă hội nghèo của Ngài và từ đó phải trở thành Giáo hội của
người nghèo; một Giáo hội nhẹ ḷng với của cải trần gian, ít bận tâm về
những điều vật chất, để được thanh thoát và mở rộng tâm hồn đón nhận tác
động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những con người tự do.
Hai tâm hồn
tiêu biểu nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều
nghèo nhưng cả hai đều tràn đầy Thánh Thần và v́ thế, ḷng các ngài chan
chứa niềm vui. Riêng niềm vui của Đấng Tiền hô thật là sung măn: bởi đă nghe
tiếng Chúa Cứu Thế, được làm người dọn đường cho Ngài, để chỉ Ngài cho thiên
hạ thấy, rồi vui vẻ rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần đi để Ngài được
lớn lên (Gioan 3,29-30).
Người Kitô hữu
cũng phải mang đầy niềm vui như Gioan Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của
con người ư thức trách nhiệm, trung thành chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi
Thiên Chúa đă dành cho.
Mà ơn gọi và sứ
mạng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng để sống đến cùng những đ̣i hỏi của
ơn gọi ḿnh, người Kitô hữu cũng phải như Đức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật
thiết với Đấng Cứu Thế. Bởi vậy, khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng
nói thêm: "Anh em hăy cầu nguyện không ngừng" (1Thes 5,16).
Đó là điều kiện
cần thiết mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh
Thiên Chúa. Và ai có những lần đă thực sự cầu nguyện, th́ cũng đă cảm nghiệm
được niềm vui thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.
III. Bài GiẢng
Thấy Gioan xuất
hiện, dân Dothái ngày xưa đă hân hoan rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố:
sắp có Đấng cao trọng hơn ông đến, họ c̣n vui mừng hơn nữa. V́ thế, Chúa
nhật thứ ba mùa Vọng là Chúa nhật hân hoan vui mừng.
Chúng ta hăy
vui mừng, không phải chỉ v́ đang được nghe lại tiếng kêu của Yoan. Ngày xưa
dân Dothái đă hân hoan khi thấy Gioan xuất hiện. Tên ông đă gợi lên niềm tin
rồi, v́ Gioan có nghĩa là "Thiên Chúa đoái thương". Ngài không c̣n ngoảnh
mặt đi nữa, nhưng đă bắt đầu nh́n lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả
thật, đang có nhiều hy vọng vươn lên. Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng;
người ta chen nhau lội xuống nước, thú nhận tội ḿnh, để được ông rửa cho.
Gioan này thật là vị tiên tri vĩ đại. Chúa gửi người đến cho dân, để sửa
soạn ǵ đây. Dân Chúa cảm thấy phấn khởi v́ sự hiện diện của Gioan Tẩy giả,
với phong trào đạo đức mà ông đang khơi động.
Ngày nay chúng
ta cũng có thể phần nào vui lên như thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như
ở nơi Giáo hội Việt Nam đang nổi lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta
đi lễ nhiều hơn trước, rước lễ đông hơn trước, say sưa học giáo lư và dường
như thấy rơ niềm tin lúc này là nguồn an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều
nơi, người ta c̣n được chứng kiến nhiều buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các
phong trào đạo đức đó như đang làm cho bộ mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến
nhiều người có thể hân hoan nghĩ rằng: tất cả những ǵ đang xảy ra có thể là
cơ hội thanh tẩy Giáo hội và giúp Giáo hội vươn lên trong sự công chính và
thánh thiện thật.
Nhưng cũng như
dân Dothái ngày xưa, chúng ta đừng chỉ vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy
Yoan xuất hiện, dân Chúa như đă muốn vui luôn trong ánh sáng của người.
Nhưng Phúc Âm hôm nay cho ta thấy: Yoan bảo dân chúng phải nh́n xa hơn nữa.
Ông chỉ rửa trong nước thôi; sắp có Đấng đến sau để rửa dân trong Thánh
Thần. Chính Ngài mới là Đấng Kitô Cứu Thế và ông không đáng cởi dây giày cho
Ngài... Chúng ta ngày nay cũng phải cẩn thận, đừng dừng lại ở những hiện
tượng lạc quan như trên đă nói. Phải đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt qua mọi
h́nh thức, cho dù rất đạo đức, để t́m gặp chính Chúa Kitô. Nhiều người trong
ta có lẽ c̣n giống nhóm Biệt phái và Dothái. Các nhóm này, ngày xưa, chỉ
muốn dừng lại ở Yoan, ngưỡng mộ ông và coi ông như Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu
ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy được, ở các buổi
phụng vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lư để thuộc chứa
không để sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để thêm sức sống
đạo ở giữa đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải đi xa hơn,
vượt qua những hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống với
Ngài.
Chúa Kitô, theo
bài đọc I hôm nay, là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được
xức dầu Thánh Thần, rồi được sai đem Tin Mừng cho người nghèo khó; và công
bố khắp nơi năm hồng ân của Thiên Chúa... Ngày nay, Chúa cũng đang muốn t́m
được những sứ giả như vậy ở giữa chúng ta. Ngài muốn cho cả Giáo hội của
Ngài được xức dầu hoan lạc để luôn luôn công bố cho mọi người biết Tin Mừng
Chúa đến cứu độ trần gian. Ngài muốn cứu mọi người từ tận căn, tận rễ, từ
những người đang nghèo khổ, bất cứ về phương diện nào, để đời sống trở thành
như năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy, tinh
thần của ngày Chúa nhật hôm nay, đ̣i ta phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu
năo. Phải đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi ḷng
đau khổ và tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh
không phải là quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo phần rỗi và công chính để
hoan hỷ đem tin vui đến cho mọi người.
Và tin vui
của Đức Kitô là ǵ?
Như lời sách
Isaia viết: Ngài muốn "đem hân hoan đến cho người nghèo, băng bó những tâm
hồn đang đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày". Ngài muốn nhờ ta
bây giờ làm những công việc ấy, để khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như
được hồng ân của Chúa viếng thăm.
Thánh Phaolô
trong bài thư hôm nay cũng vạch ra cho ta con đường thực tế để sống đạo theo
tinh thần nói trên. Ngài bảo ta trước hết phải lạc quan: "Anh em hăy vui
mừng luôn". Rồi hăy có tinh thần cầu nguyện để nh́n thấy thánh ư Chúa trong
mọi việc. Đừng dập tắt Thánh Thần của Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của
Chúa hằng vang lên trong mọi sự xảy đến hằng ngày cho ta, hăy duyệt lại tất
cả: bỏ cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát triển mọi điều tốt gặp được.
Như vậy chúng
ta sẽ đi vào đường lối của Đức Kitô, sẽ sống như Ngài trong cuộc đời trần
gian: Ngài đă mặc lấy thân phận y hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài
đă chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài
cứ nh́n vào những người nghèo khó và khổ sở ở đời để t́m cách kéo gỡ họ ra
khỏi thân phận đau thương. Chính v́ vậy Ngài đă trở thành Cứu thế và ban ơn
Cứu độ.
Giờ đây trên
bàn thờ Ngài muốn cử hành mầu nhiệm cứu độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu
gọi chúng ta đi vào, dâng ḿnh kết hợp với Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào
ḷng ta để tiếp tục làm những hành vi cứu độ trong đời sống và qua đời sống
của ta. Ta hăy nhiệt tâm đi vào mầu nhiệm thánh lễ này.
Đức Yêsu Là
Người Thực
Tôi dám nói
rằng: Nếu tôi không nhận biết Chúa Kitô th́ đối với tôi, "Thượng đế" sẽ là
một danh từ vô nghĩa. Nếu không có ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường
tượng một hữu thể vô hạn. Thiên Chúa của các triết gia và những nhà bác học
sẽ không giữ vai tṛ nào trong đời sống luân lư của tôi. Thiên Chúa đă phải
hạ ḿnh xuống trong nhân loại, và trong một giờ khắc rơ rệt của lịch sử, tại
một địa điểm xác định trên địa cầu, một người được tạo nên bằng huyết nhục,
đă phải tuyên bố mấy lời và làm một vài cử chỉ th́ tôi mới quỳ gối thờ lạy.
Nếu Chúa Kitô đă không phán: "Lạy Cha chúng con..." th́ không bao giờ tự
ḿnh tôi có ư niệm về t́nh nghĩa tử này. Lời kêu cầu ấy đă không khi nào tự
đáy ḷng tôi thốt ra trên môi. Tôi chỉ tin cái ǵ tôi đụng chạm và nom thấy,
cái ǵ sát nhập vào bản thể tôi. Và chính v́ thế, tôi đă tin Chúa Kitô. Tất
cả những khuynh hướng muốn giảm bớt thân phận con người nơi Chúa Kitô sẽ đi
ngược với một ư hướng sâu thẳm nhất của tôi. Có lẽ v́ thế mà tôi vẫn không
thích nh́n dung nhan Chúa Kitô Vua và Đấng Thiên Sai toàn thắng bằng h́nh
ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà qua việc bẻ bánh trong quán trọ
làng Emmau các lữ khách đă nhận ra. Người là người anh mang đầy thương tích
và là Thiên Chúa của chúng ta.
Francois Mauriac Vie De Jésus
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm