CN III MÙA VỌNG B

Mc. 1, 1 - 8

14-12-2008

Ông Gioan, người làm chứng ....Lm. PX Vũ Phan Long, ofm           02

CN III mùa vọng............................Lm. Ignatio Hồ Thông                  10

Vui mừng ví Chúa sắp đến..........Lm Carolô Hồ Bặc Xái                   20

Chúa đến mang lại niềm vui  ......Lm Giuse Đinh Lập Liễm                   30

Ông có phải là đấng Cứu Thế.....Lm  Mark Link, SJ                          39

CN III Mùa Vọng B........................Lm  Augustine, SJ                                    43

Chứng nhân cho Đức Kitô..........Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR      49

Có một người ở giữa anh em.....Lm.  An Phong, OP                        56

Tin mừng giải phóng ..................Lm Giuse Đỗ Vân Lực, OP                         58

Đơn giản là như thế.....................Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP    62

Chứng nhân,Gioan Tẩy giả........Lm Giacob Phạm Văn Phượng, OP 67

CN III Mùa Vọng B.......................Gp Vĩnh Long                                71

Làm chứng trong niềm vui........Gp Vĩnh Long                                  74

Niềm vui đích thực...... ..............Gp Vĩnh Long                                 75

Làm chứng. ................................Gp Vĩnh Long                                79

Làm chứng cho sự thật .............Gp Vĩnh Long                                 83

Chúa nhật hồng...........................Gp Vĩnh Long                                85

Khiêm nhường............................Gp Vĩnh Long                                88

Người làm chứng......................Manna                                             90

Niềm vui......... ...........................Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm              93

Ngôi lời nhập thể và ơn cứu ...Lm. PX Vũ Phan Long, ofm   ............102

 

 

 

 

ÔNG GIOAN, NGƯỜI LÀM CHỨNG

Gioan 1,6-8.19-28

 

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

 

I. NgỮ cẢnh

Tin Mừng IV có một Mở đầu trong đó có Lời Tựa là một bài suy niệm cao sâu về mầu nhiệm Ngôi Lời (1,1-18), và Các chứng từ về Đức Giêsu, do Gioan Tẩy Giả, Anrê và Natanaen nêu ra (1,19-51). Bản văn được đọc trong Phụng vụ hôm nay gồm một đoạn nhỏ trích từ Lời Tựa (1,6-8) và đoạn đầu trích từ Các chứng từ (1,19-28).

 

II. BỐ cỤc

Bản văn có thể chia thành hai phần:

          1) Gioan là người làm chứng (1,6-8);

          2) Gioan làm chứng (1,19-28):

a) Làm chứng cho phái đoàn sứ giả (1,19-23),

b) Làm chứng cho người Pharisêu (1,24-28).

 

III. Vài điỂm chú giẢi

- lời chứng (19): Điểm đáng lưu ư nhất, đó là tác giả đă chọn ra từ trong ngôn ngữ thuộc ngành tư pháp từ ngữ “lời chứng/làm chứng” (martyria: 14 lần trong Ga; 4 lần trong TMNL: Mc 14,55.56.59 và Lc 22,71; cả 4 lần này đều thuộc về cuộc xử án Đức Giêsu), và đă dùng từ đó mà mở ra hoạt cảnh này, cùng với động từ tương ứng là “làm chứng” (martyreô: 33 lần trong Ga; 2 lần trong TMNL). Cũng ghi nhận rằng các từ ngữ martyria và martyrein xuất hiện trong đa số các chương của TM IV ngoại trừ các ch. 6, 9, 11, 14, 16, 17 và 20; tuy thế, các chương này cũng nói đến “làm chứng”. Các TMNL ưa dùng các từ như “công bố” (kêryssô) hoặc “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai). Rất có thể tác giả TM IV đă dùng ngôn ngữ tư pháp do hoàn cảnh trong đó ngài viết Tin Mừng (giữa hoặc cuối những năm 90 [?], lúc mà quan hệ giữa người Do-thái và các Kitô hữu khá căng thẳng: x. Ga 9,22; 12,42; 15,26–16,2).

 

- người Do-thái từ Giêrusalem (19): Bởi v́ họ có thể cử các tư tế và các thầy Lêvi đi, hẳn “người Do-thái từ Giêrusalem” chính là giới lănh đạo Do-thái giáo.

 

- ông tuyên bố thẳng thắn (20): dịch sát là “ông không chối”.

 

- vị ngôn sứ (21): Đây chính là dung mạo ngôn sứ được hứa trong Đnl 18,18.

 

- cởi quai dép (27): Đây là công việc của một nô lệ.

 

IV. Ư nghĩa cỦa bẢn văn

* Gioan là người làm chứng (6-8)

“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). TM IV đă giới thiệu Gioan bằng một câu như thế ngay giữa Lời Tựa. Đối diện với Ngôi Lời, ngôi vị Thiên Chúa toàn năng luôn luôn “có” từ muôn thuở đến muôn đời muôn kiếp (1,1-5), đây là Gioan, một con người tầm thường xuất hiện, đi từ hư vô ra cuộc sống. Sau khi đă nêu bật sự cao vời vô biên của Đức Kitô, tác giả mau mắn xác định sự cao cả của Gioan: ông được Thiên Chúa sai phái và có sứ mạng làm chứng cho ánh sáng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (1,7). 

 

Sau Lời Tựa, tác giả bắt đầu bài tường thuật cách trang trọng, và cũng bằng một câu nói về Gioan: “Và đây là lời chứng của ông Gioan” (1,19). Chúng ta sẽ suy ngẫm về tư cách và công việc làm chứng của Gioan.

 

* Gioan làm chứng (19-28)

² Ga 1,19-23

Vừa nghe câu mở này, chúng ta có cảm tưởng là ḿnh được gợi ư nh́n vào một cảnh trong pḥng xử án. Ấn tượng này dường như có cơ sở. Ngay tức khắc, tác giả giới thiệu Gioan như người đang bị thẩm vấn. Bản văn nói, “người Do-thái”, hẳn đây là giới lănh đạo Do-thái giáo, đă gửi một phái đoàn đến đặt các câu hỏi cho ông Gioan. Phái đoàn đó gồm có các tư tế và mấy thầy Lêvi, tức đây là giới chức trách có nhiệm vụ chăm sóc Đền thờ Giêrusalem. Câu hỏi thứ nhất họ đặt ra có vẻ nhẹ nhàng, không có ǵ thâm độc: “Ông là ai?”, câu hỏi bật ra như một lời hỏi về lư lịch. Tuy nhiên, câu trả lời của Gioan th́ lại có ǵ đó trầm trọng. Thay v́ khai ra lư lịch, ông lại trả lời trang trọng, hầu như là nói lên một lời thề, rằng ông không phải là người nào đó. Ông tuyên xưng rằng ông không phải là Đấng Kitô.

 

Thế là phái đoàn chính thức thúc ép ông tiếp, để có thể trả lời hết các câu hỏi nhằm điều tra lư lịch của ông. Các câu hỏi tuôn ra thật nhanh. “Ông có phải là ông Êlia không?” “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”. Với cả hai câu hỏi này, vị chứng nhân vẫn cứ trả lời không. Đến đây dường như đă cảm thấy bực bội khó chịu, phái đoàn hỏi: “Thế ông là ai?”. Tuy bị thúc bách như thế, nhưng với giọng hẳn là nhẹ nhàng và vẫn trang trọng mà nghe  ra th́ có vẻ khôi hài nữa, vị chứng nhân đáp bằng những lời lẽ trích từ sách Isaia: “Tôi là tiếng người hô [= tiếng nói của người hô] trong hoang địa: Hăy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (x. Is 40,3).

 

Trong các cuộc xử án, việc xác minh lư lịch của người chứng chỉ là một chuyện thủ tục được thực hiện nhanh chóng, nhưng ở đây, lại không phải là như thế với vị chứng nhân tên là Gioan. Ông cứ toàn lo trả lời là ông không phải là ai thôi – như một kiểu xác minh lư lịch tiêu cực – chứ không nói ông là ai. Cuối cùng khi ông xác minh về ông, bản lư lịch tự khai của ông lại cho biết ông là “tiếng người hô” (tiếng nói, phônê).

 

H́nh ảnh vị chứng nhân cứ tránh né nêu lư lịch góp phần làm cho tấn bi kịch được triển khai. Óc ṭ ṃ của chúng ta bị kích thích. Các câu hỏi phát sinh: Đấng Kitô là ai mà Gioan nói ông không phải là Người. Và nếu Gioan chỉ là một tiếng nói, th́ ông phải nói ǵ? 

 

Hoạt cảnh cuộc thẩm vấn vừa rồi không có trong các TMNL. Tuy nhiên, những suy diễn về Đấng Mêsia th́ đă quá quen thuộc tại Paléttina vào tk i. Lúc đó người ta đang chờ đợi một số gương mặt trở lại. Trong Lc, ta thấy dân chúng rất tín nhiệm Gioan (x. Lc 3,15); rồi có chuyện vua Hêrôđê băn khoăn về cái chết của Gioan (Lc 9,7-9). Những tin đồn và suy đoán như thế là bối cảnh cho câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ Gioan khi họ đến gặp Đức Giêsu theo ư ông (x. Mt 11,2-6; Lc 7,18-23) cũng như cho các câu trả lời các môn đệ đă nêu ra khi Đức Giêsu hỏi người ta bảo Người là ai (Mt 16,13-16; Mc 8,27-29; Lc 9,18-20). Dù sao, Đấng Kitô sẽ là vị vua lư tưởng như Đavít; Người sẽ khôi phục quyền tự chủ trên đất nước và qui tụ người Do-thái đang tản mác lại. Người cũng có thể là như ngôn sứ Êlia, mà truyền thống tin là sẽ trở lại vào Ngày của Đức Chúa (x. Ml 3,23). Người cũng có thể là chính Môsê trở lại. Gioan đă thề là ông không phải là bất cứ dung mạo trứ danh nào như thế, những dung mạo đang được mong chờ tha thiết. Ông chỉ là “tiếng nói”.

 

 

² Ga 1,24-28

Tuy nhiên, cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục. Người ta hỏi thế th́ tại sao ông lại làm phép rửa. Tác giả ghi nhận là trong nhóm được cử đi, có những người thuộc phái Pharisêu, tức những người Do-thái giữ thật nghiêm nhặt Luật Môsê. Như thế, Gioan vừa mạnh mẽ từ chối đồng hóa ḿnh với bất cứ dung mạo cánh chung nào đang được dân chúng chờ đợi, vừa làm chứng trước những đại biểu của toàn thể thế giới Do-thái.

 

Không có một chi tiết nào trong các nguồn văn chương Do-thái nói rằng Đấng Kitô, Êlia hoặc Môsê, hoặc vị ngôn sứ nào sẽ làm phép rửa. Như thế câu hỏi đăït ra cho Gioan là câu hỏi về quyền. Do quyền nào mà ông làm phép rửa? Một lần nữa, dường như Gioan lại né tránh câu hỏi. Ông chỉ trả lời theo cách bí ẩn. “Tiếng nói” chỉ nh́n nhận rằng ông làm phép rửa trong nước. Nhưng rồi ông nói rằng “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,26-27).

 

Dường như ở đây Gioan quy chiếu về một truyền thống Do-thái nói rằng Đấng Mêsia sẽ cứ ở trong t́nh trạng tăm tối cho tới khi Người được Êlia giới thiệu cho Israel. Lời ông nói, “Tôi th́ tôi không phải là Đấng Kitô” hàm ư là Đấng Kitô đă có mặt đâu đây, nhưng đang c̣n ẩn ḿnh, và tuy ẩn ḿnh, Người rất vĩ đại.

 

Tác giả TM IV không nhấn mạnh về vai tṛ của Gioan là làm phép rửa cho Đức Giêsu như các TMNL (Mt 3,1-17; Mc 1,2-11; Lc 3,1-20); do đó ngài không gọi Gioan là “Tẩy Giả” (Mt 3,1) hay “người làm phép rửa” (Mc 1,4). Nếu ngài có nói đến phép rửa ấy chỉ là để đưa đến cuộc tra hỏi thôi. Tác giả TM IV cũng không giới thiệu Gioan là như một dung mạo ngôn sứ kêu gọi người ta mau mau hoán cải v́ Nước Thiên Chúa đă đến gần. Ngài chỉ quan tâm xác định chân tính của Gioan là “tiếng nói” thôi; ông phải nói điều ǵ đó. Thật ra cả bốn Tin Mừng đều vận dụng bản văn Is 40,3 (Mt 3,3; Mc 1,3; Lc 3,4), nhưng trong TM IV, chính Gioan lại gán cho ḿnh vai tṛ làm tiếng nói: tác giả muốn nhân vật Gioan của ḿnh “nói cho chính ḿnh”. Trong khi các TMNL trích Is 40,3 như là một lời b́nh về ông Gioan, câu này lại được Ga 1,23 trích như là lời của chính Gioan. 

 

Truyện về Gioan trong TM IV là truyện của riêng tác giả. Ngài có cách thức riêng cũng như ngôn ngữ và văn phong riêng mà miêu tả ông Gioan, mà chia sẻ cái nh́n của ngài về ông. Ở đây hoạt cảnh đúng là như một cuộc xử án gồm hai giai đoạn thẩm vấn Gioan. Ngôn ngữ của chương 1 (và của cả TM IV) phù hợp với bầu khí của pḥng xử án: ngài viết về lời chứng (martyria, c. 19), lời tuyên xưng (homologeô, 2 lần trong c. 20), và việc chối (arneomai, c. 20); ngài cũng viết về việc hỏi (erôtaô, cc. 19.21.25) và trả lời (apokrinomai, cc. 21; apokrisis, c. 22) và về những người đă được cử đi (apostellô, cc. 19.22.24). Câu truyện được đặt trong một tác phẩm trong đó các từ ngữ rơ ràng mang màu sắc pháp lư, như kết án (katêgoreô, 5,45; 8,6), và thuyết phục (elegchô, 3,20; 8,46; 16,8), bảo vệ (paraklêtos, 14,16.26; 15,26; 16,7), án xử (krisis, 3,19; 5,22.24.27.29.30; 7,24; 8,16; 12,31; 16,8.11) và xét xử (krinô, 3,17.18 (2x); 5,22.30; 7,24 (2x).51; 8,15 (2x).16.26.50; 12,47 (2x).48 (2x); 16,11; 18,31). 

 

+ Kết luận

Từ phân đoạn 1,6-8, ta thấy Gioan không phải là đại sứ đặc mệnh toàn quyền; ông được Thiên Chúa sai đến với một mục tiêu rơ rẹât: “làm chứng về ánh sáng” (cc. 7.8). Sứ mạng của ông phải được nh́n trong viễn tượng vũ trụ, siêu lịch sử, nhưng vai tṛ của ông là chứng nhân và chỉ là chứng nhân mà thôi. Nhiệm vụ của ông tập trung vào việc làm cho Ít-ra-en nhận biết Đức Giêsu. Tuy nhiên, tác giả cũng muốn nói một điều quan trọng hơn khi tinh tế đặt đối lập dung mạo Gioan, người được Thiên Chúa sai đến (1,6), với các tư tế và các thầy Lêvi được người Do-thái gửi đến từ Giêrusalem (1,19). Cuộc thẩm vấn có thật, nhưng đây chỉ là cuộc đụng chạm giữa hai đoàn tiền quân.

 

V. GỢi ư suy niỆm

1. Sứ mạng của Gioan là làm chứng cho Đức Giêsu. sứ mạng này quan trọng đến nỗi trong Lời Tựa, ông được nhắc đến hai lần: một lần như là “chứng nhân” (1,6) và lần kia th́ nhắc lại lời chứng của ông (1,15). Do đó, cứ theo TM IV, hẳn là ông phải được gọi là “Gioan người làm chứng”. Danh hiệu mà Họâi Thánh Đông phương gán cho ông, “Gioan vị Tiền Hô”, mở ra hai sứ mạng của ông, làm phép rửa và làm chứng.

 

2. Gioan là chứng nhân của ánh sáng (1,6-8). Điều nghịch lư là ánh sáng lại cần đến một chứng nhân. Ánh sáng thật đang rạng soi cho mọi người (x. 1,9), thế mà không phải là loài người đang tự nhiên sống dưới ánh huy hoàng của ánh sáng này. Như một kho báu được chôn giấu, trước tiên ánh sáng này cần được khám phá; chỉ sau đó ánh sáng mới tỏa rạng và mọi người có thể thực sự thấy được. Đặc điểm của Đức Giêsu là thực tại chân thật của Người không chỉ thấy được ở bề mặt, và không phải bất cứ ai cũng có thể tiếp cận Người. Người không tỏ ḿnh ra với cung cách áp đảo, Người không ép buộc bất cứ ai; người ta luôn luôn có thể tránh Người và sống không cần Người. Đức Giêsu là ánh sáng đ̣i hỏi tự do quyết định của con người. chính v́ Người ở trong t́nh trạng ẩn ḿnh, Đức Giêsu cần có những chứng nhân. Gioan là chứng nhân đầu tiên của Người, giúp cho người ta có thể đến với Người để nhận được ánh sáng. Nhưng cả lời chứng của Gioan cũng không phải là một bằng cớ bó buộc: mọi người phải tin nhờ ông (1,7). Chỉ ai nhờ ông mà tin th́ mới đến được với Đức Giêsu là ánh sáng.

 

3. Gioan nói như chứng nhân và khẳng định tính khả tín của chính ông. Ông nói thẳng ra ông không phải là ai (1,19-21) và ông là ai (1,22-23) và ai sẽ đến sau ông (1,25-27). Ngay trong Lời Tựa, tác giả Ga đă cho biết: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1,8). Trước tiên ông nói ông không là ai, như để tránh che mất Đấng ông phải làm chứng cho, nếu như ông lo khẳng định về bản thân. Rồi khi phải nói ông là ai, th́ ông cho biết ông chỉ là tiếng của người hô trong hoang địa: hoạt động của ông có tầm quan trọng đặc biệt v́ được chính Kinh Thánh loan báo, được Thiên Chúa quy định, nhưng chỉ là một tiếng nói loan báo rằng Chúa đang đến và khuyến khích người ta dọn ḷng đón tiếp Người.

 

4. Về nhân vật cao trọng mà ông làm chứng cho, Gioan chỉ khẳng định hai điều: Người đang ở giữa họ, nhưng họ không nhận biết Người; Người cao trọng đến mức chính Gioan cũng không xứng đáng phục vụ Người theo cách thức của một nô lệ. Ẩn ḿnh và cao trọng vẫn là hai nét tiêu biểu của Đức Giêsu. Người là ánh sáng tỏa rạng trong t́nh trạng ẩn tàng đồng thời là ánh sáng chân thật duy nhất.

 

5. Bất cứ Kitô hữu nào hôm nay cũng cần thấy ḿnh là một chứng nhân như Gioan. Họ biết ḿnh không là ǵ cả khi sánh với Đấng họ phải làm chứng cho. Tuy nhiên, chính Đấng ấy lại muốn chọn họ để tỏ ḿnh ra cho thế giới. Cao cả mà thật ra thấp hèn, thấp hèn nhưng cũng cao cả, đă là tư cách của Gioan, th́ cũng là thân phận của mọi Kitô hữu.

 

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

 

 

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng nầy, Phụng Vụ tham dự trước niềm hân hoan của ngày lễ Giáng Sinh. Tất cả các bài đọc đều vang lên sứ điệp nầy: “Hăy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.

 

Bài đọc I liên kết niềm vui với lời loan báo Tin Mừng được gởi đến cho những người nghèo, những người bất hạnh, những người tù đày.

 

Is 61: 1-11

Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hăy luôn luôn vui lên và tạ ơn Chúa v́ những thiên ân mà họ lănh nhận được.

1Th 5: 16-24

Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.

Ga 1: 6-8, 19-28

 

BÀI ĐỌC I  Is 61: 1-2, 10-11

Bài đọc I của Chúa Nhật III Mùa Vọng nầy được h́nh thành bởi hai đoạn trích khác nhau từ chương 61 của sách I-sai-a. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2) là phần mở đầu của bài thi ca: chính vị ngôn sứ đích thân bày tỏ. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết của bài thi ca. Đây là một bài thánh thi ca ngợi, được cộng đoàn xướng hát.

 

1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2).

Trong đoạn trích thứ nhất, chúng ta nhận ra bản văn mà vào một ngày sa-bát, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su đă công bố trước cộng đoàn (Lc 4: 18-20). Sau khi đă công bố đoạn văn nầy, Ngài ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nh́n Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đă ứng nghiệm lời Kinh Thánh qu‎ư vị vừa nghe”. Như vậy Đức Giê-su áp dụng vào chính ḿnh lời của ngôn sứ I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, v́ Chúa đă xức dầu tấn phong tôi để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Đức Giê-su cũng sẽ trích đoạn văn nầy để trả lời cho những sứ giả của Gioan Tẩy giả được phái đến để hỏi Ngài. V́ thế, vị ngôn sứ nầy là ai mà Đức Giê-su quy chiếu đến hai lần? Và sứ điệp của ông ngỏ lời với ai?

 

1.1- Tác giả.

Những sự kiện được định vị vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người hồi hương đầu tiên trở về Giê-ru-sa-lem từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.

 

Tác giả của bản văn nầy là một vị ngôn sứ vô danh sống ở giữa những người hồi hương ở Giê-ru-sa-lem. Ông thường được các nhà chuyên môn gọi I-sai-a đệ tam, hay I-sai-a của thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ của thời tiền lưu đày (Is 1-39).

 

Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta đă đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ hậu lưu đày nầy. Bản văn được trích hôm nay, xét về niên biểu, có trước lời khẩn nguyện. Trong bản văn nầy, vị ngôn sứ biện minh sứ mạng của ḿnh: ông đă được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong, đây cốt là xức dầu thiêng liêng bởi v́ không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đă chọn các ngôn sứ của Ngài. Sứ mạng của các ngài liên quan đến đời sống luân lư của dân Thiên Chúa, nhưng vị ngôn sứ nào đă được Thiên Chúa chọn, không thể nào thoái thác sứ mạng của ḿnh.

 

1.2- Sứ điệp.

Sứ mạng của vị ngôn sứ là loan báo “Tin Mừng” (ông lấy lại diễn ngữ của vị tiền nhiệm của ḿnh là I-sai-a đệ nhị được trích trong bài đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng). Tin Mừng nầy có thể được tóm tắt như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang lời công bố những mối phúc thật của Đức Giê-su.

 

Những người hồi hương thất vọng và vỡ mộng trước thực trạng quê hương muôn vàn khó khăn. Họ là những người nghèo, trái tim tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là những “tù nhân”, những “người bị giam giữ” cho dù hiện nay họ không c̣n nữa, qua đó nhấn mạnh nỗi cùng cực của họ, bởi v́ những thuật ngữ nầy giải thích rơ hơn h́nh ảnh sau đó: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Đây là sự khai triển của “năm sa-bát”, được cử hành cứ bảy năm một lần. Năm hồng ân biểu tượng một lư tưởng công b́nh xă hội. Tuy nhiên, người ta không có đủ bằng chứng cho việc thực hành thực sự nầy.

Đây là diện mạo của những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawin”. Chữ “anawin” không thể dịch được, nó bao hàm sự nghèo khổ, đức khiêm hạ và niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Ngữ căn của từ mang một nét nghĩa căn bản là “c̣ng lưng xuống”, c̣ng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhă; cũng “sấp ḿnh” v́ thái độ tôn giáo của họ, thái độ tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ bé mọn nầy mà Đức Giê-su sẽ ưu đăi.

 

Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đă tiên báo việc tăng tiến những người nghèo nầy: “Ngày ấy, ngươi sẽ không c̣n phải hổ thẹn v́ mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không nghêng ngang trên núi thánh của Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ t́m nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en c̣n sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không c̣n phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không c̣n bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 11-13).

 

2. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).

Được an ủi như vậy, cộng đoàn xướng lên một bài thánh thi chúc tụng ngợi ca: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, vâng nhờ Người, tôi hớn hở biết bao”.

Bài hoan ca nầy được diễn tả bởi hai h́nh ảnh:

- Trang phục: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa nàng dâu lộng lẫy điểm trang.

- Khu vườn: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được chăm sóc tận t́nh: khu vườn của Đức Chúa ở đó đức công chính sẽ nẩy hạt sinh mầm, đâm chồi nẩy lộc.

 

3. Ư nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy:

Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thơ nầy bên cạnh nhau, phụng vụ mời gọi chúng ta hăy suy niệm về mối liên hệ sâu xa của chúng, mối tương quan giữa “ơn cứu độ” được hứa bởi Đấng được xức dầu tấn phong (Đức Ki tô tự đồng hóa với Đấng ấy) và “vẽ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại h́nh ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc được điểm trang lộng lẫy như Hiền Thê nhờ máu của Con Chiên.

 

Một viễn cảnh như thế không thể là viễn cảnh của vị ngôn sứ của thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Tuy nhiên, cách tiếp cận lịch sử nầy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành c̣n sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nổi khốn khổ của họ lôi kéo ḷng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà ḷng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.

 

BÀI ĐỌC II (1Th 5: 16-24)

Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho giáo đoàn Thê-xa lô-ni-ca là bản văn xưa nhất của văn chương Ki tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51.

 

Thánh Phao-lô đă thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca ở Hy lạp vào mùa hè của năm 50, nhưng ngài đă phải vội vàng trốn chạy khỏi thành phố v́ người Do thái tức giận t́m cách giết ngài do lời rao giảng khác thường nầy khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn sám hối.

V́ thế, thánh nhân thật sự bận ḷng cộng đoàn nhỏ bé bị hăm dọa nầy. Sau nầy, người cộng tác của ngài, Ti-mô-thê, quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và tường thuật những tin tốt lành: Giáo Đoàn non trẻ nầy vẫn kiên vững trước những đe dọa và quấy nhiễu của người Do thái.

 

Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy cho Giáo Đoàn Thê-xa-lô-ni-ca với cung giọng nồng nàn ḥa chung với niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn văn chúng ta đọc được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.

 

1. Vui mầng, cầu nguyện và tạ ơn:

Thánh nhân khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hăy vui mừng luôn măi và cầu nguyện không ngừng. Hăy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.

 

Trước hết, “Anh em hăy vui mừng luôn”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Thánh nhân “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cơi thế nầy.

Tiếp đó, “Hăy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, nhờ Chúa Ki tô; hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là “Cha”.

 

Sau cùng, “Hăy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm t́nh cảm tạ tri ân. Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) là bài ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên Chúa…” Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của ḿnh với lời chúc tụng Thiên Chúa.

 

2. Đừng chối từ những ân ban Thần Khí:

Đây là lời khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí. Họ nghi ngại những người được ơn Thần Khải. Có lẽ họ là những người Hy lạp phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên theo những ân ban của ḿnh, ngay cả ơn nói tiên tri. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều ǵ tốt th́ giữ lấy; c̣n tất cả những ǵ xấu th́ lánh cho xa”.

 

3. Ơn thánh hóa:

Đây là đề tài rất tâm đắc với thánh Phao-lô và thánh nhân sẽ khai triển thêm nữa sau nầy: ơn thánh hóa của chúng ta dựa trên tác động của Thiên Chúa hơn trên nổ lực của cá nhân chúng ta.

 

Việc kể ra: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh nhân. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người như thế. Thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn thể con người: theo thói quen của ḿnh, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau với ư nghĩa Ki tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.

 

TIN MỪNG  Ga 1: 6-8, 19-28

Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một từ Tựa Ngôn (1: 6-8) và một từ phần mở đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-28).

 

1. Gioan Tẩy giả, chứng nhân (1: 6-8).

Tựa Ngôn là một bài thánh thi về “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để kể đến vị Tiền Hô. Lần ngắt nhịp thứ nhất được dùng như lời mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.

Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng như ‎ư nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng “chứng nhân” của vị Tiền Hô. Đối với thánh kư, “chứng nhân” là quan trọng bậc nhất như ông nhấn mạnh trong thư thứ nhất của ḿnh: “Điều chúng tôi đă nghe, điều chúng tôi đă thấy tận mắt, điều chúng tôi đă chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đă chạm đến, đó là Lời sự sống…Điều chúng tôi đă thấy và đă nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).

 

2. Lời chứng của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).

Vị Tiền Hô chối từ tất cả những ǵ người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của ḿnh trên sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi.

 

Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang chờ đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng rằng vị ngôn sứ được rước lên trời nầy và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).

Sau khi đă phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về ḿnh, Gioan Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn ḿnh. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a không chỉ sắp đến nhưng hiện có mặt ở giữa họ rồi.

 

Tại sao những lời chứng vừa phủ nhận về ḿnh vừa khẳng định về Đức Ki tô của Gioan Tẩy giả mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế?

 

Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng Gioan, cần phải giải mă những ẩn ư nầy. Tin Mừng Gioan vốn giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.

 

2.1- Nghĩa trực tiếp:

Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy ch́a khóa ở nơi việc dàn dựng phần mở đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi “tuần lễ khai mạc” (song đối với bảy ngày cuối đời của Đức Giê-su).

Tuần lễ khai mạc được tŕnh bày như sau:

- Ngày thứ nhất: chứng từ của Gioan Tẩy giả về chính ḿnh và về Đức Ki tô trước những lời chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem.

- Ngày thứ hai: chứng từ của Gioan Tẩy giả về “Chiên Thiên Chúa” và Thần Khí ngự xuống vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa.

- Ngày thứ ba: An-rê và người môn đệ vô danh (có thể là chính thánh Gioan) đi theo Đức Giê-su, đoạn kéo theo Phê-rô.

- Ngày thứ tư: Phi-líp và Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên.

- Ngày thứ năm và thứ sau: hành tŕnh về miền Ga-li-lê.

- Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na. Các môn đệ, chứng nhân của dấu lạ nầy, “tin” vào Ngài, v́ họ đă “chứng kiến vinh quang của Ngài”.

 

Khi tŕnh bày phần mở đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh kư thiết lập sự song đối với bảy ngày của Công Tŕnh Sáng Tạo, qua đó thánh kư muốn nói rằng việc Giáng Trần của Đức Ki tô là một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.

 

2.2- Nghĩa ẩn dụ:

Chứng từ của Gioan Tẩy giả trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong tuần lễ khai mạc. Vào lúc sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối.

 

Do đó, tất cả ‎ư nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy đó là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa sám hối ăn năn, v́ thế, không rộng mở ḷng ḿnh ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đă được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” của nền văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt c̣n cả trọn tấm ḷng nữa).

Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm ḿnh trong bóng tối. Sự việc nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki tô.

 

Việc đối lập của cặp tương phản ánh sáng và bóng tối nầy h́nh thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đă được minh chứng rồi ngay từ trong Tựa Ngôn.

 

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

 

Vui mỪng v́ Chúa sẮp đẾn

 

Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

I. DẪn vào Thánh lỄ

Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những niềm vui: vui khi thấy những nụ hoa hé nở trong vườn, vui khi nh́n những cặp vợ chồng trẻ hân hoan trong ngày cưới, vui với những tù nhân măn hạn trở về. Ngày xưa, một ngôn sứ cũng đă dùng những h́nh ảnh tương tự để loan báo niềm vui khi Chúa đến. Thật vậy, khi Chúa đến, Ngài sẽ làm cho cuộc sống ta tràn ngập niềm vui. Vậy chúng ta hăy chuẩn bị đón tiếp Ngài.

 

II. GỢi ư sám hỐi

Chúng ta không nghĩ rằng sống đạo là một niềm vui, trái lại nhiều khi c̣n coi đó là gánh nặng khó chịu.

 

Chúng ta ít nghĩ đến việc làm cho những người chung quanh được vui tươi hạnh phúc.

 

Chúng ta không sẵn sàng để cho Chúa giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi và những đam mê bất chính.

 

III. LỜi Chúa

1. Bài đọc I: Is 61, 1-2. 10-11

Đoạn này thuộc phần thứ ba sách Isaia (các chương 56-66) do một (hoặc một số) tác giả không được biết tên nên người ta tạm gọi là Đệ Tam Isaia.

 

Có hai giả thuyết về thời gian soạn tác phần này: a/ Đó là thời sau lưu đày từ lúc xây xong Đền thờ mới cho đến năm 445 trước công nguyên (Nhóm dịch CGKPV); b/ Một vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đày. Nội dung đoạn được trích hôm nay xem ra phù hợp với giả thuyết thứ hai hơn.

 

Tác giả nghĩ đến lúc được giải thoát khỏi ách lưu đày.

- Trong phần đầu (cc 1-2), tác giả tự đồng hóa ḿnh với một nhân vật được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đặc biệt để loan tin vui ấy. "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".

- Trong phần sau (cc 10-11), tác giả lại tự đồng hóa ḿnh với dân được giải thoát: "Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, v́ Ngài đă mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi..."

Sau này, trong bài ca Magnificat, Đức Maria đă lấy lại một số tâm t́nh của tác giả; và Đức Giêsu, tại hội đường Nadarét, cũng đă áp dụng những lời này cho chính bản thân Ngài.

 

2. Đáp ca: Trích bài Magnificat, Lc 1, 46-48. 49-50. 53-54.

Bài ca diễn tả tâm t́nh của Đức Maria. Đó cũng là tâm t́nh của Đệ Tam Isaia ngày trước, mà cũng là tâm t́nh của Giáo Hội ngày nay: vui mừng v́ được Chúa đến thăm và dùng ḿnh làm sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa.

 

3. Bài đọc II: 1 Tx 5, 16-24

Thêxalônica là một giáo đoàn mà thánh Phaolô rất quan tâm, bởi v́ ngài mới thành lập giáo đoàn này không bao lâu th́ phải bị buộc rời họ đi xa. Nhưng dù non trẻ, giáo đoàn này đă sống đạo khá tốt. Bởi thế khi biên thư cho họ, Phaolô bảo họ một mặt hăy luôn vui mừng trong Chúa và mặt khác hăy cầu nguyện không ngừng và cảm tạ Chúa trong mọi việc.

 

4. Tin Mừng: Ga 1, 6-8. 19-28

Sứ giả loan Tin Mừng mà Đệ Tam Isaia đă tiên báo chính là Gioan Tiền hô, và Tin Mừng mà Gioan công bố chính là Đức Giêsu.

 

Đoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước đă cho biết Gioan là người dọn đường và ông đă dọn đường như thế nào. Đoạn Tin Mừng hôm nay (của thánh Gioan Tông đồ) cho biết nhiều hơn:

·        Đấng Messia mà Gioan dọn đường chính là Ánh sáng. Ngài đến thế gian như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.

·        Phần Gioan tiền hô, ông rất khiêm tốn: nói rơ ḿnh không phải là Messia và tuyên bố Đấng Messia là Đức Giêsu cao trọng hơn ông.

 

 

 

IV. GỢi ư giẢng

* 1. Vui mừng theo mệnh lệnh?

Lời kêu gọi rất rơ của Giáo Hội trong Thánh lễ hôm nay là "Anh em hăy vui lên".

Nhưng có thể vui mừng theo mệnh lệnh như thế chăng? Vả lại, trong cuộc sống cũng có nhiều nỗi buồn. Đâu phải bất cứ lúc nào hễ Giáo Hội kêu chúng ta vui lên th́ chúng ta vui lên ngay được?

 

Thiết tưởng ta nên phân biệt cho rơ. Cuộc đời gồm nhiều phương diện lắm khi không hoàn toàn phối hợp hài ḥa với nhau. Bởi thế người ta vẫn có thể vui về phương diện này đang khi gặp điều không vừa ư thuộc phương diện khác. Chẳng hạn nghèo mà vui, bị sỉ nhục vẫn vui v. v. Phương diện lúc nào cũng có thể vui chính là phương diện siêu nhiên: vui v́ Chúa, vui trong Chúa. Thứ niềm vui này ở tận trong ḷng nên bất cứ thứ xáo trộn bên ngoài nào cũng không ảnh hưởng tới nó được.

 

Tác giả Sách Huấn ca đă viết: mọi việc đều có thời của nó. Có thời để khóc và có thời để cười, có thời để buồn và có thời để vui... Giáo Hội chỉ cho chúng ta biết rằng thời để vui chính là thời bây giờ đây, thời chuẩn bị đón Chúa Giáng sinh. Chúng ta vui v́ Chúa đă "công bố năm hồng ân" (bài đọc I), v́ "Chúa đă đoái nh́n phận hèn tôi tớ" của chúng ta (Bài đáp ca) và v́ ư Thiên Chúa muốn rằng chúng ta luôn được hân hoan hạnh phúc (Bài Thánh Thư).

 

* 2. Vui và sướng

Trong bài đọc II, Thánh Phaolô bảo: "Anh em hăy vui luôn". Flor McCarthy có những suy nghĩ sau đây về vui và sướng (joy and pleasure).

 

Vui và sướng rất khác nhau:

·        Ta có thể vạch kế hoạch để ḿnh được sướng, nhưng không thể làm thế để được vui.

·        Sung sướng đến ngay, c̣n niềm vui thường đến sau; và niềm vui ngọt ngào hơn cả là thứ niềm vui đến sau đau khổ.

·        Sung sướng đến do ḿnh trả lời "có" với ḿnh; niềm vui đến do ḿnh trả lời "không" với chính ḿnh.

·        Sung sướng giống như một ánh lửa loé lên trong đêm tối, chiếu sáng mọi sự trong giây lát rồi tắt lịm, sau đó ta cảm thấy tối tăm và trống rỗng hơn bao giờ hết; Niềm vui giống như một ngọn lửa trong tim, sau đó dù lửa đă tàn nhưng vẫn c̣n để lại hơi ấm trong ta.

 

* 3. Vui luôn

Thánh Phaolô kêu gọi "Anh em hăy vui mừng luôn măi".

"Luôn măi" là cả khi bị người ta đối xử xấu với ḿnh nữa chăng?

"Luôn măi" là cả khi làm việc thất bại nữa chăng?

"Luôn măi" là cả khi người thân bị chết hay bị bệnh nặng nữa chăng?

"Luôn măi" ngay cả khi đă phạm tội chăng? v. v.

Chắc chắn là thánh Phaolô đă nghĩ đến những t́nh huống đó, dù vậy Ngài vẫn kêu gọi "Hăy vui mừng luôn măi". Tại sao?

Liền sau lời kêu gọi ấy, thánh Phaolô viết tiếp "Hăy cầu nguyện không ngừng". Đúng rồi, nếu gặp phải những t́nh huống ấy mà biết cầu nguyện th́ mọi buồn sầu lo lắng sẽ sớm tan biến và trở thành niềm vui.

 

 

 

4. Có Đấng mà các ngươi không biết, Ngài sẽ đến sau tôi

Đấng mà người ta không biết chính là Thiên Chúa. Thật vậy, rất nhiều người không biết Thiên Chúa, thậm chí c̣n không tin là có Thiên Chúa. Điều này cũng tự nhiên thôi, v́ chính Thánh Kinh cũng nói rằng khả năng con người không thể biết được Thiên Chúa: Thánh Gioan tông đồ đă viết "Chưa ai trông thấy Thiên Chúa bao giờ" (Ga 1, 18); Thánh Phaolô cũng viết rằng Thiên Chúa là Đấng "ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đă thấy hay có thể thấy" (1 Tm 6, 16).

 

Thế nhưng, v́ yêu thương loài người, Thiên Chúa đă khấng cho loài người biết Ngài, qua Đức Giêsu con yêu dấu của Ngài nhập thế sống giữa loài người chúng ta. Gioan Tiền hô đă báo cho người ta biết tin vui đó: "Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết".

 

Chúng ta là những người được biết, vậy chúng ta hăy vui mừng; và cũng như Gioan, chúng ta hăy chỉ Ngài cho nhiều người khác được biết.

 

5. Điều kiện của người làm chứng

Điều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của ḿnh.

 

Gioan Tẩy giả là người làm chứng như thế. Đoạn Tin Mừng hôm nay viết: "Ông đến để làm chứng về ánh sáng". Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy th́ ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui: "Ngài phải sáng lên, c̣n tôi phải mờ đi".

Câu chuyện sau đây được thuật lại trong quyển The Tablet (Tháng 5 năm 1998):

 

Một cặp vợ chồng trẻ kia đều là bác sĩ. Họ đă học chung với nhau ở Đại học Y khoa, quen nhau, rồi cưới nhau. Người vợ là công giáo, người chồng th́ không. Đă nhiều lần người vợ cố gắng thuyết phục chồng Rửa Tội, nhưng anh không hề quan tâm, có lẽ v́ chưa thấy đạo công giáo có cái ǵ hay.

 

Thế rồi trong một đợt thanh lư công nhân viên, người chồng bị bắt đi cải tạo cùng với một số nhà trí thức khác. Người vợ không vào tù nhưng bị làm áp lực bỏ đạo và ly dị chồng. Nhiều nữ bác sĩ khác cùng cảnh ngộ đă đành ch́u theo những áp lực ấy. Nhưng bà này vẫn cương quyết sống theo niềm tin và t́nh yêu của ḿnh, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn.

 

Nhưng một ngày kia, người chồng được trả tự do cùng với nhiều bác sĩ khác. Xảy ra rất nhiều t́nh huống trớ trêu dở khóc dở cười: nhiều bà vợ vui mừng v́ chồng trở về nhưng không dám đón chồng v́ đă trót ly dị. Riêng cặp vợ chồng này th́ niềm vui rất trọn vẹn.

Sau đó người chồng xin gia nhập đạo công giáo. Anh đă thấy được giá trị của đức tin và t́nh yêu hiện thân nơi vợ ḿnh. Đó là một chứng từ, không phải bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống.

 

6. Làm chứng cho Đức Kitô

Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:

Có gia đ́nh kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên băi biển, th́ có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, quần áo bẩn thỉu rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm một ḿnh, vừa cúi nhặt những vật ǵ đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.

 

Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hăy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.

 

Nhiều tuần sau, cả gia đ́nh mới biết rằng đă lâu lắm rồi, người đàn đà ấy đă tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên băi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.

 

* "Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết" (Ga. 1, 26).

Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Đức Kitô. Đức Kitô đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: "Giêsu Nagiarét, Người là ai?" Gioan không dùng danh từ Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ "chứng nhân". Động từ "làm chứng" được Gioan nhắc đến 33 lần. Tin mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: "Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đă viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực" (Ga. 21, 24).

 

Qua lối sống khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hăy sửa cho ngay đường Chúa đi" (Ga. 1, 23) đă minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.

Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, c̣n Đức Giêsu là ông chủ, Gioan là đèn soi, c̣n Đức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Đức Giêsu là lời hằng sống.

 

Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teihard de Chardin đă ví von rất sống động: "Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nh́n vào đời sống chúng ta mọi người cũng đoán được có Đức Kitô". Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngời về ḷng thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của ḿnh, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.

 

Martin Luther King viết: "Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà c̣n làm chứng bằng cuộc sống của ḿnh". Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: "Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta".

Ước ǵ khi nh́n vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đă nói về Thánh Gioan Vianey "Tôi đă thấy Thiên Chúa trong một con người".

 

* Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường: không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc ǵ xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, người ta nhận biết Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương con người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đă yêu")

V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi

Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta đă tiến đến Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng, niềm vui ngày Chúa đến dịp lễ Giáng Sinh đă gần kề. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hăy vui mừng cầu nguyện và tạ ơn. Chúng ta hăy dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta:

 

1. Thánh Gioan đă dọn đường về Đức Giêsu là ánh sáng, là niềm vui cứu độ / Xin cho cộng đoàn Hội thánh trở thành chứng tá cho Chúa xuyên qua việc gieo rắc và bồi dưỡng niềm vui cho mọi người.

2. Đức Giêsu được sai đi để đem Tin mừng cho người nghèo khổ bất hạnh / Xin cho các nhà cầm quyền trở thành những người bênh vực kẻ hèn yếu và đem an vui cho những người thiếu may mắn.

3. Đức Giêsu đến trần gian để băng bó những tấm ḷng tan nát / Xin cho những người nghèo đói thất nghiệp, tù đày, bị bỏ rơi / t́m được niềm an ủi và hy vọng nơi những người họ gặp gỡ.

4. Chúng ta đă được hiệp thông với Đức Giêsu qua các Bí tích / Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / luôn thắp lên trong đời ḿnh ánh sáng của Chúa / để sưởi ấm và soi sáng cho mọi người.

 

Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang sửa soạn để đón nhận niềm vui ngày Đức Giêsu Giáng Sinh, xin Chúa sai Thánh Thần Chúa đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để chúng con trở thành niềm an vui cho mọi người chúng con gặp gỡ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.

 

Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

 

 

 

CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

I. GIOAN, ÔNG LÀ AI ?

Đă từ 400 năm, tiếng nói tiên tri đă im bặt, bây giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên.  Qua đó một số người đă ngưỡng mộ ông Gioan Tẩy giả đến độ dành cho ông địa vị cao hơn địa vị thích đáng, c̣n cao hơn cả Đức Giêsu. Tiếng nói của Gioan đă vang dội và đánh động nơi nhiều người.

 

Cấp lănh đạo Do thái sợ Gioan chiếm mất địa vị của ḿnh, đă sai mấy tư tế và Lêvi đến điều tra xem Gioan là ai.  Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đă thiêu sống hơn 500 tư tế của hoàng hậu  Giêzabel thời vua Achab. Họ sợ ông là một tiên tri, như bao tiên tri của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn thời thế, làm mất quyền lợi địa vị của họ. Họ phải đề pḥng, kiểm soát, canh chừng mọi bất trắc xẩy ra. Họ đă biết có nhiều người được dân coi là Đấng Cứu thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây, nhất là tầng lớp lănh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt.

 

V́ vậy, cấp lănh đạo tôn giáo sai tư tế và Lêvi đến đặt câu hỏi, yêu cầu Gioan phải trả lời cho ho biết : Ông là ai ?

 

1. Gioan là Đấng Messia ?

Tâm lư chung của các nước các dân bị trị đều mong có một vị cứu tinh nào đến giải phóng họ khỏi cảnh ḱm kẹp của ngoại bang.  Dân Do thái đang sống trong tâm trạng đó. Họ tin rằng  họ là dân tuyển chọn của Giavê, họ không nghi ngờ ǵ về việc chẳng chóng th́ chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài.  Không phải chỉ có một quan niệm về Đấng Messia : có người tin rằng Đấng Messia sẽ đem lại ḥa b́nh cho cả thế giới. Có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Có người trông chờ có một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Nhưng đa số trông mong một vị tướng lănh vô địch sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do thái đi chinh phục cả thế giới.

 

Trước câu hỏi đó, Gioan hoàn toàn bác bỏ danh xưng Messia, nhưng lại tiết lộ một phần khác.  Trong tiếng Hy lạp có vẻ như Gioan muốn nói : “Tôi không phải là Đấng Messia, nhưng Đấng Messia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.

 

2. Gioan là tiên tri Êlia ?

Người Do thái tin rằng tiên tri Êlia và ông Hênốc đă được đưa về trời trên chiếc xe bằng lửa, và khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài.  Họ tin rằng Êlia sẽ đến sắp xếp lại mọi công việc cho người Do thái : dàn xếp những bất ḥa, đem lại sự đoàn kết và nối lại các gia đ́nh.  Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5.  Người ta c̣n tin rằng chính Êlia xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như cho tất cả các vị vua được xức dầu. Nhưng Gioan tẩy giả đă bác bỏ mọi vinh dự đó.

 

3. Gioan là một tiên tri nào đó ?

Nhiều người Do thái tin Isaia và đặc biệt là Giêrêmia hoặc một trong các vị anh hùng cứu nước như Samuel, Maisen... sẽ có ngày trở lại.  Niềm tin đó dựa vào sách Đệ nhị luật (18,15) nói có vị tiên tri sẽ xuất hiện.  Đó là lời hứa dân Do thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất.  Họ hỏi Gioan có phải là một trong các vị tiên tri được hứa trong sách Đệ nhị luật không ? Một lần nữa, Gioan Tẩy giả trả lời là “không”.  Sự thực ngài cũng là tiên tri, nhưng không phải là tiên tri theo sách Đệ nhị luật nói.

 

4. Gioan là người làm chứng ?

Để trả lời cho họ, Gioan không trả lời trực tiếp : Tôi là Tiền sứ của Chúa Cưu thế v́ ông khiêm tốn nhưng ông mượn lời tiên tri Isaia :”Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa : hăy dọn đường cho Chúa.

 

Muốn hiểu rơ câu nói đó của Gioan Tẩy giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, c̣n đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của ḿnh, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại.  Người  “tiền hô” c̣n một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới.  Gioan Tẩy giả cũng lưu ư tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói :”Hăy ăn năn hối cải tội lỗi ḿnh và hăy lănh nhận phép rửa”.

 

Tóm lại, chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau :”Tôi không phải là Đấng Cứu thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài. Hăy chuẩn bị v́ Ngài sắp đến”. Gioan đă làm những ǵ mà mọi vị lănh đạo tôn giáo đích thực phải làm. Ông không để cho người ta chú ư tới ông, mà hướng mọi sự chú ư của họ vào Đức Giêsu.

 

C̣n một điều khác làm cho phái đoàn Do thái thắc mắc : Gioan lấy quyền ǵ mà làm phép rửa ? Nếu ông là Đấng Messia, là Êlia hay là một tiên tri th́ ông mới có quyền làm !  Nhưng bằng một giọng thản nhiên, Gioan  nói rơ : ông là tiên tri dọn đường Chúa Cứu thế th́ cố nhiên phép rửa của ông cũng chính là phép dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu thế.  Và ông nhấn mạnh thêm : Chúa Cứu thế đă đến rồi và hiện  nay đang ở giữa họ, thế mà họ đă không nhận ra Ngài.

 

II. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI  ?

 

1 . Là chứng nhân của Chúa

Kitô hữu là người được mang danh Chúa Kitô, danh hiệu này đă được thánh Phaolô lần đầu tiên gọi các tín hữu ở Antiochia. Kitô hữu là người thuộc về Chúa Kitô, được đồng hoá với Chúa Kitô đang sống giữa chúng ta.  Chúng ta không như người Do thái phải mất mấy thế kỷ  mong đợi Đấng Cứu thế đến.  Hơn nữa,  cũng không phải sống lại những biến cố đă qua. Đức Kitô đă đến. Ngài đang có đó. Liên tục hiện diện giữa chúng ta để loan báo Tin mừng cho người nghèo, để chữa lành các tâm hồn bị tan vỡ và giải thoát những kẻ bị xiềng xích.

 

Tuy Chúa Cứu thế đă đến rồi và ở giữa chúng ta,  nhưng trong thực tế , chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài không ?  Phải chăng lời khiển trách của Gioan Tẩy giả lại không nhằm đến chúng ta, cũng như những người Do thái đời ông :”Giữa các ngươi có một Đấng , mà các ngươi không biết”. Do đó, lời mời gọi khẩn thiết được trao gửi cho ta, giúp chúng ta dễ chấp nhận những nỗ lực và hy sinh cần thiết, để từ bỏ mọi kiêu căng, thoát khỏi những lố lăng trần thế, hầu nhận biết Đức Kitô.

 

Truyện : T́nh nghĩa vợ chồng.

 

Tại một trung tâm bài phong, đa số các bệnh nhân đều buồn chán, v́ cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn c̣n biết cười và vẫn c̣n tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.  Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn t́m hiểu xem đâu là nguyên nhân của phép lạ này.  Sau nhiều ngày theo dơi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nh́n vào và mỉm cười rất tŕu mến.  Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày ông chờ đợi nụ cười ấy, khuôn mặt người đàn bà khi xuất hiện, mỉm cười và biến mất.  Người đàn ông duy nhất c̣n biết cười nơi trung tâm bài phong đó đă giải thích cho vị nữ tu đó như sau :

 

“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi ; trước khi tôi đến đây, nàng đă t́m đủ mọi cách để chữa chạy cho tôi. Mỗi ngày nàng lau chùi một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn.  Nhưng cuối cùng nàng không thể giữ tôi lâu hơn, người ta đă đến đưa tôi vào trung tâm này, nhưng vợ tôi đă không bỏ tôi, mỗi ngày nàng đến nh́n qua vách tường và mỉm cười với tôi.  Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn c̣n sống, nhờ nàng, tôi vẫn c̣n muốn sống”.

 

Người vợ đă làm sống lại niềm tin của chồng. Ông ta không c̣n thất vọng, không bi quan, không chán đời và c̣n muốn sống v́ đă được t́nh thương của người vợ ấp ủ. Chính t́nh yêu của người vợ đối với chồng đă làm chứng cho t́nh yêu Thiên Chúa đối với loài người.

 

Người Kitô hữu cũng là chứng nhân của Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, nhaThần học Teilhard de Chardin đă ví von rất sống động :”Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nh́n vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”.

 

Người vợ trong câu chuyện kể trên  phản ảnh một tấm gương sáng ngời về ḷng thương người, luôn quan tâm tới người khác, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân v́ t́nh yêu Đức Kitô như thánh Phaolô nói :”Caritas Christi urget me” : T́nh yêu Đức Kitô thúc đẩy tôi.

 

Mục sư Martin Luther King nói :”Chúng ta không làm chứng chỉ bằng lời nói, mà c̣n làm chứng bằng cả cuộc sống của ḿnh”, đúng như người ta nói :

         Lời nói như gió lung lay,

        Gương bày như tay lôi kéo.

 

Có những tâm hồn dần dần được cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ.

J. Basquin nói :”Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.

 

Ước ǵ nh́n vào đời sống chúng ta, mọi người có thể nói như đă nói về thánh Gioan Vianney :”Tôi đă thấy Thiên Chúa trong một người”.

 

2. Chờ  đợi ngày Chúa trở lại.

Người Kitô luôn nhớ lời Chúa hứa mà phấn khởi trong cuộc sống :”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, th́ Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các conb cũng ở đó

 

 

 

(Ga 14,3).

Trong suốt Mùa Vọng, Giáo hội hướng ḷng chúng ta về Chúa Kitô như một điểm qui chiếu. Giáo hội hành động giống như vị “tiền hô” của Ngài.  Và cuối cùng Giáo hội giải thích cho chúng ta phải chuẩn bị đón Ngài như thế nào.

 

Mùa Vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong ḍng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm ngày lễ Giáng sinh, mà c̣n đến lần chót vào cuối ḍng lịch sử nữa, để lúc ấy sẽ có trời mới đất mới.

 

Và việc Chúa sẽ trở lại lần thứ hai với loài người trong ngày chung thẩm, Tin mừng thánh Matthêu c̣n ghi rơ :”Khi con người đến với tư cách là vị Vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ đều qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra thành hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê... Nhà Vua sẽ nói với những người ở bên phải : Hăy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc ! Hăy đến và lănh lấy Nước Trời làm cơ nghiệp... Rồi Ngài nói với những người ở bên trái : Hăy đi khỏi mặt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,34-41).

 

3. Chờ đợi trong niềm vui.

Đối với Kitô hữu, cuộc sống ở trần gian này là thời gian chờ đợi Chúa đến.  Chúa đến trong ngày chung thẩm và Chúa đến với ta trong ngày sau hết của đời ḿnh. Đời là một cuộc lữ hành đi về trời.  Trong cuộc lữ hành đó có buồn vui sướng khổ xen lẫn nhau. Nhưng trong bài Thánh  thư hôm nay, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica :”Anh em hăy vui mừng luôn  măi”(Tx 5,16).

 

Tại sao Ngài khuyên chúng ta “hăy vui mừng luôn măi” ? Ngài bảo chúng ta hăy vui mừng  v́ chúng ta đă được Thiên Chúa cứu độ :”Linh hồn tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Ngoài ra, chúng ta là con cái Chúa, con cái Chúa th́ phải vui luôn, vui trong lúc buồn, vui trong lúc khổ, vui trong thất bại v́ tất cả nằm trong thánh ư Thiên Chúa.

 

Làm sao chúng ta mang một nét mặt buồn rầu khi chúng ta đến gần Chúa là nguồn vui, như lời thánh vịnh nói :”Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi thanh xuân tôi được vui tươi”. Chúa là nguồn vui, tại sao gần nguồn vui mà lại buồn ? Ta hăy bắt chước thánh Têrêsa Hài đồng mà chấp nhận trong vui tươi :

Vâng, con sẽ hát, con c̣n hát măi

Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.

Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong

Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.(Têrêsa Hài đồng)

 

Truyện : kịch sĩ hài lại buồn

Người ta cho biết tại một thành phố kia có một kịch sĩ nổi tiếng v́ tài nhạo cười. Ai buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu nghe kịch sĩ này pha tṛ th́ thế nào cũng phải bật cười.

 

Cũng trong thành phố ấy có một nhà tâm lư nổi tiếng chữa được hầu hết mọi tâm bệnh. Ngày nọ một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày rầu rĩ đến xin gặp nhà tâm lư.

Được nhà tâm lư hỏi nguyên do, ông trả lời :

- Thưa bác sĩ, tôi là một người thiếu hạnh phúc, cuộc đời tôi quá buồn khổ. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui được không ?

Nhà tâm lư hỏi :

- Ông có quá túng thiếu về tiền bạc  không ?

Ông đáp :

- Thú thật với bác sĩ, tôi là người khá giầu.

Nhà tâm lư hỏi tiếp :

- Thế vợ con ông ra sao ?

Ông ta gật đầu nói :

- Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ  thương.

 

Sau khi hỏi thêm một vài điều khác, nhà tâm lư đề nghị :

- Tôi nghĩ ông nên đến nghe kịch sĩ  nổi tiếng trong thành phố chúng ta. Thế nào ông cũng quên đi được nỗi buồn chán và t́m lại được niềm vui.

- Thưa bác sĩ, tôi xin cám ơn lời khuyên của bác sĩ. Nhưng... Tôi lại chính là kịch sĩ đó !

 

Nghe câu chuyện có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế là vậy. Một con người có biệt tài làm cho người khác dù buồn chán đến đâu cũng phải vui lên được mà chính ḿnh lại là nạn nhân của sự buồn rầu.  Cái mâu thuẫn đó dễ hiểu v́ kịch sĩ  đó ngay trong tâm hồn  không có nguồn vui th́ làm sao ḿnh cảm thấy vui được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là chính niềm vui vĩnh cửu cho chính Ngài và từ nơi Ngài, niềm vui ấy được trao ban cho con người.

         

Chúa Giêsu chính là hiện thân niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung ḷng Chúa Cha, Ngài đến báo tin vui cho nhân loại và giải thoát con người khỏi mọi sầu khổ đau thương gây nên bởi tội lỗi và sự chết.  Ngài đă đem niềm vui đó đến với nhân trần trong đêm Giáng sinh tại Belem : Vinh danh Thiên Chúa tên trời, b́nh an dưới thế cho người Chúa thương.

 

Trong Mùa Vọng này, chúng ta hăy đến với Chúa. Gặp gỡ Chúa là đến với nguồn vui bất tận,  có niềm vui Thiên Chúa trong ḷng ḿnh, chúng ta sẽ làm cho người khác hưởng được niềm vui chân thật và bền vững.

 

Chúng ta hăy nhớ một câu trong bản nhạc rất hay của nhạc sĩ trứ danh Sebastian Bach :

Lạy Chúa Giêsu su, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.

 

Lạy Chúa, xin hăy đến : Maranatha, xin viếng thăm và ban cho chúng con niềm vui Giáng sinh bất tận.

 

 

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

 

  

 

ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?

Chủ đề: "Gioan là người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Hăy sẵn sàng! Đấng Cứu Thế sắp đến!"

Lm. Mark Link, S.J.

 

Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề "Ngày Đức Kitô chết". Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những ǵ người Do Thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến. Đoạn văn đó như sau:

 

"Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia. Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin. Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đ́nh nằm trên giường chờ giấc ngủ đến. Đó là giấc mơ của người tóc đă hoa râm. Đó là điều mà trẻ em mong được nh́n thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến. Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai."

 

V́ thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên gịng sông Giođan, dân chúng rất phấn khởi. Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa Biển Chết. Đó là tụ điểm b́nh dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến. Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới. V́ thế đó là một nơi lư tưởng để Gioan Tẩy Giă bắt đầu rao giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rơ ràng: "Hăy từ bỏ tội lỗi ḿnh… Hăy dọn đường cho Chúa đến, hăy làm một lối thật thẳng để Người đi" (Lc. 3, 3-4)

 

Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan Tẩy Giả đă đến tai những nhà lănh tôn giáo ở Giêrusalem. V́ thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan. Các tư tế đặc biệt lưu ư đến Gioan v́ ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế. Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc ḍng dơi tư tế. Nếu có ai là con cháu của Aaron, th́ không ai có quyền cầm người ấy thực hiện chức năng tư tế của ḿnh. Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.

 

Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: "Ông là ai?". Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ ǵ, nên ông nói: "Tôi không phải là Đấng Cứu Thế ". Các tư tế hỏi: "Nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai? Ông có phải là Êlia không?". Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đă được cất lên trời bằng một chiếc xe rực lửa vào cuối đời. Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến. Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ. Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đă được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.

 

Họ hỏi: "Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?" Gioan lại trả lời: "Không!Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel". Họ hỏi tiếp: "Vậy th́ ông là ai?" Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: "Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: 'Hăy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến'". Muốn hiểu rơ câu nói đó của Gioan Tẩy Giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, c̣n đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của ḿnh, ông sẽ sai một người "tiền hô" tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người "tiền hô" c̣n có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Gỉa cũng lưu ư tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói: "Hăy ăn năn hối cải tội lỗi ḿnh và hăy lănh nhận phép rửa". (Mc. 4)

 

Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: "Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người 'tiền hô' cho Ngài. Hăy chuẩn bị, v́ Ngài sắp đến. Gioan đă làm những ǵ mà mọi vị lănh đạo tôn giáo phải làm. Ông không để cho người ta chú ư tới ông, mà hướng mọi sự chú ư của họ vào Đức Giêsu.

 

Đó chính là những ǵ Giáo Hội làm suốt Mùa vọng. Giáo Hội hướng mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu. Giáo Hội hành động giống như vị "Tiền hô" của Ngài. Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.

 

Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong gịng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài c̣n đến lần chót vào cuối ḍng lịch sử nữa.

 

Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: "Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê… Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hăy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hăy đến và hăy lănh lấy nước trời làm cơ nghiệp… Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hăy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời" (Mt. 25, 34-41).

 

Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, ông chỉ là người "Tiền hô" của Ngài. Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.

Để kết thúc, chúng ta hăy ăn năn thống hối như khi lănh nhận bí tích hoà giải. Xin các bạn hăy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:

 

"Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đă lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa.


Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đă hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hăy nhớ đến con trong nước của Chúa.


Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch t́nh yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hăy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng".

 

Lm. Mark Link, S.J.

 

 

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG

Lm. Augustine, SJ

 

Yêu thương là phục vụ

Hai ông bà Đoàn Tư Hộ (Santi Rillô) có tám người con. Cả tám đều ngoan ngoăn dễ bảo khi c̣n nhỏ. Nhưng khi lớn lên, chúng chịu ảnh hưởng bạn bè, trở nên xa lạ với gia đ́nh.

 

Hai lần ông bà khuyên bảo được các con đi dự cuộc họp thành phố của Đức Maria dành cho giới trẻ, nhưng sự việc đă chấm dứt ở đó. Mỗi đứa con là một thế giới riêng mà sinh hoạt tôn giáo xem ra chẳng mang lại một biến chuyển nào.

 

Ông Tư Hộ không muốn nêu tên người con nào, nhưng về một người con gái ông không ngại nêu chi tiết về những khó khăn ông gặp phải để biểu lộ t́nh yêu mà ông dành cho người con này. Ông chia sẻ như sau:

 

"Người con gái ấy của chúng tôi sau khi tốt nghiệp đại học đă xin đi làm bên Hoa Kỳ. Chỉ sau hai năm Xuyên (tạm gọi như vậy) trở về Phi Luật Tân, chỉ v́ chán với công việc bên Mỹ. Thời gian tiếp theo, Xuyên đi học tạp nham, như cắt may, ngoại ngữ tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha. Thậm chí, có lần Xuyên ghi tên học làm thư kư nữa!

 

Chẳng bao lâu sau đó Xuyên đánh bạn với lớp người x́ ke, đêm về nhà trễ. Chúng tôi có trách mắng, Xuyên cũng bỏ ngoài tai và c̣n tỏ ra giận dữ hơn trước.

 

Khi ấy Xuyên đă 25 tuổi. Tôi chẳng biết xử trí ra sao nên đem câu chuyện đau ḷng này bàn với một người bạn thân ở Tổ Aám. Lời khuyên mà tôi nhận được là: "Hăy cứ tiếp tục yêu thương Xuyên hơn nữa. Hăy yêu và phó thác mọi sự nơi Mẹ Maria."

 

Đó chính là điều vợ chồng chúng tôi rắp tâm thực hiện, tức là yêu thương Xuyên hơn nữa cách vô điều kiện. Khi ấy vợ tôi có việc phải đi Mỹ. Thế là tôi một ḿnh ở nhà t́m đủ cách để tỏ t́nh thương đối với Xuyên. Tôi hiểu yêu thương là phục vụ nên cần phải quên ḿnh đi. Ngày nào tôi cũng xuống bếp lo việc bếp núc thay cho nhà tôi. Tôi giặt đồ cho Xuyên. Ban sáng tôi dậy sớm nấu bữa sáng cho Xuyên. Khi nước nhà máy yếu không đủ sức vọt, tôi xách sô nước lên lầu cho Xuyên dùng. Cứ như vậy suốt sáu tháng, tôi tiếp tục biểu lộ t́nh yêu qua những việc thường ngày, mặc dầu nhiều lúc tôi cảm thấy ḿnh không được khoẻ lắm.

 

Một hôm Xuyên đến nói với tôi: "Có khi tốt hơn con nên sang bên Canada thay v́ ở Phi Luật Tân? Thế là tôi đă chiều theo mà sắp xếp mọi sự để Xuyên sang ở bên Canada. Tôi cũng mua những đồ Xuyên cần cho chuyến đi này.

 

Chứng từ trở nên đáng tin

Sau khi Xuyên ra đi, tôi đă phải nằm bệnh viện một tuần v́ kiệt sức do cố gắng chăm sóc Xuyên. Nhưng khi tôi xuất viện, vợ chồng tôi đă nhận được lá thư bất ngờ sau đây:

 

Ba rất quí mến, con cám ơn ba về tất cả những ǵ ba đă dành cho con. Con được thôi thúc rất nhiều do việc ba hằng cố công giúp đỡ và dẫn dắt con. Tất cả những điều đó giờ đây trở nên tươi đẹp dưới cái nh́n của con và con cảm nhận được sự hiện diện của Chúa ngang qua ba. Con xin hiệp ḷng hiệp ư với ba nguyện xin Chúa cho biết Người hiện muốn cha con ta phải làm ǵ tới đây. Ba đă cho con hơn điều mà người cha có thể cho con ḿnh. Đó là điều con sẽ luôn giữ làm kho báu để luôn nhận Chúa là quan trọng hơn hết trong đời con. Con đă nhận ra tất cả những điều vừa nói và đă h́nh thành điều chọn lựa ấy nhờ ba dẫn dắt. Con cám ơn ba rất nhiều. Con yêu ba."

 

Từ ba năm nay Xuyên vẫn ở thành phố Đông Đô (Toronto), Canada, vừa đi học vừa đi làm. Xuyên năng viết thư về nhà để biểu lộ t́nh yêu và ḷng hiếu thảo.

Xuyên cũng tham gia Tổ ấm tại Đông Đô và giúp giới trẻ của Phong Trào.

 

Gioan Tẩy Giả và những người chứng

Lời chia sẻ vừa trích của ông Tư Hộ chẳng thể ăn khít với nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, Chắc chắn ơn sám hối của cô Xuyên, con ông phải do Chúa tác động. Nhưng cách nào đó chính Chúa đă khơi dậy nơi ông một t́nh yêu bất khuất làm cho con ông được khắc phục mà nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi ông.

 

C̣n bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu cho thấy Phụng Vụ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, muốn chính ông Gioan Tẩy Giả lên tiếng tự giới thiệu ông là ai và Đức Giêsu là ai

Ông là tiếng người hô trong hoang địa:

Hăy sữa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.

Như ngôn sứ Isaia đă nói (Mc 1,23). C̣n Đức Giêsu mới là nhân vật chính: "Đấng ấy là Đấng đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (c.27)

 

Nhưng tác giả Tin Mừng thứ bốn luôn đưa ông Gioan Tẩy Giả ra sân khấu trong một khung trời sáng tạo. Ở lời tựa cũng như ở khởi đầu của Sách Tin Mừng thứ bốn, ông Gioan Tẩy Giả đều là người chứng.

 

Lời tựa gồm 18 câu mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập hai câu 6-8 mà thôi. Lời tựa khởi sự với lời khởi đầu của sách Sáng Thế, tức Lúc khởi đầu (in the beginning). Ở đâu Ngôi Lời được nh́n nhận là Thiên Chúa (Ga 1,1). Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Người th́ chẳng có ǵ được tạo thành. Điều đă được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (cc. 3-4). Thế mà Gioan vẫn được giới thiệu là "người làm chứng về ánh sáng" (c.7). Tại sao? V́ trong kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa đă muốn dùng người chứng thay v́ thiên thần làm chứng để con cháu Ađam tin mà được sống.

 

Từ lời tựa ấy Gioan Tẩy Giả bước vào chương đầu sách Tin Mừng để làm chứng. Ở đây ông xuất hiện, giữa công tŕnh tạo dựng như thấy ở đầu sách Sáng Thế. Bảy ngày tạo thành được tŕnh bày như sau.

 

Ngày thứ nhất (cc.19-28):

Người chứng: Gioan Tẩy Giả ngỏ lời cùng một số thầy Tư tế và Lêvi từ Giêrusalem.

Chứng từ: bản thân ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là ngôn sứ Eâlia (Mal 3,23) mà người Do thái từng mong đợi. Cũng không phải là vị ngôn sứ nói đến trong Đệ Nhị Luật 18,15-18, nhưng là "Tiếng người kêu trong hoang địa," chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ông.

 

Ngày thứ hai (cc.29-34):

Người chứng: Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa Giêsu.

Chứng từ: cho biết Đức Giêsu Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, Đấng có Thánh Thần ngự xuống và là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần; Người là Đấng được Thiên Chúa tuyền chọn.

 

Ngày thứ ba (cc.35-39):

Người chứng: là Gioan Tẩy Giả ngỏ lời cùng hai môn đệ của ông với kết quả là họ đă trở nên môn đệ của Đức Giêsu.

Chứng từ: được nêu: "Đây Chiên của Thiên Chúa" có ư nói Đức Giêsu là Chiên của Lễ Vượt Qua; hoặc Người tôi tớ chịu đau khổ cách lặng lẽ như chiên bị xén lông trong Is 53,7.

 

Ngày thứ bốn (?) (cc.40-42):

Người chứng: là Anrê và Simon.

Chứng từ: "Chúng tôi đă t́m thấy Vị Cứu Tinh"

 

Ngày thứ năm (cc.43-51):

Chứng nhân: Philip ngỏ lời với Nathanaen.

Chứng từ: Đấng mà Môsê và các ngôn sứ đă loan báo, chúng tôi đă gặp.

 

Ngày thứ sáu

Chứng nhân: Nathanaen

Chứng từ: "Ngài là Con Thiên Chúa; Ngài là vua Ít-ra-en."

 

Ngày thứ bảy (Ga 2,1-11)

Chứng nhân: Phép lạ của Đức Giêsu tại tiệc cưới Cana.

Chứng từ: Đức Giêsu đă mạc khải vinh quang Người cho các môn đệ Người (2,11).

 

Rơ ràng ông Gioan Tầy Giả là người chứng nổi bật: ba lần làm chứng với ba chứng từ quan trọng khác nhau. Tin Mừng Matthêu đă giới thiệu Đức Giêsu là Đấng cứu dân ḿnh khỏi tội (1,21). Gioan Tẩy Giả đi xa hơn khi làm chứng Người thực hiện việc xóa tội trần gian với tư cách là chiên của Thiên Chúa để ám chỉ về người tôi tớ của Thiên Chúa chịu đau khổ để đền tội cho dân (x. Is 53,6-10)

 

Riêng về bản thân, ông Gioan Tẩy Giả khẳng định ông chỉ là tiếng người kêu trong hoang địa (Gz 1,23.27). Oâng không chỉ khiêm nhường nói rằng ḿnh chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ông là Đức Giêsu, mà chính ông c̣n giới thiệu đề hai môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu (c.37). Lời chứng cuối cùng của ông là Đức Giêsu phải nổi bật lên, c̣n ông phải lu mờ đi (x. 3,30).

 

Sau Người chứng Gioan Tẩy Giả, là cả một loạt những người chứng khác xuất hiện nhờ tiếp cận với Đức Giêsu. Điều được hiểu ngầm là họ cũng phải theo con đường của người chứng thứ nhất. Cả họ nữa cũng phải theo con đường từ bỏ ḿnh là con đường mà Gioan Tẩy Giả đă đi, để điều họ làm chứng trở nên đáng tin.

 

Quả thật lời chia sẻ của ông Tư Hộ cho thấy lời chứng của ông đáng tin đối với người con gái của ông v́ chính ông đă đi trên con đường phục vụ trong khiêm hạ là con đường mà Gioan Tẩy Giả đă đi.

 

Một số câu hỏi gợi ư

1. Đọc lời chia sẻ của ông Tư Hộ, bạn tâm đắc được điều ǵ về điều ông nói: "Tôi hiểu yêu thương là phục vụ nên phải quên ḿnh đi" và ông đă quên ḿnh như thế nào?

2. Bạn tâm đắc được ǵ về thư cô Xuyên gởi ông Tư Hộ?

3. Bạn hăy kể ra những người chứng và những chứng từ của họ về Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.

 

Lm. Augustine, SJ

 

ChỨng nhân cho ĐỨc Kitô

Ga 1, 6-8.19-28

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR

Chúa nhật 3 Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai h́nh ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa: một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi v́ thời cứu độ đầy khích lệ, đầy an ủi đă gần kề chúng ta; hai là h́nh ảnh kham khổ, khiêm tốn của Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan Tiền Hô là ai vậy ?

Cuộc đời của các Kitô hữu là cuộc hành tŕnh tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn c̣n lo âu, vẫn c̣n thử thách, vẫn c̣n tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hăy vui lên. Bởi v́ Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự an b́nh chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, ḷng khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đă nêu gương cho chúng ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đă trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa.


THỜI GIAN GIÚP NHÂN LOẠI NHẬN RA LỜI HỨA CỦA THIÊN CHÚA ĐƯỢC THỰC HIỆN NƠI LỊCH SỬ CON NGƯỜI :

Thời gian là một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Ḍng đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái ǵ đó con người khó ḷng định nghĩa, khó ḷng xác định. Con người chỉ biết được ḿnh được sinh ra tại một nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định. Chỉ có một ḿnh Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi v́ Ngài sống trong cơi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cơi vĩnh cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong khoảng khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này, thời gian đă trở thành một thực tại không ai có thể chối căi được. Do đó, chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế giới bắt đầu. Thiên Chúa đă ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu Thế đă sinh ra bởi ḍng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời gian nhất định:” Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến “.


GIOAN TIỀN HÔ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA ĐỨC KITÔ:

Thánh Gioan trong chương 1,6-8 đă viết: ” Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng “. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng cho Chúa, Gioan đă là chứng nhân trung thành nhất, kiên tŕ và hoàn hảo nhất cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đă sống đời sống hết sức khổ hạnh, Người đă rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của Người: ” Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hăy sửa cho ngay đường Chúa đi “ ( Ga 1, 23 ). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối:” Ngài phải lớn lên, c̣n tôi phải nhỏ lại “. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô là chủ, là Chúa và là Thầy.


CHÚNG TA CŨNG PHẢI LÀ CHỨNG NHÂN CHO CHÚA:

Như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống của ḿnh. Bởi v́, Chúa Cứu Thế đă tới trần gian như thánh Gioan viết:” Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1, 9 ). Con Thiên Chúa đă thực sự làm người và ở giữa thế gian:” Người ở giữa thế gian, và thế gian đă nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người “( Ga 1, 10 ). Chính v́ thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống với, sống v́, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng: ” Ngôi Lời đă trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đă được nh́n thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “( Ga 1, 14 ). Các Tông Đồ đă nh́n thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời điểm trong cuộc đời trần thế của Người ( Ga 2, 11 và Lc 9, 32 ). Chính các Tông Đồ đă nh́n thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Các Ngài đă làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng như Gioan Tẩy Giả đă làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa trần gian, chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Giêsu như các Ngài đă làm chứng.


ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:

Chúa đă đến trần gian, đă chết và sống lại v́ yêu thương con người. Chúng ta đang trên con đường hành tŕnh lữ thứ, chúng ta phải năng lắng nghe và thực thi lời Chúa qua đời sống cụ thể hằng ngày. Làm chứng cho Chúa bằng gương sáng và bằng những hành động bác ái cụ thể trong đời sống mỗi người chúng ta. Bí tích Thánh Thể là lương thực nuôi sống chúng ta và là bằng chứng chúng ta tôn kính, thờ lạy và làm chứng cho Ngài.


Lạy Chúa, xin hăy dạy chúng con sống thánh thiện để được rước Chúa và siêng năng, cần mẫn rước Chúa mỗi ngày. Xin làm cho tâm hồn chúng con trở nên đền thờ sống động, xứng đáng cho Chúa ngự trị. Amen.


GỢI Ư ĐỂ CHIA SẺ:

1.     Chúa nhật 3 Mùa Vọng day chúng ta những ǵ ?

2.     Tại sao Gioan Tẩy Giả lại là người chứng quan trọng?

3.     hánh Gioan Tiền Hô đă làm ǵ để cho nhiều người nhận ra Chúa Cứu Thế đến và xuất hiện ?

4.     Thái độ nào chúng ta phải có để làm chứng cho Đức Kitô.

 

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR

 

 

  

Có MỘt NgưỜi Ở GiỮa Anh Em

Ga 1,6-8. 19-28

Lm. An Phong, OP

 

Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là : Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan - người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng từ rơ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận tất nhiên : Gioan nhận ra ḿnh không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.

 

Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra ḿnh không xứng đáng.

 

Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đă hao tổn biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức h́nh dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là "sự sợ hăi của Isaác" (St 31,42), là "Đấng Tối Cao của Giacóp" (St 49,24)... Với Isaia, Ngài là "Người Tôi Tớ đau khổ"...

 

Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ ḍ ư tưởng riêng của ḿnh. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời "tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu"; hoặc "có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận ra".

 

Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị Thiên Chúa t́nh yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ "đứng đường"... bởi Ngài là t́nh yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.

 

Như Gioan, nhận ra ḿnh không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa t́nh yêu bao la; ta đấm ngực "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nghĩa là dám nhận ra ḿnh c̣n "những điều thiếu sót", chưa làm những điều phải làm để gia tăng t́nh yêu. Victor Hugo đă có lần lên tiếng cảnh tỉnh : Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa t́nh yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét".

 

Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao t́nh yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.

 

Lạy Chúa Giêsu,

Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;

 

Nhưng h́nh như con chưa dám "đóng vai Chúa" để đến với những người nghèo khó, khổ đau chung quanh con. Và h́nh như con chưa nhận ra Chúa là t́nh yêu, Chúa đang mời gọi t́nh yêu nơi chính tâm hồn của con. Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên t́nh yêu trong con và đốt nóng tâm hồn của con bằng t́nh yêu của Chúa.

 

Lm. An Phong, OP



 

TIN MỪNG GIẢI PHÓNG

Ga 1,6-8. 19-28

Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP

TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đă xuống trần gian để mạc khải t́nh Cha yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Đúng hơn, "Ngôi Lời hằng hữu đời đời đă nhập thể làm người Á châu," (ĐGH Gioan Phaolô II :VietCatholic:8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy cơ chế bất công nhất thế giới.

 

DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐI

Cho đến hôm nay, Đức Giêsu vẫn c̣n là một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nh́n Đức Phật, Khổng Tử, Lăo tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay "ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin" (Ga 1:7). Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ư thức rất rơ sứ mệnh và vai tṛ của ḿnh. Ông chỉ là trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân, chứ không phải là người muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đă khẳng định: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : Hăy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi" (Ga 1:23; Is 40:3). Những người Pharisêu "cứ gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là ai" (Life Application Study Bible:1991).

 

Dọn đường cho Chúa đi vào ḷng người. Chúa là nguồn b́nh an và hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ. Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến ? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi người : "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết" (Ga 1:26). Chính v́ thế, vai tṛ Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có thể thấy được Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian." (Ga 1:29) Ông đă đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đă chỉ cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Đức Giêsu.

 

"Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng" (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như thế, ông mới giữ trọn được niềm vui cho ḿnh và các môn đệ. Đức Giêsu đă không hề "dập tắt thần khí" (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả khi ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều lần Người c̣n ca ngợi ông cao trọng "hơn cả ngôn sứ" (Mt 11:9) và bất cứ "phàm nhân" nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ bất xứng : "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Ga 1:27).

 

Đúng thế. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa."Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành" (Ga 1:3), trong đó có Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Đấng Tạo hóa ?! Nhưng "Ngôi Lời đă trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (c.14). Nghĩa là "Người đă đến nhà ḿnh, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (c. 11). Chính v́ thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đă t́m được niềm vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đă thành công rực rỡ tới mức đổ máu v́ sự công chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.

 

NHẬN DIỆN

TIN MỪNG đă bắt đầu vang lên với chứng từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Đức Giêsu xuất hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa đă công khai xác nhận "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Lc 4:21) : "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, V́ Chúa đă xức dầu tấn phong tôi, Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đă sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, Cho người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của Chúa." (c.18-19; Is 61:1-2).

 

Từ nay TIN MỪNG đă trả lại cho tất cả những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xă hội đă được Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ư với việc "Phúc Âm hóa Á châu" trong thông điệp "Giáo hội tại Á châu" của Đức Giáo Hoàng ? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo hội đang đi ngược ḍng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xă hội đời sống "công chính, b́nh an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17), Giáo hội đáp ứng những ǵ các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. "Giáo hội xác tín rằng trong ḷng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát "Nước Hằng sống" (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đă tạo ra và chỉ có ḿnh Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa măn đầy đủ" (Giáo hội tại Á châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đă nêu lên được lư tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ không muốn khống chế con người.

 

Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những "chuyên viên" Phúc Âm hóa "lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu" (Cuộc tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối khống chế đó đă làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu tŕ trệ và thất bại.

 

Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng. Thực tế "Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và hoạt động c̣n mănh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa" (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của các dân tộc.

 

Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước những ǵ ? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy công lư ngự trị. Đây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc nào hết, chúng ta cố gắng "thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng được triển nở ở mọi cấp bực xă hội" (ĐGH Gioan Phaolo II:

 

Nhưng muốn thực hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lư tưởng Kitô hữu sau đây :

T̀NH YÊU phục vụ tha nhân,

Sống là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời.

TÍN THÀNH sống đạo làm người,

Hồng ân thắp sáng bầu trời TỰ DO.

Hai vai TRÁCH NHIỆM 'tiền hô' :

TIN MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.

 

Lư tưởng đó đă được Thần Khí khơi dậy nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lư tưởng tuổi trẻ đă bị vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô cảnh cáo : "Anh em đừng dặp tắt Thần Khí." (1 Tx 5:19) Đặc biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như "trung tâm đời sống phụng vụ" (ĐGH Gioan Phaolô II : CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo lư và luân lư cho giới trẻ Kitô hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng để giáo dân "uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin, "bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong t́nh thân ái, và duy tŕ nỗ lực chúng ta trên cuộc hành tŕnh dương thế." (CWNews 25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng văn hoá trần tục. Muốn t́m được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ "cần phải tiếp tục cuộc hành tŕnh, khởi sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh Thể." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo dân "ư thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng" và sẵn sàng đem sứ điệp Tin Mừng vào trần gian. Muốn "làm chứng về ánh sáng"(Ga 1:7.8) là Đức Kitô giữa thế giới ch́m đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh mẽ (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin Mừng.

 

Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP

 

 

Đơn GiẢn Là Như ThẾ

Ga 1,6-8. 19-28

Lm. Giuse NguyễnCao Luật, OP

Tôi chẳng phải là ai cả

Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đă vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lănh nhận phép rửa ? Con người này có sứ mạng ǵ mà lời rao giảng của ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đă im vắng được ba thế kỷ ?

 

Người Do-thái, hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đă muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của ḿnh. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết của ḿnh.

 

Trước hết, họ muốn biết có phải là Đấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đă mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ h́nh ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đă có nhiều h́nh ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lănh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ đă nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.

 

Ông có phải là ngôn sứ Ê-li-a không ? Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đă tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Ê-li-a là một chứng nhân vĩ đại về ḷng tin. Ông đă được cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Ê-li-a đă bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đă biết ông là ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.

 

Người ta vẫn dựa trên những h́nh ảnh quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai tṛ riêng của ḿnh, và ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.

 

Đơn giản là một chứng nhân

Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.

 

Ông tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.

Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai tṛ hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức Ki-tô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.

 

Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho người ta xác định về ḿnh. Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. V́ vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn ḿnh là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của ḿnh. Ông Gioan chỉ muốn ḿnh là người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào ḿnh. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Đây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.

 

Đàng khác, câu trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lư lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết và quư giá để chỉ cho mọi người thấy rằng : có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết".

 

Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết rơ về Đức Giêsu. Đang khi ông d́m người khác trong nước để thức tỉnh và thanh tẩy họ, th́ chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều : "Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người" ; "có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, v́ có trước tôi" ; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.

 

Ông chỉ biết rằng chính ông không phải là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rơ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức Ki-tô khi tới thời gian đă được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô h́nh, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.

 

Về một Thiên Chúa đă biết và chưa biết

Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa.

 

Làm thế nào bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nh́n thấy được ? Đấng tự nhận ḿnh là Chân Lư tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai ? Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai ?

 

Các nhà thần học luôn t́m ra những lư luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn ḿnh để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v... Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả măn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đă đề ra chúng được thoả măn.

 

Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu thấu : chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nh́n rơ chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.

 

Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho cảm giác và lư luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính ḷng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế th́ phải chăng chúng ta bị kết án phải t́m đến Người trong bóng đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh ?

 

Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.

 

Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn ḿnh nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai tṛ rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu : giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người t́m kiếm Thiên Chúa, t́m kiếm Chân Lư và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.

* * *

Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường. Thiên Chúa của tôi là thế này : kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.

Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,

Người là những ǵ đă có, hiện có và sẽ có,

 

Người là tất cả, nhưng không có ǵ là Người,

Chúa tôi gây sững sờ

là Đấng người ta tin nhưng không thấy,

người ta yêu mến nhưng không sờ được,

người ta trông chờ nhưng không nghe theo,

người ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.

(Juan Arias - Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)

 

Lm. Giuse NguyễnCao Luật, OP



 

ChỨng nhân Gioan TẨy GiẢ

Ga 1,6-8.19-28

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

 

Gioan Tẩy Giả là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, v́ ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Ki-tô, Ngài đă sống và chết cho vai tṛ chứng nhân của ḿnh.

 

Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan tông đồ đă cho chúng ta biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy Giả là làm chứng cho Đấng Cứu Thế : “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đă đến để làm chứng, để chứng thực về Sự Sáng, ngơ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là Sự Sáng, nhưng là người làm chứng cho Sự Sáng”. Sự Sáng đây là Đấng Cứu Thế và Gioan đă làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên tŕ nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đă làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng máu.

 

Gioan Tiền Hô đă làm chứng bằng lời nói : chúng ta biết vai tṛ hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đă đóng vai tṛ đó, ngài đă nói những ǵ ? ngài bảo cho mọi người biết : “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị  đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đă có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đă chỉ vào Chúa và nói với dân chúng : “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan c̣n cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người : thưởng phạt mỗi người tùy theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết : Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.

 

Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan c̣n làm chứng bằng hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan là một người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời chú ư, tại sao vậy ?  bởi v́ ngài chỉ nói sau khi đă làm hay đă sống, đă kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đă lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Gia-vê, ngài đă sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi v́ ngài biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, c̣n ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Nói rơ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu ngài không quên cái tôi của ḿnh, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh v́ người khác. Tóm lại, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là v́ ngài chỉ nói những ǵ ngài đă sống, đă làm, đă kinh nghiệm : “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói của Gioan đă làm chuyển biến ḷng người, nhưng đời sống và gương sáng của ngài đă thuyết phục được mọi người.

 

Sau hết, bởi v́ Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đă làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động, ngài c̣n muốn làm chứng bằng chính máu của ḿnh nữa. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hê-rô-đê với bà Hê-rô-đi-a, vợ của anh vua, nên ngài đă bị tống giam vào ngục. Bà Hê-rô-đi-a vẫn chưa hài ḷng, v́ Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà t́m cách giết cho được Gioan, chính v́ thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hê-rô-đê, lợi dụng lúc ông đă ngà ngà say, bà xúi con gái là Sa-lô-mê xin chiếc đầu của Gioan, v́ Hê-rô-đê vui thú trước những điệu múa của Sa-lô-mê và hứa cho cô bé bất cứ thứ ǵ dù là nửa nước. Thế là Gioan đă phải chết, ngài đă chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lư bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài.

 

Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Ki-tô hữu phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh : thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đ̣i chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đ̣i chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của ḿnh, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng của sự thật : suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều ǵ có ngài chân nhận, điều ǵ không có ngài nói không.

 

Chúng ta hăy kiểm điểm và suy nghĩ : chúng ta có bao giờ nói dối không ? Chúng ta phải nh́n nhận rằng không những chúng ta có nói dối mà c̣n nói dối nhiều nữa, rồi nhiều khi chúng ta c̣n ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là ḿnh thật thà, thẳng thắn, vô vị lợi…để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của ḿnh. Nếu chúng ta đă sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có, không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn thận, v́ sự thật dễ mất ḷng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những ǵ ḿnh nghĩ, ḿnh biết, đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hăy nói, mà đă nói th́ không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn măi.

 

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

 

 

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG.

Jn. 1,6-8. 19-28.

Gp.Vĩnh Long

 

Anh chị em thân mến.

Trong thời buổi kinh tế thị trường của thời đại, nghệ thuật quảng cáo chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Trên đường phố, những nơi nào có thể được là có những h́nh ảnh giới thiệu những ǵ mà người ta cần đến. Trên TV cũng thế, bất cứ giờ phút nào cũng có những thông tin cần thiết về những sản phẩm, có khi làm cho người nghe phải khó chịu. Nhưng lại rất hiệu quả, v́ khi qua những giây phút khó chịu đó, nó dường như có một chút ǵ c̣n lại nơi người nghe. Không chỉ có thế, c̣n có những con người mang sản phẩtm đến tận nơi người tiêu dùng, với những kiểu nói hết sức duyên dáng và thu hút, làm cho người đối diện không thể nào làm ngơ được. Những người quảng cáo nầy c̣n được goi là nhân viên tiếp thị, họ chịu trách nhiệm về mặt hàng, họ giải thích hiệu quả và chỉ cách cho khách hàng xử dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra c̣n có những giải thưởng hết sức hấp dẫn cho người tiêu dùng, khiến cho mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng tận t́nh.

 

Chúng ta vừa lắng nghe một nhân viên tiếp thị, nhưng không phải tiếp thị cho mặt hằng nào, mà là thông báo và quảng cáo phần thưởng cho những ai biết chuẩn bị chu đáo để đón mừng Đấng có uy quyền đến với họ. Nhân viên tiếp thị không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng hành động và cả cuộc sống. Một đời sống khiêm nhường chân thật để làm chứng cho sự thật. Một đời sống thanh thoát để hướng mọi người về trời cao. Một đời sống khắc khổ để kêu gọi mọi người hy sinh, chịu khó để dâng cuộc đời cho Chúa. Oâng biết chấp nhận sự thật, quên ḿnh đi, để hướng mọi người về Đấng Cứu Thê mà ông giới thiệu. Oâng kêu mời mọi người thay đỗi đời sống cho tốt hơn để xứng đáng chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Oâng cũng làm gương cho mọi người biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, chấp nhận những ǵ là của ḿnh, để biết sống trọn vẹn và chu toàn trách nhiệm thật chu đáo.

 

Những người của ngày xưa không thể nào ngồi yến bất động, khi nghe thấy những lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả, họ chạy đến với Gioan, nhận phép rửa thống hối. Họ cũng đến với Gioan để t́m cho ḿnh một con đường sống theo Thánh ư Chúa.

 

Chúng ta, những con người của ngày hôm nay, cũng nghe những lời của ngày xưa, cũng gợi lại trong tâm trí chúng ta h́nh ảnh sống động của một chứng nhân. Nhưng nhân viên tiếp thị hết sức thuyết phục của ngày xưa, cũng đang dùng hết khả năng của ḿnh cho những người của ngày nay, không biết có mang lại chút kết quả nào không?

 

Mỗi người trong chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, nhưng chúng ta sống như thế nào? Giờ đây lời kêu mời lại vang lên một cách sống động và tha thiết. Nếu chúng ta thấy được ḿnh thiếu thốn về đạo đức, thiếu về ḷng nhân ái, thiếu thốn về nhân cách làm người mà biết chạy đến với Chúa khi nghe lời kêu mời của Gioan, để xin Chúa đong đầy những ǵ c̣n thiếu nơi chúng ta.

 

Nh́n vào gương làm chứng của Gioan Tẩy Giả, chứng ta cũng quyết là những chứng nhân sống động như Ngài; khi chúng ta biết làm cho Chúa Kitô hiện điện trong đời sống của ḿnh thật sự. Đó là những lúc chúng ta biết quên ḿnh mà đến với người khác để giúp cho họ sống tốt hơn qua những lời nói chân thành, qua sự giúp đở nhẹ nhàng đối với những ǵ mà người ta cần. Cũng là những lúc chúng ta nh́n thấy được trách nhiệm, những ǵ phải làm mà không ngần ngại, cho dù nh́n thấy những khó khăn trước mắt. Trong những lúc chúng ta nh́n thấy những lợi lộc của trần gian, những niềm vui không phải của ḿnh, chúng ta không cần đến cũng không t́m cách chiếm hữu nó; những lúc đó chúng ta đă trở nên một chuyên viên tiếp thị xuất sắc cho chúa Kitô như vị Tiền Hô của ngày xưa. Khi đó mọi người nh́n vào chúng ta và họ cũng nh́n thấy, cũng lắng nghe được sứ điệp loan báo về Chúa sắp ngự đến. Khi đó chúng ta không chỉ loan báo bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống và cả con người của chúng ta. Khi đó Chúa đă đến thật sự.

 

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, đễ biết nhận ra Chúa và sống xứng đáng là Chứng nhân trung thành của Chúa trong cuộc sống đời thường.

 

Gp.Vĩnh Long

 

 

 

LÀM CHỨNG TRONG NIỀM VUI

Ga 1, 6.8.19 – 28

Gp.Vĩnh Long

 

Cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng của năm Phụng vụ 2009. Với Chúa nhật này chúng ta đă đi được nửa đoạn đường của mùa vọng năm nay. Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Vui mừng v́ ngày Đại lễ Giáng sinh sắp tới. Ngày đại lễ Giáng sinh nhắc nhớ chúng ta về một niềm vui trọng đại. Niềm vui con người chúng ta được đón nhận Đấng Cứu Thế Giêsu. Niềm vui này không thể giữ cho riêng ai mà cần phải được loan báo cho nhiều người được biết.

 

Đoạn Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chứng nhân loan báo niềm vui ấy. Chứng nhân ấy là Thánh Gioan Tẩy Giả. Mở đầu đoạn Tin mừng Thánh sử Gioan giới thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1, 6- 7). Kế đến, người Do thái muốn biết Gioan là ai th́ ông đă trả lời: “ Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hăy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23) và “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 26b – 27).

 

Chính trong niềm vui mà Thánh Gioan Tẩy giả đă ư thức được vai tṛ làm chứng của ḿnh. Vai tṛ giới thiệu làm chứng cho Đấng Cứu Thế Giêsu. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 cũng đă kêu mời chúng ta hăy vui mừng luôn măi (1Tx 5, 16 ). Thánh nhân cũng là một trong những người cảm nhận được niềm vui trong Chúa. Do đó, cả đời thánh nhân từ một con người căm ghét những ai tin vào danh Đức Kitô trở thành một chứng nhân hăng say rao giảng Đức Kitô.

 

Đấng Cứu Thế Giêsu đến trần gian này đem lại cho nhân loại một niềm vui mới. Người ta nói niềm vui đem chia sẻ th́ niềm vui sẽ nhân đôi. Mỗi người chúng ta chắc chắn ít nhiều cũng cảm nhận được niềm vui mà Chúa mang đến cho ḿnh. Chúng ta hăy đem chia sẻ niềm vui ấy cho những anh chị em xung quanh bằng cách sống theo những ǵ Chúa dạy. Đó là chúng ta đang làm chứng cho Người trong niềm vui.

 

 

NIỀM VUI ĐÍCH THỰC

Ga 1, 6-8, 19-28

Gp.Vĩnh Long

 

Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, nghĩa là chúng ta đă trải qua hơn nữa chặng đường của Mùa Vọng. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta hăy vui lên. Tại sao vậy? Điều ǵ khiến chúng ta cần phải sống tâm t́nh hân hoan như thế? Vâng, chúng ta có rất nhiều lư do để vui mừng:

 

Trước hết, chúng ta vui mừng v́ Chúa đă nhập thể làm người và đă mang lại cho chúng ta ơn cứu độ. Chúa đă đến và đă hiện diện trong lịch sử nhân loại, mang lại cho con người hồng ân lớn lao là cứu con người khỏi quyền lực sự chết và phục hồi cho con người địa vị làm con cái Thiên Chúa. Nhưng có lẽ nhiều người chúng ta không cảm thấy đây là một vinh dự lớn lao mà lại xem thường v́ thấy làm con cái Thiên Chúa đâu có hơn ǵ người khác đâu. Quả thật, nếu nh́n theo phương diện phàm trần th́ được làm con Chúa không hơn và không khác ǵ với những người khác, thậm chí c̣n phải mang lấy nhiều trách nhiệm hơn những người khác. Nhưng về phương diện đời sống thiêng liêng, chúng ta đang nắm giữ một vinh dự quá lớn lao, đang sở hữu một gia nghiệp sung măn và vững chắc mà không ai trên trần gian này có thể có hay dám nghĩ tới. Chúng ta có quyền hy vọng như thế v́ Chúa đă ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu của Ngài rồi th́ không c̣n có ǵ mà Ngài lại từ chối không ban cho chúng ta. Tuy nhiên, hạnh phúc Nước trời chỉ nằm ở cuối chặêng đường trong hành tŕnh đức tin của chúng ta. Phần thưởng ấy dành cho những ai hết ḷng tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa qua nỗ lực sống thánh thiện trong từng ngày sống của ḿnh. Sống tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa chính là chu toàn sứ mạng của ḿnh, chu toàn những phận vụ mà ḿnh đă lănh nhận từ nơi Thiên Chúa như những nén bạc được Thiên Chúa trao ban.

 

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sống niềm vui và sống tín thác vào Thiên Chúa, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là người sống niềm vui tràn đầy v́ ngài được kêu gọi làm Ngôn sứ của Chúa và làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đă sống hết ḿnh và hết t́nh với nhiệm vụ của ḿnh trong sự khiêm tốn lạ lùng để làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Đấng Cứu Độ muôn dân hằng mong đợi. Thánh Gioan đă hạ ḿnh xuống để cho làm cho Đức Giêsu được sáng lên. Ngài đă nói “Người phải lớn lên c̣n tôi phải nhỏ lại”. Thánh Gioan làm được điều đó v́ ngài đang mang trong ḿnh niềm tin yêu và hy vọng vào Thiên Chúa của ngài. Chúng ta cũng cần mang lấy tâm t́nh đó để sống vui trong từng ngày sống làm Kitô hữu và làm chứng nhân cho Thiên Chúa.

 

Chúng ta c̣n phải vui mừng v́ biết bao những ơn lành người đă ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đây là điều ít ai trong chúng ta nghĩ tới. Chúng ta thường có quan niệm coi Thiên Chúa như một vị khách hoà hiệp nào đó, lâu lâu ghé thăm chúng ta một lần rồi tặng cho chúng ta một món quà nào đó, thấy cũng vui vui vậy thôi. V́ nh́n Thiên Chúa như thế, cho nên chúng ta không thấy cần Thiên Chúa trong cuộc đời của ḿnh bao nhiêu: có Ngài cũng được, không có Ngài cũng chẳng sao. Thậm chí nhiều lúc, chúng ta c̣n nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này khi chúng ta thấy thiên tai, bệnh tật, bất công, đói nghèo xảy ra nhan nhản trước mắt; khi chúng ta thấy kẻ ác lại sống sung túc và dư dật, c̣n kẻ lương thiện, hiền lành th́ lại sống chật vật và bị chèn ép tứ bề. Nh́n thấy nhân t́nh thế thái như vậy th́ làm sao chúng ta vui được? Làm sao chúng ta có thể hân hoan tiến bước trong đời sống đức tin của chúng ta được? . . .

 

Tất cả những điều ấy chỉ có thể giải đáp trong đời sống đức tin mà thôi. Nhưng tắt một lời là nếu vắng bóng Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta một giây phút thôi, nếu Thiên Chúa ngưng ǵn giữ vù trụ này một giây phút thôi th́ tất cả sẽ ra tro bụi hết, sẽ về cơi hư vô hết. Chúng ta cũng cần hiểu biết rằng: nếu không có cuộc sống đời sau và sự sống vĩnh cửu th́ cuộc đời này sẽ vô lư, vô nghĩa và nói như Jean Paul Sarte: “Cuộc đời này buồn nôn” vô cùng. Nhưng chúng ta tin có sự sống đời sau, có thưởng phạt trong cuộc sống mai sau. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng: Số phận của con người chúng ta sẽ khác biệt nhau trong cuộc sống mai sau tuỳ vào lối sống hiện tại của chúng ta. Kẻ dữ, người lành sẽ được Thiên Chúa tách biệt ra như “mục tử tách chiên ra khỏi dê” vậy. V́ thế, mọi việc làm của chúng ta ở cuộc đời này cần phải được đặt nền móng trong Thiên Chúa, trong cuộc sống mai sau. Có như thế th́ chúng ta mới thấy phấn khởi và hân hoan tiến bước. Chúa Giêsu đă khuyên nhủ chúng ta rằng: “anh em hăy ra công làm việc không phải v́ lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, " (Ga 6,27). Nếu chúng ta giữ đạo chỉ v́ muốn được hạnh phúc ở đời này thôi th́ quả thật đức tin của chúng ta c̣n non yếu lắm và coi chừng chúng ta là những kẻ khờ dại trước mặt Thiên Chúa. Chúa không hứa hạnh phúc ở đời này cho bất cứ ai theo Ngài, có hứa chăng là Ngài hứa cho chúng ta được nên giống Ngài trên con đường Thập giá để mai sau chúng ta được Phục sinh vinh quang với Ngài trên trời. Chúa nói: “phúc cho anh em khi v́ Thầy mà bi người ta bắt bớ và vu khống mọi điều xấu xa”. Chúng ta có dám đón nhận phúc lành của Chúa không? Chúa Giêsu cũng nói với thánh Phêrô rằng: “Con ráng làm Giáo hoàng cho ngon lành và tốt đẹp nhé, Thầy sẽ cho con được chết giống như Thầy”. Như vậy, cuộc đời theo Chúa của từng người chúng ta không nhằm vinh quang ở đời này, không nhằm hạnh phúc chóng qua ở đời này, nhưng là hạnh phúc lớn lao mai sau. Đó là động lực, là niềm vui mà Giáo hội mời gọi chúng ta hân hoan đón nhận và tích cực sống đời sống Kitô hữu của ḿnh.

 

Chúng ta c̣n một lư do nữa để vui mừng là chúng ta đang mang trong ḷng một niềm hy vọng về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Trong sứ điệp Mùa vọng năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô mời gọi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng. Như vậy, sống Mùa vọng là sống niềm hy vọng. Quả thật, đời sống của người Kitô hữu của chúng ta được đông đầy bởi niềm hy vọng: hy vọng vào vào t́nh yêu cứu độ của Thiên Chúa, hy vọng vào một tương lai huy hoàng mai sau. Nói cách khác, niềm tin Kitô giáo của chúng ta được xây trên niềm hy vọng vững chắc cho cuộc sống mai sau.

 

Ước ǵ chúng ta luôn sống vui mừng và hy vọng trong từng ngày sống của chúng ta trong niềm tin vào Thiên Chúa t́nh yêu qua thái độ sống tích cực, vui tươi với mọi người, hăng hái làm việc thiện, khát khao t́m gặp Chúa và t́m mọi phương thế cũng như tận dụng mọi khả năng để làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng ta và trong vũ trụ này. Amen.

 

 

LÀM CHỨNG

Ga 1, 6-8, 19-28

Gp.Vĩnh Long

 

Anh chị em thân mến,

Chị Rơ Châm H'Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lư tân ṭng th́ bị chính quyền xă gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế, chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng khái trả lời: “Tôi chọn theo đạo Chúa.” Thế là bị nghỉ việc. Chị kể lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đ́nh, con cái đều sụp đổ… Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo đă đến xin chị dạy đạo cho họ. Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng ḿnh; nhưng sau v́ thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt vạ, v́ họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rơ cái được, cái mất hơn nữa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh mà theo” ( Mt 16, 24 ). Cũng từ nay, chị nhận ra ḿnh là sứ giả của Tin mừng cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời Chúa, mà c̣n để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh. (Vietcatholic news, 18.01.2003). Đây chính là h́nh ảnh của thánh Gioan nói trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô. Kính mời cùng suy niệm…

 

a/. Gioan Tẩy giả, trước mắt người phàm:

Thánh Gioan Tẩy giả được kinh thánh tuyên xưng là vị đại Tiên tri, Đấng Tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu thế, vậy mà cuộc đời của ngài vinh quang đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là long đong, vất vả. Lớn lên nhận được ơn gọi làm chứng nhân, người tiền phong cho Chúa Cứu thế, thánh nhân đă vào sa mạc sống khắc khổ, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng da lông thú. Chính Chúa Giêsu đă nói về Gioan: “các ông vào sa mạc t́m ǵ? Có phải t́m cây sậy phất phơ trước gió không? – Không. Hay có phải t́m một người ăn mặc lụa là gấm vốc? Nhưng hạng người đó lại chỉ ở trong cung điện nhà vua. Vậy có phải các ông đi t́m một vị tiên tri không? Đúng và c̣n hơn một tiên tri nữa…”(Gn 11, 7-9)

 

Thánh Gioan là một tiên tri, một chứng nhân như thế, v́ lời thẳng thắn đă không làm hài ḷng nhóm tư tế, kinh sư do thái. Thánh Gioan c̣n làm phật ư cả vua Hêrôđê, đến nổi bị bà Hêrôđiađê dùng mưu mà chém đầu. Trước mặt thế gian, ai cũng cho là thất bại, là điên rồ. Cuộc đời của các thánh hiển tu, các vị tử đạo cũng thế. Các ngài bị chê là những kẻ khờ dại, mê lầm, những người không hiểu biết nên mới chối bỏ vinh hoa phú quí trần gian… Những con người bị chê; thả mồi bắt bóng… Có đúng như thế không?

 

b/. Gioan Tẩy giả, trước mặt TC, là một chứng nhân tận tụy và trung kiên:

“Có người hỏi: Ông là ai? Có phải là Đấng Cứu thế không? Gioan trả lời: Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc…”(Gn 1, 20-29)

“Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em trong nước; Đấng đến sau tôi, sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lữa…”(Mt 3, 11)

 

“Khi Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa, Gioan nói: chính tôi mói cần được ngài làm phép rửa.” (Mt 3, 14).

“Đấng đến sau tôi, cao trọng hơn tôi; tôi không đáng cởi quai dép cho Người…”(Gn 1, 27)

 

Thánh Gioan Tiền hô quả là một chứng nhân tận tụy và trung kiên. Dù là một đại Tiên tri đi trước mở đường cho Đấng Cứu thế, nhưng rơ ràng ngài khiêm tốn biết bao khi nói lên chính sự thật này: “tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.Tôi chỉ rửa anh em trong nước mà thôi…” Một con người sống sau thánh Gioan không bao lâu, nhỏ hơn ngài cũng không nhiều, cũng đă sống như một chứng nhân tận tụy và trung kiên như Gioan Tẩy giả, đó là Thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại.Thánh nhân cũng đă từng nói những lời không khác thánh Gioan là mấy:

“Tôi sống nhưng không c̣n phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gal 2, 20). “Tôi biết tôi đang tin vào ai…” (II Tim 1, 12)

“Ước ǵ tôi chẳng hảnh diện điều ǵ, ngoài thập giá Đức Kitô.”(Gal 6, 14)

“Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng phúc âm.”(I Cor 9, 16)

“Ai tự hào, hăy tự hào trong Chúa.” (I Cor 1, 31)

“Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng cho tôi được mạnh mẻ.” (Phil 4, 13)

Thánh Gioan TG, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, họ là những chứng nhân tận tụy kiên cường như thế, làm sao chúng ta có thể nghỉ họ là người ngây dại mê muội, không khôn ngoan?

 

Câu chuyện: Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết ḿnh mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự. Luôn tin tưởng vào sự Quan Pḥng và T́nh thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hăy cứu sống đứa bé, v́ tôi mong muốn như vậy! Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa”. Bà hưởng thọ 40 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đă tôn phong bà là Mẹ các gia đ́nh, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994. Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46 tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của ḿnh.

c/. Gợi ư sống và chia sẻ: Thánh Gioan đă là vị đại tiên tri, vậy mà Gioan chỉ nhận ḿnh là tiếng kêu trong sa mạc, chứng nhân can trường đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ta có tin nơi lời Gioan nói, tin vào việc ngài làm không? Nhất là ta có sẵn sàng sống như là chứng nhân cho Chúa Kitô ở giữa ḷng thế giới hôm nay không?

 

 

Gp.Vĩnh Long

 

 

 

LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT

Ga 1, 6-8, 19-28

Gp.Vĩnh Long

 

Gioan Tẩy Giả có một vai tṛ rất đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ v́ thế mà Thánh sử Luca đă nói về Gioan ngay sau câu giới thiệu tóm tắt quyển Tin Mừng: “ Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: chiếu theo lời đă chép trong sách ngôn sứ Isaia: ‘Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa, hăy dọn đường …” (x. Mc 1, 1-4). Gioan Tẩy Giả đến để làm chứng cho sự thật về vai tṛ của ḿnh, về t́nh thương của Thiên Chúa và về Đấng Cứu Độ đến trong trần gian.

 

1. Làm chứng cho sự thật về ḿnh :

Gioan rao giảng và làm phép rửa sám hối cho mọi người. Khi ông đă nổi danh, người ta thắc mắc về vai tṛ của ông. Ông có phải là một vị tiên tri như bao vị tiên tri đă qua đi hay là Đấng Cứu Độ phải đến trong trần gian. Những người đại diện tôn giáo muốn có tin chính xác về ông nên đă cử người đến gặp ông. Họ hỏi: “ông là ai?” Ông nói rơ : tôi không phải là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là Êlia nhưng là “tiếng hô trong hoang địa”. Phái đoàn này gồm những luật sĩ và biệt phái chắc hẳn hiểu ngay là Gioan ám chỉ ḿnh là Tiền hô cho Đấng Cứu Thế và phép rửa của ông chỉ là h́nh bóng cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu Thế.

 

2. Làm chứng cho t́nh thương của Chúa:

Tên Gioan nghĩa là Chúa thương. Gioan sinh ra do t́nh thương của Chúa đối với gia đ́nh : sinh ra trong hoàn cảnh cha mẹ già. Kể cả Giacaria cũng không tin nổi là ḿnh c̣n có thể sinh con dù ông tha thiết muốn có con! Chính ông làm mọi người phải để tâm suy nghĩ về hồng ân Chúa ban cho gia đ́nh, và xa hơn nữa là t́nh thương của Chúa đối với dân Israel. Mỗi lần kêu đến tên Gioan là mọi người nghĩ ngay đến t́nh thương Chúa.

 

3. Làm chứng về Đấng Cứu Độ đă đến trong trần gian:

Gioan khẳng định ḿnh là tiếng hô trong hoang địa, cũng là cách khẳng định về ơn cứu độ đang dành sẵn cho dân Israel. Thời kỳ cứu độ đă đến gần. Gioan nói rơ: Đấng đó đă đến, đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Đấng đó cao trọng hơn tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Đấng đó là Ngôi lời Thiên Chúa, là Sự Sáng, c̣n Gioan chỉ là người phàm được Chúa sai đến làm chứng cho Sự Sáng, giúp cho thiên hạ nhận biết Ngôi Lời và tin phục Người.

 

Gioan dọn đường cho Chúa bằng việc làm chứng cho sự thật về ḿnh, về Đấng cứu thế. Đời sống khổ hạnh của Ngài là lời mời gọi chúng ta hôm nay hăy hoán cải tận đáy ḷng, thể hiện đức tin của ḿnh bằng những việc làm cụ thể như sống ḥa thuận trong gia đ́nh, hàng xóm láng giềng, bác ái với mọi người, biết tha thứ cho những người làm phiền ḷng ḿnh… lời rao giảng và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta cũng hăy nối tiếp vai tṛ của Gioan nhắc nhở những người xung quanh bằng cuộc sống gương mẫu và lời khuyên để họ biết chuẩn bị đón Chúa đến luôn luôn.

 

Là con cái Chúa, chúng ta trả lời mạnh dạn cho mọi người về vai tṛ và niềm tin của chúng ta hiện nay trong thế giới, ư thức về bổn phận của ḿnh đối với việc truyền giáo và sống đạo, để xứng đáng với t́nh thương của Chúa trên mỗi người chúng ta. Ngay khi làm được nhiều việc Chúa trao, chúng ta cũng hăy biết vai tṛ của ḿnh chỉ là người dọn đường và biết nói như thánh Gioan Tiền Hô: để Chúa lớn lên c̣n tôi nhỏ đi.

 

 

CHÚA NHẬT HỒNG

Ga 1, 6 – 8 , 19 – 28

Gp.Vĩnh Long

 

Chúa Nhật hôm nay được gọi là : “Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật Vui”. Đây là một niềm vui rất to lớn và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này chúng ta được nghe trong Lời Chúa hôm nay : “Anh chị em hăy vui lên trong Chúa.! Tôi nhắc lại một lần nữa : Anh chị em hăy vui lên v́ Chúa đă đến gần!...”. Niềm vui này là một niềm vui được ơn Chúa cứu độ, niềm vui được an b́nh, niềm vui được hạnh phúc! Vậy th́ chúng ta phải sống như thế nào trong Mùa Vọng này, để hưởng được trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.?

Chuyện kể rằng Có một Ông Vua kia lúc nào cũng lo âu, mặc dù sống trong quyền lực và nhung lụa sung sướng nhưng ông không có hạnh phúc, không biết cách nào để có được hạnh phúc. Nhà Vua gọi các nhà khôn ngoan lại bàn hỏi xem làm thế nào trút bỏ những âu lo đang đè nặng tâm trí Vua đến nỗi Vua không thể nào có được một cuộc sống hạnh phúc? Nhà thông thái trả lời: “ Chỉ có một cách duy nhất để giúp nhà Vua . Đó là Vua phải mặc chiếc áo của người có hạnh phúc thật sự!”. Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để t́m kiếm một người đang mặc chiếc áo hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào được hỏi đến cũng có lư do để đau khổ, buồn sầu,.. một điều ǵ đó đă cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng th́ họ cũng t́m một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin này ngồi mĩm cười ở giữa chợ và tự xưng ḿnh là người hạnh phúc nhất, không có một điều ǵ buồn rầu, lo âu. Sứ giả của Nhà Vua nói với người ăn xin về điều Nhà Vua cần mặc chiếc áo hạnh phúc ấy, và hứa trả cho người ăn xin một món tiền thật lớn để mua chiếc áo hạnh phúc ấy. Chúng ta nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ư bán chiếc áo hạnh phúc của ḿnh không? Chúng ta có biết phản ứng của người ăn xin ra sao không ? Không nín được cười , người ăn xin bật cười to lên và nói rằng: “ Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài ḷng Nhà Vua được. V́ tôi chẳng có chiếc áo nào cả!!!”. Vâng người hạnh phúc nhật trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả!!!

 

Bài Tin mừng hôm nay Ga 1, 6 – 8 , 19 – 28 cho chúng ta thấy nhiều người kéo đến với Gioan Tiền Hô để t́m kiếm hạnh phúc. Và ông cũng đă vạch ra cho họ những con đường trong chính cách sống của ông để họ thực sự hạnh phúc khi họ biết tin vào Đấng Cứu Thế đang đến gần. Đó là những con đường như:

 

Con đường sống khổ hạnh : Gioan sống ần dật trong samạc. Sống trong samạc đồng nhĩa với sống khổ hạnh: sống trong sự khắc nghiệt của thời tiết, trong sự hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ. Sống khó nghèo , đơn sơ đạm bạc: mặc áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng.

 

Con đường sống khiêm nhường : Gioan từ chối vinh quang mà người ta ban tặng cho ḿnh. Ông thành thật nhận ḿnh không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là “tiếng kêu trong sa mạc”, không đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.

 

Con đường sống trung thực : Gioan đến để làm chứng về ánh sáng. Trung thực với sứ mạng của ḿnh, một mặc ông chỉ cho chúng ta thấy ánh sáng thật là ai, mặc khác khi có người lầm tưởng ông là ánh sáng ấy th́ ông thẳng thắn phủ nhận. Trung thực về những lời nói về ḿnh nên ông không nhận vinh quang mà người ta lầm tưởng ban tặng. Trung thực với ḷng ḿnh nên Ông sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối,... Trung thực trong phán đoán nên ông thẳng thắn khuyên Vua Hêrôđê không được lấy chị dâu

 

Con đường sống quên ḿnh : nh́n nhận là người đưa tin nên ông quên ḿnh để cho Đức Giêsu nổi bật lên. Ông tự hủy ḿnh để Đấng Cứu Thế được nhận biết.

 

Tóm lại Gioan Tiền Hô là một chứng nhân tuyệt hảo, Ông là chứng nhân của ánh sáng, chứng nhân của hy vọng, của hạnh phúc. Ông là làm chứng cho sự sáng thật là Đức Kitô.

Mùa vọng này, mọi ngướ đang chờ Chúa đến, Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho người khác, Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Thế nhưng rất nhiều khi thay v́ mở đường cho Chúa, chúng ta chỉ lo mở đường cho chúng ta. Hay thay v́ làm chứng cho Chúa th́ chúng ta làm chứng cho ta....

 

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hăy nh́n vào tấm gương của Gioan Tiền Hô để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến bằng đời sống chứng tá là “ để Chúa lớn lên” và để cho chúng ta biết đường t́m đến hạnh phúc đích thực.

Xin Thánh Gioan giúp chúng ta sống trong ánh sáng Của Chúa Cứu Thế để chúng ta được hưởng trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.

 

Gp.Vĩnh Long

 

 

KHIÊM NHƯỜNG

Ga 1,6-8 . 19-28.

Gp.Vĩnh Long

Người ta thường ví Gioan Tẩy Giả như một ngọn đèn biết tỏa sáng và biết mờ đi một cách đúng lúc. Có những lúc ông tỏa sáng đến nỗi người ta hiểu lầm ông là Đấng Kitô màDân Do Thái đang trông chờ, cho đến ngày nay người ta vẫn đang trông đợi Đấng Kitô. V́ bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Có người c̣n hy vọng Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Khi ông phủ nhận ḿnh không phải là Đấng Kitô th́ họ lại lầm tưởng là Eâlia. Đối với họ Ê-li-a phải đến trước Đấng Messia Người ta c̣n tin rằng chính Ê-li-a xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đă được xức dầu. Nhưng Gioan Tẩy Giả đă phủ nhận tất cả những vinh dự đó.

 

Vậy, Gioan Tẩy giả là ai? Ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa hay nói đúng hơn ông chỉ là người cởi giày cho Đấng đến sau ông mà thôi. Một mẫu người cho đi, một mẫu người lănh đạo, một mẫu người với tinh thần phục vụ biết làm đúng công việc của ḿnh. Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền đạo, các giáo sư đều phải nên như thế, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Ông muốn mọi người hăy quên ông, chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.

 

Điều ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm th́ không dành cho Israen mà chỉ dành cho những người ngọai nhập vào Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới tin theo đạo Do Thái . Một người Israen không bao giờ chịu phép rửa, họ đă thuộc về Chúa Giavê, nên không cần rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại bang đến gia nhập Do Thái giáo th́ phải chịu rửa sạch bằng phép rửa. Gioan Tẩy Giả đă bắt dân Israen làm một việc mà chỉ có dân ngoại mới phải làm. Ông có ư nói tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan tẩy Giả tin, nhưng ông đă không trả lời trực tiếp.

 

Ông nói: “về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, mở dây giày là công việc của một người nô lệ. Một ngạn ngữ của các ra-bi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy ḿnh bất cứ việc ǵ một đầy tớ phải làm ngoại trừ việc “cởi dây giày”. Việc đó quá hèn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dầu vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ư: “Với Đấng đang đến th́ cả việc làm đầy tớ cho Ngài cũng không xứng đáng”.

 

Chúng ta phải hiểu là lúc đó Gioan đă làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đă nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ư đó một lần nữa, và ngụ ư: “Nhà Vua đang đến, để chuẩn bị đón Ngài , các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại bang nào. Hăy dọn ḿnh sửa soạn để đi vào lịch sử của nhà vua”. Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Gioan tẩy Giả là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa ḿnh đi để người ta chỉ nh́n thấy Chúa Giêsu . Ông nhận thấy ḿnh là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế.

 

Lạy Chúa, Nguyện Chúa ban cho chúng con ơn biết quên ḿnh, chỉ nhớ đến Chúa Giêsu thôi. Và nhất là trong mùa vọng này chúng con luôn biết hướng về Ngài. Amen.

 

Gp.Vĩnh Long

 

NgưỜi Làm ChỨng

 

Manna

X LỜi Chúa: Ga 1, 6-8.19-28

6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

19 Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" 20 Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". 21 Họ lại hỏi ông: "Vậy th́ thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." 22 Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi c̣n trả lời cho những người đă cử chúng tôi đến? Ông nói ǵ về chính ông?" 23 Ông nói: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hăy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đă nói". 24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. 25 Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?" 26 Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." 28 Các việc đó đă xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.

 

X Suy NiỆm

Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ làm chứng được dùng đến bốn lần. Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7).

Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).Gioan không làm chứng cho ḿnh hay về ḿnh, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.

 

Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lănh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến t́m hiểu con người ông. Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai ? Gioan đă đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" - "Không phải" - "Không".


Những tiếng không dứt khoát và trung thực. Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê.

 

Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về ḿnh khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất. Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai ?


Gioan đă định nghĩa ḿnh là một tiếng hô trong hoang địa,
là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô. Ông biết rơ ḿnh là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận ḿnh không xứng. Gioan tự xóa ḿnh trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nh́n nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần. Gioan không ngại giới thiệu môn đệ ḿnh theo Đức Giêsu, và ông b́nh an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).

Có ai siêu thoát như Gioan? Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên.Ông hạnh phúc v́ ḿnh đă hoàn thành sứ mạng.
"Người phải lớn lên, c̣n tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30). Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.

 

"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người. Con người vẫn khắc khoải đi t́m những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đă đến từ 2000 năm. Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang t́m kiếm.

 

X GỢi Ư Chia SẺ

·        Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao... Theo ư bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê?

·        Đức Giêsu có phải là mẫu người lư tưởng của các bạn trẻ không?

·        Gioan là con người siêu thoát. Ông không t́m ḿnh, ông vượt lên trên cái ṿng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?

 

X CẦu NguyỆn

Chỉ mong tôi chẳng c̣n ǵ, nhờ thế Người là tất cả của tôi. Chỉ mong ư muốn trong tôi chẳng c̣n ǵ, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người t́nh yêu trong mọi lúc.

 

Chỉ mong tôi chẳng c̣n ǵ, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người. Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng c̣n ǵ, nhờ đó tôi gắn bó với ư muốn của Người và thực hiện ư Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)

Manna

 

 

NiỀm Vui

Is 61,1-2a.10-11; 1Thes 5,16-24; Ga. 1,6-8.19-28

 

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

I. Phúc Âm: Ga 1, 6-8. 19-28

"Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết".

Có người đă được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là ǵ? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải".

Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hăy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đă loan báo". Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đă có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.

 

II. Suy NiỆm  Niềm Vui

"Hăy vui lên, hỡi anh em, hăy vui lên! Hăy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, v́ đó là thánh ư Người về tất cả anh em trong Đức Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của Thánh Thần" (1Thes 5,16-17).

 

Lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng này.

 

Trong lúc chờ đợi Đức Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Yoan Tẩy giả đă làm chứng, khi ông nói về vai tṛ tiền hô của ḿnh đối với Đấng Cứu thế.

"Niềm vui của tôi là được nghe tiếng Ngài.

Niềm vui của tôi đă sung măn.

Ngài phải lớn lên, c̣n tôi phải nhỏ dần đi"(Gioan 3,29-30)

 

 

1. Giáo Hội Kêu Gọi Chúng Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?

Theo kinh nghiệm thông thường, vui là khi một ước vọng của ta được toại nguyện; khi ta thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một lời, ta vui khi ḷng ta đang trống mà được lấp đầy.

 

2. Niềm Vui, Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị Là Trạng Thái Của Con Người Được Thiên Chúa Đổ Đầy Thánh Thần. Bài sách Isaia hôm nay (Is 61,1-2a.10-11) phác họa cho ta h́nh ảnh Đấng Thiên Sai được Thánh Thần xức cho dầu hoan lạc: "Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi... Ngài sai tôi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".

 

Năm hồng ân trong Cựu Ước - mà Năm Thánh là điệp ảnh - quả là một sáng kiến độc đáo Thiên Chúa đề ra cho Dân Ngài. Nó là khoảng thời gian đặc biệt nhắc cho mọi người nhớ rằng: tất cả những ǵ ḿnh có đều là do Thiên Chúa ban, và mọi người phải nghĩ đến quyền lợi của kẻ khác: bởi v́ mọi người đều có quyền sống tự do và hưởng dùng tài nguyên trên mặt đất. Năm hồng ân làm nổi bật, nguyên tắc công bằng và quyền b́nh đẳng của mọi người trước mặt Thiên Chúa (Lêvi 25,1-55).

 

Mở đầu cuộc đời công khai, Đức Yêsu đă đọc cho mọi người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong hội đường Nadarét. Và Ngài kết luận: "Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đă thực sự ứng nghiệm cho anh em" (Lc 4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng "loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những tấm ḷng tan nát, công bố ân xá cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những người bị áp bức" (Is 61,1-2; cf Lc 4,18-19).

 

Đó là những quyền căn bản của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của ḿnh và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và b́nh đẳng. Nhưng hơn thế nữa, sứ mạng cứu thế của Đức Yêsu Kitô c̣n nhằm biến đổi mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Điều quan trọng hơn cả trong Tin Mừng Ngài mang đến cho chúng ta là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người liên đới với nhau như một cộng đoàn hợp nhất, thánh thiện và ḥa b́nh. Sứ điệp đó thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xă hội công b́nh và huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh Đức Yêsu Kitô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm 8,14-17). Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo choàng công chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh Phaolô họa lại bằng lời nguyện cầu "xin Thiên Chúa b́nh an thánh hóa anh em" (1Thes 5,23). Niềm vui Đức Yêsu Kitô mang tới cho ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.

 

3. Sứ Điệp Tin Mừng Là Thế - Sứ Điệp Đấng Thiên Sai Là Thế Nhưng người Kitô hữu chúng ta phải làm ǵ để nhận được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: "Anh em đừng dập tắt tác động của Thánh Linh" (1Thes 5,19) v́ chính Thánh Thần làm nảy sinh mọi sự tốt đẹp, mọi hoa quả nhân đức "bác ái, hoan lạc, b́nh an, cao thượng, tận tâm, nhân từ, tín thác, hiền lành, tự chủ" (Gal 5,22-23), và "đâu có Thánh Thần, đấy có tự do" (2Co 3,7). Đặc điểm của thời đại Đấng Thiên Sai là Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm cho mọi tâm hồn chan chứa niềm vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được Ngài chúc phúc và ban ơn cứu độ.

 

Nhưng hạng người được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm là những người nghèo (xem Lc 2,24). Họ được, Ngài chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3) và Tin Mừng cũng được loan báo trước tiên cho họ (Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa ban đầy hồng ân, v́ ḷng họ sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Những người tiếp xúc với Đức Yêsu thuở Ngài c̣n thơ ấu; cũng như khi Ngài hoạt động công khai đều là những con người nghèo hèn bé mọn của Yavê: Yacaria, Isave, Maria, Giuse, đám mục đồng, Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm môn đệ và đoàn dân nghèo theo Ngài để đi giảng. Đó là một xă hội nghèo của Ngài và từ đó phải trở thành Giáo hội của người nghèo; một Giáo hội nhẹ ḷng với của cải trần gian, ít bận tâm về những điều vật chất, để được thanh thoát và mở rộng tâm hồn đón nhận tác động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những con người tự do.

 

Hai tâm hồn tiêu biểu nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều nghèo nhưng cả hai đều tràn đầy Thánh Thần và v́ thế, ḷng các ngài chan chứa niềm vui. Riêng niềm vui của Đấng Tiền hô thật là sung măn: bởi đă nghe tiếng Chúa Cứu Thế, được làm người dọn đường cho Ngài, để chỉ Ngài cho thiên hạ thấy, rồi vui vẻ rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần đi để Ngài được lớn lên (Gioan 3,29-30).

 

Người Kitô hữu cũng phải mang đầy niềm vui như Gioan Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của con người ư thức trách nhiệm, trung thành chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi Thiên Chúa đă dành cho.

 

Mà ơn gọi và sứ mạng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng để sống đến cùng những đ̣i hỏi của ơn gọi ḿnh, người Kitô hữu cũng phải như Đức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật thiết với Đấng Cứu Thế. Bởi vậy, khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: "Anh em hăy cầu nguyện không ngừng" (1Thes 5,16).

 

Đó là điều kiện cần thiết mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa. Và ai có những lần đă thực sự cầu nguyện, th́ cũng đă cảm nghiệm được niềm vui thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.

 

III. Bài GiẢng

Thấy Gioan xuất hiện, dân Dothái ngày xưa đă hân hoan rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố: sắp có Đấng cao trọng hơn ông đến, họ c̣n vui mừng hơn nữa. V́ thế, Chúa nhật thứ ba mùa Vọng là Chúa nhật hân hoan vui mừng.

 

Chúng ta hăy vui mừng, không phải chỉ v́ đang được nghe lại tiếng kêu của Yoan. Ngày xưa dân Dothái đă hân hoan khi thấy Gioan xuất hiện. Tên ông đă gợi lên niềm tin rồi, v́ Gioan có nghĩa là "Thiên Chúa đoái thương". Ngài không c̣n ngoảnh mặt đi nữa, nhưng đă bắt đầu nh́n lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả thật, đang có nhiều hy vọng vươn lên. Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng; người ta chen nhau lội xuống nước, thú nhận tội ḿnh, để được ông rửa cho. Gioan này thật là vị tiên tri vĩ đại. Chúa gửi người đến cho dân, để sửa soạn ǵ đây. Dân Chúa cảm thấy phấn khởi v́ sự hiện diện của Gioan Tẩy giả, với phong trào đạo đức mà ông đang khơi động.

 

Ngày nay chúng ta cũng có thể phần nào vui lên như thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như ở nơi Giáo hội Việt Nam đang nổi lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta đi lễ nhiều hơn trước, rước lễ đông hơn trước, say sưa học giáo lư và dường như thấy rơ niềm tin lúc này là nguồn an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều nơi, người ta c̣n được chứng kiến nhiều buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các phong trào đạo đức đó như đang làm cho bộ mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến nhiều người có thể hân hoan nghĩ rằng: tất cả những ǵ đang xảy ra có thể là cơ hội thanh tẩy Giáo hội và giúp Giáo hội vươn lên trong sự công chính và thánh thiện thật.

 

Nhưng cũng như dân Dothái ngày xưa, chúng ta đừng chỉ vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy Yoan xuất hiện, dân Chúa như đă muốn vui luôn trong ánh sáng của người. Nhưng Phúc Âm hôm nay cho ta thấy: Yoan bảo dân chúng phải nh́n xa hơn nữa. Ông chỉ rửa trong nước thôi; sắp có Đấng đến sau để rửa dân trong Thánh Thần. Chính Ngài mới là Đấng Kitô Cứu Thế và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài... Chúng ta ngày nay cũng phải cẩn thận, đừng dừng lại ở những hiện tượng lạc quan như trên đă nói. Phải đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt qua mọi h́nh thức, cho dù rất đạo đức, để t́m gặp chính Chúa Kitô. Nhiều người trong ta có lẽ c̣n giống nhóm Biệt phái và Dothái. Các nhóm này, ngày xưa, chỉ muốn dừng lại ở Yoan, ngưỡng mộ ông và coi ông như Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy được, ở các buổi phụng vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lư để thuộc chứa không để sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để thêm sức sống đạo ở giữa đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải đi xa hơn, vượt qua những hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống với Ngài.

 

Chúa Kitô, theo bài đọc I hôm nay, là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được xức dầu Thánh Thần, rồi được sai đem Tin Mừng cho người nghèo khó; và công bố khắp nơi năm hồng ân của Thiên Chúa... Ngày nay, Chúa cũng đang muốn t́m được những sứ giả như vậy ở giữa chúng ta. Ngài muốn cho cả Giáo hội của Ngài được xức dầu hoan lạc để luôn luôn công bố cho mọi người biết Tin Mừng Chúa đến cứu độ trần gian. Ngài muốn cứu mọi người từ tận căn, tận rễ, từ những người đang nghèo khổ, bất cứ về phương diện nào, để đời sống trở thành như năm hồng ân của Thiên Chúa.

 

Như vậy, tinh thần của ngày Chúa nhật hôm nay, đ̣i ta phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu năo. Phải đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi ḷng đau khổ và tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh không phải là quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo phần rỗi và công chính để hoan hỷ đem tin vui đến cho mọi người.

 

Và tin vui của Đức Kitô là ǵ?

Như lời sách Isaia viết: Ngài muốn "đem hân hoan đến cho người nghèo, băng bó những tâm hồn đang đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày". Ngài muốn nhờ ta bây giờ làm những công việc ấy, để khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như được hồng ân của Chúa viếng thăm.

Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng vạch ra cho ta con đường thực tế để sống đạo theo tinh thần nói trên. Ngài bảo ta trước hết phải lạc quan: "Anh em hăy vui mừng luôn". Rồi hăy có tinh thần cầu nguyện để nh́n thấy thánh ư Chúa trong mọi việc. Đừng dập tắt Thánh Thần của Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa hằng vang lên trong mọi sự xảy đến hằng ngày cho ta, hăy duyệt lại tất cả: bỏ cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát triển mọi điều tốt gặp được.

 

Như vậy chúng ta sẽ đi vào đường lối của Đức Kitô, sẽ sống như Ngài trong cuộc đời trần gian: Ngài đă mặc lấy thân phận y hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đă chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài cứ nh́n vào những người nghèo khó và khổ sở ở đời để t́m cách kéo gỡ họ ra khỏi thân phận đau thương. Chính v́ vậy Ngài đă trở thành Cứu thế và ban ơn Cứu độ.

 

Giờ đây trên bàn thờ Ngài muốn cử hành mầu nhiệm cứu độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu gọi chúng ta đi vào, dâng ḿnh kết hợp với Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào ḷng ta để tiếp tục làm những hành vi cứu độ trong đời sống và qua đời sống của ta. Ta hăy nhiệt tâm đi vào mầu nhiệm thánh lễ này.

 

Đức Yêsu Là Người Thực

Tôi dám nói rằng: Nếu tôi không nhận biết Chúa Kitô th́ đối với tôi, "Thượng đế" sẽ là một danh từ vô nghĩa. Nếu không có ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường tượng một hữu thể vô hạn. Thiên Chúa của các triết gia và những nhà bác học sẽ không giữ vai tṛ nào trong đời sống luân lư của tôi. Thiên Chúa đă phải hạ ḿnh xuống trong nhân loại, và trong một giờ khắc rơ rệt của lịch sử, tại một địa điểm xác định trên địa cầu, một người được tạo nên bằng huyết nhục, đă phải tuyên bố mấy lời và làm một vài cử chỉ th́ tôi mới quỳ gối thờ lạy. Nếu Chúa Kitô đă không phán: "Lạy Cha chúng con..." th́ không bao giờ tự ḿnh tôi có ư niệm về t́nh nghĩa tử này. Lời kêu cầu ấy đă không khi nào tự đáy ḷng tôi thốt ra trên môi. Tôi chỉ tin cái ǵ tôi đụng chạm và nom thấy, cái ǵ sát nhập vào bản thể tôi. Và chính v́ thế, tôi đă tin Chúa Kitô. Tất cả những khuynh hướng muốn giảm bớt thân phận con người nơi Chúa Kitô sẽ đi ngược với một ư hướng sâu thẳm nhất của tôi. Có lẽ v́ thế mà tôi vẫn không thích nh́n dung nhan Chúa Kitô Vua và Đấng Thiên Sai toàn thắng bằng h́nh ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà qua việc bẻ bánh trong quán trọ làng Emmau các lữ khách đă nhận ra. Người là người anh mang đầy thương tích và là Thiên Chúa của chúng ta.

Francois Mauriac Vie De Jésus

 

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm