Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 2
MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 40,
1-5.9-11; 2Pr 3, 8-14; Mc 1, 1-8
MỤC LỤC
1. Dọn đường Chúa đến.
2. Dọn đường cho Chúa - TGM. Ngô quang Kiệt
3. Chúng ta đợi chờ..
4. Hăy sám hối
5. Gioan
Tiền Hô................................................................. 13
6. Người
dọn đường.......................................................... 16
7. Hoang
địa ph́ nhiêu....................................................... 19
8. Chú giải
và suy niệm của Quesson............................. 21
9. Trích
chú giải của William Barclay............................... 29
10. Chú
giải theo Fiches Dominicales............................. 35
11. Dọn
đường.................................................................... 42
12. Thay
đổi......................................................................... 45
13. Giấc mơ
hay hiện thực................................................ 48
14. Người
dọn đường tâm hồn- Lm.
Nguyễn minh Hùng
51
15. Suy niệm của JKN..
1. Dọn đường Chúa đến
Hăy dọn đường Chúa đến, đây
là một h́nh ảnh khá quen thuộc của thế giới đông phương thời xưa. Thực vậy,
đường sá lúc bấy giờ đâu có trơn tru phẳng ĺ như những xa lộ hiện đại. Đường
th́ gập ghềnh, có chỗ trũng có chỗ cao. Mỗi lần viên chức cao cấp đi qua, dân
trong vùng lân cận đều được huy động đi dọn đường, bạt chỗ cao lấp đầy chỗ trũng,
làm cho thẳng những khúc quanh co.
Lời kêu gọi dọn đường đặt
chúng ta vào trong một bầu khí rộn ràng, nhộn nhịp của việc chuẩn bị đón mừng
Chúa đến. Thế nhưng Ngài đă không đến như một viên chức cao cấp. Ngài đă chẳng
ngại đêm tối hay nhờm gớm mùi hôi hám của một chuồng ḅ. Ngài chấp nhận cái nóng
bỏng chân của con đường ngang qua sa mạc. Ngài yêu thích những con đường gồ ghề
dẫn tới biển để gặp các môn đệ, những con đường dẫn lên núi để ở giữa đám đông,
rao giảng Tin mừng cho ho,ï những con đường ngang qua những cánh đồng để đi t́m
những con chiên lạc.
Ngài đă đi con đường dẫn tới
núi Sọ với cây thập giá trên vai với sức nặng của những lời chế diễu và chửi
bới… Ngài đă chấp nhận một cuộc sống không có lấy một ḥn đá gối đầu và một cái
chết không mảnh vải che thân, bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Một con người
như thế đâu cần ai dọn đường…
Chúng ta có thể trang hoàng
thánh đường một cách lộng lẫy, những hang đá đẹp đẽ, tập những bài hát du dương,
nhưng tất cả là để cho chúng ta, những kẻ khó chấp nhận Tin mừng của sự nghèo
túng, Tin mừng của những cái b́nh thường.
Riêng Chúa, Ngài vẫn muốn đi
trên những con đường dẫn tới ḷng người, dẫn tới trái tim. Và như thế, dọn đường
Chúa đến có nghĩa là dọn ḷng ḿnh để đón nhận Chúa cùng với Tin mừng cứu độ của
Ngài.
Chúng ta đừng vội nghĩ ngay
đến việc xưng tội, mặc dù chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: Dân cả miền Giuđêa
và Giêrusalem tuốn đến cùng Gioan Tẩy giả thú nhận tội lỗi và chịu phép rửa
trong sông Giócđan. Xưng tội th́ có xưng, nhưng họ lại không đón nhận Ngài khi
Ngài đến. Và không chỉ có vậy, hơn thế nữa, họ c̣n ḥ hét đ̣i thủ tiêu Ngài. Họ
xưng tội nhưng lại khóa chặt cửa ḷng đối với Tin mừng Phúc âm. Họ đă không nhận
ra Ngài là ǵ đối với sự cứu thoát của họ và họ đă ngại đi vào con đường cứu
thoát mà Ngài đă vạch ra. Con đường có quá nhiều chông gai, bấp bênh và nguy
hiểm. Con đường đ̣i buộc chúng ta phải cởi bỏ tất cả những ǵ ḿnh đang chiếm
hữu như một bảo đảm cho sự sống để đón nhận cái mới, đó là sự hiện diện của Con
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.
Dọn đường như thế có nghĩa
là dọn ḷng, là cởi bỏ những định kiến, những ích kỷ, những tính toán, lấy chính
cái tôi làm tiêu chuẩn, những quyền lợi có thể là mang dáng dấp thiêng liêng,
nhưng lại chẳng có chút dấu vết ǵ của Tin mừng, là cởi bỏ những ràng buộc để
chúng ta có thể tự do đón nhận giáo huấn của Chúa. Bởi v́, giáo huấn của Chúa
chính là con đường dẫn chúng ta tới sự giải thoát.
2. Dọn đường cho Chúa -
ĐTGM. Ngô quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mc
1, 1-8
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong một trận lũ lụt kia,
nhiều du khách trên tuyến đường Bắc - Nam bị kẹt ở miền Trung. Lư do là đèo Hải
Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi,
nên tàu Bắc - Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn
thoát ra nhưng không đi được v́ đường sá không c̣n. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến
những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan
trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người
bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người.
Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách
người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn
cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
Con đường vật lư đă cần.
Nhưng con đường tâm lư c̣n cần hơn. Nếu con đường tâm lư bị hư hỏng th́ dù có ở
sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
Tương tự như thế, ta cần có
con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đă đến từ lâu,
nhưng ta chưa đón nhận được v́ con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đă bị hư
hỏng.
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi
kiêu ngạo luôn muốn nâng ḿnh lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém
người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ
chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta có những hố sâu
tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta
có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét,
luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi,
thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
Tâm hồn ta có những khúc
quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người
khác và không thành thật với chính ḿnh. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của
sự trốn tránh bổn phận, của sự giả h́nh, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn
sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề v́ thói lười
biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề v́ những phê
b́nh chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những
vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với
ta. Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hăy sửa chữa con đường thiêng
liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.
Hăy bạt đi thói kiêu căng tự
măn. Hăy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hăy lấp đi những hố sâu tham lam, chia
rẽ, bất hoà. Hăy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hăy uốn thẳng lại những
quanh co dối trá. Hăy uốn thẳng lại những khúc quanh giả h́nh. Hăy san phẳng
những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hăy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói
xấu.
Đổi mới một con đường th́
dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, c̣n
cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3
phương thế rất tốt.
Phương thế thứ nhất là
vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang
vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ ch́m sâu xuống đáy ḷng
ḿnh để gặp gỡ Chúa. Một ḿnh ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ
dạy ta biết Thánh Ư để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đă
vào sa mạc 40 ngày để t́m Thánh Ư Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ
cầu nguyện riêng tư thân mật một ḿnh ta với Chúa.
Phương thế thứ hai là
mặc áo da thú. Mặc áo da thú có
nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm
hồn biết sống thực với chính ḿnh, biết nh́n nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin
Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên
trên con đường thánh đức.
Phương thế thứ ba là
ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây
có ư nói về một đời sống khổ chế. Hăm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những
đ̣i hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không
cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Thánh Gioan Baotixita đă
sống theo chương tŕnh 3 điểm này, nên Ngài đă trở thành người mở đường cho Đấng
Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ
biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.
Lạy Chúa, xin cứu con khỏi
mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Con đường tâm hồn tôi có
những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa?
2- Tôi có cần đến những
phương thế của Thánh Gioan Baotixita không?
3- Tôi sẽ làm ǵ trong tuần
này để thực hành Lời Chúa?
4- Trong bài Tin Mừng Chủ
nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào?
3.
Chúng ta đợi chờ
Truyện cổ Đông Phương kể về
một con cá con bơi dọc theo bờ sông. Cạnh bờ sông, ông giáo đang dạy khoa học
cho các học tṛ đang quây quanh ông. Thày giáo giảng: "Nước tuyệt đối cần thiết
cho sự sống. Không có nước trong một tuần lễ chúng ta sẽ chết." Một con cá con
nghe vậy liền tự nghĩ: "Trời! Nếu nhà khoa học đó nói đúng, tôi phải đi t́m cái
mà người ta gọi là nước đó, nếu không t́m được mấy ngày nữa tôi sẽ chết." Nó hỏi
mọi con cá khác nó gặp có biết nước là ǵ không, nhưng không ai trả lời cho nó.
Họ chỉ biết để ư đến t́m của ăn nuôi sống. Nhiều con cá c̣n cho nó là dại ǵ mà
nghĩ những chuyện đâu đâu. Nó tiếp tục đợi chờ đi t́m cái gọi là nước. Rồi một
hôm nó cố hỏi con cá lớn tuổi, có phần khôn ngoan: "Làm ơn chỉ cho tôi cái chất
mà người ta gọi là nước là ǵ và t́m đâu ra nó?" Con cá lớn trả lời: "Nước hả!
Mày đang ở trong đó, mày sinh ra và lớn lên trong đó. Nước bao quanh mày và mày
cứ ngụp lặn, hút lấy nó th́ mày sống được." Con cá đang sống trong nước mà nó
không nhận ra. Cũng thế, chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa mà chúng
ta không nhận ra Ngài.
Thời gian đă đến, Thiên Chúa
thể hiện công tŕnh cứu chuộc. Ngài đă không kiến tạo một thế giới khác, xứng
đáng đón nhận sự viếng thăm của Ngài. Ngài đă đến trong thế giới con người,
những người đang mong mỏi chờ đợi Ngài đến. Hầu hết những người Do Thái, không
sống đúng với việc nghinh đón Đấng Thiên Sai, đă quên đi việc chuẩn bị cho Đấng
Cứu Thế. Nhiều lần trong Cựu Ước, con cái Israen đă bước theo những thần tượng
khác.
Trong biến cố Giáng Sinh,
T́nh yêu Thiên Chúa đi vào sự hiện hữu của con người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa
được khám phá ngay trong cuộc sống thường ngày của con người.
Đối với hầu hết chúng ta,
không ai là tầm thường khi là một phần tử của gia đ́nh. Thông thường, sự quen
thuộc gây nên măn nguyện, coi thường. Điều đó đúng khi không biết t́m mới lạ
trong thường ngày. Đây chính là bí mật của Phúc Âm được khám phá do những người
vợ, người chồng, người anh, người em, những người bạn. Thật đẹp biết bao có
những gia đ́nh, những t́nh bạn mà t́nh yêu luôn đầm thắm. Nhưng điều đó hiếm hoi
quá.
Chúng ta giống như các trẻ
em sáng thứ Bảy muốn có những cuộc giải trí hào hứng. Tuy nhiên, tiến tŕnh làm
phong phú sự liên hệ t́nh người không phải là cuộc giải trí nhưng là dấn thân.
Chúng ta nghe có những gia đ́nh mất đi những thích thú. Họ thấy nhạt chán. Từ
trước đến giờ, họ trở đi trở lại cũng một tṛ cười, những thói quen, những phàn
nàn. Họ nghĩ đến một liên hệ mới để có thể t́m vui hứng. Thật đáng buồn.
Nơi Chúa Kitô, Chúa tự ngụp
sâu vào t́nh trạng con người. Thực tại của con người, của mỗi người th́ vô tận.
Mỗi người là một mầu nhiệm đối với những người khác: Mầu nhiệm vui và buồn, mầu
nhiệm của nước mắt và hy vọng, mầu nhiệm của đau đớn và hoan lạc. Chúng ta là
mầu nhiệm đối với chính chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Chỉ trong Nước Chúa, chúng
ta sẽ thấy chúng ta như Chúa thấy chúng ta." Cho đến ngày đó, chúng ta vẫn c̣n
thám hiểm.
Một trong những mầu nhiệm
cao cả của Đức Tin là Ơn Thánh Chúa cống hiến chúng ta sự sống mới mà chúng ta
đang mong đợi và Chúa đang đợi chúng ta đáp trả. Ngài không áp lực. Ngài không
đánh tráo. Ngài chờ đợi! C̣n chúng ta, chúng ta không hiểu được "Chúa ở đâu?"
"Ngài ẩn trốn?" hay "Ngài bỏ rơi?" Thật ra, Chúa ở đó và chờ đợi. Chúng ta phải
đáp trả mới nhận ra sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải có ư sử dụng sự sống
mới Ngài tặng ban, nếu không, việc tặng ban sẽ vô ích. Chúng ta phải có ư bước
theo con đường của Ngài.
Thánh Mátcô nói: "Gioan Tẩy
Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa thống hối." Nói cách khác,
Đấng Thiên Sai quí vị đang mong chờ đang hiện diện. Đây là lúc cần thay đổi.
Gioan không công bố, "Đức Kitô sắp đến." Ngài rao giảng phép rửa thống hối; ngài
kêu gọi một sự đáp ứng.
Trong cuốn tiểu thuyết The
Shoes of the Fisherman, có câu rất hay: "Cái giá phải trả để thành một con người
hoàn toàn quá đắt đến nỗi ít người có hứng hay có can đảm để trả nó." Lúc này
chúng ta có thể quyết sống một đời sống mới. Chúng ta quyết chí thành một người
hoàn toàn. Chúng ta đón nhận ơn soi sáng nhận ra Chúa hiện diện trong ta và can
đảm sống cuộc sống mới.
Chuẩn bị mừng Chúa Giáng
Sinh, Ngài hỏi chúng ta có muốn một đời sống mới không? Giáng Sinh nói cho chúng
ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài tự hạ ḿnh hiện diện trong
cuộc sống nhân loại. Ngài chờ chúng ta khám phá ra Ngài. Chúng ta sẽ không thể
nhận ra Ngài nếu chúng ta không nhận ra Ngài trong người chồng, người vợ, người
cha, người mẹ, các con, bạn bè, người khách lạ, hay kẻ thù. Giáng Sinh không
những để mừng vui, Giáng Sinh mời gọi khám phá, khám phá ra sự hiện diện của
Chúa Giêsu.
4. Hăy
sám hối
Trong Mùa vọng, các bài Tin
Mừng nhiều lần nói đến Gioan Tẩy giả, bởi v́ đời sống và sứ mạng của ngài gắn
liền với Đấng Cứu Thế. Ngài là vị ngôn sứ cuối cùng được Thiên Chúa chọn làm sứ
giả đi trước mở đường và dọn đường cho Chúa Kitô. Cho nên, danh hiệu “Tiền hô”
và sự nghiệp của Gioan gắn liền với chương tŕnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm
chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc tới vị tiền hô của Người.
Chính v́ thế phụng vụ Mùa vọng đă dành nhiều ngày nói đến Gioan. Cụ thể bài Tin
Mừng Chúa nhật hôm nay và Chúa nhật tuần sau, đặc biệt đề cập đến ngài.
Ngài là con duy nhất của ông
Giacaria và bà Êlisabéth, sinh sống ở làng Ain Karim, gần thủ đô Giêrusalem. Có
thể ngài đă đi tu từ nhỏ trong hoang địa với những người phái Qumran, sống rất
khổ hạnh: Y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, một kiểu áo hăm ḿnh mà
các ngôn sứ xưa thường dùng. Ngang lưng thắt một dây da cho gọn ghẽ. C̣n của ăn
là châu chấu độn với mật ong rừng. Ngài sống như vậy cho đến mùa thu năm 27,
dưới thời hoàng đế Tibêriô th́ xuất hiện công khai giảng dậy dân chúng ở miền
nam Do thái, chung quanh lưu vực sông Giorđan.
Nội dung lời giảng dạy của
ngài được thánh Matthêu diễn tả rơ ràng: “Anh em hăy sám hối, v́ Nước Trời đă
đến gần”. Các sách Tin Mừng khác cũng cho thấy nội dung ấy một cách gián tiếp
khi kể lại những lời kêu gọi và hoạt động “làm phép rửa sám hối” của ngài, chẳng
hạn như Tin Mừng Maccô của Chúa nhật hôm nay.
Sám hối, theo tiếng Hy lạp
có nghĩa là thay đổi năo trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức
là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám
hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối th́ được ngài làm phép rửa, nhưng phép
rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha
tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.
Như vậy, Gioan đă đối chiếu
sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng đến sau ngài, và ngài khiêm nhường tự nhận
là không đáng cởi quai dép cho Đấng đó. Tóm lại Gioan làm phép rửa bằng nước để
giục ḷng người ta sám hối. C̣n Đấng đến sau làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần
để tha tội cho người ta. Cho nên, rơ ràng Gioan chỉ là một vị tiền hô, một người
đi trước, có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu thế.
Đối với chúng ta hôm nay,
nhắc đến Gioan Tiền hô cũng có nghĩa là nhắc lại lời ngài đă giảng dạy, và cũng
là nhắc nhở chúng ta: Hăy sám hối, hăy thay đổi đời sống. Chúng ta đều đă biết
sám hối là nhận ra những giới hạn thiếu sót và lầm lỗi của ḿnh; là nhận ra
những thiệt hại ḿnh đă gây ra cho người khác; là nhận ra và quyết tâm dứt bỏ
t́nh trạng cũ để bắt đầu một cuộc canh tân. Nhưng trước hết và trên hết, chúng
ta phải hiểu sám hối là quay về với Chúa, tuyên xưng t́nh yêu thương và ḷng
nhân từ tha thứ của Chúa. Đây là điều Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta.
Về điều này, chúng ta hăy
nhớ câu chuyện thánh Giêrônimô: Vào một đêm lễ Giáng Sinh kia. Giêrônimô đang
cầu nguyện trong một hang đá ở rừng vắng, ngài suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai
Thiên Chúa xuống thế làm người. Đột nhiên Chúa Giêsu hiện ra hỏi ngài:
“Giêrônimô, con có ǵ làm quà cho Ta trong ngày sinh nhật của Ta không?”. Ngài
thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con”. Chúa nói: “C̣n ǵ khác nữa
không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những ǵ con có và tất
cả những ǵ con có thể”. Chúa lại hỏi: “C̣n điều ǵ khác nữa không?”. Ngài thưa:
“Lạy Chúa, con mới dịch sách Thánh xong, con xin dâng Chúa bản dịch công lao vất
vả của con”. Chúa nói: “Tốt lắm, con c̣n điều ǵ nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy
Chúa, con c̣n ǵ nữa đâu?”. Chúa bảo: “C̣n sự yếu đuối và tội lỗi của con, con
hăy dâng những thứ ấy cho Ta”. Giêrônimô hốt hoảng thưa: “Lạy Chúa, làm sao con
dám dâng những cái ấy?”. Chúa nói: “Được chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho
Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi”.
Câu chuyện trên nhắc nhở:
Chúng ta phải có tâm hồn sám hối để được Chúa tha thứ . Ḷng nhân từ tha thứ của
Thiên Chúa được biểu lộ tới tột đỉnh bằng việc ban tặng chính Con Một của Ngài.
Chúa Giêsu chính là hiện thân của ḷng tha thứ. Ngài đến trần gian để nhận lấy
tất cả tội lỗi của loài người. Bởi vậy, chẳng có ǵ quá đáng khi nói: Món quà
Thiên Chúa mong đợi nhất nơi con người là tội lỗi của họ. V́ Thiên Chúa chẳng
muốn ǵ hơn là được thỏa măn ḷng nhân từ yêu thương của Ngài bằng việc tha thứ
cho con người.
5. Gioan Tiền Hô
Tôi không xứng đáng cúi
xuống cởi dây giầy cho Ngài.
So sánh với Chúa Giêsu,
Gioan nhận ra ḿnh thật kém cỏi, kém cỏi đến nỗi không xứng đáng cúi xuống cởi
dây giầy. Kém cỏi đến nỗi không xứng đáng xách dép cho Ngài.
Chúng ta tưởng rằng Gioan hạ
ḿnh và khiêm tốn, nhưng không phải là như thế. Gioan không hạ ḿnh và cũng
chẳng khiêm tốn, nhưng ông chỉ nói lên một sự thật, một sự thật 100%.
So sánh với chúng ta, Gioan
trổi vượt hơn nhiều, bởi v́ ông được toàn thể dân chúng trọng kính, kéo đến nghe
giảng và chịu phép sám hối. Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, ông thật kém xa và kém
rất xa v́ dù sao ông cũng chỉ là loài người, ông cũng chỉ là một tạo vật.
Trong khi đó, Đức Kitô là
Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu,
Gioan chỉ là một giọt nước giữa ḷng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong
thửa rừng bát ngát, chỉ là một hạt cát chốn sa mạc bao la.
Từ mẫu gương của Gioan chúng
ta hăy đi vào lănh vực bản thân và hăy thú nhận ḿnh hèn kém, hèn kém mọi đàng.
Thực vậy, tự bản chất chúng
ta chẳng là ǵ cả. So sánh với người này người kia, có thể chúng ta giàu sang
hơn, chúng ta tài giỏi hơn, chúng ta thế lực hơn, chúng ta nhan sắc hơn. Tuy
nhiên chúng ta có nên dựa vào mấy cái hơn đó mà vênh vang tự đắc hay không?
Về giàu sang ư?
Hẳn rằng ai cũng đă rơ, tiền
bạc và của cải không phải là yếu tố chính yếu đem lại hạnh phúc. Hơn thế nữa, nó
cũng không ở cùng chúng ta luôn măi, có thể chỉ v́ một biến động mà chúng ta sẽ
trắng tay, như tục ngữ đă bảo:
-
Bừng con mắt dậy thấy ḿnh tay không.
Về tài giỏi ư?
Cái chúng ta biết chỉ là
một, c̣n cái chúng ta không biết th́ từng ngàn từng vạn. Jules Simon đă nói:
-
Chỉ có kẻ ngu mới tin rằng ḿnh biết mọi sự.
Người ta hỏi một nhà bác học
nọ:
-
Chính phủ trả lương cho ông, mà sao mỗi lần hỏi sự ǵ th́ ông lại trả lời
là không biết.
Nhà bác học nói:
-
Chính phủ trả lươngcho tôi v́ cái tôi biết. Song nếu phải trả lương cho
tôi v́ cái tôi không biết, th́ cả kho bạc chính phủ cũng chẳng đủ để trả lương.
Về thế lực ư?
Có những người một thời hét
ra lửa, thế mà, sau cùng lại bị tù tội. Cảnh thăng trầm, lên voi xuống chó,
chẳng phải là chuyện b́nh thường trong sinh hoạt của con người đó sao?
Về nhan sắc ư?
Chỉ một cơn sốt trên bốn
mươi độ, th́ con người c̣n ǵ là nhan sắc.
Tại Hollywood, kinh đô điện
ảnh của thế giới, có một nhà hưu dưỡng dành cho những ngôi sao màn bạc, khi trẻ
được ngưỡng mộ, nhưng bây giờ, họ vừa già lại vừa nghèo nên đă bị bỏ rơi và ch́m
vào quên lăng. Chính phủ cung cấp tiền nuôi dưỡng. Từ ngày mồng một tháng giêng
đến hết ngày ba mươi tháng chạp, những bóng người lui tới thăm hỏi họ thật là ít
ỏi.
Như trên đă xác quyết: Những
cái chúng ta có th́ chẳng là mấy. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ là những người quản
lư chứ không phải là những ông chủ. Mặc dù so sánh, chúng ta có thể hơn thật,
nhưng tự bản chất chúng ta chỉ là những người quản lư. Như vậy có chi đáng cho
chúng ta khoe khoang, vênh vang và tự đắc.
Quản lư càng nhiều, th́ càng
bận rộn, càng phải mang lấy trách nhiệm, bởi v́ không sớm th́ muộn chủ sẽ hạch
hỏi và đ̣i chúng ta tính sổ quản lư.
Copernic là một nhà thiên
văn nổi tiếng. Sự nghiệp của ông trong lănh vực này thật lớn lao. Thế nhưng, ông
không bao giờ tự phụ, trái lại ông sống rất khiêm tốn. Càng thông minh, ông càng
nhận thấy ḿnh bé nhỏ. Khi gần qua đời, ông xin khắc trên mộ bia của ông những
hàng chữ như sau:
-
Lạy Chúa, con không dám xin ơn trở lại như thánh Phaolô, cũng chẳng dám
yêu cầu được sự tha thứ như thánh Phêrô, con chỉ xin Chúa thương con như đă
thương kẻ trộm lành mà thôi.
Để kết luận, tôi xin mượn
lời cầu nguyện của thánh Augustinô:
-
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.
Biết Chúa để con yêu mến
Chúa nhiều hơn. Biết con để con ăn năn sám hối, sửa đổi những sai lỗi mà thăng
tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
6. Người dọn đường
Suy Niệm
Để chuẩn bị cho Con của Ngài
đến trần gian, Thiên Chúa cần nhiều người dọn đường trong ḍng lịch sử.
Người nổi bật nhất là Gioan.
Gioan là nhịp cầu thân
thương để Đức Kitô đến gặp dân Ngài, và để dân Ngài đón nhận Đức Kitô cứu thế.
Ông đă quen biết cả đôi bên và ông hạnh phúc được làm người phù rể cho đám cưới
giữa Đức Kitô và dân được chọn.
Thời nào Thiên Chúa cũng cần
những sứ giả, những người dọn đường, những Gioan mới.
Đó là sự khiêm tốn muôn thuở
của Thiên Chúa, Ngài chẳng bao giờ đường đột đến với con người.
Hôm nay, Đức Kitô muốn đi
vào thế giới của bạn: đất nước, gia đ́nh, trường học, nơi làm việc, bạn bè...
Ngài cần bạn làm người giới thiệu. Nhờ bạn, Tin Mừng được khởi đầu nơi một ai
đó, như xưa Tin Mừng đă được khởi đầu nhờ Gioan.
Chúng ta cần ngắm nh́n lối
sống của Gioan. Ông sống độc thân trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng,
mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Lối sống khắc khổ ấy đă trở nên một
dấu hỏi.
Gioan đă chọn lối sống phù
hợp với lời ông giảng. Ông kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng quyền thế
hơn ông, th́ chính ông đă sống như con đường thẳng. Ông mời gọi người ta sám
hối, th́ chính đời ông đă mang nét sám hối rồi. Bởi thế tiếng gọi của ông có sức
thu hút mănh liệt.
Biết bao người từ khắp nơi
kéo đến với ông, để khiêm tốn thú tội và chịu phép rửa, nhằm chuẩn bị đón Đấng
Mêsia sắp đến.
Chúng ta không thể vào hoang
địa như Gioan, cũng không thể ăn mặc như ông, nhưng chắc chắn để làm chứng cho
Đức Kitô hôm nay, chúng ta không thể sống y như mọi người.
Lắm khi chúng ta phải từ
khước một cuộc sống dễ dăi, tiện nghi, thoải mái, để t́m kiếm một cái ǵ sâu xa
hơn, ư nghĩa hơn. Không phải chúng ta thích lập dị, nhưng ơn gọi Kitô hữu đ̣i
chúng ta dám lội ngược ḍng với thế gian, dám sống một cách khác thường trong
chính cuộc sống b́nh thường của ta.
Làm sao chúng ta có sức thu
hút như Gioan để đưa con người hôm nay đến gặp Chúa? Chúng ta phải thay đổi lối
sống ḿnh như thế nào, để người ta tin được lời chúng ta rao giảng?
Đức Kitô hôm nay vẫn cần
những người dọn đường tuyệt vời như Gioan.
Gợi Ư Chia Sẻ
Nhiều người đă không đón
nhận Tin Mừng chỉ v́ gương xấu của các Kitô hữu. Bạn có nh́n thấy, nghe thấy
những gương xấu đó ở quanh bạn không? Làm sao để có một cuộc sám hối tập thể như
Gioan đă khơi dậy?
Bạn sẽ làm ǵ để tỏ ḷng yêu
mến Chúa Giêsu và làm cho Ngài được mọi người yêu mến?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối
không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận ḿnh lầm
lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy
Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đă muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng ḍn và yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết
thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của ḿnh, tỉnh táo để khỏi rơi vào
ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối ḿnh.
Ước ǵ Chúa ban cho chúng
con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa
đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho
chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc v́ được tự do và được yêu mến.
7. Hoang địa ph́ nhiêu
Đoạn mở đầu Phúc âm theo
thánh Maccô là một tuyên cáo. Đây là một bản loan Tin Mừng, bằng những lời mạnh
không hoa mỹ, nó chứa đựng những yếu tố chủ yếu của sứ điệp, đó là: Thời đại Cứu
chuộc đă khởi sự, những lời tiên tri đă được thực hiện –Đức Giêsu Kitô là Con
Thiên Chúa- Người đă đến thanh tẩy loài người trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là
đến cứu rỗi nhân loại. Đoạn Phúc âm mời gọi mọi người hăy sám hối, thanh tẩy bản
thân cách xứng đáng để được tha thứ.
Tiền hô Gioan Tẩy giả được
tŕnh bày với dáng vẻ cường tráng, trung kiên và khiêm hạ. Thánh sử đặt ông ngay
phần mở đầu, giống như các kiến trúc sư thời trung cổ thiết bị cửa chính nhà thờ
như một lời mời hăy tiến vào thánh đường. Ta ghi nhận Gioan Tẩy giả đă sống
trong sa mạc, nghĩa là trong cô tịch, thiếu thốn tiện nghi thể xác, quang đăng
vật chất, và khoáng đạt tâm hồn. Được khai quang hết những ǵ không tối cần
thiết, ông sẵn sàng để Thiên Chúa sử dụng. Điều này mời chúng ta suy niệm về ư
nghĩa thiêng liêng của hoang địa.
1) Hoang địa là sự chuẩn
bị bắt buộc phải có cho mỗi thực hiện đáng giá trên b́nh diện nhân phẩm hoặc
trên b́nh diện hành động. Chúng ta hiểu “hoang địa” theo nghĩa: đó là
những khoảnh khắc cầu nguyện trong vắng vẻ, những giây phút suy tư và suy niệm,
yên lặng, cố gắng dọn dẹp loại bỏ cái thừa. Ân sủng chính của “hoang địa” là
khám phá thấy con người tùy thuộc trước hết vào Thiên Chúa.
Người ta nhớ tới cuộc xuất
hành khi Môisê dẫn dắt dân ông. Kinh nghiệm về hoang địa của Israel trốn chạy
khỏi Ai cập để tiến về Đất hứa, chính là 1 nhận thức về hai điểm. Trước hết họ
hoàn toàn tùy thuộc vào sự chăm nom của Thiên Chúa. Điểm hai: họ có thể trông
nhờ vào sự chiếu cố ấy, một sự ân cần săn sóc không lúc nào vắng thiếu. Đời sống
Kitô hữu cũng vậy. Trên đường tiến đến tận cùng số mệnh ḿnh, người Kitô hữu
phải biết sức mạnh đó miễn là phải loại bỏ tất cả những ǵ ngăn chặn Chúa đến.
Để chuẩn bị đón tiếp Chúa trong dịp lễ Giáng sinh, chúng ta sẽ khai quang tâm
hồn chúng ta như thế nào?
2) “Hoang địa” là một
chuẩn bị ưu tiên cho hành động đặc biệt cho cho hoạt động Tông đồ. Cũng như
Gioan Tẩy giả,
người làm việc Tông đồ chuẩn bị cho người ta nghênh đón “Đấng đến để thanh tẩy
trong Chúa Thánh Thần”. Hoạt động Tông đồ được bồi dưỡng cường lực và hiệu năng,
nếu trước đó đă được thuần luyện bằng suy niệm và nguyện cầu, trong tâm trạng
“hoang địa” nó khai phóng tâm trí, thanh luyện tâm hồn, củng cố ư chí, mở rộng
linh hồn đón nhận cường lực của Thiên Chúa.
Giống Gioan Tẩy giả lúc từ
sa mạc trở về, đă lôi cuốn những đám dân chúng đông đảo, chiến sĩ của Đức Kitô
lôi cuốn người khác nếu họ cảm thấy trong con người chiến sĩ tính chất chân
chính có được nhờ thời gian lâu dài sống vắng vẻ với Chúa. Một yếu tố đặc biết
đáng lưu ư. Ta có thể tự hỏi: sống vắng vẻ với Chúa, phải chăng là sống ngoài
trần thế? Vậy mà tín đồ của Chúa phải dấn thân vào thế gian, để trong thế gian
trở nên một thứ men sinh động cho đời sống và tiến hóa của thế gian. Lời đáp nằm
trong một nhận định sơ đẳng. Mọi cuộc đời đều có một nhịp độ hấp thụ và cống
hiến. Người ta chỉ có thể cống hiến điều ǵ đă được hấp thụ. Không được nuôi
dưỡng th́ cơ thể không làm được những cố gắng thể lực. Cũng vậy, đời sống thiêng
liêng không thể hoạt động thật sự, nếu không hấp thụ sức mạnh của Thiên Chúa.
Chính trong sự gặp gỡ Thiên Chúa, thực hiện được bằng cầu nguyện và tĩnh tâm,
trong vắng vẻ (dù chỉ vài ba phút) trong từ bỏ không luyến tiếc những cái ngổn
ngang rườm ra, mà chiến sĩ Đức Kitô trở nên men tác động giữa thế gian, môi
trường sinh hoạt của ḿnh.
8. Chú
giải và suy niệm của Quesson
Hôm nay, chúng ta sẽ đọc
trang đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô. Trong suốt năm phục vụ này, năm B,
chúng ta sẽ đọc cách đặc biệt Tin Mừng Maccô.
Truyền thống thường giới
thiệu Maccô như môn đệ của Phêrô. V́ thế trong tŕnh thuật của ông, ta được nghe
lại những kỷ niệm và giáo lư của vị tông đồ, đă từng mục kích Đức Giêsu. Người
ta cho rằng: Tin Mừng này đă được soạn thảo tại Rôma, khoảng năm 70, và gửi cho
một cộng đồng Latô gồm những người gốc ngoại giáo, chưa từng sống tại Palestine.
So sánh với ba Tin Mừng
khác, Tin Mừng của thánh Maccô rất thực tế: đó là câu truyện của một người b́nh
dân, có những nét gây thích thú. Nhưng ta đừng vội lầm, Maccô cũng là một nhà
thần học, sẽ tỏ lộ cho ta cuộc khám phá dần dần của Phêrô. Suốt trong phần đầu,
mọi người đều tự hỏi: “Đức Giêsu là ai!” Đức Giêsu thể hiện những hành động, nói
những lời luôn đặt thành vấn đề. Nhưng thật lạ lùng. Người vẫn đặt “bí mật” trên
con người ḿnh. Măi tới phần thứ hai của đời sống công khai, người mới từ từ
thông tỏ về bản thân Người.
Khung cảnh địa lư Maccô sử
dụng cũng mang tính thần học. Theo đó ông đề cao xứ Galilê, miền đất mở ngở và
để đón nhận sứ điệp của Đức Giêsu, nghịch lại với Giêrusalem, thành phố luôn
chối từ Đức Giêsu.. Hơn nữa đối với Maccô, biển hồ Galilê mang một ư nghĩa biểu
tượng (Phêrô người thuyền chài, biết rơ từng vũng nhỏ trong hồ ông sinh sống!).
Bờ hồ phía tây, là người Do Thái. Bờ hồ phía đông, là anh em dân ngoại. Maccô có
ư nhấn mạnh cho ta thấy, Đức Giêsu đang đi vào "miền đất ngoại giáo", như thế
khai mở "vùng truyền giáo" của Giáo Hội mà Tin Mừng ông muốn gửi tới.
Cuối cùng Tin Mừng của Maccô
đượm vẻ "bi thảm”. Ba nhóm người được miêu tả trong đó. Trước hết đó là Đức
Giêsu và các môn đệ của Người, luôn chung sống với nhau. Rồi tới đám dân chúng
theo Đức Giêsu, nhưng không hiểu biết ǵ về Người. Sau hết, đó là các kẻ thù
nghịch, ngay từ đầu chỉ xoi mói ŕnh rập nhằm kết án Đức Giêsu.
Khởi đầu Tin Mừng.
Có lẽ không phải là ngẫu
nhiên mà lời đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Maccô cũng là lời đầu tiên trong
Bộ Kinh thánh: 'Khởi đầu trời và đất" (St 1,1). Thánh Gioan cũng sử dụng cùng
một từ đó, cũng bắt đầu Lời tựa trong Tin Mừng của ông: “Khởi đầu vẫn có Ngôi
Lời" (Ga 1,1). C̣n Matthêu và Luca, cũng gợi lên thực tại của một khởi đầu này:
“Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô " (Mt 1,18; Lc 1,3). Như thế, cả bốn thánh sử
đều gợi lên cho ta thấy, nhờ Đức Giêsu, chương tŕnh của Thiên Chúa đă có một
bước khởi đầu mới: Có thể nói, một cuộc tạo thành mới đang khởi sự. Và mỗi năm,
Mùa Vọng bắt đầu, cũng là một dịp khởi đầu lại. Lạy Chúa, thế mà chúng con vẫn
thích dừng chân tại chỗ để thốt lên: Đủ rồi, xin Chúa không ngừng ban lại cho
chúng con tinh thần biết "khởi sự". Xin làm sống lại trong chúng con niềm hy
vọng.
“Tin Mừng": Chúng ta
quá quen thuộc với từ này. Nó
dịch từ tiếng Hy Lạp “Evangélion”. Nhưng từ này không có ư diễn tả “một cuốn
sách" hay một sự việc. Đó là Tin Mừng nước Thiên Chúa đă khơi sự trong con người
của Đức Giêsu . "Tin Mừng”, đó là sự sống lại, là Phục sinh, là sự chiến thắng
vĩnh viễn của sự sống? Tin Mừng phát xuất từ sấm ngôn của Isaia, khi ông loan
báo cho những người bị lưu đày biết t́nh trạng khổ ái của họ sắp chấm dứt: “Hăy
an ủi, hăy an ủi dân Ta... Dịch vụ của nó măn rồi. Hăy nhủ ḷng cùng Giêrusalem,
hăy công bố tội của nó được tha. Hăy lên núi cao, hỡi Sion, người loan Tin Mừng.
Hăy gióng tiếng lên cho mạnh và loan báo: Ḱa Thiên Chúa của ngươi đang đến...”
(Is 40,1-11). Tôi có tin tưởng như thế không? Đức tin của tôi có là một thứ gánh
nặng, tôi phải vất vả đeo mang, hay là một Tin Mừng “Vui tươi”, “Tốt đẹp”,
"Tuyệt diệu”.
Tin Mừng Đức Giêsu
Kitô, con Thiên Chúa.
Ngay từ ḍng đầu của Tin
Mừng, Maccô đă nói ngay nếu ông muốn bàn. Những “tước hiệu" trên đây của Đức
Giêsu là ch́a khóa khai mở toàn bộ tŕnh thuật của ông. Những tước hiệu đó sẽ
được lặp lại vào giây phút cuối đời; khi một người "dân ngoại" nhận biết Đức
Giêsu chết trên thập giá: “Quả thật người này là con Thiên Chúa " (Mc 15,39). Đó
là điều ta thường gọi là một thứ “hệ luận” theo kiểu nói “Xêmít". Đó là kiểu
cách văn chương nhằm biểu thị ư nghĩa sâu xa của một câu chuyện, mà toàn bộ "bao
gồm " trong hai từ được lặp đi lặp lại từ đầu đến cuối.
Giêsu: trong ngôn ngữ
Do Thái muốn nói lên "Thiên Chúa
cứu độ" – “Yéshouah” . Đó là một từ quen thuộc, diễn tả tính cách nhân bản, lịch
sử trần thế của con người Nagiarét. Kitô: trong ngôn ngữ Do Thái
có ư nghĩa Đấng được “Đức Chúa xức dầu". “Meshiah": Tước hiệu này biểu lộ, Đức
Giêsu chính là Đấng mà toàn dân Israel mong đợi, là con cháu nhà Đavít, là "Vua
nước Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa: tước
hiệu cuối cùng này, chỉ mang ư
nghĩa trọn vẹn lúc Chúa sống lại: Vào thời Maccô viết Tin Mừng, các Kitô hữu đă
dùng kiểu nói mạnh này để tuyên xưng đức tin vào thần tính của Đức Giêsu.
Trong sách Ngôn sứ Isaia có
chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến. Có
tiếng người hô trong hoang địa: Hăy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho
thẳng để Người đi".
Một lần nữa không phải ngẫu
nhiên, mà Tin Mừng Maccô bắt đầu bằng một câu trích dẫn trong Cựu Ước. Đức Giêsu
không phải là một “sao băng" từ một hành tinh khác mà đến. Ngài được ghi tên
trong lịch sử của một dân tộc Ngài được người ta "mong chờ', "loan báo”, "chuẩn
bị"... Từ sau Công Đồng Vatican, bài đọc Cựu Ước mà ta đọc mỗi Chúa Nhật, không
phải là một việc làm mới lạ của Giáo Hội hiện nay. Các Kitô hữu tiên khởi, các
tín hữu của Maccô, cũng như của Matthêu, Luca và Gioan, đă từng đọc Kinh Thánh
Cựu Ước và ứng dụng cho Đức Giêsu. C̣n chúng ta th́ sao? Chúng ta thường phàn
nàn v́ không gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng ta có coi Kinh Thánh như phương thế tiếp
gặp Chúa chưa?”
Ta làm ǵ để gặp gỡ Chúa? Ta
có chuẩn bị con đường cho Chúa đến không? Mùa Vọng này có thể là một thời gian
để ta suy niệm lại Kinh Thánh.
Ông Gioan Tẩy Giả xuất
hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân chúng chịu phép rửa, tỏ ḷng sám hối
để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với
ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Giođan.
Chúng ta đừng có mơ tưởng
rằng, ta sẽ “gặp" được Thiên Chúa, chẳng hạn như dịp Noel này, mà không cần phải
“chuẩn bị" cho Người đến, không cần phải thanh tẩy, không cần phải làm việc để
hoán cải thay đổi đời sống.
Chính Gioan Tẩy Giả không
chút nể nang thính giả của ông, ông bảo họ: "Các ngươi phải thay đổi hoàn toàn
nếp sống... Hăy trở lại! Đó là ư nghĩa của từ “Metanoia" bản dịch là "hoán cải".
Các ngươi đă làm điều này sao? Giờ đây, hăy làm ngược lại. Điều xấu, điều ác mà
các ngươi đă thực hiện, hăy chấm dứt ngay. Điều tốt lành như vậy mà sao các
ngươi không làm, hăy bắt tay thi hành ngay đi! Phải thay đổi, cần thay đổi gấp!
Sắp tới lễ Noel rồi, mọi
Kitô hữu lại được mời gọi lănh nhận “bí tích giao ḥa" để được ơn tha tội. Ngay
từ bây giờ, tôi muốn chuẩn bị lănh nhận, để nhờ bí tích đó tôi có một bước tiến
đáng kể, trưởng thành và có trách nhiệm hơn. Và cũng như dân chúng xưa kia tuôn
đến sông Giođan, tôi cần phải bắt đầu “nhận biết” tội lỗi ḿnh, cách sáng suốt.
Lạy Chúa xin mở rộng đôi mắt con.
Ông Gioan mặc áo lông
lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng".
Đó là y phục tiêu biểu của
những "người vùng hoang địa”, những con người du mục.
Hoang địa: Để tới đó
theo sự lôi cuốn của Gioan Tẩy Giả,
dân chúng phải rời bỏ một thế giới nào đó họ đang sống, để bước vào một thế giới
khác. Lui vào "hoang địa" nghĩa là từ chối dễ dăi, tiện nghi. “Hoang địa" đó là
vùng đất mở tới rất xa, là nơi không thể nhận rơ dấu vết lộ tŕnh, là tiếng mời
gọi ta dấn thân mạo hiểm? “Hoang địa" đó cũng là nơi cô tịch và yên lặng: Mời
gọi ta hướng đến cuộc gặp gỡ nội tâm? ở đây ta không thể vui chơi giải trí hay
lánh ẩn để kiếm t́m những việc bề ngoài, những điều xem ra giả tạo mà là nơi con
người gặp lại bản thân, đối mặt với chính ḿnh, trong t́nh trạng bị bóc lột trần
trụi. Trong tư thế lột xác và thinh lặng này, Thiên Chúa mới có thể làm cho ta
nhận ra tiếng Người: Đó là lời mời gọi ta nhận ra thực tại của bản thân, khi các
mặt nạ đă được trút bỏ, trong tiếng Nga, từ “hoang địa" được dịch là
“poustinia”. Và luôn luôn có những người nam cũng như nữ lui vào trong
“poustinia" của họ: Cuộc gặp gỡ giữa họ với Thiên Chúa sẽ mang tính chất nào,
đều phụ thuộc vào giá trị này cả. Tôi có lợi dụng Mùa Vọng này, để tạo cho ḿnh
một thời gian chính thức sống cô tịch không?
Ông loan báo: "Có một
Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi. Tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho
người. Tôi th́ tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, c̣n Người, Người sẽ làm
phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Gioan Tẩy Giả chỉ hiện diện
tại đó để tiến dẫn một kẻ khác, một người nào đó chưa được gọi tên: “Đấng đang
đến", “Đấng quyền năng nhất", “Đấng xứng đáng nhất!”, “Đấng d́m trong Thánh
Thần”... Nếu ta quyết định hoán cải Thiên Chúa sẽ không là người phong kiến
ngoại cuộc: Người sẽ d́m chúng ta trong Thần Khí của Người.
Suy niệm: THÁI ĐỘ CẦN CÓ
ĐỂ ĐÓN NHẬN CHÚA
Charles Lamb là một văn sĩ
nổi tiếng của nước Anh vào thế kỷ thứ 18. Buổi tối nọ, năm sáu văn sĩ khác tụ
họp ở nhà ông để thảo luận về các đề tài văn chương. Bỗng nhiên, có người đặt
vấn đề: Chúng ta sẽ làm ǵ nếu được gặp gỡ các danh nhân thế giới trong các thời
đại đă qua. Có người gợi ư:
-
Nếu giờ đây Dante bước vào pḥng này?
-
Giả như đêm nay có Shakespeare cùng tham gia thảo luận với chúng ta?
Charles Lamb hô to:
-
Tôi sẽ hân hoan giơ tay đón tiếp các vị như các hoàng đế của tư tưởng.
Cuối cùng một người nói:
-
C̣n nếu bây giờ Đức Kitô bước vào pḥng này?
Charles Lamb nghiêm nét mặt
nói:
-
Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều quỳ xuống.
Đó là thái độ đúng đắn để
tiếp đón Chúa Kitô. Người khác với mọi danh nhân trong lịch sử, v́ Người là
Thiên Chúa.
Chúng ta vừa nghe thánh sử
Maccô mở đầu sách Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Đây là một câu chuyện, nhưng là một
câu chuyện đem lại ơn cứu độ. Tuy nhiên để đạt hiệu quả mong muốn chúng ta phải
chuẩn bị cho ḿnh một thái độ đặc biệt để tiếp nhận câu chuyện về Đức Kitô cùng
với những lời truyền dạy của Ngài.
Đầu tiên, Đức Kitô là Thiên
Chúa. Người tới trần gian như một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân
loại. Câu chuyện bắt đầu bằng những từ ngữ trang trọng giống như những lời khởi
đầu toàn bộ Kinh Thánh: “Khởi đầu của Tin Mừng…”
Câu chuyện về cuộc đời Đức
Kitô bắt đầu bằng lời ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu nơi hoang mạc: Hăy dọn đường
cho Chúa”. Đức Kitô xuất hiện muộn màng trong lịch sử, nhưng Người chính là
trung tâm của lịch sử, toàn bộ Cựu Ước cốt chuẩn bị cho nhân loại đón tiếp
Người. Trước khi tới trần gian, Người đă hiện diện với tư cách Thiên Chúa, nhưng
chỉ khi nhân loại được dọn dẹp, được dạy dỗ, được huấn luyện bằng các biến cố
lâu dài, bằng những lời mặc khải cặn kẽ, lúc ấy con người mới có đủ khả năng và
tư cách tương đối xứng đáng đón nhận Chúa.
Sau khi được chuẩn bị bằng
cả chiều dài lịch sử, Gioan Tiền Hô dạy chúng ta dọn dẹp chính tâm hồn ḿnh bằng
thái độ thống hối ăn năn. Nếu không cải thiện, không đổi mới hoàn toàn, ta sẽ
chẳng bao giờ gặp được Đức Kitô. Để đón mừng Chúa trong lễ Giáng Sinh, chúng ta
phải đổi mới ngay từ bây giờ. Những việc xấu đă từng làm phải ngưng lại. Những
việc thiện c̣n chần chừ ngần ngại phải sẵn sàng bắt tay làm ngay.
Dọn ḷng trí đón tiếp Chúa
với thái độ của một người hành tŕnh qua sa mạc. Bỏ hết xa hoa hào nhoáng, từ
chối cao lương mỹ vị, sẵn sàng chay tịnh và ăn mặc đơn sơ nghèo khó.
Khi đó chúng ta mới có thể
gặp được Chúa và con đường theo Chúa mới thực sự là một Tin Mừng chứ không phải
một gánh nặng. V́ một khi chúng ta đă cố gắng hết sức, Chúa sẽ ban phép rửa bằng
Thánh Linh, chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh và hân hoan.
Xin Chúa ban Thánh Thần cho
chúng con. Nhờ Người, tâm tư t́nh cảm chúng con được đổi mới, cũng nhờ Người,
chúng con tích cực chuẩn bị đón Chúa bằng cách nghe, suy niệm và thực thi lời
Chúa dạy bảo.
9. Trích chú giải của
William Barclay
I. GIOAN RAO GIẢNG (Mc
1,1-4)
Một trong những câu chuyện
kể về Kitô giáo có thể làm ǵ là câu chuyện lịch sử đă ghi lại một vụ nổi loạn
trên tàu Bounty. Bọn cướp tàu ấy bị tống lên đảo Pitcaim. Có chín tên nổi loạn,
sáu người đàn ông bản xứ, mười đàn bà bản xứ và một bé gái mười lăm tuổi. Một
trong đám người đó có người biết nấu rượu. Kết quả là t́nh h́nh trở nên khủng
khiếp. Tất cả đều chết, ngoại trừ Alexander Smith. Smith may mắn gặp một quyển
Kinh Thánh. Ông ta đọc sách ấy và quyết tâm xây dựng một quốc gia với thổ dân
trên đảo, lập nền trên Kinh Thánh. Măi 20 năm sau mới có một chiếc thuyền buồm
nhỏ đến thăm đảo, người ta gặp tại đó một cộng đồng hoàn toàn Kitô giáo. Ở đó
không có nhà tù v́ không có tội ác. Không có bệnh viện v́ không ai đau ốm. Không
có dưỡng trí viện v́ không ai bị loạn trí. Không có ai mù chữ và không có nơi
nào trên thế giới sinh mạng và tài sản được an toàn bằng tại đấy. Kitô giáo đă
thanh lọc xă hội ấy. Nơi nào Chúa Cứu Thế được mời đến th́ chất sát trùng của
niềm tin Kitô đă tẩy sạch chất độc của xă hội, khiến nó trở nên trong sạch,
thuần khiết.
Gioan đến, rao giảng một
phép rửa tỏ ḷng sám hối. Người Do Thái vốn quen thuộc với nghi lễ tẩy rửa. Lêvi
15 đă mô tả chi tiết các nghi lễ ấy. Tertulian nói “người Do Thái tắm rửa hằng
ngày v́ mỗi ngày họ đều bị nhiễm ô uế”. Các biểu tượng về tẩy rửa và thanh lọc
được đưa vào chính cơ cấu và nghi lễ của dân Do Thái. Người ngoại nhất thiết bị
kể là ô uế v́ chẳng hề giữ luật Do Thái. Cho nên khi một người ngoại nhập đạo Do
Thái, nghĩa là tin theo Do Thái Giáo, th́ người ấy phải làm ba việc. Thứ nhất,
phải chịu phép cắt b́, v́ đó là dấu hiệu về một người của giao ước. Thứ hai,
phải dâng một sinh tế, v́ với tư cách là người ngoại, người ấy cần được chuộc
tội, mà chỉ có máu mới chuộc được tội lỗi. Thứ ba, phải chịu phép rửa v́ tượng
trưng cho việc mọi ô uế trong quá khứ của ḿnh đều đă được tẩy sạch. Cho nên, lẽ
tự nhiên phép rửa không phải chỉ là việc rảy nước lên người nhưng là việc tắm
toàn thân trong nước. Người Do Thái biết rơ phép rửa, nhưng chuyện lạ trong phép
rửa của Gioan, là ở chỗ Gioan là người Do Thái mà lại dạy người Do Thái cần phải
chịu một nghi lễ chỉ có người ngoại mới phải chịu. Gioan đă có một khám phá phi
thường là một người Do Thái theo phương diện chủng tộc vẫn chưa phải là thành
viên của tuyển dân của Chúa; một người Do Thái cũng ở địa vị như một người dân
ngoại, không phải hễ là người Do Thái th́ tự nhiên thuộc về Chúa, nhưng người có
đời sống được thanh tẩy, đó là người của Chúa.
Phép rửa kèm theo việc xưng
tội. Bất cứ hành động nào liên quan đến sự trở về cùng Chúa, việc xưng tội được
đ̣i hỏi đối với ba đối tượng:
1) Người ta phải tự
xưng tội với chính ḿnh. Bản tính con
người thường là muốn nhắm mắt làm ngơ trước những ǵ ta không muốn nh́n thấy, và
trên hết là chúng ta vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với tội lỗi của chính ḿnh. Người
ta kể câu chuyện về bước đầu tiên đến được với ân sủng của một người kia. Một
hôm, lúc đang cạo râu, ông ta thấy mặt ḿnh trong gương, th́nh ĺnh ông ta thét
lên “À ra mày, mày là một thằng khốn nạn, bẩn thỉu”. Và từ đó, ông ta trở nên
một người khác hẳn. Chắc chắn sau khi bỏ nhà ra đi, người con trai hoang đàng
nghĩ rằng ḿnh là nhân vật tử tế, thích mạo hiểm. Nhưng trước khi quyết định trở
về nhà, anh ta đă nh́n lại ḿnh thật kỹ và tự nhủ “ta sẽ đứng dậy, trở về nhà và
nhận rằng ta là một đứa con hoàn toàn hư hỏng” (Lc 15,17.18). Trên đời này, đối
diện với chính ḿnh th́ khó hơn là phải đối diện với bất kỳ ai khác, và bước đầu
của hoán cải, của việc làm ḥa lại với Chúa là phải tự thú nhận tội lỗi của ḿnh
với chính ḿnh.
2) Người ta phải xưng
tội với kẻ ḿnh đă đối xử sai quấy.
Thưa với Chúa rằng ta ăn năn hối tiếc là vô ích nếu trước đó ta chưa ăn năn hối
hận với những người đă bị ta xúc phạm và gây thương tổn, làm buồn phiền. Phải
cắt bỏ các chướng ngại giữa người và người với nhau trước khi có thể gỡ bỏ các
chướng ngại với Chúa. Thông thường xưng tội với Chúa vốn dễ hơn xưng tội với
người, nhưng nếu không có sự khiêm nhường hạ ḿnh, th́ vẫn không có tha tội.
3) Người ta phải xưng
tội với Chúa. Kết thúc kiêu ngạo là
khởi điểm của tha tội. Chỉ khi nào một người nói “tôi có tội”, mới có hy vọng
được Chúa phán “Ta tha tội cho con”. Không phải kẻ muốn đến gặp Chúa với tư cách
tay đôi như hai người ngang hàng với nhau mà được tha tội, nhưng phải là người
quỳ gối xuống với tấm ḷng khiêm hạ, ăn năn, thống hối, xấu hổ th́ thầm “Lạy
Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
II. GIOAN SỨ GIẢ (Mc
1,5-8)
Rơ ràng chức vụ của Gioan đă
có kết quả lớn v́ mọi người đổ xô đến nghe ông giảng và chịu để ông làm phép rửa
cho họ. Tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn trên dân tộc ông như vậy?
1) Gioan là người sống
theo sứ điệp ông rao giảng.
Chẳng những ông chỉ phản đối bằng lời nói, mà c̣n bằng cả đời sống của ông nữa.
Có ba điều ở ông đă chứng thực cho lời phản đối của ông về đời sống tạm bợ này.
(a) Nơi ông ở. Ông ở trong
hoang địa. Giữa trung bộ xứ Giuđê và Biển Chết, có một vùng hoang địa khủng
khiếp nhất thế giới. Đó là một hoang địa đá vôi trông gồ ghề, vặn vẹo. Nó phản
chiếu lấp lánh dưới sức nóng gay gắt, các khối đá vôi nóng bỏng làm phỏng da,
người ta có cái cảm giác như chúng rỗng ruột, như đang đi trên một ḷ nung ở
dưới mặt đất. Nó nghiêng về phía Biển Chết rồi tạo thành những dốc thẳng đứng
đáng sợ, dẫn xuống những hố sâu không thể nào leo lên được về phía bờ biển.
Trong Cựu Ước, thỉnh thoảng nó được gọi là Jeshimmon nghĩa là nơi hoang vu.
Gioan không phải là một thị dân. Ông là người từ hoang địa, từ nơi hoang vu vắng
vẻ mà đến. Ông là người từng đi t́m cơ hội để được nghe tiếng Chúa phán dạy.
(b) Y phục ông mặc, ông mặc
áo dệt bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Êlia cũng từng ăn mặc như vậy
(Lv 1,8). Nh́n một người như thế người ta sẽ không thể liên tưởng tới một nhà
hùng biện thời danh, ăn mặc đúng thời trang, nhưng nhớ lại các ngôn sứ thời xưa
từng sinh sống hết sức giản dị, tránh mọi lối xa hoa yếu mềm, yểu điệu, thường
giết chết tâm hồn.
(c) Thực phẩm. Thực phẩm của
ông là châu chấu và mật ong rừng. Cả hai từ này đều có thể có hai nghĩa. Châu
chấu là giống vật được luật cho phép ăn (Lv 11,22.23), nhưng cũng có thể đó là
một loại đậu hay hột gọi là carob, vốn là lương thực của kẻ nghèo. Mật ong có
thể là mật của loài ong rừng đóng tổ trong các bọng cây hoặc cũng có thể là một
loại nhựa ngọt chảy ra từ lớp vỏ của một vài loại cây. Từ này có nghĩa chính xác
vẫn không là vấn đề quan trọng. Dầu thế nào đi nữa thức ăn của Gioan rất đạm
bạc, ông đă xuất hiện trong t́nh trạng như vậy. Thiên hạ thường thích nghe những
người như thế. Người ta kể về Carlyle rằng “Ông giảng hai mươi bộ sách Phúc Âm
bằng sự im lặng”. Ngược lại có nhiều người đă đem đến một sứ điệp mà chính đời
sống họ lại phủ nhận nó. Lắm người có nhiều tiền gửi ngân hàng, nhưng lại giảng
rằng đừng tích trữ của cải ở dưới đất; nhiều người ca tụng các phúc lộc của kẻ
nghèo, nhưng lại sống trong một biệt thự khang trang, trưởng giả. Nhưng trong
trường hợp của Gioan, ông là con người của sứ điệp, sống theo chính sứ điệp rao
giảng và v́ thế dân chúng đă nghe ông.
2) Thông điệp của ông
sở dĩ được hiệu nghiệm v́ ông nói với dân chúng điều mà thâm tâm họ vẫn biết,
ông đem đến
cho họ điều mà họ vẫn mong đợi.
(a) Người Do Thái có câu
“nếu dân Israel giữ trọn luật Chúa chỉ trong một ngày th́ Nước Trời sẽ đến”. Khi
Gioan kêu gọi họ hoán cải là ông đặt họ đối diện với sự chọn lựa, với quyết định
mà tự đáy ḷng họ đă biết rất rơ đó là việc họ phải làm. Từ xưa, Plato đă nói
rằng giáo dục không phải là nói với người ta những điều mới lạ nhưng là rút ra
từ kư ức họ những ǵ họ đă biết rồi. Không có sứ điệp nào hiệu nghiệm cho bằng
nói với chính lương tâm con người, và sứ điệp ấy hầu như trở thành điều họ không
thể cưỡng lại được khi nó được một người đầy đủ thẩm quyền nói ra.
(b) Dân Israel biết rơ rằng
từ ba trăm năm qua, tiếng nói ngôn sứ đă im bặt. Họ đang chờ đợi một tiếng nói
thật sự từ Thiên Chúa đến và họ đă nghe được nơi Gioan. Trong mọi lănh vực của
đời sống, người ta dễ nhận ra ai là nhà chuyên môn. Một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng
kể rằng ngay khi Toscanini đứng lên chiếc ghế nhạc trưởng, toàn ban cảm thấy uy
quyền của con người ấy tràn qua trên họ. Chúng ta nhận biết ngay một vị bác sĩ
mát tay. Nghe một diễn giả thấu hiểu đề tài ḿnh tŕnh bày, chúng ta nhận biết
ngay. Gioan vốn từ Thiên Chúa đến, chỉ nghe ông nói là đủ để nhận ra.
3) Thông điệp của ông
sở dĩ hiệu nghiệm v́ ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng
đáng với
nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có
xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô,
bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa th́ đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép
là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước ǵ hơn là được làm
bất cứ việc ǵ cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên ḿnh, sẵn sàng
phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ ḿnh trong thông điệp của ông
đă thúc đẩy dân chúng nghe ông.
4) Thông điệp của
Gioan có hiệu quả v́ ông đă hướng dân chúng chú ư đến một điều, một nhân vật cao
cả vượt trội.
Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông d́m họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau
ông sẽ d́m họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể th́ Thánh Thần
thanh lọc cả đời sống, bản ngă và tấm ḷng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có
dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài
mà nếu có sự chậm trễ th́ nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt
liên lạc cho ông”. Khi đă bắt được liên lạc, th́ nhân viên tổng đài tự rút lui
để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy
trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng
trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông v́ ông không chỉ vào chính
ḿnh nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
10. Chú giải theo Fiches
Dominicales
LỜI TỰA TIN MỪNG MACCÔ:
TỪ GIOAN TẨY GIẢ ĐẾN ĐỨC
GIÊSU
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một lịch sử mới bắt
đầu
Tin Mừng thánh Maccô hôm nay
bắt đầu bằng một câu không có động từ, gồm một ít tiếng được chọn lọc kỹ càng,
mỗi chữ đều rất nặng nghĩa: tác giả đă cho thấy rơ trọng tâm sứ điệp của Đức
Kitô và phác hoạ cho độc giả con đường đức tin.
Đó là sự "Khởi đầu”,
J.Hervieux lưu ư: "Trong Kinh Thánh, sách Sáng Thế và nhiều sách khác đă bắt đầu
như thế. Chắc hẳn Thánh sử muốn gợi lên rằng Đức Giêsu sẽ mở đầu một lịch sử
thánh mới, một tạo dựng mới ("Tin Mừng thánh Maccô", Centurion, tr. 15).
Đó là sự khởi đầu của "Tin
Mừng” (tiếng Hy Lạp: Evangile). Điều mà tiên tri Isaia đă loan báo (bài đọc 1
của Chúa nhật này) - tức "Tin Mừng” do sáng kiến của Thiên Chúa v́ lợi ích cho
dân Ngài - đă hoàn tất, mặc lấy xác phàm trong lịch sử loài người.
- Đó là khởi đầu Tin Mừng
của Đức Giêsu, Đấng đă giảng dạy Tin Mừng này trước khi trở thành đối tượng của
Tin Mừng sau khi Ngài sống lại. Hơn là một cuốn sách, hơn là một sứ điệp mừng
vui, Tin Mừng này chính là Đức Giêsu.
- Thánh sử Maccô đă mặc khải
về Đức Giêsu bằng hai danh hiệu đầy ư nghĩa: "Kitô", "Con Thiên Chúa".
+ "Kitô": từ mà ngày
nay chúng ta không c̣n hiểu hết ư
nghĩa nguyên thủy của nó.
M.E. Boismard lưu ư: "Lẽ ra
phải đặt một dấu phẩy giữa hai từ GIÊSU và KITÔ để nhấn mạnh từ thứ hai là một
danh hiệu đặt cho Đức Giêsu, đó là một danh hiệu hoàng tộc.
Từ "Kitô”, chuyển âm từ
"Christos" của tiếng Hy Lạp. "Christos" dùng để dịch động từ "Meshiah" của tiếng
Do thái có nghiă là "xức dầu". Động từ Do thái này cũng biến thành "Messias"
trong tiếng Hy lạp. Bởi vậy, "Kitô" có nghĩa tương tự như “ Mêsia” để chỉ người
được Thiên Chúa xức dầu, bằng dầu đă được hiến thánh.
Do đó, trong số những người
được thánh hiến bằng dầu thánh, các v́ vua mà Thiên Chúa chọn dẫn dắt dân Người
chiêm một vị trí chính yếu và sau này người được xức dầu thánh chỉ c̣n dùng để
chỉ các v́ vua mà thôi.
Như vậy, nghĩa đầu tiên của
từ "Kitô" có ư nói Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu để làm vua dân
Người.
Đàng khác, chúng ta sẽ thấy
cảnh Đức Giêsu chiu phép rửa (1,9-11), được Maccô tŕnh bày như là một sự đăng
quang làm vua vậy. ("Giêsu, người Nagiarét”, Cerf, 1996, tr. 14-16).
+ "Con Thiên Chúa”: vào thời
Đức Giêsu, danh hiệu này được gán cho Đấng Mêsia. Điều này có nghĩa là Thiên
Chúa che chở cách riêng Đấng Người nhận làm con, và giữa họ có mối dây liên hệ
đặc biệt. Nhưng đối với các môn đệ, họ cần thời gian để nhâïn ra Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa trong mối tương quan có một không hai; trong Người, chính Thiên
Chúa đến với nhân loại. Các ông chỉ cỏ thể nhận ra điều này sau ngày Chúa phục
sinh nhờ Thánh Linh ban ơn trong ngày lễ Ngũ Tuần.
KITÔ, CON THIÊN CHÚA:
hai danh hiệu trả lời trước cho
câu hỏi luôn vang lên trong suốt 8 chương đầu của Tin Mừng thứ hai: "Người này
là ai?”. Hai danh hiệu đă phân chia hai phần lớn của Tin Mừng này:
Phần đầu dẫn chúng ta đến
lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: Ngài là Đấng Kitô" (8, 29...).
-
Phần thứ hai dẫn ta đến sự hiệp thông với niềm tin của viên sĩ quan Rôma
được chứng kiến cái chết của Chúa, đă tuyên xưng: "người này thật là Con Thiên
Chúa" (15,39).
-
Benoit Standaert kết luận: "Phúc Âm hay Tin Mừng, chính là Đức Giêsu và
với Ngài, thời đại mới bắt đầu, màn trời xé ra, Thánh Thần ngự xuống, và quyền
năng Thiên Chúa thiên trung quyền lực sự dữ... Ngay những từ đầu tiên của Maccô
đă là sự khai mở, từ đó xuất hiện một danh hiệu mới, một sự hiện diện mới: Đức
Giêsu, Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Maccô đă nói quá đủ! Ngài chẳng c̣n ǵ để nói
với chúng ta nữa. (“Tin Mừng theo thánh Maccô”, chú giải, Cerf, tr.41).
2. "Khúc dạo đầu” cho
một màn kịch khác.
Ngay sau danh xưng đầy ư
nghĩa trên về Đức Kitô, không một lời chuyển tiếp, thánh sử cho Gioan Tẩy Giả
xuất hiện: "Và Gioan Tẩy giả đă xuất hiện trong hoang địa". Ở ngay phần đầu, đă
có những trích dẫn Thánh Kinh (Xuất Hành 23,20; Mal 3,1 và 23; Is 40,3); điều đó
hàm ư ghi tên Gioan Tẩy Giả vào truyền thống ngôn sứ và giới thiệu ông như "sứ
giả" được Thiên Chúa sai đến "để dọn đường, như người sẽ mở đường cho Thiên Chúa
đến, qua Đấng Mêsia của Ngài.
Nơi Gioan Tẩy giả thi hành
sứ mệnh là "hoang địa", là nơi của Xuất Hành, là nơi vừa để chịu thử thách vừa
để được mặc khối t́nh yêu dịu dàng của Thiên Chúa, đồng thời là nơi tượng trưng
cho mọi khởi đầu. Và chính v́ thế, Gioan "Kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ ḷng
sám hối để được ơn tha tội”. Bên gịng nước sông "Giócđanô" nơi dân Chúa đă băng
qua để vào đất hứa, lời ông vang dội "khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem". Một
cách nói của thánh sử để cho ta hay là tiếng gọi của con người sa mạc nay gởi
đến tất cả mọi người.
Y phục ông làm ta ngạc
nhiên. Y phục ấy mang ư nghĩa tượng trưng v́ đó cũng là y phục của ngôn sứ Êlia.
Sách Các Vua viết: “Ngài mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da" (1V
17,1-6; 9,5-8). Đó là cách thánh sử tŕnh bày Gioan Tẩy Giả như một ngôn sứ
Êlia, Đấng mà thời Đức Giêsu người ta tin là phải đến trước Đấng Mêsia.
Cách sống của ông rất khắc
khổ, trái hẳn với cách sống của Đức Giêsu. J.Hervieux nhận xét: ‘Người không ăn
bận khác thường không ăn chay, Người uống rượu và ăn thịt. Thay v́ ở trong hoang
địa như Gioan, Người sống trong đời thường, giữa quần chúng’ (sách đă dẫn,
tr.19).
Công việc của Gioan là mở
đầu thời đại mới: "Khởi đầu Tin Mừng”, và chỉ cho thấy Đấng mà Ngài có bổn phận
loan báo rằng: Người đến, rồi tức khắc Gioan rút lui. ‘Đấng đến sau tôi’ – ông
tuyên bố cách ngược đời, - bởi lẽ đi đằng sau ai, điều đó có nghĩa làm môn đệ
của người ấy – ‘Người quyền phép hơn tôi, tôi không xứng cúi xuống cởi dây giày
cho Người’. Chẳng những Gioan tuyên bố không xứng làm môn đệ của Đấng đến sau
ông, mà c̣n cho ḿnh không xứng làm tôi tớ của Người. Ông khẳng định rơ ràng:
Phép rửa của Đức Giêsu vượt trên phép rửa của ông: "Tôi đă làm phép rửa cho anh
em trong nước, phần Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”.
J. Hervieux kết luận: Sứ
điệp rất rơ ràng: Gioan tự giới thiệu như là kẻ đến trước Đức Giêsu. Ông đi
trước “Đấng quyền năng" hơn ông. Ông ư thức về sự thấp kém của ḿnh. Ông phải tự
hạ trước Đức Giêsu như tôi tớ trước chủ, đến nỗi không xứng cởi dây giày cho
Chúa! Sau cùng và nhất là sự khác biệt chính được công nhận giữa phép rửa của
Gioan và phép rửa của Đức Giêsu. Gioan đă làm phép rửa trong nước. Đức Giêsu th́
làm phép rửa trong Thánh Thần. Cái độc đáo của Đấng Mêsia khi so sánh với vị
tiền hô của Người, là Người nắm giữ Thần Khí (xem 1,10). Với ơn Thánh Thần mà
Người sẽ ban sau khi phục sinh, Đức Giêsu đem đến ơn tha tội một cách dứt khoát
(Cv 2,38).
V́ thế ngay từ trang đầu của
Tin Mừng, Maccô đă đặt Gioan Tẩy Giả, sứ mệnh và phép rửa của ông vào đúng chỗ
của nó. Tất cả chỉ là để loan báo và để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Phần sau
sẽ soi sáng mối liên hệ họ hàng mật thiết giữa Gioan và Đức Giêsu, cũng như sự
khác biệt sâu xa giữa hai con người này (Sách đă dẫn, tr. 19)
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Đáp lại lời mời gọi
của Gioan, chúng ta hăy chuẩn bị đón nhận Đức Giêsu. (Mgr. L. Daloz trong: “Ngài
là ai”,
Declée de Brouwer, tr. 10)
"Lời công bố của Gioan Tẩy
Giả như khúc dạo đầu mở màn cho Đức Giêsu, Đấng Mêsia xuất hiện. Đức Giêsu có
mặt giữa những người đáp lại lời mời gọi của Gioan nơi hoang địa. Nhưng ư nghĩa
của việc Chúa đến được giải thích bằng những lời của tiên tri Isaia: "Hăy dọn
đường cho Chúa...". Trước khi Đức Giêsu xuất hiện, một sứ giả đă được phái đến
để loan báo dọn đường cho Người. Người ta không thể đón nhận Đức Giêsu nết không
có chuẩn bị trước. Người đến với những ai chấp nhận đi vào con đường hoán cải
bằng cách xưng thú tội ḿnh, chấp nhận sự đổi mới của phép rửa thống hối. Nhờ
thế, chúng ta biết thêm sự cao trọng của Đấng sẽ đến. Ngài là "Đấng quyền năng
hơn...", và sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đây là một thái độ đón nhận,
chú tâm, một thái độ hoán cải cần có để chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Ngài là người
đơn sơ và nghèo khó, người anh em của chúng ta. Nhưng đằng sau dáng vẻ bề ngoài
ấy, chúng ta được mời gọi t́m hiểu mầu nhiệm của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa.
2. “Đức tin, sức mạnh
đổi mới” (Mgr. Cl. Dagens trong:
“Tŕnh bày đức tin trong xă hội hôm nay”, Cerf, tr. 39-41).
Đánh giá những biến đổi đang
diễn ra trong cách sống đạo của những cộng đoàn Kitô giáo không phải nhằm làm
một bản tổng kết, nhưng là để nh́n nhận sức mạnh đổi mới do Chúa ban và được thể
hiện nhờ việc chúng ta sống đức tin.
- Chúng ta có thể bắt đầu từ
sự kiện mới mẻ sau đây: đó là sự đón tiếp và tháp tùng những tân ṭng trưởng
thành hay những trẻ em chưa được rửa tội học các lớp giáo lư do những bạn bè có
đạo dẫn dắt. Con số những người theo học giáo lư như vậy gia tăng không ngừng.
Tại sao đức tin nơi nhưng tín hữu đạo gốc lại được đổi mới nhờ những cuộc gặp gỡ
này? Thưa bởi v́ họ thường đồng hóa Tin Mừng với cách nh́n đời của họ, và v́ họ
thường có thói quen chỉ giữ lại những ǵ trong Tin Mừng củng cố lư tưởng nhân
loại của ḿnh. Chỉ khi va chạm với những người không thuộc nền "văn hóa công
giáo", họ mới thẩm định lại sự mới mẻ nơi Mạc khải của Thiên Chúa trong Đức
Giêsu Kitô và sức đổi thay của Tin Mừng. Cũng nhờ đó, họ phát hiện lại sự phong
phú của truyền thống phụng vụ và tâm linh trong Kitô giáo, cũng như niềm vui
được thuộc về Giáo Hội như một gia đ́nh mới. Gia đ́nh này không tuân theo những
luật lệ của xác thịt nhưng tuân theo lời mời gọi của Thánh Thần.
Đó là cách chúng ta phải suy
gẫm về những ǵ đă xảy ra bởi v́ Lời Chúa mà các tân ṭng khám phá cũng chính là
Lời mà chúng ta phải đón nhận và loan báo. Chúng ta không thể phủ nhận cú sốc về
niềm tin do hiện tượng trở lại này. Vả lại, cần phải t́m hiểu sâu xa hơn để nhận
ra rằng sự kiện tân ṭng trở lại, một hiện tượng mới mẻ, biểu lộ sự t́m kiếm đời
sống tâm linh của rất nhiều người đương thời. Trong bối cảnh này, tŕnh bày đức
tin Kitô giáo không thể là một việc duy ư chí, nhưng chúng ta phải dấn thân vào
công cuộc t́m kiếm này, hiểu biết nó, phân định những lời mời gọi, những cám dỗ
và cả những ảo tưởng của nó nữa. Bằng những phương tiện của ḿnh, chúng ta cũng
cần khắc ghi vào đấy Mạc Khải về Đức Giêsu Kitô, Đấng đă nói với mọi người:
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tương tự như vậy, chúng ta
cũng nên nói đến mục vụ cho trẻ em và thanh thiếu niên. Cần phải có những thái
độ sư phạm phù hợp và xác định đâu là vai tṛ và thẩm quyền của chứng nhân trong
việc truyền giảng đức tin trong bối cảnh có sự “đứt đoạn với các truyền thống
hiện nay.
Ngay cả ở đây nữa, điều
chúng ta cần thực hiện không chỉ là so sánh những ư kiến khác nhau về mục vụ hay
giáo dục, nhưng là hiểu biết sự phong phú của niềm tin vào Đức Kitô trong việc
khai tâm đức tin cho thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng có thể đề cập
đến những phương tiện mục vụ đang được cải tiến trong Giáo Hội Pháp.
Sau cùng, chúng ta có thể
chứng tỏ niềm tin vào Đức Kitô đă gợi lên và cổ xúy cuộc đấu tranh cho quyền con
người thế nào, và nói rơ hơn, niềm tin ấy làm thế nào đă giúp ḥa hợp được giữa
đấu tranh và chiêm niệm, giữa đời sống tâm linh và dấn thân trong xă hội. Ở đây,
những tương quan mâu thuẫn giữa những người bề ngoài như xa cách nhau có thể nói
không c̣n tồn tại: Chiến sĩ công giáo tiến hành, linh mục thợ, thành viên của
những công đoàn mới, hoặc đan sĩ nam nữ. Dĩ nhiên, nói vậy không có nghiă là xóa
bỏ những khác biệt có thực trong những h́nh thức dấn thân. Nhưng xét đến động cơ
sâu xa của sự dấn thân, chúng ta sẽ nhận ra những đ̣i hỏi như nhau: không thể
sống với Đức Kitô trong thân phận tôi tớ của người mà không sống với những anh
em bị xă hội loại trừ; cũng vậy, không thể sống dài lâu với những anh em bị xă
hội loại trừ mà không t́m kiếm gặp gỡ Đức Kitô trong chiêm niệm. Nỗi đam mê phục
vụ nhân loại hiện rơ đằng sau sự khác biệt về cách sống đức tin.
Do đó, chúng ta có thể tŕnh
bày đức tin Kitô giáo như một sức mạnh hoán cải và biến đổi thực sự cho cá nhân
cũng như cho xă hội. Bởi v́, trong thực hành của Giáo hội, tin và sống đức tin
giúp luôn có những sáng kiến và những đổi mới trong vô số lănh vực.
11.
Dọn đường
Trong truyền thống Zen của
Đông phương có ghi lại một câu chuyện sau đây của một ông giáo sư đại học đến
gặp vị thiền sư để xin lời chỉ dạy: Thưa thầy, xin dạy con phải làm ǵ để có một
đời sống hạnh phúc. Con đă học Thánh Kinh, con đă học hỏi với những bậc đại sư,
nhưng con chưa t́m thấy câu trả lời, xin thầy làm ơn chỉ dạy cho con biết cách
nào đây?
Nghe xong câu hỏi, vị thiền
sư rót nước trà mời khách. Ngài rót trà đầy tách của khách, rồi tràn cả ra
ngoài, nhưng ngài vẫn cứ rót thêm măi, tới nỗi nước trà chảy xuống bàn, rồi từ
bàn chảy xuống sàn nhà. Ông giáo sư nh́n thấy thế, không thể kềm hăm ḿnh được
nữa, bèn nói lớn: “Ngưng đi! Ngưng đi! Đầy quá rồi! Không c̣n chỗ… tràn cả ra
nhà”.
“Giống như cái tách trà
này!”Vị thiền sư nói. Ông đă đổ đầy những suy nghĩ và ư kiến của ông vào rồi.
Làm thế nào tôi có thể chỉ cho ông cách nào được nữa, trừ phi ông phải làm trống
rỗng cái tách của ông trước đă.
Trong Thánh Kinh, sa mạc là
nơi để gặp Thiên Chúa. Đi vào trong sa mạc là phải bỏ lại tất cả mọi thứ mà ta
thường tùy thuộc trong đời: nghề nghiệp, liên hệ, tiện nghi, ư muốn và ngay cả
những cơ chế tôn giáo. Thiên Chúa chẳng làm ǵ được cho ta nếu ta không hoàn
toàn tùy thuộc và tin tưởng vào Ngài. Sa mạc biểu tượng cho sự từ bỏ bản thân, ư
riêng, làm trống vắng con tim ḿnh để Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị. Đó là lư do
tại sao khi xưa Gioan tẩy giả xuất hiện trong hoang địa và rao giảng phép rửa
sám hối để chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến: “Hăy dọn đường Chúa đến, hăy sửa đường
Chúa cho ngay thẳng”.
Phúc âm hôm nay nói về con
người và những việc làm của Gioan tẩy giả chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Theo
William Barclay, một trong những lư do làm cho công việc mục vụ của Gioan có
hiệu quả mạnh mẽ, dân chúng lũ lượt kéo đến nghe giảng và xin ơn tha tội qua
phép rửa, là v́ Gioan rất khiêm tốn. Gioan đă sống hy sinh từ bỏ chính bản thân
ḿnh như một người nô lệ của Thiên Chúa qua đời sống trong hoang địa, trang phục
đơn sơ, ăn uống kiêng cữ giản tiện: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi,
tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.
“Sự phán quyết của Gioan cho
chính ḿnh là Gioan không xứng đáng làm bổn phận của một người nô lệ. Những
chiếc dép da thuộc đơn sơ được cột vào bàn chân bằng những sợi dây. Mặt đường gồ
ghề. Vào mùa khô bụi bặm, sang mùa mưa dính đầy bùn. Tháo những đôi dép ra khỏi
chân là công việc và bổn phận của người đầy tớ. Gioan đă không đ̣i hỏi điều ǵ
cho chính ḿnh nhưng mọi sự dành cho Đức Kitô. Rơ ràng là sự tự quên ḿnh, sự
nhượng bộ, sự tự bôi xóa chính ḿnh, sự thua thiệt hoàn toàn trong lời ngài rao
giảng đă thúc đẩy dân chúng phải lắng nghe”.
Chúa Giêsu Kitô cũng đă chết
trên thập giá theo ư Chúa Cha. Ngài hoàn toàn không làm sự ǵ theo ư riêng ḿnh.
Qua thập giá, Ngài tự hư vô hóa bản thân ḿnh để thánh ư của Chúa Cha được thể
hiện. Đó là con đường tu đức Ngài dạy chúng ta phải theo.
Chúng ta không có quyền bắt
Chúa phải trở lại theo thời khắc như ư ta. Khi nào Chúa đến đó là quyền của
Chúa. Ngay chính Chúa Giêsu cũng không biết ngày ấy: “C̣n về ngày và giờ đó th́
không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không;
chỉ một ḿnh Chúa Cha biết mà thôi”. Nhưng điều kiện Chúa đ̣i chúng ta là phải
chuẩn bị sẵn sàng. Một trái tim luôn sẵn sàng là trái tim thực thi thánh ư của
Thiên Chúa.
Nếu ta không dọn chỗ trống
cho Ngài, làm sao Ngài đến được? Thánh Gioan tẩy giả đă đến để dọn đường cho
Thiên Chúa, không phải bằng cách xây dựng một cơ chế tôn giáo, một lề lối làm
việc hay một phương hướng hoạt động truyền giáo theo ư ngài, nhưng bằng việc sửa
soạn trái tim và tâm hồn của tất cả những ai muốn đón nhận Thiên Chúa.
12. Thay đổi
Gioan Tẩy giả là vị Tiền Hô
của Đấng Cứu Thế. Ngài đă sống và thi hành sứ mạng của ngài thế nào? Ngài sống
rất khổ hạnh từ buổi thiếu thời: y phục chỉ có một áo choàng bằng da lạc đà, là
một kiểu áo hăm ḿnh mà các ngôn sứ xưa thường dùng, ngang lưng thắt một dây da
cho gọn ghẽ, c̣n của ăn lại càng bấp bênh hơn nhờ vào “may rủi”, là ăn châu chấu
độn với mật ong rừng. Gioan ăn mặc như thế mà đi rao giảng khắp vùng Giuđê,
Galilê và quanh sông Giordan. Bấy giờ mùa màng vừa gặt hái xong, thời vụ mới
cũng chưa tới, nên dân chúng rảnh rang kéo nhau đến rất đông để nghe ngài giảng,
cả những người lănh đạo cũng sai người tới hỏi ngài là ai? Ngài chỉ mượn lời
ngôn sứ Isaia để trả lời: tôi không là ai cả, chỉ là tiếng kêu trong hoang địa,
có bổn phận dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Thực vậy, ngài làm phép rửa
và rao giảng kêu gọi mọi người thay đổi đời sống để đón Đấng Cứu Thế đến. Phép
rửa của Gioan, xét về h́nh thức th́ giống như phép rửa của đạo Do Thái, là d́m
ḿnh ở nước sông Giordan, để từ bỏ ngoại giáo và dứt khoát trở về tôn thờ Thiên
Chúa. Nhưng phép rửa của Gioan có một hướng mới, khác hẳn đạo Do Thái, là hướng
về luân lư, dùng công bằng, bác ái, chân thật để sửa soạn cho nước Đấng Cứu Thế.
V́ vậy, phép rửa của Gioan chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giêsu, giúp người ta
sám hối, sửa soạn cho việc tha tội. Cho nên, phép rửa của Gioan không phải là
một bí tích, nghĩa là không tự động tức khắc tha tội.
Đàng khác, cùng với việc làm
phép rửa, Gioan Tiền Hô c̣n giảng dạy, kêu gọi mọi người hăy thay đổi đời sống
để đón nhận Đấng Cứu Thế: “Hăy dọn đường Chúa, hăy sửa đường Chúa cho ngay
thẳng”. Điệp khúc rao giảng của ngài là hăy ăn năn sám hối, lời giảng của ngài
làm chấn động mọi tầng lớp, mọi thứ người, từ lớp rắn lục trở xuống, nghĩa là
những người có chức quyền, nhưng lươn lẹo, cố chấp, cả vua Hêrôđê cũng bằng ḷng
nghe ngài giảng. Sử gia Phơlaviô đă ghi nhận: “Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên
quần chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều ǵ ông dạy bảo, hết mọi hạng
người đến gặp ngài để xin ngài chỉ dạy cách phải sống”.
Đối với chúng ta ngày nay,
lời kêu gọi “hăy ăn năn sám hối” của Gioan phải chăng đă nhàm chán và lỗi thời?
Hoặc trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, lời kêu gọi hăy thay đổi đời sống
của Gioan phải chăng không c̣n cần thiết? Nhàm chán th́ có nhàm chán thật, v́
lúc nào chúng ta cũng nghe lặp đi lặp lại những lời khuyên đó hoặc những lời
tương tự như hăy tu thân tích đức, đừng kiêu ngạo, đừng gian tham, đừng bất
công, đừng sống phản bác ái, lỗi t́nh thương… Nhưng c̣n lỗi thời th́ sao? Có lỗi
thời không? Có thể nói, ngày nào c̣n con người là c̣n luân lư, c̣n giáo dục, c̣n
khuyên răn, và bao lâu c̣n tội lỗi, c̣n tranh chấp, c̣n tệ đoan, c̣n tiêu cực,
th́ c̣n phải sửa chữa, phải thay đổi để trở nên tốt hơn, và như vậy lời kêu gọi
của Gioan vẫn măi măi cần thiết, không bao giờ lỗi thời.
Tất cả chúng ta đều biết:
bước đầu tiên để kiến tạo một xă hội, một thế giới tốt đẹp, là con người phải
hiểu rơ “cái tôi” của ḿnh, từ đó mới làm chủ được bản thân và cùng hoà nhịp vào
cuộc sống với mọi người, đúng như quan niệm từ ngàn xưa của Khổng Tử: “Thành ư,
chính tâm, tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”. Con người sống
trong xă hội có ảnh hưởng hỗ tương và liên đới trách nhiệm với nhau rất mật
thiết, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng một phần tử xấu cũng đủ làm hư
hỏng một gia đ́nh và cả xă hội, “con sâu làm rầu nồi canh” là như thế.
V́ vậy, mỗi Mùa Vọng chúng
ta lại có dịp xét ḿnh, kiểm điểm đời sống, cách suy nghĩ qua lời kêu gọi của
Gioan Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Nói khác đi,
chúng ta cần phải thay đổi cách sống và lối suy nghĩ không phù hợp với lời Chúa
hay không đúng với lương tâm và lương tri của ḿnh.
Trên đời này có cái ǵ không
thay đổi chăng? Có người nói chơi: chỉ có chữ “thay đổi” là không thay đổi mà
thôi, nghĩa là cái ǵ trên đời này cũng thay đổi. Thế giới này có nhiều sự thay
đổi, và có những cái thay đổi ảnh hưởng tới chúng ta, nhưng cái cần thiết nhất
là ḷng chúng ta phải thay đổi. Khi ḷng ḿnh được thay đổi th́ mọi sự sẽ được
đổi thay. Chúng ta đừng mong ngoại cảnh thay đổi ḷng ḿnh, chính ḷng chúng ta
phải được thay đổi trước đă th́ ngoại cảnh mới thay đổi theo, như câu chuyện sau:
có một cụ già kia sống giữa hai gia đ́nh: một gia đ́nh làm nghề thợ rèn và một
gia đ́nh làm nghề thợ mộc, cả hai gia đ́nh này gây tiếng động ồn ào suốt ngày.
Cụ già không chịu được, năn nỉ họ đổi đi nơi khác, nhưng họ cứ nhùng nhằng măi,
sau cùng họ đồng ư đổi đi, họ đổi đi đâu? họ đổi nhà cho nhau, như vậy cụ già
kia chẳng được ǵ. Muốn thay đổi, chính cụ phải thay đổi, chính cụ phải dọn nhà
ra đi.
Đàng khác, có người không
muốn thay đổi ǵ hay chỉ ưa thay đổi tạm bợ và bằng ḷng với phương pháp gọi là
tu sửa ít phần trăm, có người lại sợ đổi mất cả cái ít phần trăm đó, v́ thế, dù
chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào th́ lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô vẫn là
một lời khẩn thiết, xin mỗi người hăy lắng nghe và thực hiện để kinh nghiệm được
những ơn phúc của Mùa Vọng. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều thay đổi, đều đổi
mới từ tư tưởng tới hành động để trở thành những con người mới thực sự.
13. Giấc mơ hay hiện thực
(Trích
trong: Niềm vui chia sẻ)
Một người kia kể lại giấc mơ
khủng khiếp như sau: Tôi thấy ḿnh đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào
trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải dành cho người Công
giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn, tôi đi theo hành lang
bên phải dành cho người Công giáo.
Đi được một lúc, tôi thấy
ḿnh đứng trước một ngă rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau: Bên
phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém.
Và tôi lại đi bên phải.
Đến một ngă rẽ khác, tôi lại
thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có ḷng bác ái, bên trái
dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà đi.
Cuối cùng tôi gặp một bảng
chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho
những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi. Nhưng tôi đang hân
hoan rảo bước, th́ bỗng một cảnh tượng hăi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành
lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn h́nh khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng
hốt kêu rú lên và giật ḿnh thức giấc.
Sau một phút tôi hoàn hồn và
tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hăi hùng?”.
Câu hỏi trên đây có lẽ cũng
có thể được nêu lên cho mỗi người chúng ta trước tiếng hô của Gioan Tẩy Giả: “Có
tiếng hô trong hoang địa: Hăy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để
Người đi”. Thường th́ chúng ta cứ chọn bên phải mà đi, chứ mấy ai lại thích đi
bên trái. Cái ảo tưởng về sự tốt lành của ḿnh luôn luôn bám sát chúng ta như
h́nh với bóng. Ḷng tự cao tự đại thường mê hoặc chúng ta, làm cho chúng ta như
ch́m sâu măi vào một giấc mơ hăi hùng.
“Anh em hăy tỉnh cơn mê, đêm
đă tàn, ngày đang đến”. Lời ấy của thánh Phaolô muốn thôi thúc chúng ta thành
khẩn nh́n lại giá trị đích thực của đời ḿnh. Tôi có thực sự xứng đáng đứng bên
phải trong ngày phán xét cuối cùng không? Hay đó chỉ là một giấc mơ hăi hùng?
Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng
ta hăy dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Dọn đường cho Ngài đến thực hiện một cuộc
giải phóng mới, không phải giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập hay khỏi nơi lưu đầy
Babylon, mà là khỏi tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. V́ vậy, Gioan Tẩy Giả kêu
gọi mọi người hăy sám hối. Ông đă dùng phép rửa như một dấu hiệu của ḷng sám
hối, từ bỏ tội lỗi để đón nhận Chúa Kitô, đồng thời như một dấu hiệu tiên báo
một phép rửa hoàn hảo hơn -Phép rửa của Chúa Giêsu: “Tôi th́ tôi làm phép rửa
cho anh em bằng nước, c̣n Ngài, Ngài sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.
Gioan không chỉ rao giảng
sám hối mà c̣n sống tinh thần sám hối, không chỉ thức tỉnh dân chúng trước biến
cố đang xảy đến mà c̣n lay tỉnh chính ḿnh trước công việc mầu nhiệm của Thiên
Chúa: cách ăn mặc của Gioan nói lên tâm tư và phong cách sám hối. Thực vậy, lối
sống đơn giản và khổ chế của Gioan – mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da,
ăn châu chấu và mật ong rừng – chứng tỏ ông đă thoát khỏi những ràng buộc phiền
toái của xă hội Do Thái và những bận tâm quá đáng về vật chất để quy hướng cuộc
sống vào việc chào đón và rao giảng về Đấng Cứu Thế. Ông đă làm chứng về Đấng
Cứu Thế và chờ đợi Ngài đến bằng một đời sống khổ hạnh và tỉnh thức.
Đời người là một Mùa Vọng
dài hướng về ngày Chúa đến lại. Mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả, và toàn thể
Giáo Hội có sứ mạng tiền hô. Người tín hữu hôm nay, khi nhắc đến mầu nhiệm Chúa
đến, phải có tâm tư và thái độ sống thế nào để dọn đường cho những anh chị em
chung quanh biết đón chờ Chúa? Chúng ta đă gia tăng cầu nguyện, hoán cải đời
sống để dọn đường Chúa đến, để chuẩn bị cho Chúa tỏ ḿnh ra chưa?
Ḷng sám hối đích thực không
nằm ở nơi những t́nh cảm tốt đẹp, những sáo ngữ hấp dẫn, những nghi thức rầm rộ
bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể: sửa lại cho thẳng những
lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng
của tâm trí, lấp đầy hố thẳm nghèo đói Lời Chúa của tâm hồn.
Thánh Phêrô trong thư của
ngài đă cho thấy ḷng sám hối không phải là một thái độ nhất thời, mà là thái độ
thường xuyên của người Kitô hữu trong suốt giai đoạn chờ Ngày của Chúa. Ngài
nhắn nhủ: “Anh em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải cố gắng nên
tinh tuyền, không chi đáng trách, để được b́nh an trước mặt Chúa” (2Pr 3,14).
Lời nhắn nhủ đó là những lời kêu gọi các tín hữu sám hối để tạo nên cho ḿnh một
thái độ tương xứng cần thiết.
Hiển nhiên là lời kêu gọi
sám hối trong Phụng Vụ Chúa Nhật 2 Mùa Vọng này không thể chỉ được giới hạn
trong việc xét ḿnh ăn năn và xưng tội để có được một tâm hồn trong sạch xứng
đáng cho Chúa ngự, vào thánh lễ đêm Giáng Sinh. Sám hối là một thái độ sống của
người Kitô hữu. Sám hối là một sự đổi mới, một sự đổi mới toàn diện: trong tư
tưởng, trong sự chọn lựa, trong hành động. Sự đổi mới này không chỉ diễn ra một
lần là đủ, mà là một đổi mới liên tục. Người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ con
người cũ, lối sống theo ḷng ích kỷ, tham lam, tàn bạo, không đếm xỉa đến quyền
lợi của người khác, để sống theo con người mới với ḷng yêu thương, với t́nh
liên đới với người chung quanh, ở trong gia đ́nh, trong trường lớp, trong cơ
quan, xí nghiệp… Người Kitô hữu vẫn tin rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực
hiện không chỉ nơi thâm sâu thầm kín của từng con người mà c̣n ngang qua lịch sử
trong xă hội con người.
Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả
trong hoang địa là một tiếng gọi mang đầy hy vọng và niềm vui: “Hăy dọn đường
cho Đấng Cứu Thế, v́ Người sắp đến rồi!”. Hăy thay đổi bộ mặt trái đất này cho
loài người được sống ấm no hạnh phúc, để cho Trời Mới Đất Mới xuất hiện, trong
đó công lư và ḥa b́nh sẽ ngự trị và mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa chúng ta.
14. Người dọn đường tâm
hồn- Lm. Nguyễn minh Hùng
Mỗi lần chuẩn bị cho xa giá
của nhà vua đi qua một nơi nào đó, thường có một người lính cầm loa phóng thanh
đi trước hô to để dọn đường. Khi nghe tiếng loa báo hiệu như thế, dân chúng sẽ
thu dọn mọi thứ rác rến bừa băi, thu dọn những ǵ bị coi là không đẹp mắt, làm
cho con đường sạch đón vua đi qua.
Cũng thế, mỗi lần có một
phái? đoàn quan trọng của chính phủ đi trên đường phố, thường có xe cảnh sát và
đoàn xe mô tô đi trước, làm nhiệm vụ bảo vệ và dọn đường để chuẩn bị cho xe ca
phái đoàn cấp cao đi qua.
Nhiệm vụ của thánh Gioan Tẩy
giả vừa giống như thế, nhưng cũng vừa không giống. Giống là v́ thánh Gioan cũng
được gọi là người dọn đường. Không giống là v́ nhiệm vụ của thánh Gioan quan
trọng hơn, cao cả hơn: Thánh Gioan không dọn đường đi như những người dọn đường
cho vua chúa, nhưng là Dọn Đường Tâm Hồn.
Dọn đường cho chính Thiên
Chúa đi vào tâm hồn con người. Người dọn đường tâm hồn nhắn gởi đến mọi người
lời kêu gọi thống thiết: "Hăy dọn đường Chúa, hăy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Cùng với lời kêu gọi dọn
đường cho Chúa là rao giảng phép rửa sám hối để đem mọi người trở về với ḷng ăn
năn tội nhằm xin ơn tha thứ. Hóa ra dọn đường cho Chúa ngự vào tâm hồn, không có
ǵ khác hơn, nhưng chính là hoán cải đời sống và thú nhận tội lỗi để được ơn tha
thứ. Chỉ có tâm hồn trong sạch, một tâm hồn hoàn toàn không vướng mắc tội lỗi
mới xứng đáng Chúa ngự vào.
Dù lời mời gọi của thánh
Gioan Tẩy giả: "Hăy dọn đường Chúa, hăy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" đă có từ
rất lâu, nhưng vẫn rất phù hợp với mọi người hôm nay. V́ ở đâu có tội lỗi, ở đó
rất cần ơn ăn năn sám hối. Bạn và tôi có tội. Cách duy nhất để dọn đường và sửa
đường đón Chúa ngự vào tâm hồn là ăn năn sám hối.
15. Suy niệm của
JKN
Câu hỏi gợi ư:
1.
Tại sao Tin Mừng Maccô lại bắt đầu bằng câu chuyện của Gioan Tẩy giả, mà
không bắt đầu bằng chuyện Đức Giêsu giáng sinh? Việc dọn đường của Gioan có ư
nghĩa ǵ đặc biệt đối với người Rôma?
2.
Dựa theo tinh thần bài Tin Mừng, để dọn đường đón Chúa đến, chúng ta cần
làm ǵ một cách cụ thể? Những h́nh ảnh «dọn sẵn con đường của Đức Chúa», «sửa
lối cho thẳng để Người đi» có ư nghĩa ǵ?
3.
Việc dọn đường Chúa đến có liên hệ ǵ với những quan hệ của ta với tha
nhân không?
Suy tư gợi ư:
1. Gioan Tẩy Giả, người dọn
đường để Đức Giêsu đến
Khởi đầu Tin Mừng Maccô là
chuyện Gioan Tẩy Giả loan báo và dọn đường cho Đức Giêsu đến, khác với Matthêu
và Luca khởi đầu bằng chuyện Đức Giêsu giáng sinh. Tại sao? V́ Tin Mừng Maccô
được viết cho người Rôma. Theo quan niệm và thông tục của người Rôma, các nhân
vật quan trọng đi đến đâu đều phải có người dùng loa thông báo cho dân chúng
biết trước mấy ngày, vừa để làm nổi bật sự quan trọng của nhân vật đó, vừa để
dân chúng sửa sang những con đường trong vùng cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch
sẽ, vừa để dân chúng đón tiếp hai bên đường cho long trọng nếu vấn đề an ninh
cho phép. V́ thế, để giới thiệu Đức Giêsu cho các Kitô hữu Rôma mà khởi đầu Tin
Mừng bằng câu chuyện của Gioan Tẩy Giả th́ sẽ hiệu quả và lôi cuốn sự chú ư hơn.
Ngoài ra, để nói lên tính cách đặc biệt thần thiêng của việc dọn đường ấy, thánh
sử c̣n trích dẫn lời của 2 ngôn sứ Isaia và Malakia đă loan báo trước đó khoảng
450-550 năm (tương đương với thời của các vị giáo chủ các tôn giáo châu Á): «Này
Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta» (Ml 3,1), «Có tiếng người hô
trong hoang địa: Hăy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người
đi» (x. Is 40,3).
Phần chúng ta, khởi đầu năm
phụng vụ mới, chúng ta cũng cần chuẩn bị đón mừng kỷ niệm Đức Giêsu đến trong
nhân loại, đồng thời đón mừng Ngài đến trong tâm hồn mỗi người. V́ thế, thiết
tưởng bản thân mỗi người cũng như toàn Giáo Hội hăy dọn đường đón mừng Ngài. Dọn
đường thế nào th́ Isaia và Gioan Tẩy Giả đă chỉ cho chúng ta.
2. Dọn đường đón mừng Chúa
đến
Ngôn sứ Isaia viết: «Trong
sa mạc, hăy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hăy vạch một con lộ
thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi
sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lơm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất
phẳng phiu» (Is 40,3-4). Như vậy, theo ngôn sứ Isaia, để đón Chúa đến, việc đầu
tiên là phải mở một con đường. Muốn thế, phải bạt núi, san đồi, lấp thung lũng,
đổ đầy các hố rănh. Đó là nói theo ngôn ngữ h́nh tượng. C̣n trong thực tế th́
phải làm ǵ?
a)
Phải mở một con đường = muốn và quyết gặp gỡ Chúa
Chúa đến để gặp gỡ và đem
lại cho chúng ta sự cứu độ, không chỉ ở đời sau mà c̣n ở ngay đời này: một sự
b́nh an và hạnh phúc siêu nhiên, tuyệt vời, không phải thứ b́nh an hạnh phúc
kiểu thế gian vốn bị lệ thuộc vào những điều kiện trần tục (x. Ga 14,27). Nhưng
để việc gặp gỡ đó thành hiện thực, chính chúng ta cũng phải mong muốn và quyết
tâm gặp gỡ Ngài. Ngài không thể đến với ta nếu chính ta không tích cực muốn điều
đó. Do đó, trở ngại lớn nhất khiến chúng ta không thể gặp gỡ Ngài chính là chúng
ta không thật sự muốn gặp gỡ Ngài. V́ khi gặp gỡ Ngài, Ngài sẽ đ̣i hỏi chúng ta
phải đối diện với sự thật của chính bản thân chúng ta. Nhưng chúng ta thường
muốn trốn tránh sự thật, tránh việc phải đối diện với lương tâm ḿnh... V́ điều
này đ̣i buộc ta phải chỉnh đốn lại cách sống của ḿnh, phải từ bỏ những đam mê,
những thói xấu, những bất công vốn đem lại cho ta vui thú, lợi lộc, quyền lực,
danh vọng là những thứ ta rất ham thích. Như vậy muốn Chúa đến với ta, ta phải
khai phá một con đường, con đường ấy chính là tâm trạng sẵn sàng đón Chúa đến,
sẵn sàng đến với Ngài, gặp gỡ Ngài với bất cứ giá nào.
b)Con đường thẳng ngay,bằng phẳng=tâm hồn chính trực
Với những ai muốn đón Chúa
đến, Gioan Tẩy Giả yêu cầu: «Hăy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho
thẳng để Người đi». Khi đón một nhân vật quan trọng đến một vùng nào, người vùng
đó phải dọn dẹp đường cho ngay thẳng, bằng phẳng, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón
Chúa đến, ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn ta cho ngay thẳng,
bằng phẳng, sạch đẹp. Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực,
không quanh co, gian dối, giả tạo...
Ngay thẳng là một trong
những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô
hữu cần phải tạo cho ḿnh một tư cách ngay thẳng, chính trực, nói ǵ hay làm ǵ
cũng phải «công minh chính đại», «đường đường chính chính», không lén lút, giấu
giếm, không làm ai phải nghi ngờ điều ǵ. Tư cách của người Kitô hữu phải là tư
cách của một người quân tử, tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào nói thế nấy, và nói
thế nào làm thế nấy: «Hễ "có" th́ phải nói "có", "không" th́ phải nói "không",
thêm thắt điều ǵ là do ác quỷ» (Mt 5,37). Nghĩ một đằng nói một nẻo, hay nói
một đằng làm một nẻo là tư cách của tiểu nhân, của phường gian ác, không thể là
tư cách của người Kitô hữu: «Đường lối của kẻ gian ác th́ quanh co, hành động
của người trong sạch th́ ngay thẳng» (Cn 21,28); «Thiên Chúa ưa điều chính trực,
ghét điều gian ác» (Dt 1,9); «Ngài ghê tởm tâm địa quanh co» (Cn 11,20).
Nguyên nhân biến con người
thành quanh co, giả h́nh, mưu mô... chính là tâm địa ích kỷ, lắm tham vọng, muốn
ph́nh to bản ngă. Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều ḿnh
ham muốn - danh vọng, quyền lực, tiền bạc - với bất cứ phương tiện nào, kể cả
phương tiện xấu, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác. Từ đó con người bị tham
vọng và đam mê của ḿnh thu hút, mê hoặc, dẫn đưa ḿnh vào con đường cong queo
của tội ác. Do đó, «sửa lối cho thẳng để Người đi» một cách căn bản là dần dần
diệt bỏ khuynh hướng ích kỷ, thích đặt nặng «cái tôi» của ḿnh. Khuynh hướng này
gây nên tất cả mọi lồi lơm, mọi cản trở khiến Chúa khó đến với ta, và ta khó đến
với Chúa. Hăy noi gương Gioan Tẩy giả, sống thanh đạm: «mặc áo lông lạc đà, thắt
lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng»; không tham vọng, không ham đề
cao «cái tôi» của ḿnh, sẵn sàng nh́n nhận sự thật hèn kém của ḿnh: «Có Đấng
quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho
Người».
c)
Đường đến với Chúa cũng là con đường đến với tha nhân
Thiên Chúa của chúng ta là
một Thiên Chúa luôn luôn tự đồng hóa với tha nhân của ta. Do đó, người Kitô hữu
không thể quan niệm Thiên Chúa độc lập với tha nhân của ḿnh, không thể yêu mến
Thiên Chúa mà không yêu tha nhân, không thể đến với Thiên Chúa bằng một con
đường khác với con đường đến với tha nhân. Ngược lại, con người không thể yêu
thương tha nhân mà không yêu mến Thiên Chúa, không thể đến với tha nhân bằng con
đường khác với con đường đến với Thiên Chúa. Chủ trương chỉ yêu tha nhân không
cần đếm xỉa ǵ đến Thiên Chúa, hay ngược lại, chỉ yêu Thiên Chúa mà không đếm
xỉa ǵ đến tha nhân đều là những t́nh yêu giả tạo, không thực tế. Do đó, muốn
đến và gặp gỡ với Thiên Chúa không ǵ tốt đẹp và chắc chắn bằng đến hay gặp gỡ
Ngài nơi tha nhân của ta. Và muốn đến và gặp gỡ tha nhân không ǵ bảo đảm và tạo
hạnh phúc cho họ bằng đến và gặp gỡ họ trong Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu,
không thể tách rời Thiên Chúa khỏi tha nhân, và tách rời tha nhân khỏi Thiên
Chúa.
Vậy,
đón Chúa đến, không ǵ làm Chúa hài ḷng bằng sửa sang lại mọi quan hệ của ta
với tha nhân cho tốt đẹp hơn, t́nh nghĩa hơn: làm sao để cha mẹ ta cảm thấy ta
thật sự là con hiếu thảo, con cái ta thấy ta thật sự là cha mẹ tốt, anh chị ta
thấy ta là người em tốt, các em ta thấy ta là người anh tốt, bạn bè ta thấy ta
là người bạn tốt, những nhà chung quanh ta thấy ta là hàng xóm tốt... Hăy sống
làm sao để không mấy ai có thể chê trách ta được, ai cũng cảm nhận được t́nh
thương của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha là một Thiên
Chúa luôn luôn đồng hóa với tha nhân của con. Nhờ đó, con có thể gặp gỡ Cha
trong những người sống chung quanh con, con có thể yêu thương và phục vụ Cha
bằng việc yêu thương phục vụ họ. V́ thế, chuẩn bị đón Cha đến trần gian, không
ǵ tốt đẹp hơn làm cho môi trường con đang sống biến thành một môi trường yêu
thương. Xin giúp con thực hiện điều Cha mong muốn nhất ấy.
|