CN I MÙA VỌNG B

Mc. 13, 33 - 37

30-11-2008

 

Người giữ cửa canh thức ....Lm. PX Vũ Phan Long, ofm                  02

Kêuxin và chờ mong Chúa ..Lm Carolô Hồ Bặc Xái                           09

Hảy tỉnh thức.........................Lm  Mark Link, SJ                               19

Phải canh thức......................Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR           23

Chờ đợi trong tỉnh thức và..Lm Giuse Đinh Lập Liễm              26

Hảy tỉnh thức kẻo thiệt than.Lm  Giuse Tạ Duy Tuyền                       35

Tỉnh thức chờ ngày Chúa.....Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb        38

Phải tỉnh thức và sẵn sàng...John Nguyễn                                         40

Phải canh thức....…...............Lm  Phero Tran Van                            46

Phải canh thức.............……..Lm  Hà Ngọc Đoài                                47

Canh thức chờ Chúa đến.....Lm. Stephano Bùi Thượng Lưu              48

Mùa hy vọng .........................Lm. Trần B́nh Trọng                           52

Ngư ngọn đèn chầu..............Lm  Giuse Nguyễn Hữu An                   55

Mở rộng tâm hồn đón Chúa.Lm  Nguyễn B́nh An                              60

Tỉnh thức để gặp Chúa....... .Lm.  An Phong, OP                              62

Đường nào choChu1a đến...Lm Giuse Đỗ Vân Lực, OP                     64

Đợi chờ b́nh minh đang đếnLm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP           69

Cửa trời hẹp lắm ai ơi...........Lm  Giacôbê Phạm Văn Phượng         74

Người giử cửa.......................Manna                                                 77

Tỉnh thức....... .......................           Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm        80

 

 

 

NGƯỜI GIỮ CỬA CANH THỨC BAN ĐÊM

Máccô 13,33-37

Thái độ cánh chung không khiến người ta phủ nhận thế giới, nhưng giúp người ta có một thái độ tự do lành mạnh, thanh thoát đối với tất cả những ǵ thuộc về thế giới.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

 

I. NgỮ cẢnh

Bài này rút từ Diễn từ cánh chung (ch. 13) là chương nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Diễn từ này kết thúc bằng một lời kêu gọi khẩn thiết hăy tỉnh thức. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những người đang được Đức Giêsu ngỏ lời với (13,3), nhưng nhắm đến tất cả mọi người (13,37). Lời kêu gọi này được tác giả Máccô nêu bật bằng h́nh ảnh người giữ cửa. 


Vậy “tỉnh thức” trong Mc 13 có nghĩa là ǵ? Là không “ngủ” (c. 36). Nhưng hẳn không  phải chỉ có nghĩa đen ấy. 


II. BỐ cỤc

Đoạn văn này được bố cục theo kiểu cấu trúc đồng tâm (chuyển hoán), với đỉnh cao là c. 35:

a : Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (c. 33);

a’: Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (c. 37). 

b : Dụ ngôn người chủ đi xa (c. 34);

b’: Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (c. 36);

c : Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (c. 35);


Chúng ta cũng có thể thấy đây là một kết cấu song song, nhằm làm nổi bật ư tưởng ta không biết thời gian quang lâm; do đó, có hệ luận: phải tỉnh thức.

 

 

Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức (33a)

Vậy anh em phải canh thức (35a)

v́ anh em không biết khi nào thời ấy đến (34c)

v́ anh em không biết khi nào (35b)

phải canh thức (34c)

không được ngủ (36b)

  

III. Vài điỂm chú giẢi


- hăy tỉnh thức
 

(33): Tác giả dùng động từ lạ agrypnete, đồng nghĩa với động từ quen thuộc grçgoreite; đây là một từ của nền văn chương khôn ngoan (G 21,32 LXX; Cn 8,34; Dc 5,2; Kn 6,15; Hc 36,16. Các bản Tân Ước khác cũng có dùng: Lc 21,36; Ep 6,18; Dt 13,17). 


- cũng như người kia trẩy phương xa..., và ra lệnh cho người giữ cửa (34): Có một điểm gây thắc mắc: Nếu ông chủ đi phương xa, th́ “để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ” là hợp lư rồi. C̣n “chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” là cách bố trí của người đi vắng trong một thời gian ngắn. Tại sao lại chỉ lưu ư đến việc “canh thức” ban đêm? Ở đây ông Mc nối kết nhiều truyền thống: những lời Đức Giêsu kêu gọi tỉnh thức, dụ ngôn những nén bạc (Mt 24,42; 25,13-15; Lc 12,36-38; 19,12-13), với dụ ngôn người giữ cửa của riêng ông cộng với truyền thống kinh sư về ư nghĩa của “đêm”. Trong TM Mc, không có dụ ngôn “những nén bạc” như trong Mt và Lc.     


- lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng

(35): Người Rôma chia một đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. C̣n người Do-thái quen chia đêm thành 3 canh (x. Tl 7,19; Lc 12,38). Nhưng tại sao bài Tin Mừng lại chỉ chú trọng đến “đêm”?

           
Trong nền văn chương Do-thái giáo, thời gian hiện tại thường được coi như một “đêm”, c̣n tương lai được ví với một “ngày” hoặc một “buổi sáng”. Những câu Cựu Ước nói về “đêm” theo nghĩa đen thường được áp dụng cho “đêm” của thế gian này. Chẳng hạn lời ông Bôa nói với bà Rút: “Hăy qua đêm ở đây” (R 3,13) được Rabbi Meir (#150 sau CG) trích quy chiếu về “thế gian hoàn toàn là đêm tối ấy” (Rút R. 6,4). Các kinh sư thường áp dụng từ ngữ “canh khuya” trong Tv 92 (“Thú vị thay... được tuyên xưng t́nh thương của Ngài từ buổi sớm, và ḷng thành tín của Ngài suốt canh khuya”) cho thời gian hiện tại (Midr. Tv 92,7). Sách Talmud chú giải câu Tv 104, 20a như sau: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối” là câu nhắm đến thế giới hiện nay, được so sánh với đêm tối.

           
Giống như các kinh sư, ông Phaolô đă dùng những ư tưởng về “đêm” để mô tả thời kỳ hiện tại cho đến ngày Quang Lâm (Rm 13,12). V́ thế, ông đă kêu gọi người Rôma: “Đă đến lúc anh em phải thức dậy” (13,11), v́ ơn cứu độ đă gần họ hơn khi họ mới tin, v́ “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12; x. 1 Tx 5,5tt). Ông c̣n nói: “V́ chính anh em đă biết rơ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). H́nh ảnh “kẻ trộm đến ban đêm” không có trong nền văn chương Do-thái, mà chỉ có trong Tân Ước thôi (Mt 24,42-44; Lc 12,39t; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Đây là một yếu tố thuộc truyền thống Ki-tô giáo bắt nguồn từ Đức Giêsu. Từ đó ông khuyên người Thêxalônica hăy tỉnh thức (1 Tx 5,6).          

            
Vậy lời kêu gọi hăy tỉnh thức chờ đợi ông chủ trở về vào một lúc nào đó trong đêm khuya phải được hiểu theo chiều hướng này.


Nhưng làm thế nào dung ḥa được hai chi tiết “trẩy phương xa” (đi lâu) và “về lúc chập tối” (đi ngắn hạn)? Trong văn chương Do-thái giáo, có một dụ ngôn na ná với dụ ngôn Mc 13,34tt: Một bà chủ nhà có một nữ tỳ Êtióp. Chồng bà vượt biển đi xa. Suốt đêm, người nữ tỳ nói với bà: “Tôi đẹp hơn bà, đức vua yêu tôi hơn bà”. Bà chủ đáp: “Đến sáng rồi chúng ta sẽ biết ai là người đẹp hơn, ai là người được đức vua yêu thương”. Bài tường thuật tiếp: Các dân nước nói với Ít-ra-en: “Các hành vi của chúng tôi thật đáng khen, và Đấng Thánh – xin chúc tụng Ngài – hài ḷng về chúng tôi”. Rồi bài quy chiếu về Is 21,12 mà giải thích rằng “buổi sáng” đang đến là thời gian tương lai (Dân số R. 16,23 [70b]).


Bài dụ ngôn này cũng có những chỗ không ăn khớp với nhau, và có những chi tiết giúp hiểu bài Mc: đêm tối chính là thời gian hiện tại với những phiền muộn mà dân Chúa phải gánh chịu. 


- phải canh thức
(36): Trong nền văn chương Do-thái giáo, chủ đề “canh thức” được đề cập đến trong một viễn tượng quốc gia. Ít-ra-en lúc đó đang bị các vương quốc của thế gian áp bức, chà đạp. Nhưng trong tương lai cánh chung, hoàn cảnh sẽ đảo ngược, Ít-ra-en sẽ chiến thắng, sẽ nhận được danh dự và vinh quang. Đó là “ngày”.


Trong Tân Ước, giọng điệu ái quốc này không c̣n nữa. Nay người tín hữu phải chiến đấu “với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” (Ep 6,12). Thế gian đang nằm dưới quyền của thần dữ (1 Ga 5,19). Thế gian đă quay lưng lại với Ngài, là nguồn ánh sáng. V́ thế, thời gian hiện tại chính là thời kỳ của bóng tối và đêm khuya. 


Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, sấm ngôn Is 9,1 nói về ánh sáng đă ứng nghiệm (x. Mt 4,16). Đức Giêsu là ánh sáng soi chiếu trần gian (x. Lc 2,32; Ga 1,5; 8,12; 12,46). Ai tin vào Đức Giêsu, Đấng Mêsia, th́ không phải ở trong bóng tối (Ga 12,46; x. 3,19; Cv 26,18; Cl 1,13; 1 Pr 2,9; Ep 5,8). Nhưng dù đă được giựt ra khỏi vương quyền của bóng tối (Cl 1,13), dù đă trở thành con cái ánh sáng và ban ngày (1 Tx 5,5), người ấy vẫn c̣n sống trong thời gian của “đêm tối”, vẫn c̣n ở trong một hoàn cảnh có thể bị cám dỗ, có thể sa ngă, bị tà thần của thế gian hiện tại nắm bắt lại. Để ḿnh bị những sức mạnh thế gian chiến thắng, buông ḿnh theo những chuyện thế gian, đó chính là “mê ngủ”. Trong dụ ngôn, “giấc ngủ” tương ứng với “đêm”: “giấc ngủ” thuộc về “đêm”, bởi v́ người ta ngủ ban đêm.


IV. Ư nghĩa cỦa bẢn văn


* Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (33)

Lời kêu gọi mở đầu này xác định chủ đề của đoạn văn: Phải tỉnh thức. Các môn đệ của Đức Kitô cần phải canh thức, bởi v́ họ không biết ngày giờ (“thời ấy”) của cuộc Quang Lâm. 


* Dụ ngôn người chủ đi xa (34)

Điểm chính của dụ ngôn là: ngày trở về của ông chủ là biến cố người ta không thể tiên liệu. Ông có thể về bất cứ lúc nào: chính khía cạnh này buộc người giữ cửa phải canh thức liên tục. Nhưng ông cũng có thể đi lâu: chính v́ thế các gia nhân cứ phải sinh hoạt để điều hành các công việc của nhà và sinh lợi cho chủ. Các môn đệ của Đức Giêsu vừa là “các gia nhân” vừa là “người giữ cửa”; họ phải vừa làm việc vừa canh thức. Có thể hiểu đây là các vị lănh đạo cộng đoàn Kitô hữu. 


* Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (35)

Lời kêu gọi được lặp lại như một điệp khúc, nhưng ở đây, công thức “khi nào thời ấy đến” đă được giải thích bởi công thức song song “khi nào chủ nhà đến”. “Thời ấy” chính là lúc chủ nhà trở về, tức ngày Quang Lâm của Đức Giêsu. Tác giả diễn tả sự bấp bênh cách biểu tượng theo cái khung một ngày: “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”.   


* Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (36)

Các môn đệ của Đức Giêsu đang ở trong “đêm”, nhưng họ không được “ngủ”; họ vẫn sinh hoạt bởi v́ ông chủ có thể về ngay trong đêm nay. Họ phải canh thức. Bởi vỉ biến cố ông chủ trở về thay đổi mọi sự, ta hiểu “làm việc” là “cùng làm việc”. Đức Giêsu đang hành động trong thế giới để đưa đến một nhân loại mới. Người lôi kéo con người vào làm việc với Người, làm cho họ thành những đầy tớ phục vụ hoạt động của Người. Nhưng để có thể cộng tác với Đức Giêsu, họ phải tỉnh thức để nhận ra những ǵ Người đang làm.


* Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (37)

Lời kêu gọi ở đây chính là lời kêu gọi ở c. 33 được lặp lại. Cùng với lời kêu gọi ở c. 33, lời kêu gọi ở c. 37 này “đóng khung” toàn bài, đă xác nhận toàn bản văn bên trong được triển khai theo chủ đề “Sự tỉnh thức”. Nhưng đến đây, lời kêu gọi được gửi rộng răi đến tất cả mọi người, nghĩa là không chỉ dành cho các vị lănh đạo cộng đoàn, nhưng cũng được gửi đến toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.


+ Kết luận

Vậy, “phải canh thức”! Đang khi tiến đi trong thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện ơn gọi của ḿnh và ân huệ đă nhận, đó là được làm con cái ánh sáng, mắt đăm đăm hướng về ngày chủ trở lại và về “ngày” đang đến. Sự canh thức ở đây mang tính cánh chung: hoàn toàn quay hướng về phía trước, về biến cố Đức Kitô sắp ngự đến trong tương lai. Theo nghĩa này, người tín hữu không thể canh thức nếu không chấp nhận chiến đấu (Rm 13,11tt; các vũ khí: 1 Tx 5,6-8; 1 Cr 16,13; Ep 6,10-20; 1 Pr 5,8t). Canh thức như thế là ngay từ bây giờ, sống trước đời sống tương lai (x. Rm 13,13). Thái độ cánh chung không khiến người ta phủ nhận thế giới, nhưng giúp người ta có một thái độ tự do lành mạnh, thanh thoát đối với tất cả những ǵ thuộc về thế giới, không sợ hăi loài người, không t́m danh vọng, không khắc khoải trước gian khó, đau khổ và cái chết (x. 1 Cr 4,3t). 


V. GỢi ư suy niỆm

 

1. “Canh thức” trong đêm tối của thời gian hiện tại trong khi chờ đợi Đức Giêsu trở lại, chính là đang sống trong tư cách những người đă được giải thoát, bởi v́ bất cứ khi nào đến, Đức Giêsu sẽ bằng ḷng nếu thấy các môn đệ của Người đang sẵn sàng với Người. “Canh thức” chính là một cách thức thường hằng người Kitô hữu theo mà sống trong thế giới.


2. Canh thức như thế cũng là sống trong niềm vui. Niềm vui này không hề lệ thuộc những chuyện thay đổi của thế gian, v́ nó trào vọt ra từ một nguồn mạch vĩnh hằng là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Canh thức như thế c̣n là sống trong b́nh an, cho dù có gặp phong ba băo táp, bởi v́ chính Đấng Phục Sinh đă cam đoan: “Thầy để lại b́nh an cho anh em, Thầy ban cho anh em b́nh an của Thầy” (Ga 14,27). Cuối cùng, canh thức như thế cũng là sống niềm hy vọng, bởi v́ cái nh́n của chúng ta luôn nhắm về phía trước, về thế giới đang đến, về “ngày” đang lại gần.


3. Tác giả Lohmeyer mô tả canh thức bằng câu nói: “Đời sống của người đạo đức không diễn tiến trong những trạng thái thiu thiu ngủ, những giấc mơ và những đam mê, nhưng trong nỗ lực dấn thân luôn luôn chăm chú và điều độ của con tim nhân loại”. C̣n Schweizer định nghĩa canh thức là như “thái độ trong đó con người luôn luôn chờ đợi với tinh thần trách nhiệm Đức Chúa đến và không để ḿnh bị sao nhăng trong thái độ sẵn sàng thường hằng này đối với Ngài bởi bất cứ điều ǵ”. Đấy là cách tốt để sống giáo huấn của Đức Giêsu.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

 

 

Kêu xin và chỜ mong Chúa đẾn

 

Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

I. DẪn vào Thánh lỄ

Anh chị em thân mến

Khi thương ai th́ người ta thích đến thăm người đó. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên rất thích đến thăm loài người.

 

Ngày xưa dân Do Thái đă chuẩn bị đón Chúa đến viếng thăm họ trong một mùa vọng dài hàng bao thế kỷ. Đáp lại, Thiên Chúa đă cho Đức Giêsu, Con Một của Ngài đến ở với họ và cứu chuộc họ. Ngày nay, Chúa lại muốn đến viếng thăm chúng ta, để ban cho chúng ta vô vàn ơn thánh của Ngài. Chúng ta hăy tận dụng Mùa Vọng này để chuẩn bị tâm hồn cho Ngài đến thăm chúng ta.

 

II. GỢi ư sám hỐi

·        Chúng ta không xứng đáng với Chúa v́ đức tin của chúng ta càng ngày càng yếu đi theo ḍng thời gian.

·        Chúng ta cũng không xứng đáng với Chúa v́ ḷng mến của chúng ta ngày càng lạnh nhạt.

·        Nếu bất ngờ Chúa đến kiểm tra, chắc Ngài sẽ thất vọng v́ chúng ta không chu toàn những bổn phận Ngài giao.

 

III. LỜi Chúa

1. Bài đọc I: Is 63. 16b-17. 19

Đoạn này nằm trong phần thứ ba của sách Isaia (các chương 56-66). Các chuyên viên Thánh Kinh chưa nhất trí về thời gian soạn thảo của phần thứ ba này. Một số chuyên viên cho rằng phần này được soạn vào cuối thời kỳ dân Do Thái bị lưu đày bên Babylon.

 

T́nh trạng bị lưu đày nơi đất khách quê người rất là khốn khổ. Nhưng vào cuối thời lưu đày, dân Do Thái đă ư thức rằng họ khốn khổ là do họ tội lỗi. Trong đoạn trích này, Isaia đă thay mặt dân bày tỏ 2 điều:

 

Một mặt, thú nhận t́nh trạng tội lỗi của dân: "Chúng tôi đă luôn ở trong t́nh trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ"

 

Mặt khác, nài xin Chúa đến để tha thứ và cứu thoát họ: "Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống".

2. Đáp ca: Tv 79

Cũng là một lời van xin Chúa đến. Mặc dù ư thức thân phận tội lỗi bất xứng của ḿnh, nhưng dân Do Thái vẫn dám van xin Chúa đến. Cơ sở của lời kêu xin tin tưởng này là: bởi v́ Israel chính là vườn nho mà Chúa đă trồng và là đoàn chiên do Ngài chăn dắt.

 

3. Bài đọc II: 1 Cr 1, 3-9

Sang tới thời Giáo Hội sơ khai. Đối tượng của đoạn thư này là Giáo đoàn Côrintô, một cộng đoàn sinh động nhưng cũng gặp nhiều khó khăn nội bộ: chia rẻ, kiện tụng, luân lư suy đồi v. v.

 

Trước hết Thánh Phaolô nhắc họ nhớ biết bao ân sủng mà Thiên Chúa đă ban cho họ. Ngài muốn họ tự hiểu ngầm là trong hiện tại, họ đă không đáp lại xứng đáng những ân sủng đó. Và cũng một cách gián tiếp rất tế nhị, Ngài muốn họ tỏ ra xứng đáng hơn với những ân sủng đó, kiên tŕ trong những ân sủng ấy, để khi Chúa lại đến th́ họ không có ǵ phải bị khiển trách.

 

4. Tin Mừng: Mc 13, 33-37

Bài đọc Cựu Ước và bài Đáp ca nhắm tới việc Chúa đến lần thứ nhất (Đấng Messia đến). C̣n bài Tin Mừng nhắm đến việc Chúa đến lần thứ hai (Đức Giêsu trở lại). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu chỉ rơ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là Tỉnh thức sẵn sàng (như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya). Đức Giêsu cũng cho biết lư do tại sao phải tỉnh thức sẵn sàng: v́ Ngài sẽ trở lại cách bất ngờ.

 

 

 

IV. GỢi ư giẢng

1. Chờ đợi

Những giây phút chờ đợi là thời gian căng thẳng nhất nhưng cũng có ư nghĩa nhất. Những người yêu nhau chờ tới ngày cưới, cha mẹ chờ đứa con ra đời, gia đ́nh chờ một người thân trở về, người lao động chờ công việc ḿnh sinh kết quả... Trong cuộc sống hàng ngày, người ta luôn chờ đợi một cái ǵ đó. Khi không c̣n chờ ǵ nữa, không c̣n mong ǵ nữa th́ đời kể như sắp chết.

 

Lịch sử Israel cũng là một cuộc chờ đợi. Chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự chờ đợi của Israel lên đến cao điểm khi họ bị lưu đày bên Babylon (Bài đọc 1).

 

Rồi Đấng Messia đă đến. Phải chăng không c̣n phải chờ đợi nữa? Không, mỗi người vẫn c̣n phải chờ đợi, chờ cho sự công chính được hoàn thành nơi bản thân ḿnh. Bởi đó, Đức Giêsu nói "Phúc cho ai đói khát điều công chính". Đói khát điều công chính và chờ đợi công chính thực hiện chính là một mối phúc.

 

Mùa Vọng là thời gian chờ đợi: chờ Đức Giêsu đến thăm chúng ta vào dịp lễ Giáng sinh, và chờ Ngài đến với chúng ta mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể.

Chờ đợi như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay dạy: chờ đợi bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.

 

2. Đất sét trong tay người thợ gốm

Bài đọc I dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm.

 

Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ Isaia đă nói lên một sự thật: "Chúng tôi là đất sét, C̣n Chúa là người thợ gốm". Sự thật này đă được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2, 7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của ngôn sứ Isaia có ư rằng: con người lệ thuộc Thiên Chúa.

 

Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm th́ sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.

 

Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoăn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn ḿnh thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ư Chúa.

 

3. Mong đợi Chúa đến

Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, ḷng mong đợi Chúa đến. T́nh cờ, một em bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:

-         Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?

-         Cháu c̣n nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.

-         Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều ǵ trong ḷng th́ hăy nói ra, có nói ra mới hiểu rơ hơn.

Nghe cô bé nói có lư, ông liền thố lộ:

-         Ông đang chờ đợi Chúa đến.

Cô bé tṛn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:

-         Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à!

Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:

-         Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đă cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nh́n hạt mưa rơi. Chúa đă cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu, không cần phải t́m kiếm, v́ Người luôn ở đó.


"Tất cả là hồng ân". Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nh́n tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm".

 

Bài Tin mừng đầu năm Phụng vụ hôm nay, nhắc nhở chúng ta dọn ḿnh: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đón Chúa đến trong giờ chết, và trong ngày cánh chung của nhân loại.

 

Mùa Vọng là mùa của mong đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người mỏi ṃn. Nhưng chính sự ṃn mỏi đó càng làm cho cuộc gặp gỡ thêm nồng thắm hơn.

 

Thái độ cần phải có là hăy "tỉnh thức và cầu nguyện" để "nhận biết thời gian Chúa đến viếng thăm" (c. 19, 44). Nếu Chúa đă nhắn nhủ: "Hăy tỉnh thức, v́ các con không biết giờ nào chủ sẽ về" th́ không có lời khuyên nào khôn ngoan hơn lời Cha Charles de Foucauld: "Bạn hăy sống như bạn sẽ chết vào tối nay".

 

Nếu những cuộc viếng thăm là những hồng ân của Chúa, th́ chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ v́ sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng. Chúng ta có quyền ước mơ, dự tính xây dựng tương lai, nhưng đừng bao giờ quên mục đích cuối cùng là phải "gặp được Chúa".

 

Nhưng có một sự thực này, nó rất thực, và đó là sự thực nhất trên đời là nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, th́ chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.


Lạy Chúa, xin cho chúng con biết "t́m gặp Chúa" trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong người anh em, để chúng con sẽ gặp được Chúa trong ngày Chúa đến viếng thăm. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đă yêu")

 

4. Hăy thức dậy đi

Người ta nói rằng tôn giáo là một thứ thuốc phiện ru ngủ tín đồ. Tuy nói thế là không đúng, nhưng sở dĩ có người nói thế một phần cũng là do chúng ta: nhiều người trong chúng ta chỉ coi tôn giáo là một nơi an ủi (chỉ đến với Chúa khi gặp chuyện buồn phiền) và một chỗ bảo hiểm an toàn (đọc kinh cầu nguyện để được Chúa che chở, cứu nguy). Họ đến nhà thờ để t́m kiếm những chuyện siêu nhiên (phép lạ, ơn đặc biệt) trong khi quá lơ là với những trách nhiệm trần thế. Đạo như thế đúng là thuốc phiện và người giữ đạo như thế đúng là người đang ngủ.

 

Hăy đọc kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đâu có bảo chúng ta ngủ, đâu có bảo chúng ta đừng làm việc. Trái lại Ngài bảo chúng ta luôn tỉnh thức làm việc. Kitô hữu giống như những đầy tớ mà Chúa là chủ đă giao cho mỗi người một việc và Ngài sẽ trở về bất cứ lúc nào để xem họ có đang làm việc đàng hoàng hay không.

Thế nhưng con người hay buồn ngủ và thường ngủ gật. Trong việc sống đạo cũng thế. Sau đây là một số lư do:

·        Quen lờn về tội: "Điều ǵ thường xảy ra th́ được coi là b́nh thường". Thường phạm tội hay thường thấy người khác phạm tội nên quen lờn không c̣n thấy bị cắn rứt nữa. Bài đọc I nói đó là "lương tâm đă trở nên chai đá". Lương tâm con người thời nay đă chai đá (đă "ngủ gật") trước những tội phạm đến công b́nh, đến tính dục, "không c̣n biết kính sợ Chúa nữa".

·        Lười biếng cầu nguyện. Bài đọc I nói "không c̣n ai kêu cầu danh thánh Chúa nữa".

·        Cảm thấy như Chúa đi đâu xa. Bài đọc I nói "Chúa đă ẩn nấp không cho chúng tôi thấy Chúa nữa". Bài Tin Mừng th́ nói Chúa như "ông chủ đi xa, để nhà cửa lại".

Dù bởi lư do nào đi nữa, điều cần thiết là mỗi người hăy biết rằng ḿnh đang mê ngủ, hoặc ít ra là đang ngủ gà ngủ gật. V́ thế, mỗi người hăy đáp lại tiếng Chúa gọi "Hăy thức dậy đi".

 

5. Ngủ mê trong thói quen

Tất cả chúng ta, chỉ trừ những đứa trẻ, đều không nhiều th́ ít sống theo thói quen. Người ta nói rằng chúng ta sống một nửa cuộc đời phần sau dựa vào những thói quen đă có từ nửa cuộc đời phần trước. Như thế thật có lợi cho những ai đă tập được những thói quen tốt, tuy nhiên cũng thật tai hại cho những ai đă nhiễm phải những thói quen xấu.

 

Một việc được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen, khi đó người ta sẽ làm việc đó một cách rất dễ dàng và c̣n khéo léo nữa. Có thể nói thói quen là bản năng thứ hai của con người.

Tuy nhiên cứ làm theo thói quen riết rồi người ta sẽ trở thành một chiếc máy vô hồn, không ư thức ḿnh đang làm ǵ nữa, không suy nghĩ, không tâm t́nh.

 

Nếu bạn để một con nhái vào một b́nh nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngay. Nhưng nếu bạn để nó trong một b́nh nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy ǵ lạ cả nên cứ ở yên trong đó. V́ nó đă quen dần nên không thấy nguy hiểm ǵ cả. Muốn nó nhảy ra th́ cần phải lấy một cái ǵ đó chọc vào nó.

 

Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta dần dần trở thành thói quen. Nhiều việc đă không c̣n ư thức, huống chi nhiều thói xấu đă bám rễ dần dần. Ước ǵ Mùa vọng là một cú chọc mạnh khiến chúng ta giật ḿnh ư thức lại và sửa đổi cho tốt hơn.

 

6. Hy vọng và cuộc sống

Người ta nói rằng bao lâu c̣n sống th́ c̣n hy vọng
Tuy nhiên, đúng hơn phải nói: bao lâu c̣n hy vọng th́ c̣n sống.

-         Hy vọng là sức mạnh

-         Nó chiếu sáng những trái tim chán chường

-         Nó kích thích ư muốn sinh tồn

-         Nó là trợ tá đắc lực cho các bác sĩ

-         Nó là khiên thuẫn che chở những thất bại

-         Nó hồi sinh những lư tưởng và làm mới những ước mơ

Bao lâu c̣n hy vọng th́ bấy lâu không t́nh huống nào là bất khả. Mùa Vọng là thời gian cho chúng ta hy vọng
Và Đức Kitô chính là hy vọng của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)

 

V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi

Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay vào Mùa Vọng, Hội thánh muốn nhắc cho ta nhớ rằng Chúa sắp đến, chúng ta phải tỉnh thức. Chúng ta hăy dâng lời cầu nguyện:

1. Chúng ta cầu xin cho Hội thánh thực sự là cộng đoàn luôn tỉnh thức / để chu toàn trách nhiệm Đức Giêsu đă trao phó là làm chứng về t́nh yêu của Chúa / và hết ḷng phục vụ con người.

2. Chúng ta cầu xin cho các nhà cầm quyền trên thế giới luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm của ḿnh / là cộng tác với nhau để xây dựng một thế giới trong công lư ḥa b́nh, và chia sẻ giúp đỡ nhau.

3. Chúng ta cầu xin cho những người ngủ mê trong tội lỗi / giả điếc làm ngơ với trách nhiệm của ḿnh trong gia đ́nh và trong đất nước / biết tỉnh thức để trở về với bổn phận của ḿnh.

4. Chúng ta cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn tỉnh thức / để giúp nhau từ bỏ thói xấu, say sưa trễ nải / và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến.

 

Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đă trao cho mỗi người chúng con một trách nhiệm trong gia đ́nh, trong họ đạo, trong đất nước, và dạy chúng con phải tỉnh thức. . . Xin Chúa giúp chúng con luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm Chúa đă trao và sẵn sàng chờ ngày Chúa đến. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

  

 

Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

 

 

 

 

HĂY TỈNH THỨC

Chủ đề: "Bạn không biết được lúc nào chủ nhà sẽ về tới"

Lm. Mark Link, S.J.

 

Một ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt. Hood dự tính trong ṿng 4 ngày.

 

Lên được 9,000 bộ (tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn băo tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đă ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận băo tuyết.

 

Mười một ngày sau, trận băo tuyết vẫn c̣n tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đă bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ c̣n đủ cho mỗi người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đă mang theo trong túi hành trang.

 

Các cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2 ), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.

 

Tại đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.

 

Cuốn Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về t́nh trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những t́nh trạng không khác ǵ các cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện ǵ sắp xẩy đến, chỉ c̣n biết tin tưởng ở Chúa.

 

Nếu có ai cứu giúp, th́ người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện dễ. Các cậu chỉ c̣n biết cầu nguyện, hy vọng cơn băo tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có người tới cứu giúp.

 

Cuối cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu ḅ ra khỏi hầm bằng tuyết của ḿnh. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu rất yếu đuối, và ra khỏi hầm họ chỉ có thể bước đi được một vài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu cấp đă t́m được các cậu trong t́nh trạng như thế. Cuối cùng, cơn thử thách là sự chờ đợi lâu dài đó đă chấm dứt.

 

Câu chuyện của các cậu bé, phải tụm lại với nhau trong hầm bằng tuyết chờ đợi cơn băo chấm dứt, là một h́nh ảnh tuyệt hảo tượng trưng cho mùa Vọng.

 

Mùa Vọng nhắc lại thời gian chờ đợi lâu dài của dân Do Thái mong mỏi Đấng Cứu Thế đến. Họ không biết làm ǵ để cho Đấng Cứu Thế mau đến hơn họ chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện, y như các cậu bé kia đă làm trên ngọn núi Mt. Hood. Dân Do Thái chỉ c̣n biết tin tưởng và chờ đợi Thiên Chúa sẽ đến để giải cứu họ.

 

Một trong những bài Thánh vịnh mà ba cậu bé cứ đọc đi đọc lại để cầu nguyện trên ngọn núi Mt. Hood là thánh vịnh 130. Trong đó có một câu như sau: "Tôi ṃn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở lời Ngài. Tôi ṃn mỏi trông chờ Chúa c̣n hơn ngừơi lính gác mong chờ hừng đông". Nếu không có Lời Chúa nâng đỡ tinh thần, th́ các cậu dễ dàng thất vọng lắm. Dân Do Thái cũng như vậy khi họ mong chờ Đấng Cứu Thế. Nếu không có Lời Chúa ủi an họ, th́ họ cũng sẽ thất vọng dễ dàng.

 

Nhưng Mùa Vọng không hẳn là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Mùa Vọng c̣n có ư nghĩa hơn như thế nhiều.

Mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Chính v́ thế mà Thánh sử Marcô nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay như sau: "Hăy coi chừng, hăy tỉnh thức… Đừng để khi Đức Giêsu bất ngờ đến mà Ngài lại thấy các bạn c̣n đang ngủ. Những ǵ tôi nói với các bạn, th́ tôi cũng nói với tất cả mọi người: Hăy tỉnh thức".

 

Điều này dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai về Mùa Vọng. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong khoảng thời gian quan trọng giữ hai thời điểm: lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất và lúc Ngài đến lần thứ hai.

 

Công việc của chúng ta không phải là cứ ngồi chăm chú và thánh thiện nh́n lên bầu trời để tưởng nhớ việc Đức Kitô đến lần thứ nhất và trông chờ Ngài đến lần thứ hai. Bổn phận của chúng ta là hoàn tất công việc mà Ngài đă giao cho chúng ta làm. Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đă nói với kẻ theo Ngài: "Các con hăy đi khắp nơi, đến với mọi dân tộc, rao giảng cho họ về nước trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đă truyền dạy cho các con. Và Thầy sẽ luôn luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt. 28, 19-20)

Mùa Vọng là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem chúng ta đă làm điều đó tốt đẹp thế nào. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta tự nhủ một cách đặc biệt rằng: khi Đức Giêsu trở lại, Ngài sẽ xér xử chúng ta xem chúng ta đă làm việc như thế nào để loan truyền nước Thiên Chúa ở trần gian này.

 

Đức Kitô đă chết. Đức Kitô đă phục sinh. Đức Kitô sẽ trở lại. Cho tới khi Ngài trở lại, chúng ta phải lưu tâm tới công việc mà Ngài đă giao cho chúng ta làm.

 

Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, tiếp đón khách đến nhà, làm việc cho hoà b́nh, và yêu thương nhau như Đức Kitô đă yêu thương chúng ta.

Đây là sứ điệp mà những bài đọc hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta. Sứ điệp đó là: Chính Đức Giêsu, Đấng đă sống ở trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, sẽ trở lại vào ngày tận thế đúng lúc chúng ta không ngờ tới. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử từng cá nhân mỗi người chúng ta về cách thức chúng ta hoàn thành công việc mà Ngài đă giao cho chúng ta làm.

 

Chúng ta hăy hồi tâm lại để cầu nguyện, xin Đức Giêsu giúp chúng ta trung kiên trong công việc mà Ngài đă giao cho chúng ta thực hiện.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin hăy ban cho chúng con sức mạnh, v́ đôi khi chúng con gặp phải những vấn đề khó khăn rắc rối khiến chúng con muốn bỏ cuộc.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con t́nh yêu của Ngài, v́ đôi khi chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.

Lạy Chúa Giêsu, xin hăy ban cho chúng con đôi mắt của Ngài, v́ đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không c̣n biết đâu là đường chúng con phải đi.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin hăy ban chính Ngài cho chúng con. Tâm hồn chúng con đă được dựng nên để yêu Ngài, nên tâm hồn chúng con sẽ không bao giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Ngài./.

 

Lm. Mark Link, S.J.

 

 

PHẢI CANH THỨC

Mc 13,33-37

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Cuộc đời con người là một sự đợi chờ liên lỉ. Ai mà chẳng đợi chờ. Có những việc đợi chờ làm con người sốt ruột, nôn nao, căng thẳng. Có những sự đợi chờ làm con người vui tươi, hạnh phúc như chờ đợi kết quả cuộc thi mà ta nắm chắc đậu một trăm phần trăm hay chờ đợi mẹ đi chợ về mua quà, mua đồ chơi cho ta. Tất cả đời người đều là một cuộc đợi chờ : đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong niềm tin và đợi chờ trong thất vọng ê chề. Mùa vọng là mùa đợi chờ. Các Kitô hữu hướng về niềm vui gần mong đợi ngày giáng sinh, ngày Chúa đă đến để khai mở Nước Thiên Chúa và hướng về ngày cùng tận, ngày cánh chung, Chúa sẽ đến để phán xét kẻ lành kẻ dữ.

 

HĂY TỈNH THỨC V̀ KHÔNG BIẾT GIỜ NÀO, KHI NÀO CHỦ NHÀ ĐẾN :

 Tin Mừng thánh Marcô căn dặn :” Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, v́ anh em không biết khi nào thời ấy đến “. Chúa lay tỉnh con người, Chúa nói với con người phải tỉnh thức. Ở đây, tỉnh thức có nghĩa là mau mắn, sẵn sàng, không được thụ động ngủ vùi. Thái độ tỉnh thức phải là thái độ của năm cô trinh nữ khôn ngoan, đem dầu nhưng c̣n cẩn thận mang cả dầu nữa…Tỉnh thức như người đầy tớ thức trắng đêm v́ ông chủ trở về bất ngờ. Tỉnh thức làm lợi như người được chủ giao 5 nén, 2 nén và 01 nén. Tỉnh thức như cụ già trong một câu chuyện : “ Hằng ngày ông cụ cứ ngồi trên xích đu mà chờ Chúa đến “. Chúa đến đột xuất, bí mật, bất ngờ nên Kitô hữu luôn phải có thái độ sẵn sàng để đón chờ Chúa đến.  Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia cầu khẩn, van nài cùng Thiên Chúa :” V́ t́nh thương…xin Ngài mau trở lại. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống “. Đây là ước mong, là khát vọng của mọi người. Con người, loài người được dựng nên giống h́nh ảnh Thiên Chúa, nên con người mong chờ ơn cứu chuộc của Chúa. Bài đọc II, thánh Phaolô đă cảm tạ Chúa v́ Chúa thương ban cho cộng đoàn Corintô dồi dào ơn Chúa trong khi mong chờ Chúa Kitô tái giáng lâm, và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ họ tiếp tục sống tốt, tuân theo lời Chúa để khỏi bị Chúa khiển trách khi Chúa Kitô lại đến. Do đó, Tin Mừng hôm nay kêu mời con người phải có thái độ tích cực tỉnh thức, nghĩa là phải trở về với ḷng ḿnh, phải trở về với Chúa để gặp Ngài và luôn phải bám chặt lấy Ngài.

 

PHẢI CHỜ CHỦ NHƯ THẾ NÀO ? :

Chờ đợi Chúa không có nghĩa là cứ đọc dăm câu kinh hay đi nhà thờ cho có lệ là đủ rồi, là nắm chắc phần thắng Nước Trời thuộc về ḿnh. Ngôn sứ Isaia kêu mời những con người tội lỗi hăy mạnh dạn quay về với Thiên Chúa bởi v́ chính vị ngôn sứ đă níu chặt lấy Chúa, van nài Chúa tha thứ lỗi lầm cho dân. Tỉnh thức ở đây không có nghĩa là khi chủ về th́ họ đă mệt mỏi, nên li b́ ngủ tiếp. Tỉnh thức ở đây là người tín hữu phải dọn ḿnh xứng đáng để chờ gặp Chúa. Quả thực, Chúa đă đến và Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng con, hằng giây hằng phút Chúa hằng mong muốn đến với chúng con và ở với chúng con kia mà. Vấn đề của chúng con, của người môn đệ Chúa có chuẩn bị đón tiếp Chúa, có sẵn sàng để Chúa ở với ḿnh hay không? Chỉ có một cách chờ đợi tốt nhất là tỉnh thức và cầu nguyện. Điều làm người môn đệ xa Chúa là không ư thức, không chuẩn bị, ngủ mê trong những ích kỷ, ươn hèn, lười biếng của ḿnh bởi v́ người môn đệ, loài người quá yêu ḿnh đến nỗi đă quên Chúa, đă mất ư thức về Chúa.

 

THÁI ĐỘ PHẢI CÓ :

Để chờ đợi Chúa đến, các Kitô hữu phải có tâm t́nh thống hối thật sự, phải biết biến đổi nội tâm, tái Phúc Âm tâm hồn và biết làm những việc tốt đẹp theo con đường của Chúa. Người mộn đệ Chúa phải biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại, phải biết nhận diện Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, nhận rơ Chúa v́ chỉ có Chúa mới là nguồn sống, là thuẫn đỡ chở che, là gia nghiệp đời đời của con người. Nhận rơ Chúa cũng có nghĩa là từ bỏ con người xấu xa tội lỗi để mặc lấy Chúa Kitô và như thánh Phaolô :” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Nhận ra Chúa là biết từ bỏ những dục vọng, những ham mê, những ham muốn bất chính, những tham lam mù quáng lôi kéo con người xa Chúa.

 

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ :

Nhiều Kitô hữu được rửa tội nhưng lại không hiểu biết giáo lư sâu xa, không hiểu thế nào là Đạo, thế nào là Chúa. Chính v́ thế, họ thiếu tỉnh thức và cầu nguyện. Họ luôn chạy theo những trào lưu mới của thời đại, đặc biệt thế giới đang đi tới chỗ toàn cầu hóa, con người dễ chạy theo lợi nhuận, chạy theo tiền bạc, vật chất mà quên mất Chúa. Con người chỉ có thể gặp Chúa khi họ sẵn sàng tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan và như nguời khôn xây nhà trên đá.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết từ bỏ những ǵ là không đẹp ḷng Chúa để chúng con càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn chúng con. Amen.

 

GỢI Ư ĐỂ CHIA SẺ :

1.     Muốn đón Chúa phải làm ǵ ?

2.      Mùa vọng dạy chúng ta ǵ ?

3.      Tại sao Chúa đă đến rồi mà lại phải đón Chúa đến nữa ?

4.      Ngày Cánh Chung là ngày nào ?

 

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

 

 

 

ĐỢi chỜ trong tỈnh thỨc vÀ sẴn sÀng.

Lm Giuse Đinh lập Liễm

 

I. MÙA VỌNG TRONG ĐỢI CHỜ.

1. Dân Israel đợi chờ.

Lịch sử Israel là một cuộc chờ đợi.  Trong suốt thời gian 70 năm lưu đầy bên Babylon, dân Chúa đă thấm mệt : bị kẻ thù áp bức, hành hạ, khinh bỉ... Họ chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự đợi chờ đă đến cao điểm và tiên tri Isaia đă thay lời cho dân chúng kêu lên lời xin thảm thiết :”Trời cao hăy đổ sương xuống”.

 

Trong cảnh khốn cùng, dân Israel mới hồi tỉnh lại và nhận ra ḿnh đă đi sai đường lối, đă lỗi phạm đến Chúa nên đă kêu xin :

Lạy Chúa, chúng con đă phạm tội. Chúng con như chiếc áo dơ bẩn... Chúa đă ẩn nấp không cho chúng con nh́n thấy và Chúa đă phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Nhưng Chúa là Cha, chúng con là đất sét trong tay Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do bàn tay Chúa làm nên... Xin Chúa hăy băng qua các tầng trời mà ngự xuống”.

 

Giáo hội dùng những lời đó để làm lời kinh trong Mùa Vọng này. Chúa Kitô thành Nazareth đến, đáp lại mối kỳ vọng ngàn đời của thế giới. Chúng ta, Giáo hội lữ hành đang mong đợi Chúa đến để đánh tan sự thất vọng và khơi dậy niềm tin và hy vọng. Đó là Mùa Vọng khởi đầu hôm nay.

 

2. Chúng ta chờ đợi.

VỌNG tức là chờ đợi trông mong. Đă chờ đợi th́ luôn có hy vọng. Đă hy vọng th́ luôn có tin yêu, ví dụ hai người yêu chờ đợi nhau, hoặc chờ đợi người đi xa về. Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng 4 cách  :

 

  - Chúa đến trong lịch sử nhân loại.

  - Chúa đến trong ngày phán xét chung.

  - Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.

  - Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.

 

Như vậy, Chúa đến với loài người : lần thứ nhất và thứ hai công khai, c̣n các lần khác th́ có tính cách âm thầm và riêng tư.

 

a)  Chúa đến lần thứ nhất : Chúa đă đến trong hang đá Belem để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại. Ngày nay ta chỉ c̣n kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh tức là đến lần thứ nhất. Vậy mùa Vọng gồm có 4 tuần dọn ḷng để mừng Chúa Giáng sinh ngày 25 tháng 12 mỗi năm.

 

          b) Chúa đến lần thứ hai : Chúa Giêsu lại xuống thế một lần nữa với tư thế là một vị Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày nào việc đó sẽ xẩy ra, chỉ việc chờ đợi trong hy vọng.  V́ thế,  chúng ta phải sống trong mùa vọng triền miên v́ không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến.

 

          c)  Chúa đến giữa hai lần :  Ngoài ra, Chúa sẽ đến với chúng ta giữa lần thứ nhất và lần thứ hai. Chúa sẽ đến với riêng từng người. Đó là giờ chết. Ngày tận thế th́ c̣n xa vời và mù mờ lắm, c̣n việc Chúa đến gọi ta trong giờ sau hết th́ gần.  Nhưng nó cũng giống như Chúa đến lần thứ hai, không ai biết được ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến v́ “giờ chết đến như kẻ trộm”.

 

          d) Chúa đến trong ơn thánh : Giáo hội dạy chúng ta  vẫn phải mong đợi, và hàng năm Giáo hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị lễ Giáng sinh, không phải chỉ dạy chúng ta  gây dựng tâm t́nh mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo hội muốn nhân không khí lễ Giáng sinh dạy chúng ta phải có tâm t́nh mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hằng ngày : Chúa đến với ta trong ơn thánh của Ngài, nhất là trong Bí tích Thánh Thể.  Ngoài ra, chúng ta mong đợi Chúa trong ngày ta từ giă cuộc đời để về với Chúa.

 

II. ĐỢI CHỜ TRONG TỈNH THỨC.

1. Giáo huấn của Giáo hội.

Giáo hội ư thức về cuộc sống ở trần gian này : mọi sự sẽ qua đi và mọi người đều phải chết.  Đây là một định luật khắt khe buộc mọi người phải tuân thủ.  Nhưng Giáo hội cũng dạy chúng ta  phải dọn ḷng chờ Chúa đến, phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa v́ Chúa đến bất ngờ.  Công đồng Vatican 2 đă diễn tả tư tưởng ấy trong hiến chế Lumen gentium :

 

“Đàng khác, v́ không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trên trần gian chấm dứt (Dt 9,27), chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt vào số những người được chúc phúc (Mt 25,31-46) chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (Mt 25,26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi khóc lóc và nghiến răng (Mt 22,13 và 25,30” (L.G. số 48).

 

2. Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến.

a) Có hai kiếp sống.

          Bất cứ ai sinh ra ở trên trần gian này đều có hai kiếp sống : một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục.  Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất.

 

          b) Một cuộc chuyển tiếp.

          Không ai có thể sống măi trên trần gian này v́ số phận của con người thường phải qua 4 giai đoạn : sinh, lăo, bệnh, tử. Chết là giai đoạn cuối cùng và kết thúc. Chết không phải là hết, không phải là đi vào hư vô mà chết chỉ là một sự chuyển đổi:”Sự sống thay đổi chớ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian này bị hủy diệt tiêu tan th́ là được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời”(Kinh tiền tụng lễ An táng). Hiểu được ư nghĩa ấy, thánh nữ Têrêsa Hài đồng đă nói :”Tôi không chết, tôi đi vào cơi sống”

 

          c) Cuộc chuyển tiếp  bất ngờ.

          Chết là một công lệ, không ai thoát được công lệ đó, nhưng có một điều làm cho day dứt là không biết lúc nào ḿnh sẽ chết v́ giờ chết như “người thợ gặt không ngủ trưa” (Cervantes). Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng loan báo cho chúng ta biết là Ngài sẽ đến gọi chúng ta bất cứ lúc nào, nên phải luôn sẵng sàng tỉnh thức. Để nói về điểm bất ngờ này, Chúa Giêsu đă đưa ra một dụ ngôn về người canh cửa đợi ông chủ về.

 

Trước khi trẩy đi xa, Ông chủ gọi các đầy tớ giao công tác cho mỗi người.  Riêng tên giữ cửa, Ông dặn phải tỉnh thức mà coi chừng lúc Ông trở về. Ông căn dặn tên giữ cửa v́ là phận sự riêng của hắn,  nhưng Ông cũng có ư nhắn nhủ cho tất cả. Phải tỉnh thức v́ không biết chắc vào giờ nào chủ về : chập tối, nửa đêm, gà gáy, hay ban mai.

         

Dụ ngôn cốt nhấn mạnh tư tưởng : mọi người cần phải tỉnh thức v́ Ông chủ (là Con Người, cũng là Chúa Giêsu) không báo trước giờ Ngài sẽ đến.

 

Những điều Chúa nói ở đây là đang nói cho 3 tông đồ Phêrô, Giacôbê và Anrê (Mc 13,3), nhưng Chúa nhấn mạnh là Chúa có ư  nói với tất cả mọi người :”Điều Ta bảo cho chúng con, th́ Ta bảo cho tất cả mọi người là hăy tỉnh thức”.

 

Việc Ông chủ trở về ban đêm có ư nhấn mạnh rằng : ban đêm thường ít ai để trí v́ ai nấy cũng dễ mê ngủ, v́ thế cần phải đề cao cảnh giác, tỉnh thức và sẵn sàng luôn.  Ban đêm c̣n diễn tả ư nghĩa thời gian hiện tại ở trần gian, để phân biệt với thời gian ở Nước Trời đời sau là ban ngày. Trong khi sống ở trần gian này, cần phải tỉnh thức và sẵn sàng, có nghĩa là phải sống trong ơn nghĩa Chúa, có đủ điều kiện để được vào Nước Trời ở đời sau.

                                     

Truyện : con quạ thiếu cảnh giác.

Một người dân Mỹ bị đám quạ hoang phá hoại ruộng ngô. Mang súng ra bắn nhưng không sao lại gần v́ trên cái cọc thông cao có một con đậu canh chừng khi các con khác ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông lại gần được mà con gác không hay biết. Một tràng đạn nổ, những con sống sót bay vù lên, nhưng không bay đi xa, chúng sà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ.  Con chim khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời hàng ngũ đi nơi khác

 

 Đoạn Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta : Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày giờ nào. Vậy phải canh thức để sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến.  Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lăi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thức chờ đợi Chúa đến.

 

Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến. Tỉnh thức ở đây là phải sẵn sàng chờ đợi.  Từ ngữ “SẴN SÀNG” nói lên một thái độ sinh động chứ không phải ù lỳ, ngồi một chỗ mà chờ đợi. Sẵn sàng ở đây là phải nỗ lực làm việc với ư thức rằng ḿnh đang phải làm việc để đợi chờ Chúa đến. Làm việc ở đây là làm sinh sôi nảy nở ra các ơn Chúa đă ban cho ta, phải sinh hoa kết quả tốt là các việc lành. Khi Chúa đến tính sổ linh hồn, ta sẽ như một tên đầy tớ tỉnh thức đi đón Chúa, tŕnh với Ngài các việc làm của ta để được lĩnh phần thưởng.

 

Nh́n vào cuộc sống, chúng ta có thể nói như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu :”Tất cả là hồng ân”. Hồng ân của Chúa  có thể đến từ bất cứ nơi đâu, trong mọi  cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay khi đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nh́n ra đó là ân ban của Chúa, và mỗi ân ban là một “Chúa đến viếng thăm”.

 

ụng vụ thánh lễ hôm nay nhắc nhở cho chúng ta dọn ḿnh : đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đợi Chúa đến trong giờ chết và trong ngày chung thẩm của nhân loại. Thái độ chúng ta phải có là hăy sẵn sàng theo như lời khuyên rất khôn ngoan của chân phước Charles de Foucauld :”Bạn hăy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nếu những cuộc thăm viếng là những hồng ân của Chúa, th́ chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ v́ sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng.

 

Sẵn sàng c̣n có nghĩa là đă và đang bắt tay vào việc. Việc chờ đợi Chúa đến đây là phải có tinh thần sám hối, sửa đổi lại con người của ḿnh cho phù hợp với ư Chúa. Bài đọc I hôm nay dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay : như miếng đất sét trong tay người thợ gốm. Tiên tri Isaia đă nói lên một sự thật :”Chúng tôi là đất sét, c̣n Chúa là người thợ gốm”. Sự thật này đă được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2,7). Kiểu diễn tả cụ thể  của tác giả sách Sáng thế và của tiên tri Isaia có ư rằng : con người lệ thuộc vào ThiênChúa.

 

Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm th́ sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích,  thậm chí trở thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.

 

Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm : ngoan ngoăn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn ḿnh thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ư Chúa (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ B, tr 12).

 

Chúng ta là những người đầy tớ đợi chủ về nhưng không biết vào lúc nào.  Chúng ta chỉ biết sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải làm tṛn phận vụ của ḿnh. Chúng ta phải sống dường như  việc  Ngài trở lại lúc nào cũng là việc b́nh thường.  Ngài đă giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc thích hợp để Ngài xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp mặt Vua.

 

Truyện : ngày mai ông chủ sẽ đến.

Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy sĩ , nhưng không phải trên con đường mà khách văng cảnh thường qua lại.  Khách du lịch gơ vào hàng rào sắt, tức th́ một cụ già coi vườn ra mở cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng v́ được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi :

    - Cụ ở đây bao lâu rồi ?

    - Thưa ông, tôi ở đây đă 24 năm.

    - Chủ của cụ ít khi nghỉ tại biệt thự này, có phải không ? Cụ đă trông thấy ông mấy lần rồi ?

   - Tôi đă trông thấy ông bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đă 12 năm.

   - Ông có viết thư cho cụ chăng ?

   - Chẳng bao giờ.

   - Thế ai trả công cho cụ ?

   - Người quản gia của ông.

   - Thế người quản gia này có năng đến đây không ?

   - Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy liên lạc với tôi qua thư từ.

   - Thế th́ ai hưởng sự đẹp đẽ này ?

   - Trừ vợ tôi và tôi th́ không ai hưởng hết.

   - Tuy vậy, cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, băi cỏ này cách chu đáo, dường như ngày mai chủ của cụ sẽ đến.

   - Ồ, Thưa ông, tôi làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.

         

Mùa Vọng đă bắt đầu. Mùa Vọng là mùa trông đợi trong tin yêu, đợi ngày Chúa đến trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi đi ra gặp Chúa.  Chúng ta phải chuẩn bị hành trang cho lần gặp Chúa ấy và hy vọng rằng cuộc gặp gỡ này sẽ đem đến cho ta  sự vui mừng khi được nghe Chúa nói lời êm ái :”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hăy đến thừa hưởng Nước Trời dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa, V́ xưa Ta đói, các ngươi đă cho ăn; Ta khát, các ngươi đă cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đă tiếp rước; Ta ḿnh trần, các ngươi đă cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đă thăm nom; Ta ngồi tù, các ngưoi đă đến thăm”.

 

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

 

 

 

“Hăy tỈnh thỨc kẺo thiỆt thân”

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyên

Người Việt Nam có câu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết th́ sống”. Câu này phải là lời cảnh tỉnh cho thái đô sống của chúng ta. “Hăy biết ḿnh, biết người th́ mới mong được sống”. Thực vậy, giữa cuộc đời hôm nay đang cạn kiệt chân lư và sự thật th́ làm sao dám tin người, tin đời? Thử hỏi, có ǵ đáng để chúng ta tin ở xă hội hôm nay? Niềm tin đă bị đánh mất bởi biết bao tṛ gian dối trong nhiều hoạt động từ truyền thông cho tới giáo dục đều đầy dăy tṛ lừa bịp, gian lận? Thử hỏi có ǵ đáng tin khi mà người ta đề cao đồng tiền đến mức độ đang tâm lại hại người khác như hàng loạt các đồ dùng giả và kém chất lượng đang bầy bán trên thị trường? Điển h́nh trong các vụ nổi cộm như: chuyện kem đánh răng giả, đồ chơi trẻ em có chất độc làm hại sức khoẻ trẻ em, chuyện bánh bao nhân làm bằng giấy cạc tông. Rồi đến chuyện kẹo trộn bột đá bán ra hàng tấn. Đáng ghê sợ là vụ sữa sữa Tam Lộc của Trung Quốc làm chết 3 trẻ em và bịnh 6.200 em khác ở Trung Quốc. Đó là một x́ căn đan, một cú sốc toàn xă hội mà chúng ta đang phải gánh chịu. Theo dơi t́nh tiết nội vụ, người dễ tính nhứt cũng phải buộc miệng kêu lên. Mấy người sản xuất và buôn bán sao mà ác quá vậy, trẻ em có làm chi nên tội, sao nỡ v́ tiền mà giết hại trẻ em!

Đó là những chuyện gián tiếp hại người, c̣n trực tiếp vẫn đầy dăy sự tráo trở, gian manh, mất tính người đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Trớ trêu thay niềm tin đă bị đánh mất giữa người với người ngay tại gia đ́nh, ngay giữa những người ruột thịt vẫn c̣n đó sự rạn nứt của ḷng tin. Ngày 10.11.2008 đài truyền h́nh Việt Nam chiếu cảnh một người con tên Diệu đă đánh mẹ già 85 tuổi. H́nh ảnh này đă gây sốc cho nhiều người xem tivi. Thử hỏi trên đời c̣n hành vi nào côn đồ cho bằng con đánh cha mẹ? Thế mà xă hội chúng ta vẫn đầy dăy những hành vi bất hiếu tương tự như thế! Cứ ngồi b́nh tâm kiểm chứng lại mà xem, bây giờ có mấy ai kính cẩn dạ thưa với cha mẹ? Hay lúc nào cũng xẵng giọng như người ngang hàng, thậm chí như kẻ bề trên? Cứ nh́n xung quanh ḿnh mà xem, có mấy người biết thương yêu cha mẹ ḿnh thật sự; thương yêu vô điều kiện, không phải v́ bổn phận, như lời thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: “Thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái ǵ đó rất tự nhiên, như khát th́ uống. Con th́ phải có mẹ, phải thương mẹ”.

Con đối xử với cha mẹ đă vậy, nhưng chúng ta cũng không thể không nói đến những hành vi dă man mất tính người mà các bậc cha mẹ giáng xuống trên con cái của ḿnh. Cụ thể là việc phá thai. Ai cũng biết phá thai là trọng tội. Ai cũng biết “cọp không ăn thịt con”. Thế nhưng, ở Việt Nam mỗi năm có đến gần 2 triệu bà mẹ đem con đến ḷ sát sinh. Rồi c̣n biết bao hành vi gian ác mà các bà mẹ đang đang tâm hành hạ những người con. Mới đây người ta không khỏi bùi ngùi khi người mẹ ở Pleiku ra giá bán con với giá 20 triệu đồng, trước đó bà đă đánh đập con bằng roi, bằng lưỡi lam cho bầm dập khắp thân ḿnh.

Đó là một quang cảnh xă hội xem ra đang mất dần tính người để cho thú tính lộng hành. Làm sao chúng ta có thể có niềm tin nơi nhau khi mà xă hội đầy dăy sự lừa đảo, lưu manh, gian ác đang len lỏi vào từng gia đ́nh, từng đoàn thể, và xă hội? Sống giữa xă hội hôm nay kẻ khôn ngoan phải tỉnh thức đề pḥng kẻo thiệt thân ḿnh, mà ân hận cả đời nếu quá tin người. Sống trong xă hội hôm nay chúng ta chớ có quá tin người kẻo thiệt vào thân. Hăy tỉnh thức để chúng ta không bị người khác lợi dụng, hăm hại. Hăy tỉnh thức để chính chúng ta đừng để cho thú tính nổi loạn khiến chúng ta không tự chủ bản thân, dẫn dến hành động đánh mất tính người.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hăy tỉnh thức trước thái độ sống của ḿnh. Chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về hành vi của chúng ta, về sự liên đới trách nhiệm của chúng ta với tha nhân. Thiên Chúa như một ông chủ đi phương xa trao cho chúng ta quản lư cuộc đời nhưng không phải theo ư ḿnh mà là theo ư Thiên Chúa. Thiên Chúa c̣n trao ban cho chúng ta quản lư ngôi nhà vũ trụ để làm sao cho mọi người trong ngôi nhà này đều có quyền hưởng an b́nh thịnh vượng. V́ thế, chúng ta không có quyền v́ sự an nhàn của ḿnh, v́ mạng sống, v́ danh dự, v́ quyền lợi của ḿnh để rồi đầy đoạ hay loại trừ người khác. Chúng ta không có quyền v́ hạnh phúc bản thân ḿnh mà hành động thiếu công bằng bác ái với tha nhân. Chúng ta càng không có quyền lỗi công b́nh, bác ái chỉ vỉ thói tham lam giả h́nh của ḿnh. Chúa sẽ đ̣i lại công b́nh. Chúa sẽ đến để lập lại trật tự đă bị đảo lộn bởi tội lỗi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Chúa bảo chúng ta đừng mê ngủ trong đam mê lầm lạc, trong ảo ảnh của trần gian. Hăy tỉnh thức để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Hăy tỉnh thức để vượt ra ngoài những thói đời tội lỗi. Hăy tỉnh thức để sống theo luân thường đạo lư, theo đường ngay chính của chân, thiện, mỹ. Hăy tỉnh thức để chúng ta luôn hành động như con cái sự sáng để nhờ đó, giờ Chúa đến chúng ta tràn ngập hân hoan v́ luôn trung thành sống cho Chúa.


Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để chúng ta sống nghiêm túc trong lời nói, việc làm của ḿnh luôn đi theo lề luật của Chúa, hầu xứng đáng là người quản lư trung thành và tận tuỵ của Chúa.

 

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyên

 

TỈnh thỨc chỜ ngày Chúa trỞ lẠi

Mc 13, 33-37

Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb


Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đang ở tại khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Có người chỉ Đền thờ và trầm trồ khen ngợi về kiến trúc của ngôi Thánh Đường. Chúa Giêsu nhân đó đă tiên báo cảnh sụp đổ của Đền thờ - xảy ra vào năm 70, do tướng Titus phá hủy. Kế đó các Tông đồ hỏi Chúa về các sự việc ấy xảy đến và vào thời chung cuộc th́ có những điềm báo ǵ? Đáp lại, Chúa Giêsu tiên báo hàng loạt những việc bách hại sẽ xảy đến cho các Tông đồ cũng như cho những ai tin vào Thiên Chúa. Đồng thời Ngài cũng nhận rằng ngày đó là ngày nào th́ không ai biết được, chỉ có Chúa Cha biết được mà thôi (x. Mc 13, 1-32). Và để kết luận, Chúa đă dạy cho các Tông đồ biết phải sẵn sàng để chờ đợi ngày đó như được nói đến trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này.


Tin mừng hôm nay chỉ vắn gọn trong năm câu, nhưng có đến bốn lần Chúa Giêsu dùng từ “canh thức” và một lần dùng từ “tỉnh thức” cũng đủ nói lên tính khẩn trương của việc chuẩn bị chờ đón ngày Chúa đến. Các Tông đồ muốn biết ngày đó là ngày nào và sẽ xảy đến ra sao, bởi các ông cho rằng sẽ là hợp lư khi biết trước để tránh, biết trước để chuẩn bị vẫn tốt hơn ở thế bị động. Chúa Giêsu không thể khẳng quyết chính xác ngày đó là ngày nào bởi nó nằm trong sự quan pḥng của Chúa Cha. Điều Người có thể khẳng quyết cách chắc chắn rằng ngày đó- không sớm th́ muộn, nhất định sẽ xảy đến. Khi khẳng quyết như thế, Chúa Giêsu không làm ǵ khác hơn là khuyên nhủ các Tông đồ hăy thanh thản sống giây phút hiện tại một cách có ư nghĩa. Sống giây phút ấy trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, trong sự tỉnh thức thật nhậy bén cũng như dùng giây phút hiện tại để dấn thân cho Tin mừng Chúa Kytô cách trọn vẹn. Cũng giống dụ ngôn người kia trẩy đi phương xa, trao tất cả quyền hành cho đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc và dặn người gác cửa phải tỉnh thức. Khi sánh ví như thế, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày nào, giờ nào chủ sẽ về và việc chủ nhà đến bất th́nh ĺnh cho thấy công việc và mục đích duy nhất của người đầy tớ là hăy sống giây phút hiện tại trong sự tỉnh thức.


Tính cách bất ngờ, không báo trước ngày ông chủ về đă được thánh sử Máccô ghi lại mang dụng ư thần học hơn là cách tŕnh bày sự việc cách đơn thuần. Nếu người Phương đông chia đêm thành năm canh th́ trái lại, người Rôma lại chia thành bốn canh. Chúa Giêsu cũng dùng cách chia này nhưng lồng vào đó một ư nghĩa có tính chất tiên báo về bốn giai đoạn của cuộc thương khó mà Người sẽ trải qua. Bốn giai đoạn đó tượng trưng cho sự phản bội (chập tối), dễ sa chước cám dỗ (nửa đêm), chối Chúa (lúc gà gáy) và trốn chạy (tảng sáng). Chúng ta nhận thấy là, trong bốn canh của đêm tối, không giờ nào lại không có sự sa ngă, không lúc nào lại không có sự hiện diện của thế lực thù địch với Thiên Chúa. Thế nên vũ khí để có thể thắng đựơc các thế lực thù địch ấy- theo Chúa Giêsu, chỉ có thể là tỉnh thức. Tỉnh thức ở đây không chỉ là việc chống lại với sự buồn ngủ của thể lư mà c̣n là việc sẵn sàng nghênh đón những biến cố xảy đến cách bất th́nh ĺnh nữa. Tỉnh thức ở đây cũng không phải mang một tâm trạng nặng nề ủ dột hay thất vọng đến độ tiêu cực cho bằng một thái độ sống biết phó thác, tin tưởng và chờ đợi ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang của Người. Như thế, tỉnh thức là biểu hiện của một trạng thái sẵn sàng, hiên ngang ngẩng cao đầu, sống một cách trọn vẹn cho giây phút hiện tại, và v́ thế, việc ông chủ về bất cứ lúc nào dường như không c̣n quan trọng lắm đối với họ, bởi họ đă chuẩn bị kỹ lưỡng, không thiếu sự ǵ để nghênh đón ông cách chu đáo.


Mùa Vọng nhắc nhớ chúng ta chuẩn bị tâm hồn, luôn luôn tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến trong Vinh quang. Và bởi v́ ngày Vinh quang của Chúa đến cách đột ngột, không báo trước, nên chúng ta cần phải ra sức chuẩn bị tâm hồn để khỏi hối hận về sự đă rồi. Ngày đó chắc chắn sẽ đến. Vấn đề ở chỗ chúng ta có tỉnh thức đủ để chuẩn bị tâm hồn, trở về với nẻo chính đường ngay, ngơ hầu lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn sàng và sẵn sàng cho ngày đó hay không?.

 

Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

 

 

PhẢi tỈnh thỨc và sẴn sÀng

 

John Nguyễn

1. Nếu tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, th́. ..

Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đă dự định đến «thăm» nhà ta tuần này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta c̣n ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, th́ ta có đề pḥng cả ban ngày không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái c̣n bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? - Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề pḥng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật ǵ. Muốn đề pḥng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề pḥng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề pḥng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.


Chỉ v́ sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo canh pḥng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ?


2. Cách sống hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu

Số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đă bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và định h́nh vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết. Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai ṭa nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001, hay trong ṭa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàig̣n ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số cuộc đời ḿnh. Không ngờ được v́ thấy rằng c̣n ǵ bảo đảm an toàn hơn khi ở trong những ṭa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng t́nh trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng như thánh Phao-lô nói: «Khi người ta nói: "B́nh an biết bao, yên ổn biết bao!" th́ lúc ấy tai họa sẽ th́nh ĺnh ập xuống» (1Tx 5,3). Cái chết đến quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của ḿnh thế nào?

Số phận của chúng ta đời sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha, yêu thương mọi người đúng theo bản chất của ḿnh là «h́nh ảnh của Thiên Chúa» cũng là «con cái Thiên Chúa», th́ đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của T́nh Thương. Trái lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít t́nh thương, không t́nh nghĩa, thường lănh đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù? với tha nhân, th́ đời sau chúng ta sẽ phải sống trong một môi trường không có t́nh thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa. Điều đó xảy ra không khác ǵ một quy luật, luật nhân quả: «Cây tốt th́ sinh quả tốt, cây xấu th́ sinh quả xấu» (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt tḥi cho người khác, th́ tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh ḿnh một bầu khí vui tươi, thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới ḿnh, chẳng biết yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho ḿnh, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh ḿnh một bầu khí ảm đạm, căng thẳng, buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú ǵ khi ở với người ấy.


3. Ngày của Chúa

Đối với mỗi cá nhân, Ngày của Chúa - hay ngày Chúa đến - chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế để đến tŕnh diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của ḿnh. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả mọi người đă từng sống trên trần gian đều phải tŕnh diện trước mặt Chúa. Ngài sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, mọi ư thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tập thể... Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa sẽ biết rơ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí mật trên thế giới trong tất cả mọi lănh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ... Trước mọi sự được tỏ bày, ai nấy đều tự ḿnh biết ḿnh là công chính hay tội lỗi, và công chính hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của ḿnh, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp lư và quang minh.


Ngày ấy sẽ là ngày vui mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, v́ họ sẽ được giải oan, được mọi người nh́n nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những ǵ tốt đẹp của ḿnh, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn, nhục nhă, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác, v́ mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.


4. Thái độ tỉnh thức và sẵn sang

Ngày của Chúa đến như kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời của ta. V́ thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?


Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với t́nh trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc ǵ, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ư thức. Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm th́ giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt nhớ tới ấm nước th́ đă quá muộn, ấm đă cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ bị cháy! Công việc đă thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!


Tỉnh thức theo nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ư thức được mục đích cuộc đời ḿnh là sống xứng với phẩm giá cao cả của ḿnh là h́nh ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó đ̣i hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần ḿnh nhất. Điều tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà c̣n là làm những ǵ họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng ḿnh không làm điều ǵ bất lợi cho tha nhân th́ có nghĩa là ḿnh vô tội, ḿnh công chính. Nhưng thực ra khi ḿnh không làm những việc ḿnh phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, th́ ḿnh đă trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng th́ bất công ấy đă không xảy ra, hoặc sự công bằng đă được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đă không lên tiếng chỉ v́ một sợ hăi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ t́nh thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.


Chúng ta có thể trở nên «mê ngủ», mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải t́m kiếm tiền bạc, quyền lực... đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận ḿnh phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công...), mà c̣n sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu khống, gây bất công, thù oán, giết người...) Bất kỳ điều ǵ có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở thích...), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện...) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận ḿnh phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp ḷng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ư thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ư thức, quan tâm làm những việc ḿnh phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.


Cầu nguyện

Lạy Cha, th́ ra có rất nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê làm tông đồ, đam mê làm ăn... có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng xóm... Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.

 

John Nguyễn

 

 

 

 

PhẢi canh thỨc

Mc 13,33-37

Lm. Phêrô Trần Văn


Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói cho hết thảy mọi người là: phải canh thức!”


Đầu năm phụng vụ bắt đầu bằng mùa Vọng, thời gian của đợi trông mong chờ triều đại hồng ân của Thiên Chúa được tỏ lộ giữa con người.


Và thời gian mong chờ luôn là chuổi ngày đặc biệt đầy ắp những chuẩn bị với sắp đặt. Càng chuẩn bị được kỹ lưỡng cho giờ phút trọng đại, nghĩa là càng gắng công ra sức cho sự việc sắp đến, ta càng thu nhận được nhiều cảm nghiệm sâu sắc khi giây phút ấy thực sự đến. Ngược lại, nếu ta không dồn nổ lực vào tiến tŕnh chuẩn bị đón nhận biến cố trọng đại ấy, th́ khi điều đó đến chúng ta không hiểu và thu nhận được mấy ư nghĩa cao cả của sự việc. Tệ hơn nữa là chúng ta bị mất luôn cơ hội hiếm quí, v́ biến cố trọng đại đă tới và đă ra đi mà ḿnh vẫn không hề hay biết một tí ǵ!


Vậy nếu muốn không bị lỡ mất cơ hội và nhận được tối đa những lợi ích của việc Con Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cần tích cực dấn thân vào tiến tŕnh long trọng chuẩn bị, từ trong đến ngoài mọi thứ cần được thu dọn và sửa sang lại cho sạch sẻ ngăn nắp. Khi càng đóng góp tâm sức vào với tiến tŕnh chờ đón, chúng ta càng nhận lănh được những kết quả tương xứng khi Chúa thực sự đến. Việc quan trọng nhất và trước nhất là chính thái độ của tâm hồn ḿnh cần đúng đắn và thích hợp, nghĩa là phài mở rộng cho đổi mới chứ không khư khư ôm chặt lấy quá khứ.



Người Do-thái đă suốt bốn ngàn năm trông chờ Vị Cứu Tinh của Thiên Chúa, nhưng cứ măi chờ trong thái độ bảo thủ khép kín của chính họ, nên khi Ngài thực sự đến họ đă bị lỡ mất cơ hội duy nhất. Đời họ cứ măi tiêu hao ṃn mơi với nỗi hoài mong không bao giờ hiện thực! Họ là những bằng chứng sống động nhắc nhở mỗi tín hữu chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm dắt giá ấy.


Canh thức hay tỉnh thức là tư thế sẳn sàng để đáp lời Chúa kêu mời, là sống và hoạt động hết ḿnh trong giây phút hiện tại đang có; chứ không thể là ngồi im trông chờ trong thụ động!

 

Lm. Phêrô Trần Văn

 

 

TỈnh thỨc và chỜ đỢi Chúa đẾn.


Lm Hà Ngọc Đoài

Suy Niệm: " Điều Thầy bảo cho chúng con và cho mọi người là hăy tỉnh thức." (Mk 13:37) Trong những ngày cuối năm 1999, tâm hồn của nhân loại khắp năm châu đang hướng tâm hồn về trời cao chờ đợi. Các Kitô hữu dâng lời tạ ơn và để đón nhận một mùa xuân của thiên niên kỷ thứ 3. Những người không tin thiên Chúa vẫn chuẩn bị và chờ đợi một biến cố nào đó! Họ tin rằng ngày tận thế sắp tới! Có những người chuẩn bị cách này, lo nghĩ cách khác.. với nhiều toan tính hơn thiệt để tránh ngày tận thế! Sau một thời gian, th́ họ lại trở về với nếp sống cũ, không có ǵ tốt hơn! Thực ra, sự toan tính của loài người chỉ là của loài người, chứ chưa làm đúng ư Chúa. V́, ngày tận thế đến, th́ đi đâu cho khỏi, trốn đâu cho thoát ? Nếu họ sợ cô đơn trong ngày tận thế, th́ Chúa đă cho họ nơi ẩn núp là gia đ́nh và Giáo Hội ( giáo xứ, cộng đoàn ). Nếu họ biết rằng đời sống Kitô hữu là khách hành hương trên đường đến gặp Chúa, th́ họ không cần đi xa, hoặc tính toán hơn thiệt! Điều quan trọng và khôn ngoan nhất là sống tốt giây phút hiện tại. Như lời tiên tri : " Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính v́ tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đă đi, và thực thi công b́nh chính trực, nó sẽ được sống."( Ezek 18:26).


Thực Hành: " Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi.... và được ơn cứu sống."(TV 79:4) Xin Chúa ban cho tâm hồn mọi người trở nên À máng cỏ À ấm áp để đón mừng Con Chúa vào thiên niên kỉ mới. Xin cho tâm hồn con là À máng cỏ À thơm để luôn biết sống với tâm t́nh tạ ơn và tôn vinh danh Chúa.

 

 

Lm Hà Ngọc Đoài

 

 

Canh thỨc chỜ Chúa đẾn


Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu

 

Trong Tin Mừng theo thánh Mát-cô: "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, v́ anh em không biết khi nào thời ấy đến. Vậy anh em phải canh thức, v́ anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ "(Mc 13, 33, 35-36).


Tại các nhà thờ Đức có một tục lệ rất ư nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm ṿng hoa Mùa Vọng với những cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng. Khởi đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được thắp sáng. Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây. Chúa nhật thứ hai thắp sáng hai cây. Khi cả bốn cây được thắp sáng, th́ đại lễ giáng sinh cũng đă gần kề. Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia đ́nh. Nơi nào cũng bầy ṿng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím...


Như vậy ư nghĩa thứ nhất trong Mùa Vọng là mùa canh thức chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh. Trọng tâm của lịch sử và Tin Mừng cứu độ chính là biến cố: Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân độ thế.


Ngày giáng trần của Chúa Giêsu phải được đón mừng v́ đây là Biến Cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: nhờ Ngôi Lời nhập thể làm người th́ vũ trụ vạn vật lại được đổi mới (TNKB, s. 3). Kể từ Biến Cố này, Trời giao ḥa với Đất, nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và toàn thể vũ trụ được đón nhận TIN Mừng cứu độ. Chính v́ thế, Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu đă trở nên Trung Tâm điểm của lịch sử nhân loại, mốc điểm thời gian.


Theo Kinh Thánh, canh thức là thái độ của một người «đang tỉnh thức chờ đợi», không ngủ mê, không thụ động, nhưng canh chừng, luôn pḥng bị để kịp đối phó với kẻ địch tấn công bất ngờ (Tv 127, 1t), ḷng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám phá ra thánh ư Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, đang khi ngóng chờ một biến cố sắp xẩy đến... sẵn sàng đón tiếp Chúa, khi Ngày của Ngài điểm.



Đây là lời khuyên nhủ, dặn ḍ chính yếu của Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài. V́ Chúa đến bất chợt như kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43t), như ông chủ trở về mà không báo cho các đầy tớ biết (Mt 13,35t), như chàng rể đến lúc canh khuya, và chỉ năm cô trinh nữ khôn ngoan đang canh thức với đèn đầy dầu, mới kịp ra đón rước chàng rể vào dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13).


Vậy canh thức là đặc tính căn bản, là thái độ sắp sẵn của người môn đệ Chúa, để chỗi dậy khỏi giấc ngủ đam mê, nghĩa là dứt khoát với tội lỗi, dứt bỏ trần thế và những đam mê dục vọng (Lc 21, 34tt). Canh thức là hoán cải và trở về với Chúa, không nằm ĺ trong tội ác, không cứng ḷng và khinh thường tiếng mời gọi thống hối của Chúa. Canh thức trong cầu nguyện, tiết độ, không chè chén say sưa, không cờ bạc, không say đắm nhục dục... quyết không để «ba cái lăng nhăng» nó quấy ta!


Canh thức để nhận diện ra kẻ thù và chiến đấu với thần dữ. Trong giờ kinh tối, các linh mục và tu sĩ thường đọc: «Anh em hăy sống tiết độ và tỉnh thức, v́ ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh t́m mồi cắn xé» (1P 5,8). Ma quỷ có thể ẩn hiện trong những phim ảnh xấu, những sách báo đồi trụy, ma túy... những dịp tội gần xa đưa chúng ta xa Chúa, lạc đường về Quê Trời.


Canh thức để phân biệt phải trái: đừng bị ru ngủ, bị đầu độc, bị tuyên truyền bởi óc hưởng thụ, bởi tinh thần vị kỷ cá nhân, bởi các học thuyết vật chất vô thần, bởi những ông đạo buôn thần bán thánh, bởi những mê tín dị đoan, bởi những quảng cáo quyến rũ, những truyền đơn loan tin thất thiệt ngày tận thế...

Canh thức để khỏi bị chán nản, ngă ḷng nản chí, bỏ cuộc. Có những tín hữu gặp thử thách trong đời sống gia đ́nh, gặp những khó khăn về vật chất, bị đau ốm lâu dài... đă nản ḷng, kêu trách Chúa, và nhiều khi bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ Giáo hội!


Canh thức trong cầu nguyện theo gương Chúa trong vườn cây dầu. Cầu nguyện ở đây được hiểu là cầu kinh sớm tối. Cầu nguyện là đọc và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh. Cầu nguyện có thể là lần chuỗi Mân Côi, miệng đọc ḷng suy. Cầu nguyện cao đẹp nhất là tham dự thánh lễ Chúa nhật... Tất cả những h́nh thức cầu nguyện trên đây, giúp người tín hữu luôn hiệp thông với Chúa, tâm hồn luôn lắng nghe những «thánh chỉ» của Chúa.


Canh thức để trung tín giữ luật Chúa: luật yêu thương, luật công bằng. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, người tín hữu hằng để luật Chúa như đèn soi, như kim chỉ nam cho mọi ước muốn, mọi tư tưởng, mọi lời nói và việc làm của ḿnh.


Canh thức để phục vụ anh em: người tín hữu luôn được Chúa mời gọi để sống đời phục vụ trong bác ái và trong yêu thương. Đời sống gia đ́nh là môi trường phục vụ lư tưởng nhất. Vợ chồng kitô hữu hiến thân cho nhau, tha thứ cho nhau, biết tận tâm giáo dục con cái, biết dùng của cải Chúa ban để mưu sống gia đ́nh, nhưng đồng thời cũng biết chia cơm sẻ bánh cho anh em nghèo đói kém nay mắn hơn trên khắp thế giới. Mỗi tín hữu c̣n được Chúa mời gọi để phục vụ cộng đồng, các giáo xứ, Hội Thánh, tùy theo khả năng và hoàn cảnh.


Canh thức để đón chờ Chúa đến. Tín hữu Chúa Kitô biết rơ ràng rằng: cuộc sống trần gian, tất cả của cải đều mau qua chóng hết, không ai sống măi, nhưng đi về vĩnh cửu. Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta sẽ có một ngày phải từ giă cơi đời tạm này. Nhưng chết vào ngày giờ nào, chết cách nào, chết ở đâu? Chẳng có ai biết được. Do đó, tín hữu Chúa phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.


Từ ngày lănh nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu là con cái của ánh sáng, nên phải luôn tỉnh thức để ḿnh khỏi rơi vào đêm tối của sự chết, không mất mục tiêu, không quên ngày Chúa đến cuối đời của ḿnh...

 

Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu

 

 

 

Mùa Hi VỌng

 

Lm Trần B́nh Trọng

Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho bốn ngàn năm dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu Thế. V́ thế mà lịch sử Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.


Bài trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay được viết vào cái thời mà thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Để hiểu rơ cái liên hệ của Giê-ru-sa-lem đối với người Do Thái, ta có thể suy ra cái liên hệ giữa Đền Thánh La Mă đối với người Công giáo. Vào cái thời Giê-ru-sa-lem bị phá hủy th́ dân chúng nghèo nàn, khổ cực thế nào! V́ thế, cái cơ hội xây dựng lại đất nước của họ thật là mỏng manh. Do đó hầu như họ để cho thất vọng đè bẹp và bao phủ.

Hôm nay Tiên Tri Isaia đă nhắc nhở cho dân chúng ghi nhớ lời Chúa hứa sai Đấng Cứu Thế và rồi dân chúng cũng nuôi dưỡng cái đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến, Tiên Tri Isaia cũng nhắc nhở cho họ là Chúa cũng trông đợi họ trở về bởi v́ họ đă quên lăng Chúa và đi lạc đường lối.


Qua những bức Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô cho ta thấy giáo dân Cô-rin-tô đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm, và họ sống trong cảnh vô trật tự. V́ thế Thánh Phao-lô khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng vào ngày Chúa sẽ đến lần thứ hai. C̣n giáo dân La Mă thời bấy giờ cũng đang trải qua cuộc bách đạo. Như vậy ta thấy dân Do Thái trong Cựu Ước mất niềm hi vọng trong việc xây dựng lại đền thờ. Giáo dân thành Cô-rin-tô thời Giáo Hội sơ khai bị chia thành năm bè bảy mối. Giáo dân La Mă thời khởi đầu Giáo Hội bị bách hại.


C̣n giáo dân Việt nam hải ngoại sau 1975 đang gặp những khó khăn nào? Phải chăng người giáo dân Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn về vật chất, về tinh thần, cũng như đời sống thiêng liêng? Có những người cảm thấy nhớ nhung cái cảnh thân mật dưới mái gia đ́nh, và cái cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ. Có người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu quên lịch sử, quên nói tiếng mẹ. Có người cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của ḿnh bị giới hạn. Có người cảm thấy tủi hổ khi thấy ḿnh già cả, bị con cháu cho qua mặt, không c̣n được coi là thích hợp và hữu dụng. Có người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lư cổ truyền đă bị quên lăng. Có người cảm thấy mất mát khi thấy gia đ́nh đổ vỡ, nhưng liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đă trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không là đă bị cắt đứt. Có người cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin đă trở nên bê trễ.


Đứng trước những hoàn cảnh kó khăn, trắc trở, Tiên Tri Isaia nhắc nhở cho dân Do Thái đặt niềm hi vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Cô-rin-tô phải trung thành cho đến cùng. C̣n Thánh sử Marcô kêu gọi giáo dân La mă phải tỉnh thức chờ đợi. Như vậy, theo lời Tiên Tri Isaia, lời Thánh Phao-lô, lời Thánh sử Marcô, ta cũng phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay v́ để cho hoàn cảnh trở ngại đè bẹp. Mỗi người phải đặt cho ḿnh một niềm hi vọng nào đó: hi vọng có bằng cắp, nghề nghiệp, hi vọng co việc làm tốt, hi vọng đời sống cá nhân sẽ thay đổi, hi vọng những liên hệ gia đ́nh cũng như liên hệ với Chúa sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hi vọng con cháu sẽ được thành đạt và hạnh phúc.


Mùa Vọng mà Giáo Hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo Hội dùng phụng vụ để khơi dậy trong ta cái ước muốn, để hun đúc tư tưởng của mỗi người cho việc sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa Cứu Thể đến bằng ơn thánh. Hi vọng là lẽ sống của mỗi người. Đối với người công giáo, th́ Chúa Giáng Sinh phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.

 

 

 

Lm Trần B́nh Trọng

 

 

 

 

NHƯ NGỌN ĐÈN CHẦU

Lm.Giuse  Nguyễn Hữu An

Từ thuở tiểu học, ai cũng thuộc 2 câu thơ: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh. Nàng Tô Thị ôm con chờ chồng, mỏi ṃn đợi chờ, mịt mù xa thẳm để rồi hóa đá. Ḥn vọng phu là một di tích văn hóa của Dân tộc. Ḥn Vọng Phu như là một biểu tượng ḷng thủy chung của người vợ đợi chờ chồng. Linh mục Thiện Cẩm đă ví von: đối với tôi, ḥn vọng phu có một ư nghĩa biểu tượng khác. Nó như là biểu tượng Giáo hội đang ôm ấp cả nhân loại trong ḷng và đứng thẳng trên cao, nh́n vào chân trời xa thẳm, đợi chờ Đức Giêsu - vị Hôn Phu của ḿnh đang ngự đến, như lời sách Khải Huyền đă viết: Thần Khí và Tân nương nói "Xin Ngài ngự đến. ..Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến" ( Kh 22, 17- 20). Toàn bộ cuốn Thánh Kinh kết thúc như vậy. H́nh ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu. Kinh Thánh là một câu chuyện t́nh giữa Thiên Chúa và nhân loại mà phần lớn được diễn tả bằng ngôn ngữ t́nh yêu nam nữ, vợ chồng. Nhắc lại vài câu Thánh Kinh cũng đủ nói lên điều ấy: Ngươi sẽ được Thiên Chúa đem ḷng sủng ái Và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rễ Ngươi cũng là niềm vui cho thiên Chúa ngươi thờ. ( Is 66, 4- 5) Thánh Phaolô trong 2 Cor 11,2; Ep 5,26-27 đă diễn tả Giáo hội là Hiền thê, là bạn trăm năm của Đức Kitô. H́nh ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu là một h́nh ảnh đẹp biểu trưng ḷng tín trung của Giáo hội đối với Chúa Kitô. Phụng vụ Giáo hội đă bước vào năm mới với khởi đầu là mùa vọng. Mẹ Giáo hội đang ôm ấp tất cả con cái nhân loại đợi chờ Đức Kitô đến trong hai lần Người ngự đến.Ngự đến trong thời gian là Nhập Thể và kết thúc thời gian là Quang Lâm. Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12 phụng vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian; tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến ngày sinh nhật của Người. Tại các nhà thờ Đức có một tục lệ rất ư nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm ṿng hoa Mùa Vọng với những cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng. Khởi đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được thắp sáng. Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây. Chúa nhật thứ hai thắp sáng hai cây. Khi cả bốn cây được thắp sáng, th́ đại lễ giáng sinh cũng đă gần kề. Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia đ́nh. Nơi nào cũng trưng bày ṿng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím...


Theo tinh thần canh tân phụng vụ, mùa vọng không c̣n là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi. Các Chúa nhật trong mùa vọng không đọc kinh Vinh danh không phải v́ đặc tính đền tội của mùa chay, nhưng là để bài ca của các Thiên thần được xem như là một tiếng hát mới mẻ trong đêm Giáng sinh. Mùa vọng cũng là mùa của những lời loan báo. Loan báo việc Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rơ ràng trong các bài đọc ngày Chúa nhật. Bài đọc 1 trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và sẽ được gọi là Emmanuel. Bài Phúc âm Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hăy tỉnh thức. Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Hăy dọn đường cho Chúa. Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse. Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho mùa vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai. Tin Mừng Chúa nhật I mời gọi: hăy tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại. V́ Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa cần phải tỉnh thức. Tỉnh thức là thái độ sống của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ là lời mời gọi của Chúa đối với mỗi ngày sống của chúng ta. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Chúa đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ, đơn sơ trong y phục người nghèo. Chúa đang đến qua những con người bé nhỏ quanh chúng ta. Chúa hoà ḿnh vào giữa đám đông vô danh tiều tốt. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Chúa.Tỉnh thức là luôn làm việc. Luôn nh́n thấy ư Chúa trong những trào lưu biến cố của thời đại và quăng đại dấn thân phục vụ. Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, là chờ đợi trông mong. Chờ đợi nên luôn có hy vọng. Hy vọng gắn với tin yêu. Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến trong tin yêu.


Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng v́ dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. V́ thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đă được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với ḷng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của ḿnh.

Những ngày vừa qua, hẳn nhiều người đă nhận được một file powerpoint bằng tiếng Pháp cùng với bản dịch tiếng Việt, dưới tựa đề là “Lời Tiên Báo thứ ba - Bí mật Fatima”. Những lời trong văn bản gợi lên h́nh ảnh rất rùng rợn của một đại họa sắp xảy ra, tương tự như một ngày tận thế.


Ngay sau đó, nhiều người báo cho biết rằng đấy là một ‘lời tiên báo giả mạo’. Cũng lưu ư rằng bản tiếng Pháp được thực hiện cách đây ba năm và bản dịch th́ mới xuất hiện năm nay (từ 1917 đến nay là 88 năm trong bản tiếng Pháp so với 91 năm trong bản dịch tiếng Việt).


Trước hết, không hề có ‘Lời tiên báo thứ ba’, mà chỉ có phần thứ ba của ‘bí mật’ Fatima mà thôi. Kế đến, phần thứ 3 này đă được Đức Gioan Phaolô II cho phép công bố. Ngày 26-06-2000, Thánh Bộ Giáo Lư Đức Tin đă phổ biến văn kiện “Message of Fatima” (1), ghi lại toàn bộ ‘phần 3’ của bí mật Fatima, cùng với những b́nh luận thần học của bộ trưởng Thánh Bộ Giáo Lư Đức Tin, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, mà hiện nay là Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI.


Phải mất 3.000 năm để cho Dân Chúa đi từ việc tôn thờ một Yavê thịnh nộ và thẳng tay trừng phạt đến một Thiên Chúa của Đức Kitô, Người Cha nhân từ và sẵn sàng tha thứ. Vậy th́ những lời kêu gọi được gán cho Đức Mẹ trên kia đă vẽ lên một bức hí họa về Kitô giáo. Đă có quá nhiều người trên thế gian bôi nhọ Giáo Hội và Thiên Chúa rồi, không cần những người tự xem ḿnh ‘sứ giả của Đức Mẹ’ góp phần nữa, để biến một Tôn Giáo của Yêu Thương, của xả kỷ, của hy sinh, của quên ḿnh, thành một Tôn Giáo của mê tín, của ích kỷ, của sợ hăi, của ngây ngô. Phúc âm từng nhắc đến tận thế, và trước mắt ta nên hiểu đấy là tận thế của từng người. V́ vậy Giáo hội không ngừng kêu gọi ăn năn sám hối; nhưng sám hối để sống mầu nhiệm T́nh Yêu, để biến cái thế giới c̣n bất công này thành một ngôi nhà của những người con cùng một Cha chung và biết đối xử với nhau trong t́nh huynh đệ, chứ không phải sám hối bằng cách bỏ tiền đi xin lễ, mua nến, mua b́nh đựng nước thánh với mục đích cho ḿnh sống sót, hoặc ít ra là chuẩn bị một cái ghế hầu an vị ở thế giới bên kia, nếu ‘trời sập’ vào một ngày gần đây.


Xin đừng nhân danh ḷng tôn sùng Đức Mẹ mà biến Mẹ thành một ngẫu tượng, biến Đạo Công Giáo thành một tập tục nhảm nhí, biến sứ điệp Tin Mừng thành một thông báo Tin Lo. (x.Trần Duy Nhiên, memaria.org).


Niềm hy vọng cánh chung không cản trở công cuộc xây dựng trần thế và mưu t́m hạnh phúc hiện tại. Trái lại, đó là một động lực thúc đẩy mỗi người góp phần kiến tạo gia đ́nh, làng xóm,xă hội sống công b́nh, huynh đệ và hạnh phúc hơn.Ai thấy rơ đường đi th́ càng vững tâm mà đi. Chỉ có một Đức Kitô, chỉ có một Giáo hội là bạn trăm năm của Người. Giáo hội không chỉ là Trinh Nữ, là Hiền Thê mà c̣n phải là Mẹ. Do đó h́nh ảnh người Mẹ bồng con là h́nh ảnh thích hợp để biểu tượng cho Giáo hội. H́nh ảnh Ḥn Vọng Phu tượng trưng cho Mẹ Giáo hội đứng trên đỉnh núi giữa trời mây sông nước, ẵm chặt vào ḷng đứa con của sự sống là tương lai và hạnh phúc của ḿnh hướng về trời cao với niềm hy vọng là Đức Kitô. Mẹ Giáo hội cưu mang các thực tại của mọi dân tộc là sự sống, là tương lai, là hạnh phúc để nuôi dưỡng và ấp ủ cho đến ngày hoàn toàn viên măn, ngày Đức Kitô ngự đến. Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hăy tỉnh thức.Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời,một chương tŕnh kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân). Tỉnh thức là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ. Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa.

 

Lm. Nguyễn Hữu An

 

MỞ rỘng tâm hỒn đón Chúa

Lm Nguyễn B́nh An

 

Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hăy mưa vị cứu tinh. Đất hăy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy v́ duyên nợ oan nghiệt và t́nh đời đắng cay. Sa lầy v́ tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy v́ hạnh phúc vụt bay và tiền, t́nh, tài chỉ là tai họa. Sa lầy v́ thân xác héo khô, mỏi ṃn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.


Con người hoàn toàn bất lực trong tiến tŕnh tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người v́ thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ư nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ư nghĩa và đáng sống.

 

Ngày rước lễ vỡ ḷng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự “ <I>Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng ”. Tâm t́nh đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngă sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gơ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! v́ đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.


Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đă mất. Chúa hành động liên lỉ và mănh liệt lôi chúng ta ra khỏi ṿng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui ǵ khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi h́nh thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đă dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. T́nh trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo măi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đă bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.


Trời vẫn ban mưa. CứuTinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có ḷng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo “đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”

 

Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển ḿnh và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gơ cửa nhân loại. “Hăy tỉnh thức v́ chủ đến vào lúc người không ngờ”.

Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân ḿnh được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lăng phí t́nh Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở ḷng đón Chúa.

 

Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ư nghĩa mùa Vọng?

 

Lm Nguyễn B́nh An

 

TỈnh ThỨc đỂ gẶp Chúa

Mc 13,33-37

Lm. An Phong, OP

 

Thiên Chúa Trông Đợi Ta

Bài Tin mừng hôm nay rút từ phần cuối của diễn từ chung cuộc. Như người giữ cửa phải tỉnh thức v́ không biết giờ nào trong đêm ông chủ sẽ trở về, người kitô hữu cũng phải tỉnh thức v́ không biết khi nào Đức Giêsu đến.

 

Chúa nhật đầu của năm phụng vụ mới - mùa xuân mới - đến với lời cảnh cáo : "Hăy tỉnh thức". Đó là lời nhắn nhủ cần thiết để làm tươi mới, "xuân hóa" đức tin.

 

Thông thường, khi ngủ mê, người ta mất liên lạc với thế giới chung quanh, các giác quan ra như đóng lại : tai không c̣n nghe thấy âm thanh, mắt không c̣n nhận ra màu sắc; không ngửi, khưng sờ, không nếm... Trong đời sống tâm linh cũng thế, khi linh hồn mê ngủ, người tín hữu sẽ không nhận ra tiếng nói của Chúa, sẽ đóng cửa ḷng ḿnh trước những đau khổ bất hạnh của cuộc đời; họ không nhận ra đâu là hạnh phúc đích thực và đâu là điều giả tạo cho chính ḿnh. Đôi khi, phán đoán trở nên "thui chột, điếc lác"; và không c̣n có thể cảm nếm sự ngọt ngào của t́nh yêu, sự b́nh an của Thiên Chúa ban.

 

Làm thế nào để tỉnh thức đây ?

Như một tách cà phê, một câu chuyện hấp dẫn, một cuộc đi dạo, một cuốn sách hay… có thể xua tan cơn buồn ngủ thể xác, th́ việc cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, chia sẻ đức tin với các kitô hữu khác, giúp đỡ người bất hạnh… cũng có khả năng xua tan cơn ngủ mê tâm linh.

 

Nói khác, một đời sống tâm linh năng động hơn, có những mối tương giao tốt hơn… là thứ thuốc chống lại "cơn buồn ngủ tâm linh".

 

Như thế, có thể nói, tỉnh thức là khả năng cảm nhận Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày; nhận ra những tín hiệu thân ái nơi anh chị em; và nghe thấy lời kêu gọi phải nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt hơn.

 

Chúng ta có thực sự đang tỉnh thức không?

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là chủ của đời con;

Ngày hôm nay Chúa đă đến trong tâm hồn

con qua bí tích Thánh Thể này;


tí nữa đây, Chúa vẫn đến với con

trong các anh chị em của con;

và ngày mai, ngày mốt,

có thể Chúa lại đến với con

trong những người đau khổ bên hàng xóm;

 

Xin cho con luôn tỉnh thức

để đón Chúa đến mỗi ngày.

 

Xin cho con biết mở tâm hồn,

để nhận ra Lời Cứu Độ Chúa nói với con.

 

 

Lm. An Phong, OP

 

ĐƯỜNG NÀO CHO CHÚA ĐẾN.

Mc 13:33-37

Lm. Đỗ Vân Lực, OP

 

Mùa vọng chắc chắn là mùa hi vọng. Hi vọng Chúa đến không phải với những đe loi kinh hồn, nhưng với lời hứa và phần thưởng lớn lao. Dân Do thái đă mong chờ ngày thực hiện lời hứa ấy hằng bao thế kỷ. Ngày giờ đă tới thật gần. Niềm hi vọng ngày càng lộ diện. Hôm nay Chúa muốn chúng ta nhận định rơ và kịp thời niềm hi vọng lớn lao đó ngay trong cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta.

 

HI VỌNG ĐĂ VƯƠN LÊN

Hằng bao đời, dân Do thái đă ch́m sâu trong tăm tối, nhục nhằn và thất vọng. Không phải cảnh đói khát, nô lệ đă đầy đọa con người. Nhưng chính trong cảnh sung túc, ngôn sứ Isaia đă phải thốt lên : "Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài ? Tại sao Ngài làm cho ḷng chúng con ra chai đá, chẳng c̣n biết kính sợ Ngài" ? (Is 63:17) T́nh trạng càng bi thảm chỉ "v́ Ngài đă ngoảnh mặt không nh́n đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con" (Is 64:6).

 

Nhưng niềm hi vọng vẫn chưa tiêu tan. Mối liên hệ vẫn c̣n đó. Thật vậy, "Ngài là Cha chúng con ; chúng con là đất sét, c̣n thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đă làm ra tất cả chúng con" (c.7). Bởi đó Ngài là ông chủ có toàn quyền trên mạng sống và cuộc đời chúng con. Nhưng Ngài cũng là Từ Phụ đối với dân Chúa. Chính v́ thế niềm hi vọng càng lớn lao khi họ thưa với Chúa : "V́ t́nh thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại" (Is 63:17). Tiếng kêu ngày càng thống thiết : "Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan" (c.19).

Ngài đă xé trời ngự xuống thật sự nơi con người Đức Giêsu. Ngài đă đến, mang theo ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Người đến không phải chỉ cứu rỗi các linh hồn, nhưng cứu toàn thể con người. Người đến rồi Người đi. Đó là một cơ hội bằng vàng, ngàn năm một thuở. Bởi thế "phải tỉnh thức" (Mc 13:33), "phải canh thức !" (c.37) để khỏi bị vuột mất cơ hội đó.

 

Nếu biết lúc nào chủ về, chắc chắn chúng ta sẽ chuẩn bị chu đáo. Nhưng Chúa là "ông chủ đến bất thần" (c.37). Bởi vậy sẽ có nhiều người "đang ngủ" (c.36), nghĩa là c̣n mê man với bao mộng đẹp trần gian. H́nh ảnh tươi sáng của Người sẽ làm lu mờ và tiêu tan tất cả mộng đẹp đó. Nếu chỉ quen với bóng đêm hay bóng đèn mờ, mắt có thể bị mù khi ánh sáng mặt trời xuất hiện. Làm sao có thể thích ứng kịp với thứ ánh sáng đó nếu chúng ta c̣n li b́ hay cuộn tṛn trong cái tôi kệch cỡm của ḿnh. Từ cái tôi đă phát sinh mọi bất công và bất ḥa. Chỉ Người mới là niềm hi vọng cho muôn dân v́ đă chiếu toả khắp trái đất ánh sáng công lư và ḥa b́nh.

 

Nếu thế, việc ǵ phải run sợ khi Người trở lại lần thứ hai. Lần thứ nhất Người đă mang đến muôn ân sủng nhờ cái chết và sự phục sinh của Người. Nếu đón nhận ân sủng đó, chúng ta sẽ hưởng nền ḥa b́nh đích thực (x.NIV:1991). Tin vào Đức Giêsu Kitô mới có thể sống b́nh an và hoan lạc trong Thánh Thần. Từ đó mới văn hồi được trật tự xă hội và nối lại tương quan giữa con người với con người. Quả thực, "một khi đă được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được b́nh an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 5:1). Đức tin là một ân sủng, một mầu nhiệm vượt trên mọi hiểu biết trần gian. Ḥa b́nh chỉ nằm trong tầm tay những ai tin nơi Chúa. Chỉ đức tin mới đọc được mầu nhiêm đó và mới thực hiện được ḥa b́nh thực sự.

 

Chính trong đức tin đó, tín hữu Côrintô đă "không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người" 1Cr 1:7). Ngày Chúa đến không phải là ngày kinh hoàng như nhiều người lầm tưởng. Đức tin và ân sủng sẽ giúp ta chuẩn bị đầy đủ tất cả những ǵ cần thiết cho "ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô" đến nỗi "không ai có thể trách cứ được" (1 Cr 1:8). Chúng ta sẽ hoàn toàn b́nh an và vui mừng khi được chiêm ngưỡng Thánh Nhan.

 

NGÀY CHÚA ĐẾN TRÊN QUÊ HƯƠNG

Thời gian chờ đợi Chúa đến, c̣n bao nhiêu công việc bề bộn và dở dang. Thực sự chúng ta không thể nào ngủ yên, khi thấy phần lớn quê hương yêu dấu chưa đón nhận ánh sáng Tin Mừng, mặc dầu bao mồ hôi, nước mắt và máu đă đổ ra trên ba thế kỷ. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II cũng ngạc nhiên : "Thật là một mầu nhiệm không hiểu tại sao Đấng Cứu thế đă sinh ra tại Á Châu, mà cho tới bây giờ phần lớn dân cư trên lục địa này vẫn chưa biết tới Người" (Giáo hội tại Á Châu:1999). Mầu nhiệm làm nhức nhối con tim chúng ta. Sứ mệnh vẫn c̣n đó. Trách nhiệm vẫn đè nặng đôi vai. Tại sao chúng ta vẫn không đáp ứng được những khát vọng dân tộc và niềm hi vọng thời đại ?

 

Có lẽ chúng ta c̣n nhốt Đức Kitô quá kỹ trong bốn bức tường nhà thờ chăng ? Chúng ta c̣n co cụm lại để bảo vệ một thứ truyền thống hay quyền lợi nào đó, khiến nhiều người chưa nh́n được dung nhan đích thực của Đức Kitô chăng ? Hay chúng ta c̣n quá hănh diện v́ đủ thứ hào quang vây quanh ? Một cộng đồng sẽ mất hết sức sống nếu chỉ quanh quẩn với quá khứ, dù vàng son mấy chăng nữa.

 

Mùa vọng là mùa chúng ta hướng tới tương lai với một niềm tin tưởng. Chúa sẽ đến với dân tộc chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta cùng với vị Chủ Chăn tối cao của Hội Thánh nh́n sâu vào quá khứ và hướng thẳng về đằng trước. Trong một diễn văn tại Hội Nghị các Giám mục Á châu tại Manila, Đức Giáo Hoàng nói : "Ngay từ thiên niên kỷ thứ nhất, Thánh Giá đă được trồng trên miền đất Âu châu, và thiên niên kỷ hai tại Mỹ và Phi châu, chúng ta có thể cầu nguyện để đức tin trổ sinh một mùa màng bát ngát trên lục địa bao la và đầy sức sống này vào thiên niên kỷ thứ ba" (Insegnamenti XVIII, 1:1995:159).

 

Chắc chắn cái nh́n đó phải bao trùm cả quê hương chúng ta. Đức Giáo Hoàng luôn ưu ái dân tộc Việt Nam. T́nh thương đó đă được biểu lộ nhiều lần, nhất là trong dịp Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La vang và trong việc cứu trợ đồng bào miền Trung. Tại sao quê hương nhỏ bé của chúng ta lại chiếm được cảm t́nh đặc biệt của Đức Thánh Cha ? Chẳng phải v́ Người kỳ vọng gặt hái được một mùa màng tươi tốt trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam hay sao ? Nước Chúa sẽ đến, nghĩa là sự công chính, b́nh an và hoan lạc sẽ tràn ngập trên quê hương dân tộc chúng ta. Chừng nào chúng ta mới cùng bắt tay hành động cho niềm hi vọng lớn lao đó ?

 

Trách nhiệm đó trước tiên thuộc về Kitô hữu. Để chuẩn bị cho Nước Chúa ngự đến, họ cần ư thức rằng "loại trừ những nguyên nhân sâu xa sinh ra nghèo đói và thất vọng, làm cho mỗi người có phẩm giá cơ bản, là bổn phận thiêng liêng của mọi dân tộc, đặc biệt của những người đang nắm quyền cai trị." (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 22/11/2002) Để chu toàn bổn phận đó, Kitô hữu không thể hành động đơn độc. Trái lại, họ phải đối thoại để t́m thế liên kết và hợp nhất với những người thiện chí, dù họ khác chính kiến hay tôn giáo với ḿnh. Không có tinh thần đối thoại, dù là Kitô hữu, họ cũng không phải là những người có thiện chí. Thật vậy, "nguồn gốc sinh ra mọi xung đột thường nằm trong những người không cởi mở cơi ḷng với Thiên chúa." (TGM Michael Fitzgerald: Zenit 22/11/2002)

 

Trước những cuộc bạo động hôm nay, TGM Michael Fitzgerald nói: "Ai cũng biết đâu là nguyên nhân cuối cùng sinh ra các cuộc chiến tranh. Bởi vậy, trên hết chúng ta cần cùng nhau khám phá ra những nẻo đường dẫn tới hoà b́nh. Như những người tin tưởng vào một Thiên chúa duy nhất, chúng ta thấy ḿnh phải cố gắng tạo lập hoà b́nh. Các Kitô hữu và các người Hồi giáo đều tin rằng hoà b́nh trên hết là một hồng ân Thiên Chúa. Bởi thế, cả hai cộng đoàn chúng ta đều cầu nguyện cho hoà b́nh. Đó là điều chúng ta luôn được kêu gọi thực hiện. Trong việc kiến tạo và duy tŕ hoà b́nh, các tôn giáo đóng một vai tṛ quan trọng.

 

Hơn bao giờ, ngày nay các xă hội dân sự và chính quyền đều nh́n nhận điều đó. Phải nh́n nhận những nẻo đường hoà b́nh bao gồm cả việc giáo dục, v́ qua việc giáo dục con người có thể học cách nh́n nhận bản thân và tha nhân. Giáo dục hoà b́nh cũng bao gồm việc nh́n nhận và chấp nhận sự khác biệt. Hiện nay sự cộng tác giữa những người Hồi giáo và Kitô hữu, nhất là tái duyệt cách vô tư các sách giáo khoa cho học đường." (Zenit 22/11/2002) Nếu công cuộc này được thực hiện khắp nơi, chắc chắn tương lai thế giới sẽ thay đổi sâu xa. Đó là dấu chỉ hoà b́nh, là cách nhân loại đang dọn đường cho Chúa đến.

 

Lm. Đỗ Vân Lực, OP

 

ĐỢi ChỜ B́nh Minh Đang ĐẾn

Mc 13,33-37

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

 

Tỉnh thức và chờ đợi

Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà thành ngữ anh em hăy tỉnh thức được nhắc đi nhắc lại 4 lần.

 

Phải tỉnh thức : đây không phải là một lời khuyên đơn giản, được đề nghị cho qua để rồi rơi vào quên lăng. Trái lại, đây là một nhắn nhủ đặc biệt, như một điều cốt yếu. Lời nhắn nhủ cốt yếu này không chỉ gửi đến các ông Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê, là những người đang nghe Đức Giê-su giảng dạy, nhưng c̣n cho tất cả mọi người, như lời Đức Giê-su nói : "Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người ..."

 

Phải tỉnh thức : một đề tài quan trọng, một chủ đề được nhắc đi nhắc lại, không phải chỉ trong Tin Mừng Mác-cô, nhưng người ta cũng gặp thấy cùng một thành ngữ trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca. Như vậy, không chỉ một ḿnh Mác-cô cảm thấy tính cách khẩn thiết trong lời nhắn nhủ của Đức Ki-tô, các tác giả khác cũng cảm thấy như vậy.

 

Quả thế, đề tài tỉnh thức quan trọng đến nỗi Đức Giê-su thường xuyên khai triển trong các bài giảng tại Hội đường xứ Ga-li-lê. Tại đây, Người đă kể các dụ ngôn về người chủ nhà tỉnh thức và người quản lư trung thành. Người c̣n nhắc lại đề tài này qua dụ ngôn về 10 cô trinh nữ, trong đó 5 cô dại đă không có đủ dầu để tiếp đón chàng rể.

 

"Phải tỉnh thức". Đức Giê-su không ngừng lặp lại điều này. Sau này, người ta c̣n nghe thấy lời mời gọi này, thiết tha hơn, khi Đức Giê-su cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni. Trước khi rút ra một nơi riêng biệt để cầu nguyện, Đức Giê-su đă nói với các môn đệ thân tín : "Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy." Ba lần Người trở lại đều thấy các ông đang ngủ, Người nói : "Th́ ra anh em không thức nỗi một giờ với Thầy sao ? Anh em phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ"

 

Như thế, tất cả đều sáng tỏ. V́ sao phải tỉnh thức ? Thưa để luôn sẵn sàng đáp trả lời mời của Thiên Chúa. Lời mời này không chỉ được đưa ra vào ngày phán xét, vào ngày chết của mỗi người, nhưng đă được đưa ra ngay từ bây giờ và trong từng giây phút.

 

Thật vậy, trong từng giây phút, Thiên Chúa vẫn đưa ra cho con người những dấu chỉ xuyên qua các biến cố : những người bị hành hạ, bị lưu đày, người hàng xóm đau yếu hay đang khỗ sở, một người già đang cô đơn, một công việc phải làm, cảnh mặt trời lặn, một bông hoa đang nở, một em bé đang mỉm cười. Trước những dấu chỉ như thế, người ta làm ǵ, hay lại ngáp dài và thiếp ngủ.

 

Hăy tưởng tượng xem, Đức Giê-su sẽ buồn biết bao nhiêu khi đến ngày Người trở lại, vẫn thấy các tín hữu đang ngủ. Người tín hữu phải là những người biết chờ đợi và biết tỉnh thức, bởi v́ họ tin rằng Thiên Chúa vẫn đang có mặt. Chính điều này giúp họ tránh được một cám dỗ lớn : ngủ quên trong lúc cần tỉnh thức.

 

Chờ đợi đến bao giờ ?

Trong bối cảnh của Giu-đa giáo muộn thời và của Ki-tô giáo vừa mới khai sinh, các tín hữu vẫn mơ đến ngày thế giới hiện tại sẽ sụp đỗ và Thiên Chúa sẽ ngự đến tiêu diệt những người gian ác. C̣n khoa học hiện đại lại cho biết mặt trời sẽ không c̣n chiếu sáng ... trong 5 tỷ năm nữa. Tuy vậy, khoa học cũng báo trước một cuộc huỷ diệt trong tức khắc nếu xảy ra chiến tranh hạt nhân. Khi nào thế giới sẽ ................. ?

 

Ngày nay, những suy tư của Ki-tô giáo không c̣n đặt vấn đề thời gian ; khi nào ; nhưng luôn nhắc lại sứ điệp Tin Mừng : Thiên Chúa vẫn ở phía trước. Đức Giê-su đă trả lời cho các môn đệ hiểu là ngày giờ ấy, không ai biết được, kể cả Con Người. Người không muốn các ông rơi vào trạng thái mơ mộng, hoặc quá chú tâm vào quá khứ, hoặc chỉ nghĩ đến tương lai. Người mong muốn các ông tập trung sức chú ư vào hiện tại, vào cái hôm nay của Nước Thiên Chúa.

 

Dù vậy, dân Thiên Chúa không phải là một dân tộc ở một chỗ cố định. Họ là một dân tộc lữ hành, đang tiến bước. Họ không mưu t́m một chỗ cư ngụ vĩnh viễn, nhưng luôn chấp nhận lên đường, ra đi. Họ không phải là những người mê ngủ, nhưng là những người tỉnh thức. Họ là những người luôn ở trong trạng thái chờ đợi.

 

Thế nhưng một cám dỗ lớn vẫn thường xảy ra là người ta thích ngủ yên, bằng ḷng với những điều đă có, và chỉ nh́n lại đằng sau. Đây chính là chủ trương của những người muốn sống an toàn, của tất cả những người muốn bảo thủ về tinh thần, về thiêng liêng. Những người này phải nhớ rằng thế giới luôn xô đẩy để tiến về phía trước. Trong một bối cảnh như thế, con người có cảm tưởng như ḿnh đă bị lạc đường, họ cảm thấy ḿnh bị mất hút, v́ họ không t́m thấy trong thế giới đó quá khứ của chính ḿnh. V́ thế, họ coi thế giới này là một thế giới xa lạ, ngoại đạo.

 

Nhưng, chính trong thế giới xô bồ này, Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi con người. Người vẫn đang âm thầm làm việc, kêu mời con người đến gặp gỡ, và làm cho thế giới nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa. Đó chính là ơn gọi và sứ mạng của người tôi tớ.

 

Như vậy, việc đón nhận Thiên Chúa trong ngày tận cùng của lịch sử, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời sẽ không phải là điều ǵ lạ lùng, bởi v́, ngay từ bây giờ, con người đă hướng tầm nh́n của ḿnh về Thiên Chúa, và đă biết nhận ra tiếng Thiên Chúa mời gọi trong từng giây phút của cuộc sống. Lời mời gọi này làm cho tương lai trở thành hiện tại, đồng thời làm cho hiện tại có giá trị và ư nghĩa của vĩnh cửu, bởi v́ đó là lời mời gọi làm cho con người được sống, ngay tại đời này và trong cuộc sống mai sau.

 

Măi măi là chờ đợi

"Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống ..." Một lần nữa, khởi đầu mùa Vọng, chúng ta lại thưa lên với Chúa tiếng kêu này, trong niềm tin chắc chắn vào ơn cứu độ đă được ban tặng, nhưng chưa được thực hiện hoàn toàn. Bởi v́ Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đang đến, và Đức Giê-su Ki-tô đă hoàn toàn dấn ḿnh trong cuộc xuất hiện này : "Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đă có, hiện có và đang tới" (Kh 4,8).

 

Và một lần nữa, chúng ta lại đứng trước mầu nhiệm đang đến. Thật là uỗng công vô ích nếu đặt câu hỏi khi nào Thiên Chúa sẽ tỏ ḿnh ra cách dứt khoát. Điều chúng ta quan tâm, không phải là ngày giờ diễn ra cuộc Quang Lâm, nhưng chính là tính cách quyết định, là cuộc xét xử về toàn bộ cuộc sống của mỗi cá nhân. Trước cuộc xuất hiện của Con Người, một cuộc xuất hiện mà không ai biết trước, và không ai có thể ngăn cản, trước cuộc đợi chờ trong bóng đêm mà chẳng biết bao giờ mới kết thúc, th́ điều tốt hơn hết là chúng ta phải luôn ở trong t́nh trạng sẵn sàng, luôn ư thức về trách nhiệm của ḿnh với hiện tại, và đem lại cho mỗi khoảnh khắc một sức nặng vĩnh cửu.

 

Đặc biệt, như lời thánh Phao-lô, chúng ta phải luôn sống trong tâm t́nh tạ ơn. Thật thế, chúng ta mới chỉ hưởng dùng một phần nhỏ trong toàn bộ ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa đă ban tặng cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô. Tuy vậy, tạ ơn không có nghĩa là thoả măn để rồi không làm ǵ thêm nữa. Trái lại, với ư thức về điều chúng ta chưa đạt tới và chưa thực hiện được, chúng ta phải luôn hướng nh́n về Đức Ki-tô, Đấng là khởi đầu và là kết thúc của mọi sự, đồng thời phải gạt đi những ǵ làm ngăn trở cuộc xuất hiện của Người. Khi đó, như một cái gai đâm vào thớ thịt của cuộc đời, người Ki-tô hữu trở thành dấu chỉ tỉnh thức của trần gian, những người luôn vượt thắng giấc ngủ và công bố niềm hy vọng : "Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến" (Kh 22,20).

 

Phải tỉnh thức, nhưng làm sao đây ? Đức Giê-su dạy chúng ta hăy tỉnh thức và cầu nguyện, như Người đă làm tại vườn Ghết-sê-ma-ni. Nói thế, v́ cầu nguyện chính là chú tâm vào lời mời gọi của Chúa, là sống trong sự hiện diện của Người. Tất cả chúng ta đều là những người tỉnh thức và đợi chờ b́nh minh đến, v́ Thiên Chúa vẫn đang đến và sẽ đến

* * *

Hoàn cảnh của con người, trong mối tương giao của họ với Thiên Chúa, đó là thân phận của một người chưa có, chưa thấy, chưa biết và chưa nắm giữ ...

Thật là khó khăn khi phải sống trong t́nh trạng không chiếm giữ Thiên Chúa, nhưng phải chờ đợi Người ...


Thiên Chúa không phải là một sự vật như muôn ngàn sự vật để người ta có thể nắm giữ, Người là một ngôi vị và người ta phải chờ đợi. Ngay cả trong tương giao của con người, người ta vẫn không được quyền chiếm giữ. C̣n Thiên Chúa th́ luôn bất ngờ và kỳ diệu, ... và người ta phải đợi chờ, đợi chờ thiết tha. Theo P.Tillich

 

 

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

 

CỬa trỜi hẸp lẮm ai ơi !

Mc 13,33-37

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

 

Chúng ta bắt đầu một chu kỳ phụng vụ mới, một năm phụng vụ mới, mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của hy vọng nở hoa, nếu chúng ta hiểu được nỗi chờ đợi của một em bé mong mẹ đi chợ về, nỗi chờ mong gặp lại một người thân yêu xa vắng, nỗi khát vọng của một người mẹ “bồng con mẹ ải chờ mong, cho ḷng chinh phụ hóa thành vọng phu”, nỗi mong chờ của một người cha già Tin Mừng chờ đón con về… th́ chúng ta sẽ hiểu được thế nào là Mùa Vọng.

 

Xưa kia, Mùa Vọng được gọi là mùa Át, “Át” là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng “Adventus”, một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Với phong trào Việt hóa, có một thời lại được gọi là Mùa Áp, “Áp” có nghĩa là gần kề hay kề bên, cả hai cách gọi trên tuy cũng nói lên phần nào ư nghĩa của mùa này nhưng chưa được rơ ràng. Ngày nay với hai tiếng “Mùa Vọng” bao hàm ư nghĩa rơ hơn : mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Hy vọng, trông đợi, chờ mong cái ǵ ? Chờ mong Chúa Giê-su giáng sinh. V́ thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng lại thêm một ư nghĩa nữa : trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại.

 

Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo hội hôm nay : đợi Đức Ki-tô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hăy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài. V́ thế, lời Chúa của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta ba điều : thứ nhất về ngày Chúa quang lâm, thứ hai về ngày chúng ta ra khỏi trần gian, thứ ba chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.

 

Về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa tái giáng, Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy ra, chỉ một ḿnh Thiên Chúa biết mà thôi, một ḿnh Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi nào ngày ấy xảy ra th́ người ta mới biết chứ không ai biết trước. Kinh Thánh ví ngày đó như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm lại báo trước ngày giờ nó đến ăn trộm đâu. Cũng vậy, ngày Chúa đến rất bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ. Có thể hôm nay người ta cho rằng ngày Chúa quang lâm là thứ “cọp giấy” tức là không có hay nếu có cũng c̣n lâu lắm. Xin những ai có ư nghĩ như vậy th́ hăy nhớ : lời Kinh Thánh đúng từng dấu phẩy, Kinh Thánh ứng nghiệm từng điều từng nét. Hơn nữa, ngày Chúa quang lâm là một chân lư chúng ta  tuyên xưng trong kinh Tin Kính và mỗi khi dự thánh lễ : “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.

 

Đàng khác, Tin Mừng hôm nay mặc dầu đề cập tới ngày tận thế nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày tận số của ḿnh, tức là về ngày chết của chính chúng ta. Chết là cái mốc cuối cùng mà bất cứ ai đă sinh ra ở đời này th́ trước sau ǵ cũng sẽ tới ngày ấy, v́ thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính toán, phải nghĩ tới ngày chết của ḿnh. Nói khác đi, chúng ta phải nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của ḿnh nơi trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người sánh với thời gian đă chẳng là ǵ, nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc đới không những phù du mà c̣n kèm theo tính cách bất ngờ nữa, không ai biết được khi nào ḿnh chết, ngày giờ chết là bất ngờ nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.

 

“Tỉnh thức”, theo nguyên nghĩa là không ngủ, và cũng có nghĩa là sẵn sàng. Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc, hoặc để tránh một điều tai hại có thể xảy đến, cho nên, tỉnh thức c̣n có ư nghĩa là canh pḥng, túc trực giao tranh, phấn đấu chống sự lơ đăng cẩu thả để đạt một mục đích đă nhắm. Đó chính là ư nghĩa của tiếng “canh thức” Chúa Giê-su căn dặn chúng ta : hăy chờ đợi Chúa đến trong tinh thần sẵn sàng, là luôn sống trong ơn nghĩa Chúa.

 

Chúng ta hăy nghĩ tới trường hợp của hai người vợ cùng có chồng đi vắng xa lâu năm : một người, tuy xa chồng nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ tới chồng, vẫn coi như chồng đang có mặt ở nhà, bà săn sóc con cái chu đáo, gánh vác phần chồng, tiếp tục gây dựng gia đ́nh như xưa. C̣n bà kia, cũng nhớ tới chồng, nhưng chán nản, bỏ bê con cái, chểnh mảng việc nhà, lâu lâu lại t́m vui với những người đàn ông khác, khiến mọi người dị nghị đàm tiếu. Bây giờ, bỗng nghe tin cả hai người chồng đều trở về với gia đ́nh, chắc hẳn hai người vợ trên sẽ đón tin này, mỗi người một cách khác nhau. Cũng thế, nếu chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa thế nào, th́ Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa luôn luôn, để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng sẵn sàng : “Cửa trời hẹp lắm ai ơi, muốn vô th́ phải ép ḿnh chớ quên”.

 

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

 

 

NgưỜi GiỮ CỬa

Manna

 

X LỜi Chúa: Mc 13, 33-37

Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày Quang Lâm của Người rằng: 33 "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, v́ anh em không biết khi nào thời ấy đến. 34 Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của ḿnh, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. 35 Vậy anh em phải canh thức, v́ anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. 36 Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. 37 Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!"

 

X Suy NiỆm

Có bao nhiêu thời gian sống ở đời được chúng ta dành cho việc chờ đợi? Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi; nhưng cũng có sự chờ đợi đem lại hương vị và ư nghĩa cho cuộc sống. Người mẹ tần tảo nuôi con, chờ ngày con thành tài. Người vợ chờ đợi ngày chồng trở về từ biên ải. Con người không chỉ sống bằng quá khứ nhưng c̣n bằng những ngóng đợi về tương lai. Cái tương lai tưởng như mơ hồ, xa xôi mà lại lôi kéo được cái hiện tại đi về một hướng. Biết sống là biết chờ đợi Chờ đợi làm nên cuộc sống.

 

Mùa vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi. Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang mai này. Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước mắt. Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm, v́ không biết giờ nào chủ trở về. Nhưng chờ không phải là thụ động khoanh tay mà là vuông tṛn sứ mạng được giao phó.


Ông chủ đi xa đă để lại ngôi nhà, giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34). Có lẽ từ lâu ta đă thấy không cần chờ đợi Chúa, v́ chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong, những điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn. Hăy nói cho tôi biết, bạn đang chờ ǵ, tôi sẽ nói cho bạn biết, bạn đang đi về đâu.

 

Nếu không có Ai để chờ, th́ cũng chẳng cần tỉnh thức. Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng. "Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ... Rồi Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ, đôi mắt họ li b́ nặng giấc" (Mt 26, 40-45). Chiến đấu chống lại sự buồn ngủ của mắt c̣n dễ dàng hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần. Cuộc sống vật chất ngày càng cao cung ứng cho con người biết bao thứ ru ngủ và đưa con người vào cơn mê mà họ không hay biết.

 

Ma túy là mối đe dọa giới trẻ hôm nay. Ma túy đi vào trường học, được bán ở cổng trường, để chích, để hút, để ngửi. Nó cho người ta sống lâng lâng trong một thế giới ảo, để rồi không c̣n khả năng sống đời thực của ḿnh nữa. Nhưng ma túy đâu phải chỉ là bạch phiến, cần sa. Ma túy là tất cả những ǵ gây nghiện, khiến con người thành nô lệ và đánh mất ḿnh. Tiền bạc, tiếng tăm, t́nh dục, tiện nghi... vẫn là những thứ ma túy mê hoặc con người.

 

Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, để thành thật tự hỏi: "Tôi đang nghiện thứ ma túy ǵ?"

 

X GỢi Ư Chia SẺ

·        Sống là có ước mơ và chờ đợi. Đâu là những ước mơ của bạn? Chúa có chỗ trong những ước mơ đó không?

·        Có bạn trẻ coi chuyện t́nh cảm là chuyện hết sức quan trọng, đến độ dám tự tử nếu cuộc t́nh đổ vỡ. Bạn nghĩ thế nào là thái độ quân b́nh nên có khi yêu nhau?

 

X CẦu NguyỆn

Lạy Chúa Giêsu, xin đánh thức con. Xin đưa con ra khỏi cơn mê mà tự sức con không sao thoát ra được. Xin đừng ngại đánh thức con bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ, nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ đang cắt tỉa con v́ yêu con.

 

Ước ǵ con được tỉnh táo để nh́n lại vẻ đẹp từng làm con say mê, những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối. Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện, xin cho con thức luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa.

 

 

Manna

 

 

TỈnh ThỨc

Ys 63,16b-17;64,1.3b-8; 1C 1,3-9; Mc 13,33-37

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

I. Phúc Âm: Mc 13, 33-37

"Các con hăy tỉnh thức, v́ các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hăy coi chừng, hăy tỉnh thức và cầu nguyện, v́ các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hăy tỉnh thức, v́ các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về th́nh ĺnh, bắt gặp các con đang ngủ. Điều Ta bảo cho các con, th́ Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hăy tỉnh thức!"

 

Đi Vào Niên Lịch Phụng Vụ:

Với Chúa nhật I Mùa Vọng, một năm Phụng vụ mới sẽ đến với chúng ta, mới không phải chỉ v́ chúng ta lại sắp bắt đầu lại chu kỳ một năm những ngày lễ tái hiện lịch sử ơn cứu chuộc, mà c̣n mới v́ kể từ năm 1969, niên lịch Phụng vụ của Giáo Hội La Mă đă được tổ chức lại.

 

Không kể nhiều ngày lễ kính thánh nọ thánh kia đă bị băi bỏ hoặc được xếp lại cho đúng với thời gian các ngài đă qua đời, ngay đến các ngày Chúa nhật kính nhớ mầu nhiệm cứu chuộc cũng được nghiên cứu lại để tất cả được đơn giản hóa hơn hầu giúp ta dễ nhận ra ư lực của Phụng vụ. Dĩ nhiên bộ luật mới này vẫn chưa được hoàn toàn đơn giản v́ lễ Phục sinh vẫn chưa được ấn định vào một ngày nào nhất định cho mọi năm. Trong khi chờ đợi, Giáo Hội La Mă đă tạm đưa ra một cải tổ trong niên lịch Phụng vụ của ḿnh.

Đặt các ngày lễ kính thánh ra một bên, lịch mới phân phối các ngày Chúa nhật xoay quanh hai ngày lễ lớn là lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh. Trước lễ Giáng sinh có 4 Chúa nhật gọi là 4 Chúa nhật mùa Vọng; rồi đến lễ Giáng sinh 25 tháng Chạp và các lễ phụ đới kéo dài cho tới lễ Hiển linh sẽ có một số chừng 5-9 Chúa nhật gọi là các Chúa nhật thường niên, kéo dài cho tới thứ Tư lễ Tro (như vậy không c̣n các Chúa nhật gọi là Chúa nhật sau lễ Hiển linh và các Chúa nhật 70, 60, 50 như trước nữa). Từ thứ Tư lễ Tro trở đi cho tới Chúa nhật lễ Lá là mùa Chay gồm 5 Chúa nhật. Danh từ mùa Thương khó cũng đă bị bôi trong lịch mới. Chúa nhật lễ Lá khai mạc Tuần Thánh mà 3 ngày cuối cùng, v́ tính cách long trọng đặc biệt, đă được gọi là Tam nhật Phục sinh. Từ Chúa nhật Phục sinh tới Chúa nhật Hiện xuống gồm 8 Chúa nhật là mùa Phục sinh. Rồi sau đó lại là các Chúa nhật Thường niên cho tới mùa Vọng năm sau; khiến danh từ mùa Hiện xuống từ nay cũng không c̣n được dùng nữa.

 

Nh́n qua một lần như thế, ta thấy niên lịch Phụng vụ mới dường như chỉ c̣n muốn quy tụ mọi cái nh́n của ta vào hai mầu nhiệm lớn là Nhập thể và Cứu chuộc. Những mầu nhiệm khác đă bị bỏ ư? Không phải, v́ người ta dễ nhận ra mọi mầu nhiệm khác đă được bao trùm đầy đủ trong hai mầu nhiệm lớn này. Hơn nữa, đây thật là dịp họa hiếm để chúng ta ư thức về tính cách duy nhất của các mầu nhiệm trong đạo và do đó dể hiểu rơ ư nghĩa của niên lịch Phụng vụ hơn.

 

Chúng ta thường nói đến các mầu nhiệm nhưng thật sự chỉ có một mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Không mầu nhiệm sao việc Chúa yêu thương loài người? Ngay đến mối t́nh giữa loài người với nhau đă là một mầu nhiệm rồi, huống nữa là t́nh yêu của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta! Ai có thể giải thích hết được t́nh mẹ thương con? Ai có thể nói hết được v́ sao chàng thanh niên này bỗng điên đầu v́ tà áo hồng và khuôn mặt nhỏ bé kia? Và giả như người ta có t́m được vài lư do tạm gọi là có thể giải thích tại sao hai người này lại thương nhau, các nhà tâm lư và phân tâm cũng phải đầu hàng khi phải trả lời về nhịp điệu, sáng kiến, hành vi, ngôn ngữ giữa hai người thương nhau. Chính bản thân hai người cũng chịu không thể hiểu được v́ sao họ lại thương nhau mănh liệt như vậy và v́ sao đang khi thương nhau mănh liệt họ lại có thể làm cho nhau đau khổ hao ṃn, mất ăn, mất ngủ v.v... Những cử chỉ nồng nàn, cũng như hành vi hờn dỗi trong lúc yêu đương thật bất ngờ, thật bộc phát, thật mầu nhiệm...

 

Chữ mầu nhiệm này đem áp dụng vào t́nh yêu của Thiên Chúa muốn dành cho ta lại phải thêm nhiều hệ số nữa, nghĩa là c̣n phải hiểu theo một ư nghĩa tuyệt đối mới được. Thiên Chúa yêu ta không những thật là khó hiểu và nhất là thật là vô cùng lạ lùng. T́nh yêu của loài người đă không bao giờ nghỉ yên một luôn luôn sống động và sáng kiến, huống nữa là t́nh yêu của Thiên Chúa toàn năng toàn thiện.

Chính t́nh yêu đă biến Ngài nên một Thiên Chúa tạo hóa, làm ra không biết bao nhiêu là kỳ công cho người yêu của ḿnh, đến nỗi bằng ḷng thí mạng v́ người ḿnh yêu.

 

Dịp đó đă đến cho Thiên Chúa khi hai ông bà nguyên tổ loài người phạm tội. Chúng ta cần phải đọc lại trang sách Thánh đó để xem t́nh yêu của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm khác hẳn các mối t́nh của loài người. Loài người khi hơi bị xúc phạm đă làm ra bộ mặt lạnh lùng hờn dỗi, nếu không phải là nổi xung lên, nguyền rủa. C̣n Thiên Chúa thấy loài người sa ngă vẫn t́m đến, vẫn gọi tên, vẫn âu yếm như không biết có ǵ đă xảy ra. Và khi thấy không thể làm ngơ bỏ quên được nữa, Thiên Chúa đă sáng kiến một kế hoạch mầu nhiệm, phong phú khôn lường trong câu nói bất hủ: Ta sẽ đặt hiềm thù giữa mày và tông giống người đàn bà, và người ấy sẽ đạp đầu mày. Chưa nói ǵ đến tội của nguyên tổ, Ngài đă quyết tâm tiêu diệt mầm mống gây chia rẽ và đổ vỡ giữa t́nh yêu của Ngài và loài người chúng ta. Ngài đă mạc khải một chương tŕnh nhập thể cứu chuộc trong câu nói mầu nhiệm mà chúng ta vừa đọc lại ở trên... Ngài cho chúng ta thấy cũng một mầu nhiệm đă sáng tạo nay lại cứu chuộc chúng ta và mầu nhiệm ấy vẫn là mầu nhiệm t́nh yêu.

 

Thế th́ khi thấy Phụng vụ sẽ lần lượt trải ra trước mắt ta hết biến cố này đến biến cố khác trong lịch sử ơn cứu độ, chúng ta đừng bao giờ quên mất cái nh́n duy nhất ấy: đừng tưởng ḿnh đang kỷ niệm một biến cố dĩ văng nhưng thực sự đang được đứng trước một biểu lộ của t́nh yêu sâu đậm của Thiên Chúa. Những Chúa nhật mùa Vọng chẳng hạn, bề ngoài có vẻ như nhắc lại những thời buổi xa xưa trước khi có việc Ngôi Hai nhập thể, nhưng kỳ thực bên trong chính là t́nh yêu thâm sâu của Thiên Chúa muốn gợi lại thời gian chờ đợi Đấng Cứu chuộc ngày trước, để thúc giục hướng dẫn tâm hồn chúng ta hướng về ngày Thiên Chúa lại đến để kết hợp với loài người trong vinh quang Nước Trời và gần hơn trong thánh lễ như là bảo chứng về tương lai rực rỡ. Rồi 40 ngày mùa Chay cũng thế: bề ngoài có vẻ như diễn lại con đường đau thương mà Chúa Cứu thế đă đi qua trước khi Ngài được vinh hiển trong Phục sinh - lễ Lên Trời và Hiện Xuống..., nhưng bên trong thật sự muốn đặt chúng ta đứng trước t́nh yêu của Đấng đă yêu ta đến nỗi hiến mạng ḿnh v́ ta hầu ta mềm ḷng ra cho ơn Chúa Thánh Thần đổ tràn ḷng nghĩa tử xuống, biến nhân loại nên một cộng đồng chuẩn bị cho cộng đồng gia đ́nh thiên quốc mai sau. Và mục tiêu đó cũng đă được thể hiện một cách thật sự có giá trị bảo chứng trong mầu nhiệm Thánh lễ.

 

Như vậy, bất cứ thánh lễ nào cũng thể hiện mầu nhiệm t́nh yêu, không phải dưới khía cạnh này hay khía cạnh khác như ta có khuynh hướng nói lên như vậy, v́ t́nh yêu chỉ là một khối bất khả phân ly. Thánh lễ diễn tả tất cả mầu nhiệm t́nh yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta... Ở trong thánh lễ nào Thiên Chúa cũng hiện diện đầy đủ; và đầy đủ t́nh yêu của Ngài cũng ở đó khiến ở đời này ta không có cách nào đáp lại t́nh yêu của Thiên Chúa đầy đủ như trong thánh lễ, nhờ việc hiệp lễ.

 

Chính v́ vậy mà ta thấy trong suốt năm, mặc dù phụng vụ chia thành mùa nọ mùa kia, đọc ca nhập lễ này, đọc kinh tiền tụng khác, phụng vụ cốt yếu của Giáo Hội vẫn là thánh lễ và thánh lễ vẫn không thay đổi trong các nghi thức quan trọng. Chính sự kiện này nhắc nhở cho ta ư thức hơn về tính cách duy nhất của mầu nhiệm phụng vụ; Thiên Chúa yêu ta hằng ngày, hằng ngày Người muốn đặt ta trước mầu nhiệm t́nh yêu của Ngài, Ngài không muốn cho một ngày nào qua đi mà không muốn bộc lộ tất cả t́nh Ngài yêu ta để hỏi ta có muốn đáp lại hay không. Về phía Ngài bao giờ cũng duy nhất như thế; nhưng để nói với ta là người ở trong thời gian và không gian, không có khả năng nh́n thấy và lănh hội tất cả trong một cái nh́n duy nhất. Ngài đă phải trải t́nh yêu duy nhất của Ngài ra trong một lịch sử dài, khởi đầu từ khi sáng tạo cho tới ngày vinh quang Nước Trời. Chính cái lịch sử đó, Phụng vụ mỗi ngày trong năm lần lượt tái hiện lại trong thánh lễ để giúp chúng ta tựa vào một hành vi lịch sử làm khởi điểm và bảo chứng để đi vào mầu nhiệm t́nh yêu thâm sâu của Thiên Chúa đă sáng kiến ra lịch sử cứu độ kia để chứng tỏ t́nh yêu của Ngài.

 

Mùa Vọng:

Tất cả lư do tổ chức năm phụng vụ nằm ở chỗ đó. Mặc dầu mầu nhiệm cử hành là mầu nhiệm t́nh yêu duy nhất, nhưng để những con người sống ở thời gian và không gian hiểu được mầu nhiệm duy nhất ấy, phụng vụ phải nại đến lịch sử mà Thiên Chúa đă dùng, để khai triển trước mắt ta t́nh yêu bao la của Thiên Chúa đă được mạc khải dần dần ra cho ta. Mạc khải do đó chỉ mạc khải có một mầu nhiệm duy nhất là t́nh yêu bao la của Thiên Chúa thể hiện trong lịch sử ơn cứu chuộc. Mùa Vọng, mùa Giáng sinh, mùa Chay, mùa Phục sinh sẽ lần lượt đến với chúng ta khác nào như khí trời của bốn mùa thiên nhiên. Cảnh sắc bên ngoài có thay đổi, lễ phục, giọng ca có khác đi, th́ cũng chỉ thay, chỉ khác để giúp khí thiêng duy dưỡng sức sống ở trong ta. Ta đừng câu nệ tách biệt các mùa phụng vụ; hăy để cho mầu nhiệm t́nh yêu duy nhất của Thiên Chúa thể hiện toàn khối trong mọi thánh lễ, trong mọi ngày của năm Phụng vụ.

 

Trời đă đổi mùa. Phụng vụ của Giáo hội cũng đổi sang mùa Vọng. Chúng ta cần canh tân tâm hồn và đời sống cho hợp với nhịp tiến của lịch sử Giáo hội và dân tộc.

 

Là v́ mỗi lần mùa Vọng tới, lịch sử Dân Chúa nói riêng và lịch sử các dân tộc nói chung lại tiến thêm một bước nữa, đi về ngày Chúa quang lâm, ban cho tất cả con cái Người một trời mới và đất mới. Mùa Vọng v́ thế hướng dẫn chúng ta nh́n về tương lai, chớ không trở lui nuối tiếc dĩ văng. Mùa Vọng chuẩn bị đại lễ Giáng sinh sắp tới, nhưng chỉ coi lễ này như động lực dẫn tới ngày Đức Kitô trở lại để tất cả trời đất rực lên trong ánh vinh quang của Người. Những nhắc nhở lịch sử thời gian trước ngày Đức Kitô đản sinh, không được khiến chúng ta nh́n về quá khứ như thời đại vàng son, nhưng chỉ cống hiến cho ta một kinh nghiệm và một hướng đi để chuẩn bị ngày Đức Kitô lại đến, ngày mà Thiên Chúa sẽ ở trong tất cả, khiến mầu nhiệm nhập thể khi ấy mới hoàn tất.

 

Chúng ta hăy đặt ḿnh vào thân phận của Dân Chúa thời Cựu Ước. Đó là một dân nhỏ bé, kém mở mang, bị coi khinh và mất chủ quyền. Nhưng ḷng Dân ấy ôm ấp một niềm tin vĩ đại.

 

Bêlem, ngươi sẽ không c̣n mà một thị trấn bé nhỏ, v́ Vua Ḥa B́nh sẽ xuất hiện từ ḷng ngươi. Ngươi sẽ trải công b́nh chính trực trên khắp mặt địa cầu khiến muôn nước nhờ ngươi mà được phúc...

 

Đó cũng là h́nh ảnh Dân Chúa ở mọi thời. Nh́n vào giáo đoàn Người đă thiết lập, chính thánh Phaolô đă có lần tuyên bố: xét về mặt thế gian anh em chẳng có ǵ đáng kể; người ta c̣n dể khinh anh em là khác... nhưng chúng ta vẫn là dân được Chúa chọn để mang ơn cứu độ đến khắp cùng địa giới. Và chính Chúa Yêsu đă nói trước với Giáo Hội: này hỡi đoàn chiên nhỏ, chúng con đừng sợ, v́ Chúa Cha đă ban Nước Trời cho chúng con.

 

Trong mùa Vọng này, chúng ta phải suy niệm mầu nhiệm trên, mầu nhiệm Giáo hội là một hạt cải nhỏ, sẽ trở thành cây cho chim trời khắp nơi t́m được chỗ đậu. Và như vậy, ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn ôm ấp một niềm tin lớn lao, khác nào như Đức Maria mùa Vọng đang cứu mang Quả có phúc cho mọi dân tộc.

 

Maria là mẫu người đă hiểu lời tiên tri. Người ôm ấp một niềm tin thật vĩ đại về tương lai của dân tộc. Người sống hiền lành và đạo đức tin rằng Thiên Chúa mới chính là Đức Khôn Ngoan đang hướng dẫn lịch sử khi cương khi nhu... Người tin chắc, để cộng tác vào việc xây dựng tương lai tốt đẹp, mỗi người hăy đạo đức chu toàn mọi phận sự của một phần tử tốt ở trong xă hội.

 

Thế nên, mùa Vọng c̣n đề cao vai tṛ của Yoan Tẩy Giả, và bảo ta chú ư đến sứ điệp của ông. Để chuẩn bị cho ngày Chúa đến, để có được một triều đại thiên sai, mọi người phải hoán cải tâm hồn và đời sống. Chỗ gồ ghề phải san cho phẳng, các hố sâu phải lấp cho đầy, làm sao để các quan hệ giữa người với người không c̣n là những chênh lệch bất công, nhưng phải b́nh đẳng giao ḥa tốt đẹp. Yoan đă có những lời lẽ nghiêm thẳng với cả những người "tự tin là công chính" thời xưa, để tất cả chúng ta ngày nay ai nấy cũng cố gắng cải tạo và đổi đời. Không phải những oán than, hay ước vọng hăo huyền đem lại được đời sống an vui và tiến bộ nhưng chỉ những cố gắng cải thiện, làm trong tinh thần cầu nguyện và đạo đức, sửa soạn được ngày Quang Lâm của Đấng Cứu Thế của chúng ta.

 

Do đó, công tác trước mắt của chúng ta trong mùa Vọng là:

- Khơi lại niềm vui vào tương lai rực rỡ mà Chúa chúng ta hằng hứa ban cho các dân tộc. Đó là đối tượng mùa Vọng của mọi thời.

- Tích cực góp phần xây dựng tương lai tốt đẹp ấy theo tinh thần canh tân và ḥa giải.

- Cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa theo gương Đức Maria mùa Vọng: Người đă ôm ấp Lời Chúa trong ḷng trước khi được phúc cưu mang và sinh ra Ngôi Lời Nhập Thể.

Những công tác ấy đem đến cho chúng ta một mùa Giáng Sinh tươi đẹp và một cuộc sống sáng trong.

 

II. Suy NiỆm

Tỉnh thức

Mở đầu niên lịch Phụng vụ, ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm nay phác họa lại cho chúng ta một vài thái độ trong khung cảnh sống của Dân Chúa: ngay giữa đêm tối của thử thách, nghi ngờ, phấn đấu, tội lỗi, Dân Chúa đă cùng nhau tự thú những lỗi phạm của ḿnh, cương quyết sống trung kiên mong chờ ngày Quang Lâm của Chúa Yêsu Kitô trong niềm tin tưởng và thái độ tỉnh thức.

 

Quả vậy, bài đọc Ysaia 63,16-64,7 tŕnh bày lại bối cảnh của đoàn dân Thiên Chúa sau thời Lưu đày. Kinh nghiệm ê chề của những năm tháng sống kiếp nô dịch trên phần đất ngoại bang đă đem lại cho họ một ư thức tập thể về những lỗi phạm của ḿnh. Họ ngước mắt nh́n về Thiên Chúa là Cha để thốt lên lời khẩn nguyện: "Ôi phải chi Người xé trời ngự xuống, th́ núi non cũng sẽ tiêu tan trước Nhan Ngài". Tâm trạng hối lỗi và tha thiết khẩn nài ơn cứu độ đă giúp Dân Chúa nhận định lại ơn gọi của ḿnh để sống trọn vai tṛ chứng nhân trung thành giữa muôn dân qua thân phận mỏng ḍn và hèn yếu của cuộc sống con người.

 

Bảy thế kỷ sau, khoảng 25 năm sau ngày Đức Kitô về trời, thánh Phaolô cũng đă nhắc nhở lại ơn gọi thực sự của người Kitô hữu: không những chỉ ư thức những sai lỗi của ḿnh, nhưng c̣n phải sống vươn lên mong chờ ngày Đức Kitô trở lại. Các cộng đoàn tín hữu tiên khởi đă sống trong hoàn cảnh hồi hộp, nao nức mong chờ ngày trọng đại đó. Những lời nguyện: "Maranatha, Lạy Chúa, xin hăy trở lại" (1Co 16,22) càng đặt họ vào tâm trạng xao xuyến và đầy xúc động. Ngài ở đây! Ngài ở kia! (2Th 2,2). Và có khi v́ mỏi mệt đợi chờ, họ đă không ngần ngại thốt lên: "Có lẽ Ngài đến chậm".

 

Tâm trạng khắc khoải đó cần bắt gặp được một cái ǵ vững chắc củng cố ḷng tin tưởng: nếu không, thái độ tỉnh thức mong chờ của họ sẽ hăo huyền, ảo vọng.

 

Quả vậy, mỗi lần cử hành nghi lễ bẻ bánh, cộng đoàn dân Chúa vẫn long trọng tuyên xưng lại niềm tin của ḿnh:

"Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến".

 

Nỗi ḷng mong chờ khắc khoải đó như được xoa dịu và soi sáng bởi lời Đức Kitô trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô 13,33-37. Ngài như một chủ nhà phải ra đi, vắng xa và vắng lâu. Sau khi trao phận sự quản lư cơ nghiệp cho gia nhân, mỗi người theo chức vụ của ḿnh, Ngài đặc biệt tín cẩn và căn dặn người canh cửa: "Hăy tỉnh thức". Phải, hăy tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ. Cuộc tái ngộ có thể xảy ra một cách rất bất ưng vào một lúc nào đó trong ban đêm. Gia nhân và nhất là người canh cửa phải tỉnh thức, luôn sống trong ánh sáng ban ngày để không ngái ngủ, không thất hứa với chủ nhà trước lúc ra đi.

 

Đặt đoạn văn trên vào khung cảnh lịch sử cứu độ, giữa ngày về trời và ngày trở lại của Đức Kitô, chúng ta có thể nói, thái độ tỉnh thức đó chính là thái độ của Giáo hội, của toàn dân Chúa và nhất là của những người hữu trách các cộng đoàn.

 

Nhưng tại sao phải tỉnh thức?

V́ trước tiên, đó là ư muốn, là mệnh lệnh của chủ nhà. Để cho cửa nhà êm ấm, an toàn và trường tồn, phận sự của người canh cửa, không phải chỉ lo bảo vệ ngôi nhà, mà c̣n phải lưu tâm đến những người sống trong đó.

 

Ngoài ra, tỉnh thức c̣n là thái độ của một gia nhân trung thành đối với người đă tín nhiệm, ủy thác trách vụ cho ḿnh. Và chắc chắn niềm vui của ngày tái ngộ sẽ trọn vẹn nếu chủ nhà gặp được gia nhân trong tư thế đợi chờ và sẵn sàng.

 

Hơn thế nữa, tỉnh thức cũng là để khỏi rơi vào giấc ngủ! Mà thường người ta chỉ ngủ lúc ban đêm, trong bóng tối! Theo nghĩa Thánh Kinh, ban đêm, bóng tối, gợi lên cho chúng ta h́nh ảnh một môi trường đầy nguy hiểm, đầy thử thách. Bóng đêm đối nghịch lại ánh sáng ban ngày. Đó là chiều kích thử thách của cuộc sống. Nó đưa đến tội lỗi, đau khổ, sự dữ... Nó đưa đến sa ngă, nản chí, nghi ngờ. Người canh cửa có thể bội phản người thân xa vắng, để chạy theo những quyến rũ của kẻ khác, của ngẫu tượng đồng lơa với bóng đêm.

 

Và tỉnh thức như thế nào?

Phải chăng là thắp đèn ngồi chờ? Là sống trong tâm trạng viễn vông! Không! Đọc lại Thánh Kinh và lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy việc tỉnh thức đợi chờ không phải là một thái độ thụ động. Nhưng là một hành vi ư thức của người hiểu biết lư do.

 

V́ thế, thái độ tỉnh thức của Giáo hội và đặc biệt của những người hữu trách dân Chúa phải sống động và đầy tính chất sáng tạo. Đó là thức tỉnh hiệp thông với người bạn của ḿnh. Đó là thái độ của một người bạn trung thành, cởi mở để luôn lắng nghe lời nói của bạn ḿnh. Như thế, tỉnh thức đối với Giáo hội, có nghĩa là không ngừng chiến đấu để sinh tồn, để trung thành với Lời Chúa. Dầu xa vắng, nhưng hầu như tiếng nói, lời hứa và sự hiện diện của Ngài luôn xoáy động trong ḷng Giáo hội và chi phối mọi sinh hoạt của dân Chúa. Với ánh đèn soi sáng và sưởi ấm đó, Giáo hội như có một nghị lực để cảm thông và t́m ra được ư muốn của Ngài qua mọi biến cố trong cuộc sống, qua mọi dấu chỉ thời đại.

 

Sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên trong tâm hồn mỗi người và trong đời sống Giáo hội một sự giằng co căng thẳng, mà chúng ta phải dùng như một đà tiến để vươn lên, Giáo hội có phận sự rút kinh nghiệm từ các sự kiện xảy ra trong lịch sử quá khứ và hiện tại để sửa chữa lỗi lầm, tự thanh luyện ḿnh để tiến tới sự hoàn thiện như Chúa Kitô mong muốn. Đặc biệt Giáo hội phải sẵn sàng từ bỏ địa vị ưu thế trong xă hội để chấp nhận thân phận đầy tớ phục vụ chủ nhà ḿnh và anh em.

 

Để tỉnh thức chờ Chúa đến, Giáo hội phải nhẹ ḷng đối với của cải trần thế và dứt khoát với những quyến rũ của các ngẫu tượng. Khi làm như thế, Giáo hội thực sự đang cầm đèn trong tay sẵn sàng đợi Đức Kitô, v́ ngày trở lại của Ngài sẽ xảy tới bất chợt.

 

Đồng thời, nếp sống của Giáo hội sẽ là ánh sáng thức tỉnh mọi người để họ nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Thế đích thực. Giáo hội đang mang trong ḷng sức sống và động lực thúc đẩy chính ḿnh và cả thế giới tiến lên gặp Đức Kitô. Thế nên, tỉnh thức là phận sự cần thiết của những con người chứng nhân cho ánh sáng. Và Giáo hội phải là kho dự trữ sức sống phong phú và sung măn chuẩn bị cho mọi người đón nhận thời viễn lai. V́ thế, khi hướng về ngày Chúa Kitô trở lại, Giáo hội quả là niềm hy vọng cho toàn thể thế giới và vũ trụ.

 

III. Bài GiẢng

1. Đời sống con người, có thể nói, bao giờ cũng bao hàm một khía cạnh đau thương khổ sở. Không phải chỉ thời nay mới khổ; thời trước cũng đă khổ rồi và bao lâu c̣n sống ở trần gian th́ con người vẫn phải chịu đựng hy sinh và đau khổ. Bài sách Isaia chúng ta đọc hôm nay, đă được viết ra sau thời dân Dothái bị lưu đày bên Babylon. Bài sách ấy cho ta thấy rằng: tuy hết bị lưu đày, nhưng dân Dothái vẫn tiếp tục gánh chịu đau khổ. Điều làm cho họ đau khổ nhất, chính là họ nhận thức ra rằng họ đă "đi lạc xa đường Chúa", đă "phạm tội" và "đă bị phó mặc cho quyền lực tội lỗi".

 

Tội lỗi của con người, đó chính là nguyên nhân sâu xa gây nên mọi đau khổ. Bài sách Isaia hôm nay thôi thúc ta nh́n vào khổ sở hiện tại như là tiếng gọi cảnh tỉnh ta nhận thức tội lỗi của mỗi người và của cả nhân loại để mau hoán cải trở về với Thiên Chúa. Ngài là Cha yêu thương, là Đấng cứu độ nhân từ và luôn luôn trung thành với lời Ngài đă hứa.

 

Những khó khăn kinh tế hiện nay cũng gây nên cho ta những khổ sở, nhưng ta nên biết rằng đó là hậu quả không thể tránh được của một nước vừa bị 30 năm chiến tranh tàn phá như nước ta. Và chúng ta, người công giáo c̣n phải nh́n nhận như dân Chúa thời xưa "Này Chúa thịnh nộ v́ chúng tôi đă phạm tội". Với ư chí đổi đời và cải tạo, với quyết tâm từ bỏ mọi ích kỷ cá nhân, mọi tham lam và hận thù, Chúa sẽ ban cho ta nguồn nghị lực mới để xây dựng một xă hội tốt đẹp và huynh đệ hơn.

 

2. Trong công cuộc này, chúng ta hăy lắng nghe những lời đầy an ủi trong thư thánh Phaolô: "Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, v́ anh em được đầy tràn mọi ơn, trong khi mong chờ Đức Kitô lại đến". Thánh Phaolô ảo tưởng, không nh́n thấy thực tế sao? Ngài không ảo tưởng. Ngài biết rơ các giáo đoàn của ngài. Họ là dân không giàu có, không thế lực. Nhưng hết thảy họ là những người được kêu mời hiệp nhất với Con Thiên Chúa, là Đức Yêsu Kitô. Phải, chúng ta là những con người như thế. Chúng ta đừng chỉ nh́n vào đời sống vật chất của ḿnh để thấy xót xa v́ thiếu thốn, nhưng c̣n phải biết nh́n vào tâm hồn, vào tinh thần, vào thiên chức được làm con cái Thiên Chúa, được vinh dự phát huy t́nh yêu của Ngài đối với trần gian.

 

Chúng ta cũng hăy hănh diện, tin vào ư kiên tŕ của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, đă khắc phục được bao khó khăn để vươn lên trong tư thế độc lập tự do, th́ trong tương lai cũng sẽ thành công trong việc xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, ấm no và có t́nh yêu thương giữa mọi người đồng bào cùng máu mủ.

 

3. Mùa Vọng nhắc lại cho ta cả hai chân lư ấy, một đàng dân Chúa như đang lầm than khổ sở, nhưng đàng khác cũng chính dân ấy đă được bảo đảm một tương lai tốt đẹp, trước hết theo ư nghĩa tinh thần, nhưng sau đó cũng kèm theo tất cả mọi khía cạnh được Chúa thánh hóa để làm nên hạnh phúc toàn diện cho con người. Thế nên, Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay dạy ta hăy tỉnh thức đừng mê ngủ. Những than văn, thở dài, chỉ làm cho thân xác rũ xương và đời sống trở nên đen tối. Trái lại, nếu tỉnh táo, nh́n về tương lai với niềm tin vững mạnh, th́ một chân trời mới đang dần dần mở ra trước mắt ta.

 

Người tín hữu cũng sống trong trần gian và phải hy sinh gian khổ như mọi người. Nhưng nhờ niềm tin như đèn sáng trong tay, chúng ta là những người đang tỉnh thức chờ Đức Kitô trở lại: Ngài là Chúa đem lại ḥa b́nh, là Đấng cứu độ trần gian. Thế nên, ḷng ta tràn đầy hy vọng và ta có phận sự chiếu tỏa niềm hy vọng phấn khởi ấy chung quanh ta.

 

4. Chúng ta hăy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của Giáo hội chúng ta, trước khi đem cuộc đời lam lũ đặt vào đĩa thánh, hiến dâng sự sống và con người của ta cho vinh quang Nước Trời mà Chúa đang dành cho các con cái của Người. 

 

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm