Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B

Lời Chúa: 2 Sm 7,1-5, 8b-12,14a,16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38

 

MỤC LỤC

 

 1. Quyền năng Chúa.  2

2. Bối rối, thắc mắc, ưng thuận............................................ 4

3. Xin vâng.............................................................................. 6

4. Xin vâng.............................................................................. 8

5. Xin vâng........................................................................... 11

6. Sự tin tưởng.................................................................... 13

7. Khiêm nhường đón nhận- ĐTGM. Ngô quang Kiệt... 16

8. Trích chú giải của William Barclay............................... 19

9. Truyền tin - R. Gutzwiller................................................ 21

10. Loan báo cho Đức Maria Chú giải của Hugues Cousin..... 28

11. Chú giải của Giáo Ḥang Học Viện Đà Lạt.............. 32

12. Chú giải và suy niệm của Fiches Dominicales........ 36

13. Chú giải của Noel Quesson........................................ 42

14. Mẹ Maria........................................................................ 48

15. Truyền tin....................................................................... 50

16. Truyền tin cho Đức Maria - JKN................................. 52

17. Mừng vui lên. 57

 


 

1. Quyền năng Chúa

Trong cuốn linh thao, thánh Ignatio đă gợi ư cho chúng ta suy gẩm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm ba bước.

 

Bước thứ nhất là hăy tưởng tượng xem thế giới thời trước Chúa Giêsu ra sao. Chẵng hạn như dân chúng th́ khô khan, hờ hững với Thiên Chúa. Sự xấu th́ tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người th́ rơi vào một t́nh trạng tuyệt vọng.

 

Bước thứ hai là hăy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao nh́n xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn ngàn v́ sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét. Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang qú cầu nguyện.

 

Bước thứ ba là hăy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ư tới câu:

-         Quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.

Ba chữ “bao trùm lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:

-         “Bấy giờ có một đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt ḥm bia giao ước”.

Bao lâu đám mây ấy c̣n bao trùm lên lều tạm, th́ lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.

 

Thánh Luca dùng ba chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ư, v́ nó gồm tóm một ư nghĩa sâu xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt ḥm bia giao ước của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung ḷng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với ḥm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa.

 

Như thế, nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, th́ chính Thiên Chúa thực sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi v́ đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.

 

Thực vậy, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật, bởi v́ Ngài đặt để một cái ǵ đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một nhạc sĩ đă đặt để một cái ǵ đó thuộc bản thân ông trong ḍng nhạc mà ông đă sáng tác.

 

Tiếp đến Ngài có thể hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong tiếng nhạc của ông.

 

Sau cùng, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi tŕnh diễn.

 

Và như thế, qua Đức Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn độn, gia đ́nh có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi v́ quyền năng của Thiên Chúa đă xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.

 

C̣n chúng ta th́ sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hăy tự hỏi xem, chúng ta đă làm được những ǵ để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đă ngự xuống nơi cung ḷng Đức Trinh nữ Maria?


 

2. Bối rối, thắc mắc, ưng thuận.

Thiên kư sự tuyệt diệu về Truyền tin chắc chắn là dư âm của một trong những kỷ niệm –theo thánh chép sử Luca- được Maria ấp ủ trong ḷng. Có lẽ thánh Luca được nghe lời tâm sự từ miệng Đức Maria nói ra khi ông ngụ tại Giêrusalem trong thời gian thánh Phaolô bị giam ở Rôma. Biến cố mầu nhiệm và thần kỳ được Đức Maria kể lại cho ông bằng những lời đơn sơ, nhưng chắc chắn là phong phú hơn một bản tự thuật ngắn, và được diễn tả trong một kư sự bóng bảy, đầy h́nh ảnh, như người đồng thời ưa chuộng. Sự kiện Truyền tin là một sự kiện chắc chắn, có thật, nhưng chính thánh chép sử không kể lại như một thiên phóng sự tuyệt đối chính xác. Vẻ đẹp, vẻ uyển chuyển của câu chuyện có giá trị ở chỗ nó mở rộng tâm trí ta để suy niệm không biết mệt mỏi về sự phong phú của sự kiện Truyền tin. Chúng ta tiến vào bối cảnh của sự thật khi chúng ta suy gẫm về thiên kư sự, từng câu một. Tuy nhiên chúng ta dễ h́nh dung rằng thực tại được Đức Maria trao gửi thánh Luca c̣n sâu sắc, phong phú và huy hoàng hơn thế nhiều. Tới đây chúng ta dừng lại để suy niệm về 3 câu:

 

1) Nghe những lời đó, nàng bối rối qua sức, và tự hỏi về ư nghĩa lời chào mừng của Thiên thần. Maria bối rối. Chỉ nguyên việc Thiên thần hiện ra cũng đủ làm cho nàng xúc động mănh liệt, những lời của thiên sứ khiến cho tâm thần nàng rối loạn v́ nhận thấy, xuyên qua những lời đó, một sứ điệp phi thường. Thật vậy lời chào: Kính mừng bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, gồm những từ ngữ được các ngôn sứ chuyên dùng khi nói đến Giêrusalem. Năo trạng Do Thái thời đó được nuôi dưỡng bởi một niềm hănh diện và hy vọng: Giêrusalem được Thiên Chúa tuyển chọn, được tràn đầy ơn sủng của Người, được ban cho thiên chức vượt cao trên khắp mọi thành thị thế gian. Vậy mà Thiên thần kính chào Maria bằng những từ ngữ người ta quen dùng cho Giêrusalem. Nàng bối rối v́ thế và thắc mắc. Đoạn tiếp của sứ điệp sẽ giải thích cho nàng rơ. Vào những dịp Thiên Chúa can thiệp vào đời ta –dù cho Người không đ̣i hỏi ta làm những việc phi thường- có thể những vụ đó có hiệu quả đầu tiên là nêu lên những câu hỏi cho chúng ta. Lúc đó ta phải tiếp tục cầu nguyện và lắng nghe –giống như Maria đă làm.

 

2) Maria thưa với Thiên thần: Làm sao việc đó có thể xảy đến được. Maria thắc mắc. Khi nhận ra điểm trọng yếu là vật cản tuyệt đối, Maria biết làm ǵ để đáp ứng yêu cầu của Chúa? Đối với nàng –trở thành mẹ một đứa con là điều không thể có được, v́ ở khởi điểm có 1 sự kiện là nàng chưa kết hôn, chỉ mới đính ước với Giuse, đơn giản thế thôi. Nàng muốn ǵn giữ đức đồng trinh của ḿnh, không hiểu sao Thiên Chúa lại có thể đ̣i hỏi nàng hy sinh nó đi. Nàng muốn hiểu rơ. Nàng trả lời không úp mở rằng, theo thường t́nh nhân loại, ḿnh không thể trở nên 1 người mẹ. Tuy nhiên nàng không chấm dứt cuộc tiếp xúc với Thiên thần, nàng tiếp tục lắng nghe thiên sứ. Cũng vậy, có thể có những vụ Thiên Chúa đ̣i hỏi chúng ta những điều không thể hiểu được và có vẻ đầy mâu thuẫn. Chúng ta, trong lúc cầu nguyện, có thể hỏi Chúa, đặt vấn đề với Chúa, v́ Chúa muốn chúng ta cân nhắc để có thể tự do ưng thuận.

 

3) Này tôi là tôi tớ Thiên Chúa, nguyện xin như lời Thiên thần truyền. Maria ưng thuận. Do sự ưng thuận, nàng đón lấy số mệnh thần kỳ là cho nàng trở nên một con người đích thật. Nàng ưng thuận khi hiểu rơ Thiên Chúa chờ đợi ǵ ở tiếng vâng của nàng. Thiên Chúa không tự mâu thuẫn trong khi ban phát ơn phúc cho loài người. Ở đây, ở trường hợp có một không hai này, đấng bậc làm mẹ không tiêu diệt đức trinh khiết. Chúa đă muốn tôn trọng tự do của Maria. Tiếng vâng do trinh nữ thốt ra là khoảnh khắc đầu trong công cuộc Thiên Chúa xuống thế làm người mà vẫn là Thiên Chúa, - con người trở nên Thiên Chúa mà không bị cưỡng bách.

 

3. Xin vâng

Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đă thưa lên lời xin vâng và đă trung thành với lời xin vâng ấy.

 

Chắc hẳn ngay từ những ngày tháng c̣n thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioan Kim đă dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho nên hăy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hăy khao khát trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.

 

Thực vậy, bấy giờ Mẹ đă đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đă quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đă chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đă tới thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai tṛ Thiên Chúa đă dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đă thưa lên:

-         Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.

Một lời xin vâng quyết liệt đă xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đă đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng v́ đă tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đă giữ sự im lặng, bởi v́ chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được hiểu.

Trong lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, th́ Thiên Chúa lại nh́n sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để đăng kư nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đă phải sinh ra trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông.

 

Mỗi biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ư của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ư định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ư định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.

 

Đúng thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông đồ, hẳn Mẹ đă được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đă lắng nghe và ghi nhớ trong ḷng.

 

Rồi khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đă phải kêu lên:

-         Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ư con, một vâng ư Cha mà thôi.

Chúa cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên ḿnh. C̣n Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đă chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của Chúa.

 

Rồi đêm hôm đó Chúa đă phải chịu biết bao nhiêu cực h́nh, nào là bị đánh đ̣n, bị đội mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát th́ thân xác Mẹ cũng đớn đau Chúa đă kêu lên:

-         Một vâng theo ư Cha mà thôi.

Mẹ cũng thưa:

-         Này tôi là tôi tá Chúa.

Mẹ luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.

 

Và sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đă theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đă chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đă đứng lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như vậy Mẹ đă đi cho tới tận cùng lời xin vâng của ḿnh.

 

C̣n chúng ta th́ sao? Chúng ta đă có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng ta đă phản ứng ra làm sao trước thánh ư của Thiên Chúa.

 

4. Xin vâng

Có một người kia đă nói: “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.

 

Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra ḿnh. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ ḿnh như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra ḿnh. Nhưng đối với Thiên Chúa th́ khác hẳn, Ngài đă sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đă chọn người mẹ sinh ra ḿnh. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.

 

Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ư Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của ḿnh. Nói cách khác, Thiên Chúa đă nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ ḿnh. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn ḿnh làm con nữa. V́ thế, sau khi đă tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đă sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ư người phụ nữ ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.

 

Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gabriel; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabriel và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đă trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.

 

Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, th́ Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung ḷng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai tṛ quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.

 

Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đă tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đă chấp nhận cộng tác vào chương tŕnh cứu chuộc của Thiên Chúa, v́ sự ưng thuận của Đức Mẹ đă mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đă xuống thế trong cung ḷng Đức Mẹ. Ngôi Lời đă hóa thành con người. Con Thiên Chúa đă trở nên con Đức mẹ.

 

Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai tṛ của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẫu đối thoại: từ một mẫu đối thoại th́ phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia th́ phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những ǵ? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. C̣n sứ thần Gabriel đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đă làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.

 

Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, ḷng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ư Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lư nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, th́ chân lư quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ư Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lư nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, th́ chân lư quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ư Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đă chọn chân lư cho đời sống ḿnh là “Vâng theo thánh ư Chúa”, th́ chân lư ấy cũng phải là chân lư quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.

 

Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hăy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đă chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong t́nh yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm t́nh như Mẹ.

 

5. Xin vâng

Hôm nay, nhiều người t́m kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của ḿnh”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết ǵ, không phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề ǵ ràng buộc với ḿnh.

 

Tất nhiên, thật tốt đẹp và cần thiết trong việc t́m kiếm và thực hiện điều ǵ sâu xa mà chúng ta cảm thấy rằng ḿnh được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con người là ǵ, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân ḿnh. Trong phương pháp “làm theo nhu cầu riêng của ḿnh”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có nghĩa là đi con đường dễ dăi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến t́nh trạng nô lệ và mất hạnh phúc.

 

Ở đây có một sự thật quan trọng: chắc chắn sẽ t́m thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận trách nhiệm mà thôi th́ vẫn chưa đủ, mà c̣n phải là biết chấp nhận trách nhiệm trong ḷng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết ḷng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng khó khăn bao nhiêu, th́ chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.

 

Về việc này, Đức Maria đă nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đă không nói với sứ thần “Xin lỗi, nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”. Nhưng Mẹ đă nói “Không phải ư riêng của tôi, nhưng ư muốn của Thiên Chúa mới là quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.

 

Đức Maria đă làm cho ḿnh trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ư trong công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.

 

Thật vậy, Mẹ nói “Tôi không hiểu được tất cả ư nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ đă mở tất cả mọi khả năng của ḿnh ra. Mẹ đă từ bỏ quyền kiểm soát tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của ḿnh.

 

Những người nào biết chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đă thực hiện, th́ có thể không t́m thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ t́m thấy và nhận biết điều đó một cách sâu xa.

 

Ân sủng lớn lao nhất trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.


 

6. Sự tin tưởng

Bối cảnh: Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ của anh đă qua đời. Anh nghiêm khắc đối với các con, nhưng cư xử rất tốt và yêu thương chúng. Anh là một luật sư liêm khiết và xuất sắc. Tuy nhiên, anh đă tự làm cho ḿnh trở nên rất xa cách đối với mọi người trong tỉnh, khi chọn một người đàn ông da đen đă từng bị tố cáo là một tên ám sát – tỉnh này đầy rẫy sự phân biệt đối xử đối với những người da đen.

 

Tại cuối con đường, có một người phụ nữ lớn tuổi sống ở đó, bà hay ngồi ở trước vườn của ḿnh suốt các buổi chiều. Bà cứ gọi hai đứa con của vị luật sư, khi chúng đi ngang qua đó trên đường đi học và trở về nhà. Bọn trẻ cảm thấy rất bực ḿnh, khi bà réo tên của cha chúng.

 

Vào một buổi tối, cậu con trai quyết định nhảy vào khu vườn của bà, và phá vài cây hoa, rồi chạy về nhà. Sau đó, người cha nói “Con không nên làm như vậy”.

 

Cậu con trai phản đối “Nhưng con làm điều đó là v́ bố mà”.

Người cha bảo “Bà ấy là một người phụ nữ rất đau yếu. Bây giờ, con hăy đến xin lỗi bà ấy đi”.

 

Cậu bé miễn cưỡng ra đi. Người phụ nữ yêu cầu cậu bé mỗi tối đến đọc sách cho bà trong ṿng một giờ. Cậu bé e sợ khi nghĩ đến công việc đó, nhưng cha cậu lại bảo rằng cậu nên đồng ư giúp bà cụ già đó trong công việc này. Thế là cứ mỗi tối, cùng với em gái ḿnh, cậu bé đến đọc sách cho bà cụ. Khoảng một giờ sau, bà cụ bị run lên bần bật. Hai đứa trẻ ra về và một người y tá đến săn sóc bà cụ. Vài tuần sau, những cơn run đó trở nên bớt xảy ra thường xuyên hơn.

Thế rồi vào một buổi chiều, người cha nói với hai đứa trẻ là bà cụ vừa mới qua đời. Chúng nghĩ thầm “Cám ơn Chúa”, nhưng không nói ra điều đó. Sau đó, khi người cha nói với chúng rằng trước đây vài tuần, một bác sĩ ghi toa cho bà cụ uống mấy viên thuốc giảm đau, và bà cụ đă bị nghiện những thứ thuốc này. Nhưng khi bác sĩ nói rằng bà cụ không c̣n sống được lâu nữa, th́ bà cụ quyết định là trước khi chết, bà sẽ thử bỏ thói quen uống thuốc. Những cơn run mà chúng nh́n thấy là triệu chứng do cai nghiện.

 

Bọn trẻ hỏi một cách sốt sắng “Thế bà cụ cai nghiện có thành công không?”.

Người cha trả lời “Có. Ngay trước khi qua đời, bà cụ nói với bố rằng bà cụ sẽ không bao giờ có thể cai nghiện thành công được, nếu chúng con không đến đọc sách cho bà. Bà cụ muốn gửi lời cảm ơn chúng con”.

 

Người cha bảo “Điều đó không quan trọng. Điểm chính yếu là chúng con đă làm theo lời dạy bảo của Bố. Chúng con là những đứa trẻ ngoan. Bố tự hào về chúng con”.

 

Hai đứa trẻ chưa nhận ra được đầy đủ ư nghĩa của công việc mà người cha yêu cầu chúng làm. Tuy nhiên, chúng vẫn làm điều đó trong tinh thần yêu mến và vâng phục.

 

Trong cuộc sống, chúng ta thường không nh́n thấy toàn bộ ư nghĩa của những việc ḿnh làm. Đôi khi, ư nghĩa này c̣n bị che khuất đối với chúng ta, giống như hai đứa trẻ trên. Trong trường hợp đó, công việc trở nên rất khó thực hiện, đặc biệt đối với công việc nào không thoải mái, hoặc đối với những người có thái độ vô ơn trước sự giúp đỡ của chúng ta.

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được thấy cách thức Đức Maria bằng ḷng trở thành mẹ của Đấng Cứu độ. Nhưng khi Mẹ thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, Mẹ chưa nhận ra được đầy đủ những điều liên quan đến sự đồng ư của ḿnh. Mẹ cho biết rằng đến ngày sinh của Đức Giêsu, mọi cánh cửa đều khép lại trước mặt Mẹ; rồi một thời gian ngắn sau ngày sinh của Đức Giêsu, Mẹ sẽ trở thành một người đi tị nạn tại một quốc gia khác; và 33 năm sau, Mẹ sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu bị kết án như một tên tội phạm.

 

Đức Maria đă không chỉ thưa lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản đó rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Nếu không có sự vâng phục của Đức Maria đối với Thiên Chúa, th́ chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.

 

Mỗi người chúng ta đều đă từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy vào bóng tối, bởi v́ chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên quan đến điều mà chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ từ cho chúng ta trong khi chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải xác quyết lời xin vâng cơ bản của chúng ta, không chỉ một lần, mà là nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta giữ được ḷng trung thành.

 

Giống như những trẻ nhỏ thường thắt mắc, Đức Maria cũng hay đặt câu hỏi. Ḷng tin không phải là sự mù quáng. Ḷng tin vượt ra ngoài lư luận, nhưng không chống lại sự lư luận. Nhưng sau khi đặt câu hỏi, th́ những câu trả lời có thể không bao giờ làm chúng ta được hoàn toàn thỏa măn, chúng ta phải để cho Thiên Chúa được làm Thiên Chúa. Chúng ta phải qui phục mầu nhiệm thôi.


 

7. Khiêm nhường đón nhận- ĐTGM. Ngô quang Kiệt

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38

 

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lăo ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lăo ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ măi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lăo khen: Thằng bé này dạy được đây. Th́ ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học tṛ, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn vơ song toàn, đă giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

 

Trương Lương gặp đựoc thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ ḿnh Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng v́ Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

 

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống b́nh dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đ́nh nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng ḿnh là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đă loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đă ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận ḿnh là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn ǵ là do Thiên Chúa thương ban.

 

V́ khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ư Thiên Chúa. Đức Mẹ đă có chương tŕnh riêng. Chương tŕnh đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương tŕnh tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ư muốn Đức Mẹ theo chương tŕnh của Chúa, Đức Mẹ đă mau mắn từ bỏ chương tŕnh riêng tư để đi vào chương tŕnh của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương tŕnh của Chúa là vô cùng tốt đẹp, c̣n chương tŕnh riêng chỉ là bất toàn. Thánh ư Thiên chúa là tuyệt đối, c̣n ư riêng chỉ là khiếm khuyết.

 

V́ khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đă mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép ḿnh vào bàn tay quan pḥng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mănh liệt đến thế nào.

 

V́ đă thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ư Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhă như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. V́ thế Đức Mẹ vẫn kiên tŕ theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

 

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đă được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đă nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

 

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hăy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận ḿnh tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ư riêng để thi hành ư Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ư Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ư định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương tŕnh của Thiên chúa.

 

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?

2) Từ bỏ ư riêng có dễ không?

3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?

4) Khi đă hiểu rơ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?


 

8. Trích chú giải của William Barclay

SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA CHO MARIA

Maria đă đính hôn với Giuse. Thời kỳ đính hôn thường là một năm, và sự ràng buộc cũng giống như trong hôn nhân, chỉ có thể tháo gỡ bằng ly dị. Nếu trong thời gian ấy, vị hôn phu chết th́ trước mặt pháp luật cô gái đă trở thành góa phụ. Trong luật pháp có từ nghe lạ tai “… một trinh nữ góa”. Khi hai người đă đính hôn với nhau, chỉ có thể chết mới phá bỏ được sợi dây liên kết.

 

Xuất thân từ người ngoại, Luca hiểu hơn ai hết lối suy luận của dân ngoại, nên ông đă t́m cách giới thiệu Chúa Giêsu dưới con mắt chuyên môn của nhà viết sử như đă xác định từ đầu (1,1-3). Bức tranh tuyệt diệu về Chúa Giêsu phải được tŕnh bày đúng thời điểm của nó và hoàn toàn khác với ba sách Phúc Âm kia. Chữ “đến tháng thứ sáu” (c.26) nhằm nối kết với phần trước, cho biết khi Êlisabét mang thai Gioan đến tháng thứ sáu, th́ một thời điểm vô cùng quan trọng của lịch sử nhân loại đă tới: Thiên sứ Gabriel báo tin cho Maria về sự ra đời của Chúa Giêsu. Luca ghi lại cho chúng ta những mặc khải và bài học quan trọng của Thiên Chúa cho nhân loại.

 

Thứ nhất, Thiên Chúa chọn trinh nữ Maria để đưa Con Ngài vào trần gian. Cô là người vô cùng đặc biệt, được Chúa chọn để nhận hồng ân lớn lao nhất (c.28). Chính điều này làm Maria bối rối, cô không thể nào hiểu được trong bối cảnh xă hội bấy giờ, khi cô đă hứa hôn với Giuse (c.27). Hơn thế nữa, thiên sứ c̣n cho biết cô sẽ mang thai, sinh một con trai, và được đặt tên là Giêsu (c.31). Matthêu ghi rơ “Giuse làm theo lời thiên thần Chúa dặn bảo”, đem vợ về ở với ḿnh, nhưng không hề ăn ở với nhau cho đến khi người sinh một con trai, th́ đặt tên là Giêsu” (1,25). Sinh đồng trinh là giáo lư độc đáo nhất chỉ có trong Kitô giáo và Maria được đặc ân vĩ đại này.

 

Thứ hai, sự thụ thai kỳ diệu. Trong khi Maria đang trải qua từ bối rối này đến ngạc nhiên nọ (c.34) th́ thiên sứ cho cô biết chương tŕnh lớn lao của Thiên Chúa. Cô vẫn đồng trinh, nhưng nhận được ân sủng và thụ thai siêu nhiên bởi Chúa Thánh Thần, nên hài nhi sinh ra rất cao trọng, được gọi là con thánh, con Thiên Chúa (c.35). Thông báo này là một mặc khải đặc biệt cho nhân loại. Thiên Chúa vào đời, mang h́nh hài loài người có cả thần tính lẫn nhân tính. Với mục đích giới thiệu Chúa Kitô cho người ngoại nên Luca hoàn toàn không trích dẫn những lời tiên tri trong Cựu Ước về sự ra đời của Chúa Kitô.

 

Thứ ba, chương tŕnh chắc chắn thành tựu. Những điều Gabriel tŕnh bày vượt quá trí tưởng tượng và khả năng hiểu biết của trinh nữ Maria, nàng tưởng như nằm mơ. Thiên sứ đă nhanh chóng dẫn chứng biến cố hy hữu xảy ra cho Êlisabét (c.36), người bà con gần gũi của Maria, người đàn bà son sẻ, già nua đă có thai sáu tháng rồi, “nên chẳng có ǵ Thiên Chúa không làm được” (c.37).

 

Thứ tư, sự vâng phục trọn vẹn. Sự vâng phục của Maria là một thái độ hết sức đẹp đẽ: “Bất cứ điều ǵ Chúa nói, tôi xin vâng theo cả”. Maria biết quên lời cầu nguyện phổ thông nhất của thế gian “Xin ư Cha được đổi lại”, nàng học biết để cầu nguyện lời cầu nguyện lớn nhất trần gian “Xin ư Cha được thực hiện”.


 

9. Truyền tin - R. Gutzwiller

1. Khung cảnh bên ngoài

Đây cũng là một cuộc loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà cũng chính do thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng là chương tŕnh Thiên Chúa đưa ra, sẽ được thực hiện từng điểm một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn. Cả khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong. Đây ta hăy xem:

 

Trên kia, Lời Thiên Chúa được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói trong một tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có lẫn dân ngoại. Và không được trong tỉnh lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc một thị trấn bên bờ hồ, nhưng trong một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.

 

Ở kia, sự loan tin xảy ra nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng; ở đây, trong một căn lều quê mùa vào lúc mà chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia, người đón nhận là một trong hàng tư tế Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi chờ, cầu nguyện; ở đây lời của thiên thần đến với một thiếu nữ b́nh dị mang tên là Maria, một cái tên thông thường có quá nhiều người đặt; không một ai hiện diện. Một bên với vẻ bên ngoài thật là hùng vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên th́ bé nhỏ, b́nh thường và vô nghĩa.

 

Tuy nhiên, dù cả bên ngoài đi nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có những điểm lớn lao cao đẹp. V́ đang khi thiên thần chờ sẵn th́ Giacaria mới bước vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, c̣n Giacaria là người tiến đến gặp. Thiên thần nhập truyện luôn mà không chào hỏi ǵ cả. Đang khi đó, Đức Maria ở nơi pḥng của ngài, ngài là người tiếp đón, trái lại thiên thần đi đến, đi vào. Như được yết kiến một nhân vật quan trọng với lời chào đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.

 

T́m lại văn bản ba yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng cuối cùng đă đặc biệt được nhấn mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn đầy ơn và giờ này lại càng đặc biệt hơn nữa “Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở với Maria, bây giờ th́ sự hiện diện đó lại càng đặc biệt và vững bền hơn.

 

Giacaria phản ứng lại bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo nguồn gốc của tŕnh thuật Kinh Thánh- sự rung động c̣n hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào tận thâm tâm và cả hiện hữu của ngài. Việc chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến với ngài hoàn toàn là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ thầm mong được sống một cuộc sống b́nh thường với một tâm t́nh đạo đức b́nh dị, nên Mẹ đă đính hôn với một người tên là Giuse. Như bất cứ một phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ ǵ ngoài con đường của những người xung quanh trong dân Israel. Vậy th́ Thiên Chúa muốn Mẹ làm ǵ đây? Lời mời gọi đă đến, đột ngột quá. Đó hẳn không phải là một hậu quả của một t́nh trạng tâm lư dễ giải thích, mà cũng chẳng phải là một dự phóng của một niềm hy vọng thầm kín hay một đáp ứng cho một niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do Thiên Chúa và chỉ v́ một ḿnh Ngài thôi.

 

Đối với Giacaria và Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể luôn mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà Giacaria sợ khó xảy ra nên mới xin một dấu. C̣n Maria, chẳng đợi chờ ǵ hết, lời của Thiên Chúa làm Mẹ hoảng hốt, sửng sốt. Như vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với nhau, nhưng lại hoàn toàn khác biệt nhau. Điều đó c̣n rơ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.

 

 

2. Đàm thoại.

Hai sứ điệp của Thiên thần mang theo hai câu trả lời của Đức Maria.

 

Sứ điệp thứ nhất: Lời nói dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự kiện: ‘v́ chị đă đắc sủng nơi Thiên Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn huệ hay tự cung cấp được cho ḿnh. Người ta chỉ có thể t́m kiếm và nhận lănh. Và bản chất của ơn này được mặc khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai và sinh một con trai’. Để nhận hồng ân, ở đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa, một thực tại thể xác chứ không phải chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên thần th́ đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế Ngôi Lời mang xác phàm trong ḷng Mẹ. Đứa trẻ mà Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy mới đúng với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một con trai’. Con Thiên Chúa trở nên con loài người v́ đó người ‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.

 

‘Và chị sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị tiền hô đă giầu ư nghĩa, th́ danh hiệu này c̣n hơn biết bao. V́ ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’. Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính ơn cứu độ đă xảy ra ở đây, đó là biến cố quyết định cho tất cả thời gian cứu độ.

 

Lời Thiên thần diễn tả một sự quả quyết, nhưng cũng là một lệnh truyền: ‘chị sẽ sinh con’. Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng sự nhất trí của ḿnh. Như đối với vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá nhân và nhiệm vụ liên hệ.

 

Cá nhân: ‘Ngài sẽ làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và Ngài sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’. Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là Con, mà cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.

 

Với tư cách là Lớ nộâi tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời đúng thực là ‘Đấng được phán’. Chính bởi sự hiện hữu của việc ‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi sự hiện hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt tên’ với ư nghĩa đầy đủ và dồi dào nhất.

 

Nhiệm vụ: ‘và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít, tổ tiên Ngài’. Làm con Đức Maria, và làm Con Cha trên trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít. Triều đại của Đavít t́m lại được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ nhưng không phải vẻ hào nhoáng bên ngoài của một quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ bên trong của vinh quang Thiên Chúa.

 

‘Ngài sẽ làm Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường độ lớn hơn v́ thêm hai chữ ‘ đời đời’. Đó là v́ nói tới h́nh thức của một vương quốc và một triều đại khác. Cái ṿng khép kín của thời gian với sự trở lại chắc chắn của những biến cố cũ đă bị phá rồi: v́ Thiên Chúa, Đấng điều khiển thời gian, đă can thiệp vào thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương quốc được thiết lập, triều đại được tu chỉnh, sẽ là vương quốc và triều đại vĩnh cửu.

 

Một vương quốc thế trần bị thời gian giới hạn xem ra không sao có được ư tưởng ǵ để so sánh. Vua dân Do thái đấy, không cần ngai vàng vật chất, mà cũng chẳng cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập tự, mang trên đầu măo gai, th́ đó đâu phải là ngày tàn của vương quốc và triều đại Ngài, mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc đă đến, nền tảng đă vững.

‘Vương quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương quyền đó không hoàn tất trong không gian và thời gian. Hăy cố có một h́nh ảnh về Vĩnh cửu, ta biết ngay nó vượt ngoài tầm tay con người và vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói của Thiên thần biểu hiện một lời quả quyết mạnh mẽ và long trọng, ư nghĩ mỗi lúc mỗi tiến hơn theo từng tiếng một, sâu như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi cao và những tiếng sấm vang.

 

Mới chợt nh́n, trong vẻ đơn sơ, câu trả lời của Đức Maria thật lạ lùng, hầu như là ngă ḷng, của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị bộc lộ một tâm hồn đáng thán phục ‘việc ấy xảy ra làm sao được, v́ tôi không nghĩ tơí người nam’. Thái độ tinh thần này không c̣n là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu lộ hẳn ra bên ngoài, và chấp nhận với tất cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ v́ quá kinh hăi hay một sự rút lui v́ khiêm nhường không đúng chỗ.

 

Nó cũng giống thái độ của Giacaria. Đối với Maria, đương nhiên là mong muốn xảy ra chuyện mà Thiên Chúa đă loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ có vấn đề là ‘cách thếâ’. Mẹ muốn và phải biết Mẹ phải làm ǵ, con đường Thiên Chúa chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không biết tới người nam’, đó chẳng qua là Mẹ muốn biết xem, theo Thánh ư Thiên Chúa, th́ Mẹ phải lập gia đ́nh thực sự với Giuse sao? Phải chăng Thiên Chúa đ̣i sự thụ thai và sinh con trong hôn nhân? Đức Maria thực sự đă đính hôn, Thiên Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và thụ thai Đức Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách khác? Đức Maria không đặt những điêù kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rơ Thánh Ư Thiên Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ hẳn sẽ xảy ra theo sau.

 

Lần truyền tin thứ hai này của Thiên thần đă đi quá xa lần loan báo cho Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ chị’. Như vậy có sự tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng Đấng Tối Cao, Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần đă bay xà trên mặt đất trong buổi đầu của thế giới, như nguyên lư tạo dựng. Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để tạo dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện diện lạ lùng nhưng rất đặc biệt.

 

‘Bởi đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là ĐẤNG THÁNH, mà là Thánh.

V́ bản tính sinh ra cách trực tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là chính Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, v́ Ngài là Thánh trong tất cả ư nghĩa đầy đủ của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, v́ Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân được chọn sẽ tái sinh trong Ngài, Đấng đă nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của Người Con. Ngài là Con Thiên Chúa v́ Người Con từ nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài người như bản tính riêng của ḿnh.

 

Maria không đ̣i một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính Thiên thần đă cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét son sẻ đă sinh con trong tuổi già. Một việc thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn khác nhau. Ở trên, tự bản chất là son sẻ, c̣n ở đây, son sẻ bên ngoài là do sự giữ đồng trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm bằng chứng cho lời của Thiên thần là một động lực sâu xa: ‘v́ không có ǵ là không thể đối với Thiên Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế (18,14): tiên báo cho Abraham rằng người vợ già cả Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một điềm báo, một sự sửa soạn vho phép lạ đang thực hiện, ở đây, của việc thụ thai và sinh ra của Con thực Thiên Chúa đến để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản văn cứ từng chữ phải nói là: ‘V́ Thiên Chúa có thể làm được tất cả những ǵ Ngài nói’. Tiếng ‘Thiên Chúa’ được Thiên thần thốt lên ở đây là một hạn từ diễn tả quyền năng, truyền khiến, động lực của ư chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi, nhưng c̣n là sự đ̣i hỏi và hơn nữa c̣n là hành động tác tạo của Thiên Chúa.

 

V́ thế, câu trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của Đức Maria mặc một vẻ vĩ đại hoà lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hăy thành sự cho tôi theo như lời Ngài’.

 

Một sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đă làm cho gần gũi giữa đầy tớ và chủ nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và Người trở nên cao cả vào giờ phút này, đă chỉ nhận cho ḿnh là đầy tớ. Đó chính là sự nhận thức khiêm hạ về một thực tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá và tạo vật, giữa ư chí quyết định, tuyệt đối tự do, có quyền đ̣i hỏi và tạo dựng với ư chí được thỉnh nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc đặt ḿnh vào ư muốn của Thiên Chúa để được ch́m vào gịng nước bao la của Ngài.

 

‘Xin hăy thành sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính cách quyết định nhất của lịch sử này đă mở màn… ‘Xin hăy thành sự cho tôi’ vừa diễn tả sự sẵn sàng thụ động và sự chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách thế thực hiện và h́nh thức tạo lịch sử, đă đặt vào đây yếu tố nhân loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều ấy sẽ làm sao được?’. Là câu trả lời của Đức Maria: ‘Xin hăy thành sự cho tôi!’. Đây hẳn không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà cũng chẳng do một lời cầu khiêm hạ, nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự nhiên Thánh Ư Thiên Chúa, một khi đă nhận thức rơ ràng. Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta thấy được vẻ lớn lao vĩ đại. Đối với Maria chẳng phải là ư riêng, cũng không phải v́ ư chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào đưa đến mà chỉ do ư muốn và lời của Chúa.

 

‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu chuyện trên về Giacaria, chính ông rời đền thờ, c̣n ở đây Thiên thần biến đi. Từ đây pḥng ở Nagiarét đă trở nên đền thờ. Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là một dấu chứng của sự im lặng sâu xa mà ở nơi đó trong cung ḷng Đức Nữ Trinh, mầu nhiệm của Thiên Chúa được hoàn thành. Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang trang trọng liên kết với vẻ đơn sơ trinh khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh khiết làm chứng một vẻ vĩ đại thực sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn cho Thiên Chúa.

 

10. Loan báo cho Đức Maria – Chú giải của Hugues Cousin

Lời loan báo này song song với lời loan báo trước. Tuy nhiên, không phải từ Kinh Thánh mà Luca vay mượn một tŕnh tự như thế, nhưng từ văn chương Hy Lạp. Khi ấy, tư tưởng Hy Lạp Platarque đă xuất bản “Những cuộc đời sóng đôi” gồm hai mươi ba cặp tiểu sử; trong mỗi cặp, ông so sánh giữa một người Hy Lạp với một người Rôma để chứng minh rằng: dù người Rôma có cao cả bao nhiêu th́ người Hy Lạp vẫn có cái ǵ vượt cao hơn. Thể loại văn chương mà Luca chọn ở đây là để cho ta t́m không phải những điều giống mà những điểm khác nhau, có mục đích để bày tỏ trong hai cậu bé ai vượt hơn ai. Sơ đồ những bài loan tin (xem phần sau) cho thấy khoảng cách giữa Chúa Giêsu và Gioan.

Hẳn nhiên là câu chuyện không diễn ra trong khung cảnh huy hoàng của đền thờ, nhưng khiêm tốn trong một thành xứ Galilê tại một tư gia. Tuy nhiên, lần này th́ chính vị sứ giả từ trời phải ra đi, vào nhà Maria (c.28) và từ đó mà đi ra (c.38). Sự kiện mặc khải được trao cho bà mẹ tương lai chứ không cho người cha nữa, đánh dấu một khác biệt, tự nó không mang nhiều ư nghĩa lắm. Những mô h́nh của Cựu Ước thực ra cũng để cho phụ nữ xuất hiện. Có cái ư nghĩa hơn nhiều chính là sự đồng trinh của Đức Maria. Nhờ ơn Chúa, bà Êlisabét vừa thụ thai một con trai do bởi chồng bà; c̣n Maria mới chỉ đính hôn, cô chưa thể sống chung với Giuse và sắp thụ thai mà không có kết hợp phái tính. Việc Gioan sinh ra đă là kỳ diệu và đối với Chúa Giêsu điều đó c̣n kỳ diệu hơn.

 

Sự đồng trinh của Maria cũng lưu ư về một sự khác biệt lớn trong sơ đồ báo tin. Người thiếu nữ trẻ nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự với câu hỏi của vị tư tế. “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào bởi v́ tôi không có liên hệ tính dục”. Thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó như một dấu hiệu thiếu niềm tin; Ngài đáp lại câu hỏi mà không phê b́nh, và cho Đức Maria một dấu chỉ, ngược hẳn với điều mà Giacaria đă nhận được, dấu chỉ ấy không phải là một h́nh phạt: người bà con của cô đă có thai. Chính là v́ Đức Maria đang đứng trước một t́nh huống hoàn toàn mới mẻ từ căn tính trong Kinh Thánh, trong đó, không thấy nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính, vị hôn phu của bà Êlisabét biết rơ lịch sử của Abraham giống trường hợp của ông. Như thế, hai việc loan báo song song khác biệt nhau ở đây, và cái thinh lặng bắt buộc của vị tư tế trái ngược với sự chấp nhận thanh thản của nữ t́ Chúa, người đă suy phục Lời; và chỉ sau đó Lời đă được thực hiện. Đức Maria sẽ lại được nói tới bằng danh xưng nữ t́ ở Lc 1,48, một từ ngữ mà Luca sẽ dùng ở chỗ khác để chỉ những thành viên của Hội Thánh (Cv 2,18; 4,29; 15,17)

 

Lời sứ thần chào Đức Maria (c.28) là một cái ǵ “hơn nữa” không có lời nào tương ứng khi báo tin cho ông Giacaria. “Kính chào cô! Người được ưu ái [của Thiên Chúa]. Chúa ở cùng cô!”. Thiên Chúa ưu ái cô thiếu nữ khi chọn cô làm mẹ Đấng Cứu Thế – nhưng cô chưa biết điều đó. Công thức “Thiên Chúa ở cùng cô”, đă được sứ thần của Chúa nói khi hiện ra với Ghêđêon (Tl 6,12); Thiên Chúa bảo đảm Ngài sẽ bảo vệ người mà Ngài giao một nhiệm vụ. Từ đó, ở câu sau, Đức Maria thắc mắc về ư nghĩa của lời chào. Và chỉ lúc sứ giả nói về việc Con Thiên Chúa (c.35) sẽ sinh ra, Đức Maria mới biết ḿnh là Mẹ của Chúa (xem 1,43); như vậy công thức chào lại càng có giá trị phản hồi đặc biệt đối với độc giả.

 

Tên của sứ thần đă cho độc giả biết ngay từ lúc đầu: Gabriel như trong cảnh trước. Việc sai sứ thần đến nhà vị hôn thê của một người thuộc ḍng tộc nhà Đavít nhắc ta nhớ tới việc hoàn tất lời hứa về Đấng Mêsia; nhưng Đức Maria không biết ǵ về gốc gác của sứ giả – điều này lại càng nhấn mạnh đến đức tin của Ngài vào lời sứ giả.

 

Sứ điệp từ trời liên quan tới em bé sắp sinh ra bị chia ra làm hai phần bởi câu hỏi của Đức Maria. Phần thứ nhất (c. 30-33) diễn tả chức vụ tương lai của Chúa Giêsu (Ngài sẽ nên cao cả và sẽ trị v́) bằng cách sử dụng những ǵ mà Cựu Ước nói về Đấng Mêsia thuộc ḍng dơi Đavít. Cuộc đản sinh hoàn tất hai lời tiên tri quan trọng đối với Giáo Hội của Luca cũng như của Matthêu. Lời thứ nhất là của Is 7,14 (c.31) như trong bản Do Thái của câu này, chính người mẹ sẽ đặt tên cho con: Giêsu “Thiên Chúa cứu”, Luca không phiên dịch tên ấy cho độc giả biết nhưng lại gán cho tên ấy tước hiệu Đấng Cứu Thế ở 2,11. Lời hứa thứ hai là sấm ngôn của Nathan trong đó Thiên Chúa tuyên bố với Đavít: “Người sẽ con của Ta… ngai vàng của Người sẽ vững bền măi măi (2Sm 7,14.16): v́ vậy con trẻ sắp sinh ra sẽ vừa là con vua Đavít vừa là con của Đấng Tối Cao (c.32)”. Tuy nhiên, việc thụ thai đồng trinh mang đến một sự điều chỉnh: không phải bởi Giuse, chính ông thuộc nhà Đavít (c.27), mà Chúa Giêsu là con của Đavít và v́ thế được nắm vương quyền, nhưng hoàn toàn do ơn ban của Thiên Chúa.

 

Lúc ấy, Đức Maria thắc mắc về t́nh trạng hiện tại của ḿnh, khi được báo tin và đặt câu hỏi về cách thức mà lời loan báo sẽ được thực hiện. Phần thứ hai của sứ điệp (c. 35-37) soi sáng trước tiên cho việc thụ thai đồng trinh, và cung cấp một lời đáp có tính cách Kitô học sâu xa hơn (c.35). Chúa Giêsu sẽ không chỉ là con của Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Ngài vương quyền của Đavít, mà Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, bởi v́ được sinh ra do quyền năng của Thiên Chúa qua tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Con Thiên Chúa bởi v́ như Chúa Thánh Thần Ngài sẽ là Thánh, được dành riêng cho Chúa. Phần Kitô học này thiết lập một khác biệt chính yếu giữa hai cậu bé được thụ thai một cách kỳ diệu: Gioan sẽ là vị tiền hô và Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh thuộc ḍng dơi Đavít. C̣n hơn nữa: trong khi Chúa Thánh Thần tác động trên Gioan ngay từ trong ḷng mẹ, làm cho ông trở thành vị ngôn sứ duy nhất vô tiền khoáng hậu (x. 7,26), th́ cũng chính Thánh Thần ấy làm cho Đức Giêsu trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối dây liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa.

 

Sau đó, sứ điệp từ trời nêu ra (cc. 36-37) một dấu chỉ về quyền năng Thiên Chúa: bà Êlisabét thụ thai Gioan giống như điều Kinh Thánh nói về bà Sara thụ thai Isaac (St 8,14). Và việc sứ thần nhắc đến tháng thứ sáu (cc. 26.36) cho phép nối liến chu kỳ của Gioan và của Đức Giêsu: Êlisabét là một người bà con với Đức Maria. Thông tin này là một mặc khải từ trời cho Đức Maria bởi v́ Êlisabét vẫn c̣n ẩn ḿnh (1,24)

 

11. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

TRUYỀN TIN CHO MARIA

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Bà đă đắc sủng nơi Thiên Chúa": Kiểu nói này là một đặc ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng Noê đă được nghĩa trước mắt Giavê".

 

"Này bà sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai ...": Câu này song song với St 16,11: thiên thần của Giavê phán (với Agar): Này, ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con ngươi sẽ gọi lên nó là Ismael, v́ Giavê đă nghe thấu nỗi khốn cùng của ngươi". x. Tl 13,3-5

 

"Bởi thế hài nhi sẽ là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”: Trong Hy ngữ, cấu trúc của câu này khá tối tăm; B.J đă cố gắng làm sáng tỏ bằng cách thêm vào chữ "hài nhi" không có trong nguyên bản. Theo mặt chữ th́ bản văn như thế này: "bởi thế thụ thai thánh" (I’engendré saint) sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Tuy vậy. tĩnh từ "thánh" khó có thể làm h́nh dung từ (épithète) cho tiếng "thụ sinh" v́ nó không có quán từ (article), như văn phạm Hy lạp đ̣i hỏi (le saint engendré viết theo văn phạm Hy lạp th́ phải là I’engendré le saint: hai quán từ). Nên có lẽ phải coi "thánh" như một thuộc từ (attribut) và bấy giờ câu nói trở thành: "thụ sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Nhưng vẫn c̣n khó khăn là “Con Thiên Chúa" chẳng phải là sự nới rộng của ư tưởng thánh"! thật là lưỡng nan!

"Với Thiên Chúa, nào có ǵ lại là không có thể": Trong St 18,14, câu này giải thích việc cưu mang lạ lùng Isaac. "Tôi là tôi tá Chúa": x. R 3,9; làm 25,41. Ở đây nói đến đức tin (c.45) và t́nh yêu mến hơn là ḷng khiêm nhượng, v́ theo Thánh Kinh, được làm tôi tớ Chúa là một vinh dự lớn lao vô cùng.

 

KẾT LUẬN

Trong khi sự tiền hữu đời đời của Chúa Giêsu được Phaolô và Gioan long trọng giảng dạy, th́ tử hệ thần linh từ lúc mới sinh của Người lại là giáo huấn đặc biệt của Luca, rơ ràng là trong bản văn hôm nay. Khi tập trung ngay từ đầu đời Chúa Kitô những đề tài liên quan tới các cuộc thần hiện sẽ đánh dấu từng chặng cuộc sống công khai và việc khải hoàn sau cùng của Người (so sánh c.35 với phép rửa Chúa Giêsu. Cuộc biến h́nh và việc phục sinh), ông muốn dạy ta rằng tước hiệu Con Thiên Chúa không phải Chúa Giêsu chiếm được sau này, nhưng đă đương phiên thuộc về Người ngay từ khi người đến trong thế gian. Cùng với việc thụ thai đồng trinh là hệ luận, đó có lẽ là giáo huấn chính yếu của tŕnh thuật truyền tin.

 

Ư HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Sứ mạng của Maria nối dài và hoàn tất sứ mạng Israel. Maria là "thiếu nữ Sion" mà từ cung ḷng, Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện. Bà là nữ tỳ của Chúa", kẻ gồm tóm và làm cho đẹp hơn ơn gọi của dân Israel, tôi tớ Thiên Chúa, lẫn ơn gọi của các đại tôi tớ Ngài trong Cựu tước như Abraham. Giacóp, Môisen, Đavít, Salomon, Isaia và người Tôi tớ bí ẩn của Gioan trong Is 40-45.

 

2) Thiên Chúa đă có thể đặt Maria trước một sự việc đă rồi và sai thiên sứ báo tin rằng bà đă thụ thai bởi Thánh Thần. Nhưng Ngài đă muốn cần đến sự tự do đồng ư của Maria trong công tŕnh cứu chuộc: không những v́ ḷng tôn trọng nhân vị của Maria, mà c̣n để làm cho bà trở nên kẻ hợp tác với Ngài hầu cứu lỗi nhân loại qua sự chấp thuận ư thức và t́nh nguyện.

 

3) Dacaria, khi được loan báo Gioan Tẩy giả sẽ sinh ra, đă xin một dấu chỉ để có thể tin vào tính cách xác thực của sứ điệp. C̣n Maria tin ngay sứ điệp, chẳng xin dấu chỉ ǵ. Vấn nạn của bà không phải là một nghi ngờ nhưng là một lời xin soi sáng để tin hơn. Ta cũng thế, đức tin của ta phải hoàn toàn và tức khắc, nhưng cũng phải t́m cách soi tỏ ngần nào có thể bằng sự khiêm tốn cầu xin ánh sáng, bằng việc học hỏi hay ít nhất bằng đối thoại với linh mục. Ở dưới đất này, đức tin luôn có một phần tăm tối, đức tin của Maria cũng như đức tin của ta, nhưng càng vùng chăi và càng có tính cách nhân loại chừng nào th́ nó càng sáng tỏ chứng ấy.

 

4) Thiên sứ cho Maria một lời giải thích. Nhưng rồi mầu nhiệm vẫn c̣n, "v́ đường lối của thiên Chúa không phải là đường lối của ta". Tuy nhiên lời giải thích của thiên sứ sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của Maria, v́ bà "ghi nhớ những điều ấy trong ḷng để suy niệm" (2,19). Ta cũng vậy, những giáo huấn của Hội thánh qua bài giảng Chúa nhật và các lớp giáo lư không miễn cho ta hành vi đức tin. Song chúng sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của ta.

 

5) V́ ḷng thương, Thiên Chúa vẫn cho Maria một dấu chỉ (việc bà Êlidabét son sẻ mà thụ thai) để xác nhận lời của thiên sứ và giúp ḷng tin của bà dễ dàng hơn. Maria không cần dấu chỉ này v́ bà đă tin lời thiên sứ, nhưng đây là một ân huệ thêm vào. Ta cũng vậy đôi khi Thiên Chúa gởi cho ta một dấu chỉ rất rơ về sự hiện diện hoặc ư muốn của Ngài (thí dụ ơn được an ủi thiêng liêng, hoàn cảnh quan pḥng biến đổi cả hướng đi cuộc đời ...). Những dấu chỉ đó chẳng phải là tối cần cho đức tin, ta không nên chờ đợi chúng trước khi tín thác vào Chúa hoàn toàn. Nếu Ngài cho dấu chỉ chỉ v́ ḷng thương, ta hăy cảm tạ và khiêm tốn như Maria.

 

6) Khi lần hạt, ta lặp lại những lời thiên sứ đă ngỏ với Maria.

 

7) Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ư muốn của Chúa, như một nữ tỳ đúng nghĩa. Bà không biết ư muốn ấy sẽ dẫn đưa bà đến đâu. Nhưng bà đă thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến. Ta cũng vậy, phải sẵn sàng mền mỏng, phó thác cho đường lối Chúa Quan pḥng. Ta không rơ ư muốn ấy sẽ mượn ngơ quanh co nào, nhưng ta biết chắc rằng đích điểm sẽ là sự thân mật với Thiên Chúa ngan bây giờ và chiếm hữu Ngài hoàn toàn trong vĩnh cứu. Ta phải phó thác cho ư muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sàng, tin tưởng của Maria! Chừng đó ta sẽ có niềm vui thấy Thiên Chúa làm "những điều lớn lao" qua các tôi tớ hèn hạ của Ngài.

 

8) Thiên Chúa có thể làm cho cung ḷng một trinh nữ sinh con, cũng như có sức hoán cải một tội nhân nên thánh: chẳng có ǵ mà Ngài không làm được.


 

12. Chú giải và suy niệm của Fiches Dominicales

ĐỨC MARIA ĐĂ ĐÓN NHẬN

QUYỀN NĂNG THÁNH THẦN

Và nhờ lời xin vâng của Mẹ, lời hứa với David xưa kia nay đă mặc lấy xác phàm, một biến cố vượt xa mọi trông đợi thường t́nh (Lc 1,26-38).

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1) Trong gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét.

So sánh giữa việc truyền tin cho Dacaria và cho Đức Maria, ta thấy rơ địa vị của Đức Giêsu cao trọng hơn Gioan Tẩy giả rất nhiều.

 

Phải, sự việc không diễn ra trong sự huy hoàng của Đền thờ Giêrusalem, nơi sứ thần Gabriel hiện ra với Dacaria, nhưng một cách khiêm tốn "trong một thành xứ Galilê”, trong một gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét, “khung cảnh tuyệt vời, trong đó mầu nhiệm cao siêu nhất lại sát cánh với sự nghèo khó trần trụi nhất" (J.Potin: "Đức Giêsu, chuyện có thật", Centurion, tr. 92). Sứ thần Thiên Chúa Gabriel dời gót đến gặp Đức Maria và "vào trong nhà Mẹ”.

 

Trái với tôn ti thứ bậc thời đó, Đức Maria được nêu tên đầu tiên như người nhận sứ điệp của Thiên Chúa. Thánh sử đă hai lần nhấn mạnh người thiếu nữ này là một trinh nữ? C̣n Giuse, người đă đính hôn với Maria, được nói đến tên v́ Đức Maria và được đề cập đến v́ là "một người thuộc ḍng tộc Đavid”. Chính nhờ ngài, Đức Giêsu mới thuộc ḍng tộc Đavid một cách hợp pháp.

 

Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Maria bắt đầu với lời mời gọi hăy vui lên, một tên mới và một lời chào.

Lời mời gọi hăy vui lên: "Hăy vui lên, chứ không phải “ Kính chào bà" theo cách dịch trước đây. Ngày xưa, các ngôn sứ đă hô vang lời kêu gọi đó ở Giêrusalem (Soph.3,14; Joel 2,21; Zach. 9,9), mời gọi hăy vui lên v́ Thiên Chúa đến hay v́ Người hiện diện: "Hăy vui lên, hỡi con gái Sion v́ Chúa ở ṿi ngươi!”.

 

Tương lai loan báo cho Giêrusalem trở nên hiện tại cho Maria: Chúa ở "cùng bà" để ở cùng dân bà.

- Một tên mới: trong Kinh Thánh, những người lănh nhận một sứ vụ thường được Chúa ban cho một tên mới. Danh hiệu này là: “Đấng đầy ơn sủng", "Đấng đẹp ḷng Thiên Chúa”, tất cả có nghĩa là Thiên Chúa tỏ ḷng nhân hậu đối với Đức Maria.

- Một lời chào: “Chúa ở cùng bà” Trong Kinh Thánh, lời chào này không chỉ được thốt lên ở đây, nhưng sứ điệp đi liền theo sẽ đem đến cho lời chào của sứ thần một ư nghĩa độc đáo. Đức Maria rất “bối rối" trước lời chào này, và Mẹ tự hỏi lời đó có nghĩa ǵ. V́ thế sứ thần tiếp tục nói rơ hơn điều ẩn ư trong câu đầu tiên.

 

2) Đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" hoàn tất lời đă hứa.

Tiếp sau đó là sứ điệp về con trẻ sắp sinh gồm hai phần tách biệt nhau bởi câu hỏi của Đức Maria.

 

Phần một lấy trong Cựu ước nói về Đấng Mêsia nhà Đavid, phần này mặc khải chức năng của Đấng Mêsia: "Ngài sẽ nên cao trọng... Ngài sẽ cai trị...”. Việc Ngài sinh ra làm trọn hai lời tiên tri quan trọng:

 

Lời thứ nhất của Isaia 7,14 "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và ngài sẽ đặt tên cho con trẻ là Emmanuel”. H . Cousin lưu ư: “ Câu này trong văn bản bằng tiếng Do thái hàm ư chính người mẹ đă đặt tên cho con trẻ là: "Giêsu " (" Tin Mừng Luca", Centurion tr. 28).

 

Lời thứ hai là sấm ngôn của Nathan (bài đọc I), Thiên Chúa tuyên bố cùng Đavid: "Đối với Ta, nó sẽ là Con... ngai vàng nó sẽ bền vững măi măi". Sứ thần báo cho Đức Maria biết con trẻ sắp sinh ra vừa là con vua Đavid ("Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu David tổ phụ ngài), vừa là con Đấng Tối cao”.

 

Câu hỏi của Đức Maria: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không biết đến việc vợ chồng?”: Câu hỏi này sẽ đưa đến câu trả lời tâm điểm của sứ điệp.

- Phần hai làm rơ việc thụ thai mà vẫn c̣n đồng trinh, chứng tỏ một nền Kitô học sâu xa hơn là nhũng ǵ đă diễn giải cho đến bây giờ. Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà ": một cách nói thường được dùng trong Cựu ước, để chỉ ư nghĩa sự khởi xướng của Thiên Chúa, và Luca lập lại trong Công Vụ Tông đồ để loan báo lễ "Ngũ Tuần" (Cv 1,8: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em") .

 

"Quyền năng Đấng Tối cao sẽ bao trùm bà": Lời này chỉ về Thánh Thần, Đấng sáng tạo bay là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu của vũ trụ (Gn 1,2).

Những ǵ Thánh Linh, Hơi Thở sáng tạo làm từ lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài sẽ lại làm trong ḷng Đức Maria: đó là sự thụ thai mà vẫn c̣n đồng trinh.

 

“Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. H.Cousin diễn giải: Đức Giêsu không chỉ là Con Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Người vương triều Đavid, người được tuyên bố là Con Thiên Chúa, v́ Người được tạo dựng bởi quyền năng vô cùng của Thiên Chúa trong hành động của Thánh Thần. Ngài là thánh, được Thiên Chúa chọn riêng. Nền Kitô học này thiên lập một sự khác biệt căn bản giữa hai người con được thụ thai lạ lùng: Gioan, vị tiền hô và Đức Giêsu. Đấng Messia thuộc ḍng Đavid. Hơn nữa, khi Thánh Thần ngự xuống trên Gioan biến ông thành ngôn sứ ngay từ ḷng mẹ, một ngôn sứ đặc biệt nhất trong các ngôn sứ, cũng chính Thánh Thần ấy đă làm cho Đức Giêsu trở thành một hữu thể hoàn toàn mới nhờ dây liên kết giữa người và Thiên Chúa" (Sđd).

 

Cuộc đối thoại kết thúc bằng lời "xin vâng" của Đức Maria, Đấng luôn sẵn sàng vâng lời sứ thần dạy. Cha Benoit kết luận: Chính Đức Maria là người đầu tiên đă hiểu lời tiên tri xưa, nay được thể hiện cách cụ thể và lạ lùng trong ḷng ngài. Từ Đức Mẹ mà cộng đoàn trên khởi, tức Hội Thánh đă nhận được mầu nhiệm này, rồi Hội Thánh đă truyền lại cho các tín hữu... ".

 

Bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này (2 Sam 7,1-16) cho thấy Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavid đă muốn xây dựng cho ngài, nhưng trái lại đă hứa cho ông một ngôi nhà thiên thu là ḍng dơi Đavid. Lời hứa này đă được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên "ḥm bia Thiên Chúa”, "đền vàng”, tại đây Con Thiên Chúa đến ở với loài người. Phải chăng đó là mặc khải của mầu nhiệm "được giữ kín từ muôn thuở nhưng nay được bày tỏ ra" mà bài đọc 2 hôm nay đă đề cập đến (Rm 16, 25-27)? (Xem "Assemblée du Seigneur", số 8, trang 49-50).

 

BÀI ĐỌC THÊM

1. “Đức Giêsu là ân huệ nhưng không đặc biệt của Thiên Chúa".

(L.Monloubou trong: Tin Mừng Luca, Salvator trang 57-58).

Người ta không được nh́n bài Tin Mừng này như một bài mẫu Đức Giêsu tuy cao sang, nhưng là phụ thuộc. Thực ra trang Tin Mừng này nói về chuyện khác. Nó dẫn ta đến chiêm ngường Mầu nhiệm Thiên Chúa: Thiên Chúa hiện diện như là người bạn đồng hành: Người “ở với" Maria như một người đối thoại thân t́nh. Người sai sứ giả người... Người nói". Đức Maria ngạc nhiên: "Làm sao chuyện ấy... Sứ giả trả lời... khi ấy Đức Maria nói... Lời Người … ". Người là Thiên Chúa b́nh an: "đừng sợ". Thiên Chúa của ân huệ nhưng không: "Ngài đẹp ḷng... ơn cứu rỗi... đầy ơn sủng”.

 

Đây là một mặc khải cao trọng về mầu nhiệm Thiên Chúa mà sứ thần có sứ mạng loan báo. Bởi vậy, trang Tin Mừng này quảng diễn những suy tư của thánh sử về Thiên Chúa qua việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Chính thánh sử nói lên đức tin của ngài qua việc tuyên xưng này: tin vào Thiên Chúa là Chúa, Chúa Trời, Đấng quyền năng...; tin vào Người Con là Đức Giêsu, Đấng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao, Con vua Đavid, Con Thiên Chúa...; tin vào Thánh Linh: Chúa Thánh Linh, Quyền năng của Đấng Tối cao...

 

Trọng tâm chính là Đấng đóng vai tṛ then chốt trong tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại. Bởi v́ Người là "Con vua David, do mẹ Người "đă đính hôn với một người thuộc nhà David" nên “Người được Đức Maria đặt tên là Giêsu, nhưng cũng chính Người c̣n được gọi là "Con Đấng Tối cao", thậm chí là "Con Thiên Chúa”. Hai cách xưng hô sau làm mọi người kinh ngạc, nhất là khi so sánh với những cách xưng hô trước. Những xưng hô ấy có ư nghĩa ǵ?

 

Chúng nói lên sự hiện diện: Thiên Chúa đang ở đây, Thần Khí Ngài "đến”, phù hợp "bóng" trên Maria, "bóng" nhắc lại bóng mây trong Cựu ước chỉ sự hiện diện đầy uy quyền của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 40,34-38, 1 R 8,10).

Chúng cũng nói lên một hồng ân cao cả vượt hơn hẳn những hồng ân xưa nay Thiên Chúa vẫn ban (...). Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại cách nhưng không. Hồng ân mà họ không hề mơ tới, đừng nói chi là ao ước.

 

2. "Ngày nay tŕnh bày đức tin là đón nhận Đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta"

(Mgr. Cl. Dagens trong: "Tŕnh bày đức tin trong xă hội hiện tại", Kỳ họp HĐGM Pháp tại Lộ Đức 1994, Cerf, tr. 45-46).

 

Trước hết, tin vào Đức Giêsu Kitô không phải là sự hiểu biết cao siêu dành riêng cho tầng lớp ưu tú những người đă được khai tâm. Niềm tin này được tŕnh bày cho tất cả mọi người, cách riêng những người nghèo hèn, nhỏ bé thực sự, những người nghèo hèn, nhỏ bé, những người đau ốm hoặc những người bị loại trừ là những người có thể sống như Đức Kitô một cách sâu xa bằng lời cầu nguyện và bằng của lễ là chính bản thân họ.

 

Đàng khác, kinh nghiệm đức tin này không nhằm vươn tới Thiên Chúa để chiếm hữu hay điều khiển Ngài. Hành vi đầu tiên của đức tin là đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa và Ngôi Lời của Thiên Chúa đă mặc xác phàm và ở giữa chúng ta.

 

Thái độ cởi mở chính yếu này đối với Mặc khải và ân sủng Chúa đánh dấu hành tŕnh thiêng liêng thâm sâu của Kitô hữu.

 

Là giáo dân hay tu sĩ cũng vậy, các tín hữu đều muốn nói lên điều này, đó là làm thế nào đức tin đă giúp họ có thái độ cởi mở với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện hay lắng nghe Lời Chúa. Và ngày nay, những anh chị em nào đă trải qua thử thách về sự cô độc và cuộc sống bất định cũng thích nói đến tự do của con cái Thiên Chúa, tự do chúng ta luôn có thể đạt được một khi đă vượt qua sa mạc.

 

H́nh ảnh của kinh nghiệm thiêng liêng trong đức tin Kitô giáo là: tiến vào giao ước, vào cuộc đối thoại, và vào mọi tương quan mà chính Thiên Chúa là người khởi xướng.

 

13. Chú giải của Noel Quesson

Một trong những cách chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm tŕnh thuật về biến cố Truyền tin. Hiển nhiên là Thánh Luca đă ti.ếp xúc các môi trường Do Thái Palestin, nơi mà truyền thống và ḍng họ Đức Giêsu vẫn được bảo tồn. Cũng có thể ông đă gặp riêng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong ḷng" (Lc 2,19). Luca cho ḿnh là sử gia, nên ông đă lo lắng tập tục là người đă được chứng kiến ngay từ đầu để tra cứu vấn đề đầu đuôi mọi sự trước khi viết ra" (Lc 1,2-3). Vả lại Luca là một nghệ sĩ tế nhị là người tường thuật tinh tế nhất trong bốn Thánh sử. Hơn chúng ta ngày nay, gần cận với những biến cố mầu nhiệm đă xảy ra, hẳn là Luca đă cảm thấy vấn đề khi sử dụng ngôn ngữ: phải dùng từ nào để diễn ta kinh nghiệm huyền bí đang sống động nơi một thiếu nữ đă thực sự thụ thai mang xác thịt Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha dự kiến từ thuở đời đời. Rất may Luca sử dụng truyền thống văn chương và thần học lâu đời của Kinh thánh. V́ vậy, ông viết "báo cáo" của ḿnh rất trôi chảy theo khuôn khổ ngôn ngữ đă được Thánh Thần chuẩn bị rất tinh vi trong dân Israel. Bức vải vẽ cảnh Truyền tin được dệt bằng những “sợi chỉ" Kinh thánh. Khi nhận ra những sơiï chỉ đó ta sẽ càng nhận thức được rằng, mạc khởi là một về huyền diệu của những kiểu nói, những h́nh ảnh, những dụ ngôn, nhằm diễn ta mầu nhiệm về Thiên Chúa khó hiểu thấu bằng ngôn ngữ loài người.

 

Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nagiarét, đế gặp một thiếu nữ…

Luca chủ ư đặt một đối nghịch giữa việc loan báo sự sinh ra đời của Gioan Tẩy Giả với cảnh Truyền tin sinh hạ của Đức Giêsu.

 

Trường hợp trên: Đó là Giêrusalem... trong đền thờ…với một tư tế ... ông này - không tin điều đó .

Trường hợp sau: Đó là Nagiarét... trong một ngôi nhà riêng... với một thiếu nữ... cô này hoàn toàn ưng thuận. Đúng vậy, Nagiarét là một làng nhỏ tầm thường. Theo các nhà khảo cổ, nó chỉ bao gồm khoảng 20 căn nhà, với 150 dân. cự.. Galilê cũng là một xứ bị người ta coi thường. Từ Nagiarét, th́ có cái ǵ hay được?" (Ga l,46). Vẻ đơn sơ của căn nhà Maria ở, tương phản với vẻ trang trọng trong cuộc báo tin cho Giacaria, giữa khung cảnh hùng vĩ và thánh thiện của Đền Thờ, tại Giêrusalem, thủ đô (Lc l.,5-25).

 

Tôi dùng tưởng tượng chiêm ngắm Đức Maria trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn không ai biết đến, để suy niẹâm sự khiêm hạ của Thiên Chúa nhập thể. Một ngày kia, thánh Phaolô sẽ nói: "Ngài đă làm cho ḿnh hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,7).

 

Một thiếu nữ đă kết hôn với một người tên là Giuse, con cháu nhà Đavít. Thiếu nữ ấy tên là Maria.

Trong một đoạn văn không có ǵ là song đối với bản văn trên, Mát-thêu quả quyết cả hai chân lư lịch sử một trật: Quan hệ ḍng dơi nhà ‘Đavít của bé thơ và t́nh trạng tinh khiết của mẹ em (Mt 1,18-25). Tên Yosephel có nghĩa là: "Xin Chúa thêm cho". C̣n tên "Miryam" có nghĩa là: "Bà sang trọng". Tôi h́nh dung ra cảnh, những cô bạn, những thiếu nữ hàng xóm đang gọi tên "Miryam" tại giếng làng mà họ tới kín nước. Đó là một thiếu nữ hoàn toàn giản đơn, không có ǵ đặc sắc phân biệt cô với các bạn hữu khác. Tôi cũng h́nh dung ra cảnh hai người đă đính hôn đang âu yếm gọi tên nhau: "Miryam" ... "Yosephel"?

 

Sứ thần vào nhà cô và nói: "Kính chào bà, bà đầy ân sủng!".

Có lẽ chúng ta đă chờ đợi một lời chào như: "Kính mừng Maria!". Thế mà, thay v́ Maria, sứ thần lại dùng "Đầy ân sủng" như một tên gọi. Cũng như trong nhiều tŕnh thuật về ơn gọi, Thiên Chúa thường đổi tên cho con người. Maria trở thành "Đầy ân sủng" mà ta c̣n có thể là “Được Thiên Chúa sủng ái". Từ nay, trong tiếng Do Thái, gợi đến "kẻ yêu dấu”, "người được sủng ái" trong cuốn Diễm ca.

 

Kiểu nói Hy Lạp được sử dụng để chào nhau là "Kairé", thực sự mang ư nghĩa "Hăy vui lên" . Đó là một sự ghi nhớ lại Cựu ước (Xp 3,14; Dcr 2,14 - 9,9; Is 54,1). Các ngôn sứ yêu cầu "thiếu nữ Sion" hăy reo vui lên khi ngắm nh́n Đấng cứu độ ḿnh đang tiến đến gần: "Reo vui lên! Nữ tử Sion, hăy vui lên". Và chúng ta biết, niềm vui đă là đề tài luôn được bàn đến trong Tin Mừng Luca. V́ thế, đây là lời đầu tiên Thiên Chúa gửi cho trần gian: "Hăy vui lên!" .

 

Thiên Chúa ở cùng bà.

Đó là kiểu nói Thiên Chúa quen dùng khi Người muốn trấn an nhưng kẻ Người mới gọi đảm nhận những trách nhiệm nặng nề (St 15,1; Xh 4,12; Tl 6,12-17). "Đừng sợ? Ta sẽ ở cùng ngươi! " . Trong phục vụ, vị chủ tế cũng thường lặp lại với ta lời cầu chúc này: "Chúa ở cùng anh chị em! " . Chúng ta có tin tưởng vào lời chào chúc đó không? Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Nghe những lời ấy, cô hoảng sợ, và tự hỏi không biết lời chào như vậy có nghĩa ǵ.

Ở đây nếu chỉ nhận thấy một phản ứng tâm lư, th́ ta mới dừng lại ở khung dạng bên ngoài. Trong Cựu ước, bất cứ cuộc đưa tin nào cũng đều gây “sợ hăi" cả. Một lần nữa, đây là kiểu nói Kinh thánh, có nghĩa là: Hăy chú ư ở đây đang bàn đến mầu nhiệm? Những lời này chứa một ư nghĩa kín ẩn, cần phải khám phá? Thiên Chúa vẫn có đó! Đây là điều quan trọng! Thiên Chúa luôn là Đấng gây bối rối, xuất hiện bất ngờ và ở trong t́nh trạng kín mật... Thế nên, được mời gọi đến gần Chúa, con người dễ phát sinh cảm t́nh muốn lùi lại, run sợ trước vẻ thiêng thánh...

Thưa bà Maria, xin đừng sợ, v́ bà đẹp ḷng Thiên Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai... và đặt tên là Giêsu.

Luca sử dụng một kiểu nói có sẵn, rất nhiều lần được dùng trong Kinh thánh (St 16,11-17-19; Tl 13,5-7; Is 7,14). Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmamuel" . Lời sấm của Isaia từ lâu vẫn được hiểu theo nghĩa, việc hạ sinh Đấng cứu thế mà vẫn c̣n trinh khiết, như bản dịch Hy Lạp của 70 học giả xác nhận. Trong đó, ta thấy từ Hy Lạp "parthénos" (trinh nữ) chính xác hơn từ Do Thái "almah" (người nữ không lấy chồng).

Người sẽ nên cao cả, và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Vua Đavít, tổ tiên của Người. Người sẽ trị v́ nhà Giacóp đến muôn đời,và vương quyền của Người sẽ vô cùng tận.

Maria thuộc ḷng "lời tiên báo của Na than" (2 Sm 7,12-17) mà sứ thần gởi lại cho cô. Đối với chúng ta, đó là một thứ ngôn ngữ hơi bí hiểm. Những mọi người Do Thái đều hiểu lời đó theo ư nghĩa: Con trẻ này sẽ là Đấng cứu thế mà thiên hạ được loan báo và chờ mong.

Làm sao có chuyện ấy được; v́ tôi không biết đến chuyện vợ chồng.

Ư đĩnh của Luca thật là rơ ràng: ông không muốn để người ta phải nghi ngờ ǵ về sự trinh khiết của Maria. Thời đó, theo tập tục Do Thái, lễ đính hôn cho phép các người nam kết ước được hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm chồng, kể cả những tương quan giao hợp... Luca loại bỏ giả thiết này. Maria đă cân nhắc suy nghĩ và chọn sống đồng trinh. Vấn đề đố khiến ta cần đi sâu vào trong tư tưởng và tâm hồn Maria. Cô đă tận hiến đời ḿnh cho Thiên Chúa, trong một t́nh yêu huyền bí, tuyệt đối, chuyên nhất... như biết bao người khác vẫn làm từ lâu rồi? Điều đó không làm giảm giá trị bậc sống hôn nhân ǵ hết! Nhưng nó làm nổi bật một lư tưởng khác, là một số người có thể chọn lựa một cách hợp thức, như' sau này Đức Giêsu có đề cập đến (Mt. 19,12). Đàng khác, qua cuộc khám t́m nếp sống của nhóm người Essenien tại Qumraxl, giờ đây ta biết rằng, đó không phải là một lư tưởng xa lạ ǵ với Israel: vào lúc xảy ra các biến cố trên, lư tưởng sống độc thân tự nguyện tận hiến đă bắt đầu phổ biến rộng răi.

Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và uy quyền Đấng tối cao sẽ che chở cho bà.

Chúng ta đừng tưởng rằng, Maria đă thấu suốt mầu nhiệm Ngôi vị của người con ḿnh qua những định nghĩa tín lư trừu tượng. Không! Nhờ ư nghĩa của các h́nh ảnh và dụ ngôn Kinh thánh diễn tả, mà cô hiểu sự việc cách cơ bản thôi. Ở đây, Maria đứng trước một đề tài huyền diệu về "shekinah", hay "mây"; "bóng mát", dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần khí bay lượn trên nước lúc khởi đầu để ban sự sống (St 1,2). Và đây là một cuộc tạo thành mới nới Đức Mària "mây" phủ kín trướng tao phùng trong bóng mát (Xh 40,35). Và giờ đây Maria trở nên nơi cư ngụ của sự hiện diện Tháp Chính dưới bóng của: mây trời" mà Thiên Chúa đă phán dạy Môsê (Xh 16,10). Khi Salômon khánh thành Đền thờ, năm 986, th́ "mây xuống đầy nhà Chúa" (1 V 8,10). Đối với một nữ Do Thái, những lời của sứ thần đă gợi lên tất cả những điều đó.

 

V́ thế, hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng thánh, là con Thiên Chúa.

"Thần khí ... ", " Quyền năng... ", "Đấng thánh... ", "Đấng tối cao...".' Luca muốn diễn tả cho ta hiểu, ngay từ giây phút đầu tiên, nhân tính của Đức Giêsu đă được thần khí

Thiên Chúa thấm nhập. Ngôn ngữ đượm màu sắc Kinh Thánh. Ai không chấp nhận bắt đầu từ giới mức đó – giới mức của Đức tin - th́ mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài tŕnh thuật. Lạy Chúa, xin giúp con,biết dừng lại, sửng sốt mà thờ lạy, trước mầu nhiệm được diễn tả qua ngôn ngữ gợi ư trên đây. Trứng thụ thai trong dạ một người nữ, đó là một mầu nhiệm tuyệt vời,: vượt qua mọi định luật tự nhiên. Thánh Gioan sẽ nói: "Ngôi lời đă nhập thể" (Ga l,14). Ngày đó, ngang qua những ǵ đă biết nhờ vốn liếng Kinh thánh tại sao Maria lại không có thể hiểu, những ǵ sẽ xảy ra? Dẫu sao, chắc chắn đó chưa phải là điều rơ ràng trong những định nghĩa tín lư.

 

Này tôi là nữ tỳ của Chúa.

Thiên Chúa không thể đưa dẫn Maria tới chức năng làm mẹ mà lại không thông tin và hỏi ư kiến trước. Thiên Chúa không đặt chúng ta đứng trước một sự kiện đă rồi. Ngài tôn trọng lănh vực tự do và trách nhiệm của mỗi người. Qua ngôn ngữ Kinh thánh trên, Maria đă hiểu rơ điều cốt yếu để dấn thân với ư thức đầy đủ về sự việc.

 

Nhưng ta cũng đoán được đó là "trong đức tin". Lạy Chúa, xin cũng giúp chúng con biết tin tưởng.


 

14. Mẹ Maria

Tại sa mạc Phi Châu, ngày kia tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đă được gả bán cho một chàng trai. Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những công việc nội trợ b́nh thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực nhớ bèn hỏi xem đám cưới đă được tổ chức như thế nào? Và ông bố đă tỏ ra bối rối không muốn trả lời.

 

Cuối cùng, một người đầy tớ đă cho vị tu sĩ hay:

-         Cô gái ấy đă bị bóp cổ chết chỉ v́ đă có thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đ́nh đ̣i cô phải chết như vậy.

Thân phận của cô gái trong câu chuyện vừa nghe, là thân phận của phụ nữ ngày xưa, cũng như của mỗi người chúng ta sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Bởi v́ với tội lỗi, chúng ta sẽ phải chết. Không phải chỉ cái chết phần xác, mà c̣n cả cái chết phần hồn, măi măi xa ĺa Chúa.

 

Thế nhưng Mẹ Maria đă khởi đầu cho một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này, người phụ nữ được phục hồi nhân phẩm và mỗi người chúng ta được trả lại địa vị làm con cái Chúa, bởi v́ chúng ta có được chính sự sống của Ngài trong tâm hồn, như lời thánh Phaolô đă xác quyết:

-         Xưa kia bởi một người mà nhân loại phải chết, th́ nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống.

 

Sở dĩ như thế là v́ Mẹ Maria đă sống khiêm nhường và luôn chu toàn thánh ư Chúa. Thực vậy, chúng ta hăy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, Eva v́ kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đă giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu hậu quả thảm khốc của tội nguyên tổ.

Trong khi đó Mẹ Maria là Eva mới, đă đi ngược lại con đường xưa, bởi v́ Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ư Chúa, trong hoạt cảnh truyền tin, chúng ta đă thấy như vậy. Sau khi nhận ra thánh ư Chúa, Mẹ đă cúi đầu thưa lên:

-         Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.

Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta th́ có lẽ chúng ta sẽ tŕ hoăn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ và cầu nguyện thêm cái đă…

 

Chính v́ thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đă được xứng đáng đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, cũng như làm Mẹ của Thiên Chúa.

 

Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hăy noi gương bắt chước Mẹ Maria: luôn khiêm nhường và vâng phục thánh ư Chúa, để nhờ đó, chúng ta sẽ có Chúa trong tâm hồn, cũng như sẽ đem Chúa đến cho những người chung quanh như Mẹ Maria ngày xưa.

 


 

15. Truyền tin

Đức Maria là người diễm phúc, bởi v́ đă được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đă được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là tŕnh thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đă đưa Đức Trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.

 

Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gabriel, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc ḍng họ vua Đavid. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng v́ đă khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ư nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được? V́ thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ cảy ra cách nào?”. Sứø thần cho biết đây không phải là trường hợp b́nh thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn c̣n đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn c̣n lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đă hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đă hoàn tất.

 

Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đă can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt ḿnh vào vai tṛ của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: th́ phụ nữ Do thái c̣n “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của ḿnh là bị kết tội giao du bất chính, ngoại t́nh và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Nagiarét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đă nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào để giải thích cho những vị lănh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng t́nh yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đă thắng, Đức Mẹ đă chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, v́ yêu Chúa, Đức Mẹ bằng ḷng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, v́ yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đ́nh, bởi v́ lúc sứ thần đến truyền tin th́ Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này th́ việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đă bằng ḷng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính v́ thế Thiên Chúa đă lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rơ hơn, tất cả chúng ta đă, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đă trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ ŕnh rập, không ai dám quả quyết ḿnh không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đ́nh, đều có những đau khổ riêng của ḿnh. V́ thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hăy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hăy hết ḷng tin tưởng và cầu xin Chúa, v́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ mà Chúa không làm được.

 

Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hăy ca lên bài ca “xin vâng” để Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó, xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời”. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm ǵ, chúng ta luôn biết làm theo thánh ư Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.

 

 

16. Truyền tin cho Đức Maria - JKN

Câu hỏi gợi ư:

1. Maria có ǵ đặc biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo, c̣n là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại? Dưới mắt người đời, Maria đâu có tài năng ǵ đặc biệt, làm sao Maria thành công trong công việc vĩ đại ấy?

 

2. Khi được Thiên Chúa chọn, ta cần có tinh thần nào để hoàn thành tốt đẹp sứ mạng mà Ngài giao cho ta? Có ai được Thiên Chúa chọn mà làm hỏng việc Ngài không? Tại sao vậy?

 

Suy tư gợi ư:

1. Maria nhỏ bé yếu đuối nhưng được Chúa chọn...

Dưới nhăn quan Kitô giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, khởi đầu một công tŕnh hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết. Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu: «Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, th́ nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng» (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: «Những ǵ thế gian cho là yếu kém, th́ Thiên Chúa đă chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh» (1Cr 1,27).

 

Thật vậy, theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Maria không có ǵ đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với ḿnh. Trên đời chắc chắn c̣n những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria rất nhiều. Nhưng Maria đă được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công tŕnh vĩ đại này. Ngài chọn Maria v́ Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng «v́ bà đẹp ḷng Thiên Chúa». Và Ngài đă thành công trong việc chọn Maria, đang khi có những người khác được Ngài chọn đă làm «hỏng việc» của Ngài, hay đă làm Ngài không hài ḷng, chẳng hạn trường hợp vua Saun (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ Giuđa (Mt 26,47-50)...

 

Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài ḷng như trường hợp của Maria, và cũng có những người làm «hỏng việc», khiến Ngài «thất bại» (từ gượng dùng) hoặc không hài ḷng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?

 

2. Maria xóa bỏ bản ngă ḿnh trước Thiên Chúa

Một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ bản ngă ḿnh trước Thiên Chúa, xóa bỏ ư riêng ḿnh trước thánh ư Ngài, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của ḿnh trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.

 

Theo tư tưởng lưu truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Maria đang dự định sống trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giuse chỉ là để che mắt thị phi của thiên hạ, v́ người đương thời quan niệm sai lầm rằng một phụ nữ sống độc thân là một h́nh thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ư Thiên Chúa muốn chọn ḿnh làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, th́ lập tức nàng từ bỏ tất cả mọi ư muốn hay dự định riêng của ḿnh để vâng theo ư muốn của Thiên Chúa: «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói».

 

3. Được Ngài chọn, hăy toàn tâm toàn ư cho việc của Ngài

Nếu Thiên Chúa chọn ta th́ là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo ư Ngài chứ không phải ư ta. Nên nếu ta được chọn, ta hăy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà thôi. Công cụ th́ không hiện hữu cho ḿnh mà cho công việc hay ư muốn của người sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ư người sử dụng. Vậy, ta hăy toàn tâm toàn ư cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ ǵ đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu, th́ công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giêsu có nói: «Trước hết hăy t́m kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, c̣n tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho» (Mt 6,33). V́ thế, việc của ta, hăy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan pḥng tài t́nh như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ v́ ta đă toàn tâm toàn ư lo cho việc của Ngài. Hăy tin tưởng chắc chắn như thế!

 

4. «Ai tưởng ḿnh đứng vững, hăy coi chừng kẻo ngă»

Những người được chọn mà làm «hỏng việc» Ngài - như vua Saun, Giuđa - có thể là những người ban đầu rất nhiệt thành, quên ḿnh, hoạt động v́ Thiên Chúa và tha nhân chứ không v́ ḿnh. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đă đặt mục đích hay công việc của ḿnh lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ư ḿnh lên trên ư Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ư ḿnh, v.v... Những người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên ḿnh nên đạt được danh vọng, quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đă bị chính những thứ đạt được ấy làm biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Kitô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ư lời của thánh Phaolô: «Ai tưởng ḿnh đứng vững, hăy coi chừng kẻo ngă» (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo ḿnh trở thành như cây chổi cùn, sau khi đă tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, th́ cuối cùng ḿnh lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hăy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! V́ thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.

5. Người được chọn sẽ bị thử thách

Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hăy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đăi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài th́ rơ. Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: «Những ai Thiên Chúa đă tiền định th́ Người cũng kêu gọi; những ai Người đă kêu gọi th́ Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đă làm cho nên công chính th́ Người cũng cho hưởng phúc vinh quang» (Rm 8,30). Cách thức «làm cho nên công chính» của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: «Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lănh đạo thập toàn» (Dt 2,10); «Họ phải được thử thách trước đă, rồi mới được thi hành chức vụ» (1Tm 3,10); «Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quư hơn vàng gấp bội» (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18).

 

Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. V́ thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hăy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hăy tin tưởng: «Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22; 24,13).

 

 

Cầu nguyện

Lạy Cha, để yêu thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ư sống và làm tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.

 

17. Mừng vui lên

Suy Niệm

Khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật ra mầu nhiệm này đă bắt đầu từ sau tiếng Xin Vâng của Đức Maria ở Nagiarét.

 

Sau tiếng Xin Vâng ấy, Ngôi Lời đă thành một thai nhi, lớn lên trong ḷng mẹ như hàng tỉ con người khác, cần chín tháng mới có thể cất tiếng khóc chào đời.

 

Ngôi Lời không lẫm liệt từ trời bước xuống. Ngài muốn là người trăm phần trăm, nên Ngài cần một người mẹ. Ngài đi ra từ ḷng mẹ: mong manh, yếu đuối. Ngôi Lời đă thành một người như chúng ta, chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta, trừ phạm tội. Ngôi Lời đă là người, và măi măi là người. Ngài đă đi hết hành tŕnh cuộc sống với tất cả nỗi buồn vui, âu lo và trăn trở. Chẳng ai hiểu chúng ta bằng Ngài. Ngài chẳng xa lạ với những gánh nặng của cuộc sống. Hôm nay Ngôi Lời vẫn là người, ngự bên Chúa Cha. Có một người được tôn vinh ở giữa ḷng Thiên Chúa.

 

Mầu nhiệm Nhập Thể đâu phải chỉ ở Bêlem, v́ Ngôi Lời măi măi là người, người Anh trưởng, dẫn đưa chúng ta vào cung ḷng Thiên Chúa.

 

Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu trái đất. Trái đất chỉ là một trong số hàng tỉ tỉ v́ sao, nhưng nó vẫn có thế đứng ưu việt v́ là nơi Con Thiên Chúa đă đặt chân, đă sống. Bầu trời, rừng xanh, mạch nước, biển khơi... tất cả phải được ǵn giữ cho thanh khiết. Trái đất là nhà của con người, nhưng cũng là ngôi nhà của Con Thiên Chúa.

 

Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu cuộc đời, yêu mảnh đời nhỏ bé của ḿnh. Có lắm người dễ dàng t́m đến cái chết v́ thấy bế tắc, tuyệt vọng, v́ thấy đời vô nghĩa.

 

Mảnh đời của Đức Giêsu không phải chỉ màu hồng: long đong với phận nghèo, ê chề v́ thất bại, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài đă sống mảnh đời ấy cho đến cùng, vững tin đến cùng vào t́nh Cha, ngay giữa vực sâu và tăm tối.

 

Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu mọi người. Từ khi Con Thiên Chúa mang khuôn mặt của con người th́ mọi người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa. Tất cả nhân loại đều là anh em dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm... Xúc phạm con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

 

Noel đem lại cho ta sự b́nh an sâu thẳm. B́nh an cho trái đất đang bị tàn phá. B́nh an cho những người đang sống trong ngơ cụt. B́nh an cho chúng ta, cho mọi người. B́nh an của Giêsu.

 

 

Gợi Ư Chia Sẻ

·        Nhiều bạn trẻ tự phá hủy đời ḿnh bằng ma túy, thuốc lá, rượu bia, đua xe, ăn chơi trụy lạc... Theo ư bạn, đâu là lư do chính dẫn đến thái độ đó?

·        Ai trong chúng ta cũng có những người bạn đang mất b́nh an, đang cần được nâng đỡ hay tha thứ. Mùa Noel này, bạn định làm ǵ cho họ?

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Chúa đă làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.

 

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

 

Lạy Chúa Giêsu, nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đă buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đă thốt lên: Sao Cha bỏ con?

 

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố v́ biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.