LEĂ CAÙC THAÙNH TÖÛ ÑAÏO VIEÄT NAM
Lôøi Chuùa:
Kn 3, 1-9; 2Cr 4, 7-15; Mt 10, 17-22
MỤC LỤC
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM - A
Lc 9,23-26; Ga 17,11b-19; Mt
10,17-22
24-11-2008
Andrê Dũng Lạc và các th.. Lm Laurenxô Chu
Văn Minh 02
Suy nghĩ về Andrê Phú Yên Lm
Roland Jacques O.M.I.
05
Người trẻ trước những th… Lm F.X. Huỳnh
Tấn Hải 22
Theo dấu chân người ….. Gm. Cosma
Hoàng Văn Đạt 29
Những phép lạ của các th… Rev. Vinhsơn
Trần Ngọc Thụ 36
Tổ tiên chúng ta đă chết v́.. Lm.
Nguyễn
Văn Khải, CSsR
43
Hạt giống../Các thánh tử …. Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
47--50
Chúng tôi về thiên đàng …. Lm Giuse
Trương Đ́nh Hiền 53
Nhân chứng tử đạo Kitô …. Lm Nguyễn
Hữu Thy 58
Niềm tin Phục Sinh………… Lm Nguyển Hữu
An 66
Những bà mẹ tử đạo………. Lm Giuse Hoàng
Kim Toan 71
Các thánh Tử Đạo …………. Gm.
Phaolô Nguyễn Văn Ḥa 77
CÁC THÁNH TĐ VIỆTNAM Lm Giuse Phạm
Thanh 79
CÁC THÁNH TĐ VIỆTNAM Gm. Giuse Vũ Văn
Thiên 84
CÁC THÁNH TĐ VIỆTNAM Lm Phaolô
Lưu Văn Kiệu 88
Máu các thánh tử đạo là h… Lm. An Phong,
OP 95
Các Thánh TĐ vượt qua nổi. Lm Giuse Đỗ
Vân Lực, OP 98
Sống đạo tốt ……………….. Lm Giacôbê Phạm
Văn Phượng 107
Máu Các Thánh tử đạo trổ... Lm
Joseph Vũ Hải Bằng, OP
111
Để làm chứng cho quan…… Manna
115
Cảm mến công ơn các thánhGm. Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm 118
3 bài giảng tĩnh tâm lễ CTTĐ
Lm. PX Vũ Phan Long, ofm
126
Andre Dũng LẠc và
Các Thánh TỦ ĐẠo
Lm. Laurenxô Chu Văn Minh
“Không
có t́nh yêu nào lớn hơn t́nh yêu của người hy sinh mạng sống v́ người ḿnh
yêu” (Ga 15,13 ), đó là Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ yêu
quư của Ngài và chân phúc thầy giảng Anrê Phú Yên, người môn đệ trẻ đă hăng
hái đáp lại : “Hăy lấy t́nh yêu đáp lại t́nh yêu, mạng sống đáp lại mạng
sống ”.
Vào thế kỷ XVI,
lần đầu tiên Lời Tin mừng đă vang dội trên đất nước Việt Nam yêu qúy của
chúng ta, hạt giống Tin Mừng bắt đầu bén rễ và nẩy mầm cùng sinh bông hạt,
nhiều người Việt Nam đón nhận Tin Mừng và cộng đoàn Kitô hữu đă được thành
lập, nhưng Giáo hội sơ khai đó trải qua cơn bách hại khốc liệt suốt 300 năm,
chỉ đôi khi được gián đoạn trong một vài quăng thời gian ngắn sống b́nh an.
Người ta nói cuộc bách hại ở Việt Nam không kém cuộc bách hại đạo Kitô 300
năm thời đế quốc La-mă xưa. Từ năm 1627 đến 1886 các vua quan đă ngăn cản
đức tin Kitô bằng cấm đoán, tróc nă, tù ngục, tra tấn với nhưng h́nh khổ đủ
loại : chém đầu, treo cổ, đóng đinh, phanh thây, xả thịt, voi dầy… và bao
loại tra tấn ghê rợn khác nhưng những người Kitô hữu đă chịu đựng và vượt
thắng. Con số những người Kitô hữu kiên vững trong đức tin bị bách hại và đổ
máu lên tới 130.000. Trong đó, có 117 vị đă được tôn phong hiển thánh mà
chúng ta cùng toàn thể Giáo hội hoàn vũ mừng kính hôm nay. Đoàn các thánh
vinh hiển đó gồm mọi tầng lớp xă hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo lư
viên, trùm trưởng và giáo dân…. “Máu các thánh tử đạo là hạt giống nẩy sinh
các tín hữu" ( Giáo phụ Tertuliano ). Lịch sử hai ngàn năm qua đă chứng minh
sự chân thực của lời nói đó ở nhiều nơi, rơ ràng nhất là trên đất nước Việt
Nam chúng ta; từ khi có số tín hữu khiêm tốn ban đầu, hiện nay đă lên tới 7
triệu người Công giáo.
Một trong những
vị thời danh nhất là thánh Anrê Dũng Lạc. Ngài thụ phong linh mục khi mới 28
tuổi. Vị tân linh mục trẻ tuổi, đạo đức, thông thái, nhân hậu và giàu ḷng
yêu mến các linh hồn. Ngài hằng cầu nguyện, hiến dâng tất cả sức sống, mọi
tài năng ưu tú để mở mang Nước Chúa và phục vụ anh em đồng loại. Cha Anrê
say sưa lao vào các cánh đồng truyền giáo, đi ngược về xuôi, rao giảng Tin
Mừng, giảng giải sốt sáng, nói năng trôi chảy, dễ nghe dễ hiểu. Cha có tài
khéo phân xử mọi việc cả đạo lẫn đời nên giáo dân yêu mến và vâng phục cha
lắm. Cha hay đi thăm các tù nhân bị bắt v́ đạo để an ủi họ. Ngài đă bị quan
quân bắt giam, ngài từ chối không để bổn đạo lo tiền chạy chuộc, các quan
thấy ngài thông minh đức độ nên thương tiếc, không muốn giết hại ngài,
khuyên ngài hăy nhắm mắt cho quân lính khiêng qua thập tự để lấy cớ tâu vua
mà tha cho ngài, nhưng ngài cương quyết không chịu.
Ngày 21- 12 Cha
Dũng Lạc vui vẻ tiến ra pháp trường ở băi Cầu Giấy- Hà nội. Khi lư h́nh
chuẩn bị hành quyết, cha lấy trầu mời và bảo: “ông xử cho khéo nhé ”. Lính
tháo xiềng, trói cha vào cọc, khi lính búi tóc cha. Cha ngẩng cổ lên hỏi:
“Thế này đă vừa chưa?”. Ngài đă bị xử trảm tại Hà Nội, ngài đă hiến mạng
sống ḿnh để bảo vệ đức tin chân chính, củng cố đoàn chiên và làm vinh danh
Thiên Chúa.
Trong Kinh Tiền
tụng lễ các thánh Tử đạo, Giáo hội ca khen: Máu các thánh tử đạo đổ ra để
tuyên xưng danh Chúa nói lên những việc ḱ diệu của Thiên Chúa, làm nên sức
mạnh trong bản tính mỏng ḍn và làm cho sức yếu đuối trở nên mạnh mẽ khi làm
chứng cho Ngài.
Không phải chỉ
có cái chết mới làm chứng cho đức tin của ḿnh, mà cả cuộc sống của chúng ta
cũng phải là đời chứng tá. Không phải chỉ có cái chết anh hùng, mà c̣n có cả
những cuộc sống anh hùng, nhưng tất cả những ai hoàn thành trọn vẹn bổn phận,
trách nhiệm hằng ngày của ḿnh cũng là anh hùng. Đừng làm những việc cao quí
cách tầm thường, nhưng chúng ta hăy làm những việc tầm thường cách cao quư.
Tất cả mọi ư nghĩ, lời nói, việc làm cuả đời chúng ta nếu được thấm nhuần
t́nh yêu Chúa Kitô, chúng sẽ được thần hóa trở nên có giá trị trước mặt
Thiên Chúa. Hy sinh mạng sống đổ hết máu đào ra một lúc là hành động anh
hùng, thực hiện chiến công đó thật là khó khăn, nhưng phải làm chứng cho đức
tin suốt cuộc đời; từng giọt mồ hôi toát ra; từng giây, từng phút trái tim
ứu máu; khi phải dứt bỏ, phải hy sinh những ǵ qúy báu thân thiết của ḷng
ḿnh đâu phải dễ!
Giáo hội thời
nào cũng cần những người dám sống v́ đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước
mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, tuy không đ̣i
hy sinh mạng sống, nhưng lại đ̣i hy sinh cả tương lai vững vàng và ổn định.
Mỗi ngày chúng
ta thường bị đặt trước chọn lựa, trước thập giá cuả Đức Giêsu, y như các vị
tử đạo ngày xưa. Có khi chúng ta chọn ḿnh mà chối Chúa, ta đă bước qua thập
giá khi ta ươn hèn ngại khó, từ chối hy sinh để chọn cách hưởng thụ cách bất
chính. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc có thể là những bạo chúa, những sức
mạnh gây ra những cuộc bách hại thầm lặng nhưng không kém phần khủng khiếp
và tai họa. Chúng ta phải tỉnh thức luôn mà đương đầu với những thử thách và
chọn lựa đó.
Chúng ta phải
bảo vệ bằng mọi giá, không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị
tử đạo, ước ǵ chúng ta không ngừng làm chứng chuyển giao đức tin đó cho
những người khác.
Chúng con đoàn hậu duệ
Noi gương sáng cha ông
Đức tin quyết bảo vệ
Đức ái tỏa sáng ra.
Xây dựng nước trần thế
Mở rộng nước Chúa Cha.
Vậy chúng ta
hăy sống xứng đáng là con em của các thánh tử đạo, hăy là những người Công
Giáo Việt Nam anh hùng.
Lm. Laurenxô Chu Văn Minh
MỘt Vài Suy Nghĩ
VỀ Chân PhưỚc
Anrê Phú Yên
Lm. Dương Hữu Nhân OMI
Roland Jacques O.M.I.:
Linh mục Roland Jacques
O.M.I.
(Tên Việt Nam: Dương hữu Nhân, Ḍng Hiến Sĩ Đức Mẹ). Sinh năm 1943 tại
Lorraine, nước Pháp. Tiến sĩ luật khoa, đại học Paris. Tiến sĩ Giáo Luật,
Đại Học Công Giáo Paris. Nói thông thạo nhiều thứ tiếng: Pháp, Anh, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Ư, Latinh... và Việt Nam. Hiện làm Khoa Trưởng phân khoa
Giáo Luật Đại Học Công Giáo St. Paul, Ottawa, Canada.
Cha Nhân từng biên soạn
nhiều tác phẩm song ngữ Pháp Việt về lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. Ngài bỏ
công sức rất nhiều trong việc nghiên cứu, điều tra và hoàn thành tiến tŕnh
phong thánh cho Chân Phước Anrê Phú Yên. Cha Nhân am tường về địa dư, lịch
sử, văn hoá và ngôn ngữ Việt Nam. Ngài không những nói tiếng Việt Nam theo
giọng Hà Nội mà c̣n có thể thưởng thức những món ăn rất đặc sản Việt Nam như
mắm tôm, cà pháo… Hiện tại, Cha Nhân vẫn về Việt Nam đôi lần hàng năm để
tíếp tục nghiên cứu về lịch sử truyền giáo.
Hân hạnh và hảnh diện
giới thiệu Cha Dương hữu Nhân với bài viết bằng tiếng Việt: "Một vài suy
nghĩ về Chân Phước Anrê Phú Yên" trong dịp mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt
Nam. (Lm Phêrô Trần thế Tuyên)
Trong Lăo Giáo dân gian, gọi là Tiên Giáo, có tám ông tiên mà ông già nhất
có tên là Thọ Tinh hay Thọ Lăo. Ông tiên này chính là vị quyết định giờ chết
cho mọi người: ông ghi giờ ấy trên một tấm biển vào lúc một người ra đời.
Truyền thuyết kể rằng một hôm Thọ Tinh gặp một chàng trai trẻ tặng ông một
b́nh rượu. Ông thích chí quá bèn quay ngược hai con số 10 và 9 (thập trên
cửu dưới): thế là ông cho phép cậu sống 90 tuổi (cửu thập niên) thay v́ 19
tuổi (thập cửu niên) !
Theo truyền
thống Đông Phương, chết yểu là một bất hạnh lớn: Đấy là một cuộc đời chưa
chín muồi và chưa trọn vẹn, một cuộc đời găy gánh trước khi đơm hoa kết quả.
Người ta tin rằng chết non là một h́nh phạt cho một tội rất nặng mà có thể
ḿnh đă phạm ở kiếp trước.
Mặt khác, chết
mà không có con nối dơi tông đường là bị phạt vào cơi trầm luân mà không ai
kính thờ ḿnh như tổ tiên của họ. Đây c̣n là tội bất hiếu v́ đă làm đứt sợi
dây liên kết các thế hệ nối dài ḍng tộc và quốc gia ḿnh.
Thế nhưng Anrê
Phú Yên lại chết vào năm 19 tuổi, lúc c̣n là một thanh niên vừa mới lớn,
trong t́nh trạng tứ cố vô thân. Phải chăng ngài đă làm mất ḷng Thọ Lăo ?
Ngài đă phạm tội ǵ ? Phải chăng ngài đă không tṛn nghĩa vụ đối với người
trên ? Phải chăng ngài đă quên nghĩa lư của thanh niên đối với kẻ quyền thế
?
Trước khi trả
lời những câu hỏi này, xin quư vị vui ḷng cho tôi nhắc lại một chút Chân
phước Anrê Phú Yên là ai.
Anrê Phú Yên
là ai ?
Những công tŕnh nghiên cứu và sưu tra để tôn vinh Anrê
Phú Yên – người chứng thứ nhất cho đức tin ở Việt Nam († 26 tháng 7 năm
1644) – đă kéo dài trong nhiều thế kỷ, thường bị gián đoạn không tưởng nổi:
biết bao vị đă được tôn vinh trước chàng trai trẻ hiên ngang nầy. Nhưng rồi
Giáo hội đă công minh nh́n nhận cuộc tử đạo của ngài. Trên chặng đường tiến
đến ngày phong thánh, việc phong chân phước là một giai đoạn then chốt;
nhưng cũng chỉ là một giai đoạn thôi. Cần phải tôn vinh hiển thánh để mạnh
dạn đề nghị Anrê Việt Nam làm thánh bổn mạng trong toàn giáo hội, trên khắp
thế giới, cho giới trẻ, và đặc biệt là giới trẻ dấn thân phục vụ người anh
em.
Người mà từ xưa người ta quen gọi là "Thầy giảng Anrê",
sinh tại tỉnh Phú Yên năm 1625. Rửa tội năm 15 tuổi, cùng lúc với bà mẹ góa
và các anh chị, do chính cha Đắc Lộ. Lúc đó Anrê đă bắt đầu học chữ nho để
thăng tiến sự nghiệp tương lai. Đến 16 tuổi, ngài được nhận vào nhóm các
thầy giảng do cha Đắc Lộ mới thành lập; chưa đầy ba năm sau, ngài chết tử
đạo, mở đường cho biết bao vị chứng nhân khác về Chúa Kitô; họ đă noi theo
gương ngài trong cách sống cũng như trong cách ngài chấp nhận cái chết.
Một tuần sau khi Anrê bị xử, Cha Đắc Lộ đă từng viết về
ngài thế nầy: "Anh ta thông minh lanh lợi; thông thạo chữ nghĩa, và đă biết
tŕnh bày mọi lẽ về Thiên Chúa. Anh có trí phán xét lành mạnh và cũng rất
khéo tay: ở kinh đô Huế, chính anh đă tổ chức làm máng cỏ và rất thành công.
Tuy sức khỏe hơi yếu, nhưng anh không nề phải gánh vác công việc khi cần,
như đă thường xuyên chèo thuyền chở tôi đi chỗ nầy chỗ nọ. Ngoài ra, năm
ngoái, anh suưt chết v́ quá cố gắng hợp lực với các thầy giảng khác xây lại
căn nhà của chúng tôi ở Đà Nẵng; tôi tưởng chỉ c̣n việc chôn cất anh, v́ anh
té chết ngất trên nền đất; thế nhưng Chúa dă dành cho anh tiều thiên tử đạo..."
Xứ Đàng Trong bấy giờ có thể so sánh được với một quốc
gia độc lập. Nhóm thầy giảng đầu tiên – trong đó có Anrê – do Cha Đắc Lộ quy
tụ từ năm 1642 đến 1645 và cũng do chính Cha đào tạo phần thiêng liêng cũng
như phần sinh hoạt chuyên môn. Nhóm nầy gồm khoảng mười hai người, trẻ có
già có, sống thành cộng đoàn chung với vị truyền giáo. Trú sở chính tại Hội
An, đôi khi ở Đà Nẵng.
Tháng bảy năm 1643, hai thầy giảng lâu đời nhất nhận
lănh một quy chế đặc biệt, trao cho họ trách nhiệm riêng khi đi truyền bá
Phúc Âm và trong việc điều động những anh em c̣n lại: đó là hai vị Đamasô và
Inhaxiô. Inhaxiô bây giờ là một quan văn. Hai vị khấn công khai về đức khiết
tịnh, nghèo khó và vâng phục, vĩnh viễn sống trong cộng đồng truyền giáo và
nhận danh xưng là Thầy. Khi vị thừa sai vắng mặt, họ là những người hữu
trách của Giáo Hội trong xứ. Toàn nhóm, trong đó có Anrê, cùng tuyên khấn
trong cùng một ngày để tận hiến cho công cuộc truyền giáo.
V́ tuổi c̣n trẻ, cần phải được hoàn tất chương tŕnh
đào tạo, Anrê được gửi gắm cho người được vị thừa sai tin cậy nhất: đây là
vị quan Inhaxiô, thuộc nhóm thầy giảng và và là trụ cột của cộng đồng công
giáo c̣n non trẻ. Anrê tiến triển vượt bậc trong việc học các kinh sách
truyền thống, nhất là về đức tin Kitô giáo, đồng thời đảm nhận những công
việc thấp hèn nhất để phục vụ nhà Chúa và luyện tập công tác giảng dạy.
Cuộc bắt đạo đẫm máu đầu tiên tại Việt Nam
Dưới sự hướng dẫn của "Thầy Inhaxiô", các thầy giảng
gặt hái nhiều thành quả đáng kể trong việc truyền giáo trong vùng. Trong mấy
tháng vị truyền giáo vắng mặt, họ đă rửa tội cho sáu trăm người tân ṭng, và
đón nhận nhiều người học đạo. Inhaxiô tích cực lưu tâm đến giới có học như
ḿnh. Nhưng điều nầy đă làm nảy sinh ra ḷng đố kỵ và t́nh trạng căng thẳng
trong triều đ́nh Chúa Nguyễn, cũng như tại xứ Quảng Nam là nơi có trung tâm
sinh hoạt truyền giáo chính của nhóm.
Vị quan trách nhiệm chính quyền dinh Quảng Nam thề sẽ
tiêu diệt Inhaxiô, và đă nhận được giấy phép cho bắt giam và kết án tử h́nh
các người mang trách nhiệm chính của cộng đoàn kitô hữu trong vùng của thầy.
Theo kế hoạch của nhà cầm quyền th́ "đạo của người Bồ Đào Nha" chỉ dành
riêng cho người ngoại quốc, và mọi việc truyền đạo cho người Việt Nam phải
bị cấm chỉ.
Inhaxiô vắng mặt khi lính đến t́m bắt ngài ở Hội An;
thầy Anrê trẻ tuổi lúc ấy là người lành mạnh duy nhất có mặt ở nhà, và thầy
đă t́nh nguyện nạp ḿnh thế chỗ cho người anh cả của ḿnh. Trước ṭa án của
quan đầu tỉnh Quảng Nam, Anrê đă tuyên xưng đức tin một cách phi thường,
không giây phút nào nao núng: "Ước chi tôi có được ngàn mạng sống của tôi để
hiến dâng tất cả cho Chúa hầu đền đáp ơn Ngài".
Bị kết án, Anrê chờ đợi cái chết một cách rất b́nh thản,
ḷng đầy hân hoan, chỉ xin mọi người cầu nguyện cho thầy, để thầy được ". ..giữ
nghĩa cùng đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến blọn [trọn] đời". Anrê
chết do nhiều nhát dáo đâm rồi bị chặt đầu, miệng không ngớt kêu tên Giêsu.
Ngày ấy là ngày 26 tháng bảy năm 1644. Anrê vừa được 19 tuổi.
Cha Đắc Lộ ở bên cạnh thầy. Đứng vây quanh Anrê c̣n có
nhiều tín hữu công giáo Việt Nam và ngoại quốc, cũng như đông đảo đồng bào
ngoài công giáo; mọi người rất xúc động trước sự tuyên xưng đức tin của thầy.
Gương tử đạo của thầy lập tức nổi danh, và qua những lời chứng và tường
thuật, đă lan truyền ra đến nhiều nước tận Rôma. Toà Giám mục Áo Môn
(Macao), nơi có rất nhiều nhân chứng sinh sống, đă đón nhận thi hài thầy hết
sức trọng thể, và tổ chức ngay trong tháng 12 năm ấy hồ sơ xin phong chân
phước cho Anrê. Chính hồ sơ nầy ngày nay đă cung cấp cơ sở lịch sử chủ yếu
giúp Giáo Hội có thể căn cứ vào để phán quyết.
117 vị tử đạo, chừng ấy chưa đủ sao ?
Năm 1988, Giáo hội đă phong thánh cho 117 vị tử đạo tại
Việt Nam, trong đó có 96 người bản xứ; các vị được ghi vào lịch Giáo hội
hoàn vũ mừng vào ngày 24 tháng 11. Việc phong thánh cho các vị đă dấy lên
một cuộc tranh căi gay gắt tại Việt Nam. Nay những xung động đă lắng dịu,
nhiều người đă nghĩ rằng dấy lên những xích mích lời qua tiếng lại thêm lần
nữa th́ có lợi ích ǵ. Có thêm một người thứ 118 (hoặc một người thứ 97
trong các vị người bản xứ) th́ cũng vậy mà thôi.
Theo tôi, quan điểm ấy quá thiển cận. Thật vậy, Anrê
Phú Yên không phải là người thứ 118, nhưng chính là người tiên khởi, và là
người anh đầu của tất cả. Người ta sẽ nghĩ ǵ về một gia đ́nh Việt Nam, khi
mà người anh cả bị bỏ quên, bị xem như không quan trọng, và không được đặt
di ảnh lên trên bàn thờ tổ tiên ? Con đường hẹp, khó khăn, gian khổ để nên
thánh của người Việt Nam, chính Anrê là người đi tiên phong. Nếu không có ân
sủng đặc biệt, duy nhất, của Thiên Chúa, thầy hẳn đă không bước đi được trên
con đường ấy. Chúng ta là ai mà có thể nhắm mắt làm ngơ trước mầu nhiệm ấy ?
Hiện nay, người anh cả của những người Việt Nam đă được
phong thánh tử đạo là Vinh Sơn Liêm, một giáo sĩ ḍng Đaminh, chết năm 1773.
Thánh Liêm là một khuôn mặt lớn, đầy đủ nhân đức để cho chúng ta học tập.
Nhưng ngài đă đi du học trong nhiều năm ở nước ngoài, và ngài là một linh
mục. Địa vị của vị "tử đạo tiên khởi" phải thuộc về Anrê, chết 129 năm trước
thánh Liêm, với ḷng can cường không kém. Hơn nữa, Anrê là một người con của
đất nước, mang trong ḿnh 100% nền văn hóa của đất nước; thầy là một giáo
dân công giáo. V́ thế, chắc hẳn Anrê là tiêu biểu trực tiếp hơn cho khối đa
số vô danh của những người công giáo Việt Nam, nhất là những người thuộc
những thế hệ đầu tiên, nhờ vào sự khôn ngoan và tính kiên cường họ đă khám
phá ra phương cách Việt Nam để sống đạo.
Đối chiếu với phần lớn các vị tử đạo được tôn phong năm
1988, Anrê biểu hiện một kinh nghiệm đặc sắc và có thể là sống động hơn cho
ngày nay, do bối cảnh lịch sử hoàn toàn khác biệt. Những thế hệ công giáo
tiên khởi được sinh ra trong bối cảnh của một nước Việt Nam hoàn toàn độc
lập đối với các thế lực phương Tây; không bao giờ Bồ Đào Nha, là nước đă gửi
các nhà thừa sai đến, đă can thiệp vào công việc của Việt Nam bằng bất cứ
cách nào, dù là để bênh vực cho người công giáo. Những đồng bào không công
giáo, đại đa số đă tỏ ra hết sức ngưỡng mộ đối với chàng trai trẻ có ḷng
can đảm bất khuất nầy. Họ cảm nhận được nơi Anrê t́nh thương mà thầy đă đem
đến cho tất cả những người đồng hương của thầy – một sự việc mà những nhân
chứng đă nói đến –, và họ đă đáp lại t́nh thương đối với thầy. Đó là một sắc
thái khá độc đáo trong cái chết của Anrê. Đến thế kỷ xviii và xix th́ các
t́nh huống và tâm trạng đă biến chuyển một bầu không khí thù hận lan tràn.
Thực ra người kitô hữu Việt Nam đang ao ước t́m lại
nguồn gốc của ḿnh một cách cụ thể, phục hoạt năng động truyền bá Phúc Âm
của cha ông họ vào bước ngặt thế kỷ xvi và xvii. Trong bối cảnh như thế,
việc phong chân phước cho Anrê Phú Yên tại đền thánh Phêrô ngày 5 tháng 3
năm 2000 là một biến cố trọng đại và là may mắn cho tương lai. Nó sẽ ghi
khắc một cách sâu đậm trong cuộc sống của cộng đồng chi thể nầy của toàn dân
Chúa, trong cũng như ngoài nước.
Anrê phải lấy lại địa vị của ḿnh, đó là địa vị tiên
khởi, trong bảng danh sách các thánh của nước Việt Nam, và cũng để làm chứng
cho thời đại hoàng kim của cộng đồng công giáo; chính đó là nguồn đích thực
mà người công giáo thời nay được mời gọi trở về. Không nên dừng lại nữa vời
và bằng ḷng với việc phong chân phước, đấy chỉ là một giai đoạn tạm thời,
một phần của sự việc phải hoàn thành mà thôi.
Anrê và những thủy thủ trẻ
Tôi đă dành gần hai năm trong đời ḿnh để nghiên cứu về
Anrê Phú Yên. Dưới một khía cạnh nào đó, đấy là một công việc khá dễ dàng,
v́ trước tôi đă có nhiều người miệt mài t́m hiểu tiểu sử của ngài. Ông Phạm
Đ́nh Khiêm đă viết về đời ngài vào khoảng năm 1950: một tập sách nhỏ được
viết khá hay mà nhiều người công giáo Việt Nam đă đọc vào thời ấy. C̣n có
chính Cha Đắc Lộ – Alexandre de Rhodes, vị thừa sai nổi danh nhất Việt Nam
–, là người linh mục mà Anrê rất yêu quư, và cũng là người giúp đỡ ngài
trong những giây phút cuối đời. Sau đó, vị thừa sai này đă loan truyền dũng
khí tuyệt vời của chàng trai ấy trên khắp hành tinh, từ Trung Hoa đến Ấn Độ
và khắp cả Châu Âu.
Phần tôi, tôi phát hiện chứng từ của những người rất
tầm thường, đó là các thủy thủ Bồ Đào Nha. Hẳn họ không phải là những thánh
nhân hay những học giả uyên thâm. Họ chính là những người đă mang xác Anrê
về thành phố Áo Môn (Macao) để chôn cất trọng thể. Gương sáng của chàng trai
đất Việt đă đảo lộn cuộc đời của họ.
Trong số các thủy thủ ấy, có ba người vào độ tuổi của
Anrê. Cùng với những người Bồ Đào Nha khác, họ đă làm chứng trước ṭa án
Giáo Hội về những ǵ họ thấy và nghe tại Việt Nam. Lời lẽ của họ toát lên
niềm ngưỡng mộ đối với cậu giáo lư viên trẻ tuổi kia. Sau khi khám phá, rồi
dịch những chứng từ của họ được ghi lại trong các bản viết Bồ Đào Nha, chính
tôi cũng đă xúc động: Vâng, gương sáng của Anrê thật là sống động !
Hôm nay tôi chọn vài câu của một người chứng trẻ tên là
Antonio. Tôi xin đọc lại cho quư vị nghe: "Con thề trên Phúc Âm và hứa nói
sự thật về những ǵ con biết. Con 20 tuổi. Năm nay, con đă xưng tội bốn lần,
hai lần ở Việt Nam và hai lần ở tại Macao đây, và con đă chịu ḿnh thánh
Chúa. Con sang Đàng Trong hai lần. Con đă biết Anrê, anh ấy là một Kitô hữu
đă chịu phép rửa và là giáo lư viên, và ở với cha Đắc Lộ. Anh đă bị bắt tại
Hội An trong nhà của cha. Họ đă trói và hành hạ anh, và anh bị đánh đập v́
anh theo đạo. Họ đă đem người tù đến Kẻ Chàm. Trước ông quan, anh đă tuyên
bố công khai rằng anh có đạo. V́ lư do đó, anh bị tống ngục với một Kitô hữu
khác, một ông già tên là Anrê cả.
Ông Chúa của nước này đă ra lệnh cho quan phải bắt các
Kitô hữu, và giết những ai truyền đạo. Chính v́ thế mà người ta đă bắt Anrê,
và đă xử tử anh. Những người Bồ Đào Nha chúng con không thể làm ǵ được cho
anh. C̣n anh Anrê th́ đă vui vẻ đón nhận bản án ấy. Họ đă đem anh đi đến
cánh đồng ngoài thị trấn với một cái gông trên lưng. Họ đă đâm và chặt đầu
anh. Trong lúc đó, Anrê vẫn tuyên xưng đức tin và Chúa Giêsu Kitô một cách
kiên tŕ. Trước khi chết, anh nói lớn: “Em chết v́ em có đạo chứ không phải
v́ em đă phạm một tội ǵ.”
Người ta đă đón lấy xác và máu của anh một cách kính
cẩn, như là xác và máu của một vị tử đạo. Con vẫn c̣n có một xâu chuỗi của
anh: con kính cẩn và quư mến giữ nó. Con chắc chắn rằng anh bị xử tử là v́
người ta ghét đức tin của anh chứ không phải v́ một tội nào khác mà anh đă
phạm. Mọi người đều biết Anrê là một Kitô hữu tốt lành, nhiệt thành cho vinh
danh Chúa. Anh giữ luật và thực thi mọi nhân đức. Vâng, anh thực sự là một
vị tử đạo. Mọi người chứng kiến cái chết của anh, tại Việt Nam và tại Macao,
đều biết rơ điều ấy."
Cả hai mươi bốn người làm chứng về cái chết của Anrê
đều đồng ư về điểm này; tất cả đều tôn kính Anrê như là một vị tử đạo. Nhờ
họ, chúng ta cũng có thể tôn kính ngài. Thanh niên Việt Nam, giáo lư viên
trên toàn thế giới đă có được một gương mẫu để ḿnh noi theo, một người che
chở để ḿnh nguyện cầu, một người anh cả để ḿnh nối gót và ngưỡng mộ.
Cái chết của Anrê có ư nghĩa ǵ chăng ?
Một số người chứng đă cung cấp cho ṭa án Áo Môn những
chi tiết rất xác thực; ví dụ cuộc đối thoại giữa Anrê và vị quan ṭa, và
những lời cuối cùng của ngài. Những lời ấy giúp ta hiểu ư nghĩa của cái chết
đó. Cái chết của Anrê là một điều đi xa hơn là một biến cố bi thảm, hơn là
cái oái oăm của một cuộc đời găy gánh khi tuổi c̣n xuân.
Tôi nghĩ rằng quư vị đă biết thuộc ḷng câu nói của
Anrê, được ghi bằng tiếng Việt trong các tường thuật cổ. Kính thưa quư vị,
câu ấy là câu xưa nhất được viết bằng chữ Quốc Ngữ hiện nay c̣n giữ được
trên thế giới ! Anrê xin các Kitô hữu cầu nguyện cho ngài, để ngài được
trung thành đến cùng, để “giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho
đến trọn đời.” Câu nói này được ghi khắc bằng chữ vàng trong ḷng những
người yêu mến Anrê Phú Yên.
Khi nghe lời này của Anrê, chúng ta thấy rơ rằng, trước
cái chết khốc liệt đang chờ ḿnh, ngài vẫn cảm thấy ít nhiều e sợ. Không
phải ngài sợ chết đâu, không hề tí nào ! Cái sợ duy nhất là sợ không trung
thành tới cùng với đức tin mà ngài đă lănh nhận khi chịu phép rửa. Sợ không
ở với Chúa Giêsu với bất cứ giá nào. Anrê sợ bị đau khổ đánh gục hay sợ tác
động của những người lớn quanh ngài.
Một gương mẫu phải noi theo
Khi nói đến lịch sử khởi công xây dựng Giáo Hội tại
Việt Nam, người ta có thói quen đưa ra một vài nhân vật lịch sử lớn, đặc
biệt là nhân vật Đắc Lộ. Điều nầy không có ǵ cần phải cải chính. Nhưng lịch
sử của Anrê c̣n chứng tỏ rằng Giáo Hội cũng đă được xây đắp nhờ vào những nỗ
lực của số đông giáo dân Việt Nam thuộc những thế hệ đầu tiên. Ở vào thời
của Anrê, thừa sai chỉ thỉnh thoảng mới có thể đến, và không thể sống thường
xuyên ở trong nước. Chính v́ lư do nầy mà những thầy giảng phải lên phiên
thay thế họ.
Anrê là tiêu biểu cho tất cả những thừa sai Việt Nam vô
danh nầy, là những anh hùng trong cuộc sống trước khi tỏ ra anh hùng trong
khi chết. Người ta không thể không nghĩ rằng chính họ là những thừa sai thực
sự, v́ chỉ có họ mới đủ sức bảo đảm cho sự liên tục và sự tiến triển của
cộng đồng công giáo. Thử hỏi t́nh trạng nầy không phải là giống như t́nh
trạng ngày nay tại nhiều nơi mà sự lui tới của linh mục bị hạn chế đó sao ?
Chính ở điểm nầy mà Anrê là một gương mẫu của đời sống
công giáo rất thích hợp cho thời nay. Thực thế, thật khó mà chọn Đắc Lộ làm
gương mẫu để noi theo, nếu không muốn nói là một cách gián tiếp. Ngài đại
diện cho một thời đại vẻ vang của sứ mạng truyền giáo, nhưng thời đó đă qua.
Trái lại, thời đại của Anrê, thời đại nầy, lại không ngừng tồn tại.
Là một tín đồ công giáo gương mẫu, Anrê nêu gương về
nhiều mặt. Chính thầy đă tuyên bố với quan ṭa rằng thầy ở với vị thừa sai "để
có dịp học hỏi và t́m hiểu cho thấu đáo đức tin Kitô giáo của ḿnh". Tất cả
những ngôn từ kể lại về thầy chứng tỏ thầy đă đạt đến một tŕnh độ cao thâm
trong sự hiểu biết và thực hành đời sống công giáo. Thầy đă tóm gọn trong
một câu: "Đi theo chỉ huy Giêsu của tôi cho đến chết". Anrê c̣n là một gương
mẫu có tính cách rộng lớn hơn nữa. Thầy chết có những người công giáo thuộc
nhiều nước vây quanh, tất cả đều một ḷng ngưỡng mộ và tôn kính thầy. Thi
hài thầy đến Macao đă đem lại cho thành phố nầy một sự hoà giải rộng răi,
trong lúc tại đây đang có những tranh căi đau buồn từng chia rẽ tín hữu công
giáo từ nhiều năm qua. Như thế, chàng tuổi trẻ Anrê không thể biểu hiện cho
sự b́nh an và sự ḥa hợp mà chúng ta hằng cầu mong có được trong Giáo Hội và
giữa nhiều dân tộc sống trên địa cầu đó sao ?
l
l
l
Tôi cũng muốn nói một tí với quư vị, là những người có
chức mục sư đối với thanh niên công giáo, về hai câu hỏi đặc biệt liên kết
chặt chẽ với nhau:Người trẻ phải biết tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới;
điều ấy có ư nghĩa ǵ đối với thanh niên công giáo ? Những người trẻ tuổi –
19, 20 tuổi – có nên sợ chết không ?
Anrê và nền giáo dục truyền thống Việt Nam.
Anrê Phú Yên biết chữ nho, và bắt đầu học tứ thư ngũ
kinh. Ngài biết rơ tam cương ngũ thường của một người quân tử theo truyền
thống của cha ông: ấy là ‘quân thần, phụ tử, phu phụ’ và ‘nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín’. Ngài cũng biết rơ mồn một rằng, tại Việt Nam, Kitô giáo phải định
vị ḿnh trong nền luân lư cổ xưa đó. Trong lời cuối của ḿnh, Anrê nhắc đến
‘nghĩa’, mà ngài xem là đức hạnh nền tảng cho cuộc đời ḿnh.
Quan ṭa kết án ngài không phải là một bạo chúa khát
máu, mà là một ông nghè rất tôn trọng truyền thống. Theo ông, tội lớn nhất
của Anrê không phải là theo đạo, hoặc làm thầy giảng, mà là lỗi nghĩa đối
với quyền lực tối cao. Nói cách khác, điều khiến ngài bị kết án, không phải
là hành vi bên ngoài của ngài, mà là thái độ "bất nghĩa" ở bên trong. Những
người chứng đă nghe ông nghè tuyên bố: "Giá như cậu ấy bảo rằng ḿnh nghèo
khổ, không tiền không bạc, nên làm việc cho ông Cha để kiếm cơm, th́ hẳn tôi
đă tha mạng cho cậu; nhưng v́ cậu trả lời tôi một cách gan ĺ và khí phách,
nên cậu phải chết, v́ đấy là lệnh của nhà vua."
Về phần Anrê, ta không hề thấy ngài thất kính với người
trên hay với chính quyền trên đất nước ḿnh. Thế nhưng ta cũng không thấy
thái độ hèn hạ hay khúm núm mà người ta thường có trước những bậc quan quyền.
Đức tin của ngài đă cho ngài đủ dũng cảm để đứng thẳng, nói rơ ràng và không
sợ sệt. Là Kitô hữu, ngài biết rằng bên trên cha ông mà ḿnh phải thảo hiếu,
bên trên vua chúa mà ḿnh phải trung thành, th́ c̣n có Thiên Chúa, là Cha
của mọi người, và là chủ tể của mọi sinh vật trên trần gian, mà ḿnh phải
kính thờ. Một Thiên Chúa đă tỏ bày t́nh yêu vô biên của Người, theo lời Phúc
Âm: "Chúa đă trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên… và cho ta chẳng c̣n sợ hăi" (Lc
1,72).
Ngược lại, ta cần phải đáp trả bằng đức tin, bằng lễ
nghi cầu nguyện và phụng thờ, nhưng nhất là bằng ḷng trung tín sâu xa trong
mọi giây phút cuộc đời ḿnh.
Đây là điều mà Anrê đă nói lên bằng ngôn ngữ của ḿnh,
và ông nghè đă hiểu đúng đắn. Ông nghè loan báo: "Cậu cả gan đáp rằng cậu là
Kitô hữu, và cậu thờ phượng Chúa Trời Đất, và không ǵ trên đời có thể làm
cho cậu bỏ đạo thánh mà cậu đă theo, và v́ đạo ấy, cậu sẵn sàng dâng mạng
sống và chịu mọi khổ h́nh mà người ta dành cho cậu ! Do đó, bởi lẽ cậu ấy
điên khùng đến độ nói năng như thế, th́ cậu phải chết thôi."
Về phần ḿnh, Anrê nhấn mạnh đến bổn phận đền ân trả
nghĩa mà ḿnh phải dành cho Thiên Chúa, Đấng tác tạo sự sống và Cứu Độ loài
người. Bổn phận ấy phải được đặt trên mọi sự, và trọng hơn cả mạng sống. Ta
thấy rơ điều này qua lời đối đáp của ngài, mà một chứng nhân đă kể lại:
"Khi Ông Nghè bảo anh hăy bỏ Đạo Chúa Kitô th́ ông sẽ
tha mạng cho anh, anh đáp lại: “Tôi không thể nào làm như thế, và nếu ông
muốn xử tử tôi, th́ tôi sẽ đem mạng sống tôi để trả món nợ mà tôi mắc đối
với Thiên Chúa là Đấng Dựng nên tôi. Tôi sẵn sàng dâng một ngàn mạng sống v́
đạo.”"
Chết ở tuổi 19
Kính thưa quư vị, điều này liên quan đến trách nhiệm
của tất cả chúng ta. Đối với một thanh niên công giáo, như Anrê, có những
bổn phận truyền thống là trung tín và kính trọng người trên. Nhưng nhất là
có một mối liên hệ mới – mà ta tự do đón nhận – đó là mối liên hệ với Chúa,
Đấng đă yêu thương ta từ muôn đời và đă gọi ta vào sự sống. Những tương quan
nhân loại chỉ có được tính chất thánh thiêng khi nào chúng được đặt dưới ánh
sáng của t́nh yêu đó, của lời mời gọi đó.
Ḷng trung thành và tín nghĩa đó không đưa ta đến một
cuộc sống u buồn, bị hy sinh. Trái lại, chúng là nguồn mạch cho một niềm vui
sâu xa hơn. Các chứng nhân đă thấy niềm vui ấy toả sáng lên trên gương mặt
của Anrê và họ đă nghe những lời này: "Tôi vui mừng mà chết, v́ tôi dâng
mạng sống tôi cho Đấng đă hiến mạng sống Người v́ tôi… Đừng đau buồn v́ án
tử h́nh của tôi, v́ tôi chết không phải do một trọng tội nào mà tôi đă phạm,
nhưng chỉ v́ tôi là Kitô hữu; c̣n anh chị em, hăy bền tâm vững chí trong đức
tin."
Mặt khác, Anrê không quên tôn kính và nghe lời các
người lớn tuổi trong cộng đồng ḿnh, những người đủ dũng khí để tuyên xưng
đức tin. Trong số đó có Anrê cả, ông già đă chia sẻ ngục tù với ngài. Chúng
ta biết được điều này qua chứng từ của con cụ, cũng là một thầy giảng như
Anrê. Chàng thanh niên tên Đoan đă kể lại như sau: "Khi họ buộc Anrê lên
pháp đ́nh, tôi đă nh́n thấy anh bị trói, cùng với cha tôi. Tôi nhận ra giọng
nói của anh, anh khuyên chúng tôi, cũng như các Kitô hữu khác như sau: “Ông
ấy rất già rồi. Ông đă luống tuổi và sắp về với Chúa rồi. V́ lí do ǵ mà các
Kitô hữu lại không chạy đến để đón tiếp ông, để bắt kịp ông ?”
Như vậy, qua gương của Anrê Phú Yên, chúng ta thấy rằng
chết năm mười chín tuổi không hẳn là một bất hạnh. Chúng ta hiểu rằng không
cần phải sống đến chín mười tuổi. Điều quan trọng, đối với Anrê cũng như đối
với mỗi một chúng ta, ấy là cuộc đời ḿnh phải có một ư nghĩa. Ư nghĩa đó,
ta nhận được qua ḷng trung tín sâu xa và bền bỉ đối với Đấng là Cha mọi
người, Đấng mà ngoài Người th́ không có Đấng Cứu Độ nào khác: "Giữ nghĩa
cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời."
Một sự kiện trọng đại cho Việt Nam
Và đến đây, người công giáo Việt Nam có quyền ước mơ.
Đức Giáo Hoàng – hoạc vị kế tiếp Ngài – có thể sẽ đến Việt Nam thể theo lời
mời của các giám mục Việt Nam không ? Ở đó, có thể chủ tế đại lễ phong thánh
cho Anrê Phú Yên không ? Dẫu Ngài có đến không được th́ hẳn Ngài cũng có thể
gửi vị khâm sai đến thay Ngài chăng ? Và rồi ngày đại lễ mừng Thầy Anrê Phú
Yên được cử hành hết sức trọng thể như mọi người mong ước, trong đất nước mà
ngày đă sống, và ngay tại vùng đất mà ngài đă hy sinh tính mạng, trước sự
hiện diện đầy hân hoan của đông đảo tín hữu công giáo Việt Nam. V́ những
tranh căi mà cuộc phong thánh năm 1988 đă không cử hành trọng thể và công
khai được tại Việt Nam; vào dịp đó, không ai trong nước đến được đền Thánh
Phêrô để dự lễ mừng. Dịp phong chân phước Anrê cữ hành tại Roma một cách quá
kín đáo. Một cuộc phong thánh phải chăng là phương thế tốt đẹp nhất để xóa
đi những kỷ niệm buồn đau và trả lại cho dân Việt Nam những vị tử đạo vinh
quang của họ ?
Các giám mục Việt Nam, trong khi chuẩn bị tham dự cuộc
họp Thượng Hội Đồng về Châu Á năm 1998, đă cầu xin cho Giáo Hội của các ngài
quay trở về nguồn. Điều nầy cũng có nghĩa là người ta phải học hỏi thời ḱ
đầu tiên của việc rao giảng Tin Mừng ở Việt Nam. Như vậy, việc phong thánh
cho thầy Anrê sẽ đến đúng lúc: nó sẽ tạo cơ hội cho mọi người nhận biết rơ
ràng hơn những thế hệ đầu tiên của người công giáo Việt Nam, và biết noi
gương họ nhiều hơn.
Anrê chắc chắn sẽ gây được nguồn cảm hứng cho đồng bào
của ḿnh về một sự đổi mới thật sự trong đời sống tâm linh và sự can cảm
trong việc làm chứng nhân trong những t́nh huống khó khăn mà họ đang trải
qua. Khi thầy giảng trẻ tuổi nầy hy sinh mạng sống tại Quảng Nam, th́ đời
sống công giáo c̣n khó khăn hơn nhiều. Nhưng thầy đă biết đi cho đến cùng
theo sự xác tín của ḿnh, trong niềm hân hoan và sự can đảm. Ngài là người
anh cả của mọi người. Ngay từ bây giờ, chúng ta hăy cung kính dành cho thầy
một chỗ xứng đáng trong trái tim của chúng ta, và trong niềm xác tín sâu xa
chúng ta không ngại kêu cầu với ngài như là vị bổn mạng của tất cả quư vị,
trẻ già, đang dấn thân phục vụ công cuộc ra truyền Phúc Âm.
Lm. Dương Hữu Nhân OMI
Roland Jacques O.M.I.:
Anrê Phú Yên:
NgưỜi TrẺ
TrưỚc NhỮng Thách
ĐỐ
Cho Tương Lai
CuỘc ĐỜi
Lm. F.X. Huỳnh Tấn Hải
Sau gần bốn thế kỷ, ánh
sáng của một v́ sao đă chiếu đến mặt địa cầu: Anrê Phú Yên được tôn phong
chân phước!
Tiểu sử đời anh không
ai biết ǵ hơn ngoài chứng từ của cha Đắc Lộ. Vị thừa sai nầy đă đưa anh vào
đời sống niềm tin Kitô và cũng chính vị thừa sai nầy đă chứng kiến anh chết
cách anh dũng v́ niềm tin. Đọc bài tường thuật của cha Đắc Lộ ghi lại cuộc
tử đạo của Anrê Phú Yên, không ai không thán phục ḷng can đảm và đức tin
sắt đá của anh. Khi bị hành quyết, anh mới 19 tuổi và mới chỉ sống niềm tin
Kitô chưa tṛn 4 năm.
Ở buổi tinh sương của
Tin Mừng trên quê hương Việt Nam, làm sao một tân ṭng như anh có thể lấy
một lựa chọn dứt khoát sống sứ điệp Tin Mừng và kiên tŕ trung thành với lựa
chọn nầy, bất chấp cả cái chết? Người ta nghĩ ngay đến phép lạ. Phải, tử đạo
là ơn ban đặc biệt, và Giáo Hội xem cái chết v́ đạo tự nó là một phép lạ.
Tuy nhiên con đường dẫn đến cái chết đó vị tử đạo phải lần ṃ với tất cả cố
gắng hy sinh của một đời người.
Trước khi máu của Anrê
Phú Yên đổ ra trên mảnh đất quê hương làm trổ sinh hoa quả đức tin th́ hạt
mầm đức tin đă t́m được mănh đất tốt nơi tâm hồn anh rồi. Cuộc đời anh được
hai điều may mắn: Một người mẹ đạo đức và một vị Thầy uyên thâm. Chúng ta
biết rất ít về cuộc đời của Bà Gioanna, mẹ anh Anrê Phú Yên, nhưng chỉ hai
chi tiết nhỏ cũng đủ nói lên tất cả cuộc đời của người mẹ nầy. Tuy chồng bà
chết sớm nhưng các con cái đă được bà giáo dục tốt với tất cả ḷng tận tụy
và khôn ngoan. Bà đă không để cho con tim có khuynh hướng ích kỷ của một
người Mẹ ngăn cản ḷng quảng đại đạo đức. Chính bà đă trực tiếp xin cha Đắc
Lộ cho Anrê là đứa con út mới 15 tuổi, được theo làm môn đệ cha.
Riêng về cha Đắc Lộ,
cuộc đời và sự nghiệp của Cha đă gắn liền với lịch sử Việt nam. Trong lănh
vực loan Tin Mừng, măi đến ngày nay Giáo Hội vẫn c̣n phải loay hoay t́m một
đáp số cho cuộc gặp gỡ giữa sứ điệp Tin Mừng và văn hóa các dân tộc, mà khoa
thần học thường gọi là tiến tŕnh “hội nhập văn hóa” (inculturation), th́
gần 4 thế kỷ trước đây, cha Đắc Lộ đă có trực giác nhạy bén – nếu không muốn
nói là ân huệ lạ lùng – t́m thấy đáp số cho cuộc gặp gỡ nầy trên quê hương
Việt nam. Khi nói đến điều nầy, người ta nghĩ đến chữ Quốc ngữ đă được thành
h́nh do công lao đóng góp lớn của cha, đến ‘Nhà Đức Chúa Trời” hay c̣n gọi
là Hội Thầy Giảng do cha thành lập như một sáng kiến độc đáo thích nghi việc
loan Tin Mừng trong bối cảnh xă hội khó khăn. Nhưng đáp số đầu tiên và chính
xác nhất của tiến tŕnh hội nhập văn hóa nơi mănh đất Việt Nam là cuộc sống
và cái chết của Anrê Phú Yên, Người Chứng Thứ Nhất của Giáo Hội tại Việt
Nam.
Khi c̣n sống với mẹ,
Anrê Phú Yên đă được hấp thụ một nếp sống gia đ́nh Việt Nam đạo đức. Khi
theo cha Đắc Lộ, thay v́ dạy thiên văn và toán học Tây phương, vị thừa sai
nầy đă cho các môn sinh của ḿnh học nền lễ giáo Á đông. Trước khi hiểu và
sống đạo làm con Thiên Chúa, Anrê Phú Yên đă am hiểu đạo làm người theo nền
lễ giáo đó. Nền lễ giáo xây dựng trên chữ “Nhân” (nhân sinh chi đạo), bao
gồm các đức tính khác như lễ, nghĩa, trí tín. Trong sách Luận Ngữ, ở đầu
chương Tử Hăn, Khổng Tử dạy: không đem chữ nhân nói chung với chữ lợi và chữ
mệnh (Tử hăn ngôn lợi dữ mệnh, dữ nhân). Nhân th́ không nghĩ đến lợi cho
riêng ḿnh. Nhân th́ không bị trói buộc v́ chữ mệnh, nghĩa là không phải bận
tâm sống chết, may rủi. Đạo nhân nầy đă giúp cho anh Anrê có những đức tính
nhân bản cần thiết để sống và chết cho niềm tin. Hai đức tính nhân bản nổi
bậc nơi anh là ḷng quảng đại và tinh thần trách nhiệm.
Tuy chứng từ ghi lại là
bà quả phụ Gioanna đă xin cha Đắc Lộ cho cậu út của bà đi theo cha làm môn
đệ, nhưng hẳn chính Anrê cũng ước mong điều đó, đúng hơn, chính anh đă thủ
thỉ nhờ mẹ xin hộ cho anh. Ở vào thời của Anrê, sức mạnh và vẻ hào nhoáng
của thực dân chưa có. T́nh nguyện theo vị thừa sai không hy vọng có một cơ
hội tiến thân nào, ngược lại chỉ gặp khó khăn, chống đối. Phải có những phút
gằng co giữa cuộc sống an thân của một đứa con trai út bên người mẹ góa và
bước phiêu lưu với vị thừa sai. Ḷng quảng đại đă giúp anh rời mái gia đ́nh,
rời người mẹ thân yêu. Nơi căn nhà nhỏ bé ở xóm Ḷ Giấy, Phú yên, tiếng gọi
của Chúa đă thắng vượt những ràng buộc cốt nhục và Anrê Phú yên đă ra đi.
Ba năm sau, tại tỉnh
Quảng Nam, niềm tin Kitô đă trở thành đối tượng bị thù ghét. Bà chúa Tống
Thị, một Herodia trong xă hội Việt nam lúc bấy giờ, t́m mọi cách để triệt hạ
niềm tin nầy. Theo lệnh của quan Nghè Bộ là tay sai của Tống Thị, đối tượng
tiêu diệt niềm tin Kitô nhắm vào thầy giảng Ignatio. Nhưng khi quân lính ập
vào nhà cha Đắc Lộ, thầy Ignatio đi vắng. Anrê Phú Yên phải đối diện với sức
mạnh thù nghịch. Anh có thể trả lời một cách đơn giản : thầy Ignatio không
có ở nhà. Nhưng với tất cả tinh thần trách nhiệm, anh nhận ḿnh là Thầy
giảng như Ignatio và sẵn sàng thay thế chỗ của Ignatio. Thế là anh bị bắt và
cuộc hành quyết diễn ra ngay chiều hôm sau.
Lựa chọn và trung thành
là những đường nét chính tạo nên dung mạo một vị tử đạo. Lựa chọn và trung
thành cũng là bước đi của mọi người đeo đuổi cuộc sống niềm tin. Nhưng chính
ḷng quảng đại và tinh thần trách nhiệm là nền tảng của việc lựa chọn và
trung thành.
Nhiều bạn trẻ hôm nay
cảm thấy sợ hải phải lựa chọn và nhất là sợ phải trung thành với những giá
trị đạo đức và niềm tin. Phải chăng họ kém quảng đại và thiếu trách nhiệm so
với các thế hệ trước ? Không, nhưng có lẽ ngược lại. Chưa bao giờ như hôm
nay, giới trẻ tỏ ra quan tâm đến các nhu cầu của người khác, dấn thân vào
mọi sinh hoạt nhằm thăng tiến nhân phẩm. Đó là chưa kể rất nhiều bạn trẻ,
khi nh́n thấy cảnh nghèo đói trên thế giới đă mơ ước tương lai sẽ tận hiến
trọn cuộc đời phục vụ người nghèo.
Tuy nhiên, giới trẻ
ngày nay bị lôi cuốn vào cơn lốc của thời “hậu hiện đại” rất đáng lo ngại.
Thời “hậu hiện đại” không chỉ được đánh dấu bằng những tiến bộ phi thường
của nền văn minh kỷ thuật, nó c̣n được ghi dấu bằng một tổng hợp tư tưởng
tinh vi. Song song với một thế giới đổi thay quá nhanh chóng, có một lối suy
nghĩ và hành động rất hấp dẫn, được gọi là “politically correct”. Đây là lối
suy nghĩ và hành động vừa ảnh hưởng trên toàn cầu, vừa chi phối từng cá
nhân. Trên b́nh diện toàn cầu, theo lối suy nghĩ và hành động “politically
correct,” bây giờ không c̣n lằn ranh giữa bạn và thù, mọi tranh chấp, khác
biệt đều có thể t́m một thỏa thuận, một hợp đồng, và mọi hợp đồng đều có thể
thay đổi theo hoàn cảnh, các quốc gia phải bận tâm đến những liên đới rộng
lớn hơn và các giá trị đạo đức không nhất thiết phải là những điểm đối chiếu
căn bản. “politically correct,’ trên b́nh diện cá nhân, mỗi người hành động
đặt tiêu chuẩn trên lư tưởng ḿnh tự chọn, phù hợp và lợi ích cho hoàn cảnh
thực tế.
Lối suy nghĩ và hành
động nầy hấp dẫn thế hệ trẻ không chỉ v́ tính cách mới mẻ - được coi như là
‘made in U.S.A” - , nhưng c̣n bởi những ưu tư nó đề ra. Bây giờ không c̣n là
thời phải bận tâm đến chuyện đạo đức cá nhân, đến tương quan giữa người với
người một cách riêng rẽ, nhưng là vấn đề liên đới trách nhiệm trong môi
sinh, năng lượng, b́nh đẳng….
Thực tế, “politically
correct” là con đẻ, là tổng hợp thực tiễn của chủ thuyết duy hiện sinh
(existentialism hay cũng gọi là personnalism) trong triết học và nền luân lư
tùy hoàn cảnh (situation ethics). Trong khi đề ra những ưu tư lớn, nó làm mờ
dần tính cách vững bền của tiêu chuẩn đạo đức khách quan là lề luật, những
giá trị của lễ giáo và niềm. Mất dần những đối chiếu căn bản nầy,
“politically correct” dễ đưa tới thái độ thật ích kỷ, có khi vô luân mà
tưởng ḿnh hành động khôn ngoan, quảng đại và có trách nhiệm.
Điều đáng lo ngại là
những nghịch lư nầy đang trở thành phổ quát nơi giới trẻ. Có những bạn trẻ
hăng say lên tiéng chống lại những bất công xă hội, nhưng lại chấp nhận dễ
dàng việc ăn cắp vặt hằng ngày của bạn bè cũng như của chính ḿnh, v́ coi đó
là chuyện nhỏ ! Họ muốn giải quyết những vấn dề toàn cầu nhưng dễ lănh đạm
trước sự dữ đang xảy ra ngay trong nhà ḿnh. Chưa bao giờ câu nói của nhà
bác học Albert Einstein trở nên đáng quan tâm như trong thời đại nầy. Câu
nói đă được ghi bên dưới di ảnh tưởng niệm cái chết oan nghiệt của hai em
Melisa Rosso và Julie le jeune, tại Liège, vương quốc Bỉ, nạn nhân của căn
bệnh hưởng thụ tính dục trẻ con (pedofile) : “Thế giới là nơi nguy hiển để
sống, không phải v́ có những người làm sự dữ, nhưng v́ có những người nh́n
thấy sự dữ và để nó xảy ra” (Le monde est dangereux à vivre non à cause de
ceux qui font le mal, mais à cause de ceux qui regardent et laissent faire).
Nơi nào trên thế giới
nhân phẩm, nhân quyền bị xúc phạm th́ giới trẻ kịch liệt phản đối; nhưng
những xúc phạm sự sống xảy ra nơi người bạn thân cùng sống trong cư xá hay
nơi chính cuộc sống của ḿnh th́ thường dễ được làm ngơ hay bao che. Giữa
tháng 11 năm 1996, người ta t́m thấy một em bé sơ sinh nặng 2 kư 7, dài 51
cm, bị đập vỡ sọ và vất vào thùng rác của khách sạn dọc xa lộ Newark,
Delaware gần Nữu Ước. Điều khủng khiếp là, thủ phạm đập chết em bé sơ sinh
nầy là chính cha mẹ của em. Cô Amy Grossberg, 18 tuổi, nữ sinh viên mới của
trường đại học Delaware và cậu Brian Peterson cũng 18 tuổi, sinh viên mới
của đại học Gettysburg, là con của hai gia đ́nh khá giả vùng ngoại ô thành
phố New Jersey. Rời gia đ́nh vào nội trú ở khu đại học, cô cậu sống nếp sống
tự do của sinh viên thời đại mới. Kết quả là cô Amy Grossberg mang thai.
Chiều thứ hai ngày 11 tháng 11, hai người t́m đường đến khách sạn Comfort
Inn. Tại căn pḥng 220 của khách sạn, đứa con của hai người trí thức trẻ
chào đời lúc 4 giời sáng ngày thứ ba 12 tháng 11. Trước khi rời khách sạn
trở về đại học, hai người đập nát đầu đứa bé và vất vào thùng rác, nhanh
chóng, đơn giản như vất bao giấy của miếng bánh ḿ sandwich điểm tâm sáng!
(Tuần báo Time, 2 tháng 12 năm 1996).
Brian Peterson và Amy
Grossberg: hai người trẻ b́nh thường như bao sinh viên khác! Đây là một
trong muôn vàn trường hợp của lối suy nghĩ và hành động “politically
correct” bị mất những giá trị đạo đức làm điểm đối chiếu.
Giữa một thế giới bị
chao đảo trong cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, và tự do đă trở thành nhăn hiệu độc
quyền của trào lưu sống, giới trẻ vẫn c̣n thao thức sống quảng đại và tinh
thần trách nhiệm. Nhưng cần xác tín rằng, ḷng quảng đại và tinh thần trách
nhiệm không phải là những rung cảm nhất thời, mà là những đức tính nhân bản
phải tập luyện mỗi ngày. Chúng không chỉ là những suy nghĩ và hành động theo
lựa chọn cá nhân phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, nhưng là suy nghĩ và hành
động phù hợp với những điểm đối chiếu đạo đức khách quan.
Lựa chọn và trung thành
với sứ điệp Tin Mừng là điều có thể đối với mọi bạn trẻ hôm nay, nhưng cần
hai điều kiện: Thứ nhất, sứ điệp Tin Mừng có được nh́n nhận là lư tưởng cho
cuộc đời không ? Susanna Tamaro, nữ văn sĩ Công giáo người Ư, trong tác phẩm
“Hăy đi đến nơi con tim đưa bạn đến” (Va’ dove ti porta il cuore), khuyên
các bạn trẻ một câu đầy ư nghĩa : “Chiến đấu cho một ư tưởng mà không có ư
tưởng đó trong ḿnh là một trong những điều nguy hiểm nhất người ta có thể
làm” (Lottare per un’ idea senza c’ e un’ idea di sé è una delle cose più
pericolose che si possa fare.). Có thể có những bạn trẻ mang danh Kitô hữu
rơi vào điều nguy hiểm này hay không? Thứ hai, ḷng quảng đại và tinh thần
trách nhiệm là những thao thức của giới trẻ hôm nay, nhưng chúng có được coi
là những giá trị nhân bản khách quan và vững bền hay không? và các giá trị
Tin Mừng có được lấy làm những điểm đối chiếu căn bản để suy tư và hành động
thể hiện ḷng quảng đại và tinh thần trách nhiệm hay không?
Anh Anrê Phú yên đă để
lại cho chúng ta một mô thức sống niềm tin, có sức vượt tháng sức ép của xă
hội không thuận lợi với niềm tin nầy. Anh đă tạo cho ḿnh một nếp sống nhân
bản vững chắc. Ḷng quảng đại và tinh thần trách nhiệm của anh đă t́m gặp
một điểm tựa để thuyền đời anh neo bến. Một cuộc “hội nhập văn hóa” đă xảy
ra trên cuộc sống của anh. Anh đă lựa chọn và trung thành với niềm tin Kitô.
Anh đă mở lối và chỉ cách cho cuộc “hội nhập văn hóa” có thể xảy ra trên đời
của các bạn trẻ Việt Nam đi sau anh. Họ cũng biết cách lựa chọn và sống niềm
tin Kitô●
Lm. F.X. Huỳnh Tấn Hải
Theo DẤu Chân
NgưỜi...
Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt
Tôi có người quen ở tỉnh Phú Yên, nên một hôm ghé thăm.
Dịp ấy, tôi được biết ḿnh đang ở ngay trên quê hương của thầy giảng Anrê
Phú Yên, nay là địa sở (tức giáo xứ) Mằng Lăng, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Tôi mượn cha sở được cuốn “ Người Chứng Thứ Nhất” của Phạm Đ́nh Khiêm, và
ngay tại hành lang nhà thờ Mằng Lăng hôm ấy, khuôn mặt thiên thần của một
người trẻ có chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử Hội Thánh Việt Nam đă làm tâm
hồn tôi rung động sâu xa. Trong nhà thờ, trước Chúa Giêsu Thánh Thể, tôi đọc
bài văn “ Anrê Phú Yên” của Trăng Thập Tự mà thấy ḷng ḿnh như ch́m trong
đại dương thần linh vô tận.
Hôm sau, tôi đi thăm xóm Ḷ Giấy, cách nhà thờ Mằng
Lăng chừng 2 Km, nơi chôn nhau cắt rốn của thầy giảng Anrê Phú Yên. Đây là
một xóm nghèo, hiện chỉ c̣n chưa tới 10 gia đ́nh công giáo. Xưa kia xóm này
có một ngôi nhà thờ nhỏ, nhưng hiện nay chỉ c̣n cái nền gạch dùng làm sân
phơi lúa. Tối đến, ngồi bên bờ sông Kỳ Lộ, con sông ngăn cách nhà thờ Mằng
Lăng với xóm Ḷ Giấy, tôi hồi tưởng lại một con người, một cuộc đời, một
thanh niên, một giáo lư viên, một nhân chứng của Đức Kitô vào thời khai sinh
Hội Thánh Việt Nam.
1. Không Ai Có T́nh Yêu Lớn Hơn
Thời điểm ân phúc trọng đại đến với anh vào tháng 7 năm
1644, tại Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng hiện nay. Hôm ấy, anh đang ở
trụ sở các Cha Ḍng Tên tại Hội An. Cha Đắc Lộ cũng như các thầy giảng khác
đang đi làm việc tông đồ, chỉ c̣n lại anh ở nhà giúp mấy anh em khác đau
yếu. Lính t́m thầy Inhaxu không được nên tức giận thu hết ảnh tượng, đập phá
hết nhà cửa, rồi trói anh dẫn đi. Cha Đắc Lộ kể: “Anrê bị điệu đi tới quan
trấn, bị tố cáo là giáo dân và thầy giảng. Rồi họ dẫn thầy vào ngục, nơi đă
có một chứng nhân khác cũng tên là Anrê. Cả hai thức suốt đêm, coi như đêm
cuối cùng đời ḿnh, an ủi nhau, tin tưởng vào ngày mai cả hai sẽ về thiên
quốc.” Ngay hôm sau, quan tổng trấn kết án tử h́nh cả hai. Cha Đắc Lộ vận
động tất cả mọi người Bồ Đào Nha ở Hội An đến xin quan trấn khoan hồng.
Người kia được tha, v́ có con cháu. riêng anh “sẽ phải chết như đă xin, để
dạy cho mọi người biết vâng lệnh Chúa.” Chúa đây là chúa Nguyễn ở Huế. Chiều
ngày 26/07/1644, anh được dẫn đến pháp trường G̣ Xử. Cha Đắc Lộ kể tiếp: “
Tới nơi toàn thắng, thầy quỳ xuống cầu nguyện để chiến đấu cho can đảm hơn.
Lính gác chung quanh. Họ không cho tôi ở bên trong ṿng lính, nhưng viên đội
trưởng cho phép tôi vào, và đứng cạnh thầy. Thầy vẫn quỳ dưới đất, mắt nh́n
lên trời, miệng luôn hé mở và đọc tên Chúa Giêsu.” Được lệnh, một người lính
lấy giáo đâm anh từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Anh đưa mắt
tŕu mến nh́n cha Đắc Lộ để vĩnh biệt. Cha nói anh hăy nh́n lên trời là nơi
anh sắp tới và có Chúa Giêsu đón tiếp. Anh ngước mắt lên cao và không nh́n
xuống nữa. Cũng tên lính lấy giáo đâm anh lần thứ nh́, rồi lần thứ ba, như
thể muốn t́m trái tim anh. Điều kỳ lạ là anh vẫn quỳ chứ không ngă. Cuối
cùng, lính phải lấy mă tấu chém hai nhát, đầu anh ĺa khỏi cổ, xác anh ngă
gục, hồn anh đến với Chúa. Cha Đắc Lộ đưa xác anh về Áo Môn, c̣n đầu anh về
Rôma. Năm ấy anh 19 tuổi.
2. Nước Trời Như Hạt Cải
Dưới ánh trăng vằng vặc, tôi nh́n ḍng sông Kỳ Lộ hiền
ḥa lấp lánh, núi Aman và núi Sơn Chà đơn sơ mà bí ẩn, rồi những lùm tre,
những mái tranh, những con thuyền nhỏ ( ở đây gọi là sơng). Quê hương của
anh thật xinh đẹp và dễ thương. Một nhóm thanh niên nam nữ ngồi trên băi cát
cùng nhau hát rồi cười đùa, sau một ngày lam lũ. Tôi bắt gặp đâu đây h́nh
ảnh của anh hơn 300 năm trước.
Vào thế kỷ XVII, bước chân nam tiến của ḍng giống Lạc
Hồng mới đến Đèo Cả. Phú Yên là tiền đồn phía nam của tổ quốc. Dinh Trấn lúc
ấy đóng ở bờ sông Kỳ Lộ, gần cửa biển Tiên Châu. Hẳn là ông bà hoặc cha mẹ
anh đến lập nghiệp tại vùng đất mới này, để nơi đây trở thành quê hương anh.
Và Phú Yên trở thành tên anh. Năm 1641, cha Đắc Lộ, vị thừa sai kiệt xuất
tại Việt Nam, đă từ B́nh Định đến cửa biển Tiên Châu, theo sông Kỳ Lộ vào
dinh trấn Phú Yên để giúp đỡ các bổn đạo mới đến đây lập nghiệp. Năm ấy, anh
16 tuổi. Cuộc gặp gỡ giữa cha và anh diễn ra thế nào không ai biết rơ. Nhưng
chúng ta có thể chắc rằng đó là cuộc gặp gỡ giữa một sứ giả của trời và một
tâm hồn luôn hướng lên trời cao. Có lẽ ngày xưa Chúa Giêsu cũng gặp thánh
Gioan như vậy. Chuyện xảy ra 3 năm sau đó hơi khác: một đàng là thánh Gioan
đứng dưới chân thánh giá, hiệp thông với Chúa Giêsu trong những giờ phút
cuối, một đàng là cha Đắc Lộ chứng kiến và khích lệ người môn đệ yêu dấu của
ḿnh để làm chứng cho đức tin. G̣ Xử ở Quảng Nam mở đầu cho vô số những Đồi
Sọ mới trên đất Việt.
Cha Đắc Lộ đến Hội An từ năm 1624. Ba năm sau, cha trở
thành người đặt móng cho Hội Thánh Đàng Ngoài. Noi gương Hội Thánh Nhật Bản,
khi đến Hội An khởi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam năm 1615, cha
Phanxicô Buzomi mời gọi một số giáo dân nhiệt thành cộng tác vào việc phục
vụ cộng đoàn cũng như công cuộc truyền giáo. Ở Đàng Ngoài, tại Thăng Long.
Cha Đắc Lộ tiến thêm một bước là tổ chức Hội Thầy Giảng. Cha mời gọi một số
thanh niên độc thân nhiệt thành và có uy tín, huấn luyện họ làm giáo lư
viên, cho họ sống chung với cha, cho họ tuyên khấn công khai trước mặt giáo
dân . Khi không có các thừa sai, chính các thầy giảng lănh đạo cộng đoàn,
nhờ đó sinh hoạt không bị đ́nh trệ, việc truyền giáo mở rộng, và khi bị bách
hại, các tín hữu vẫn có được những điểm tựa tinh thần. Thành công ở Thăng
Long, khi trở lại Hội An, cha lập Hội Thầy Giảng Đàng Trong. Lúc ấy, Hội An
là một thương cảng quốc tế , nơi tàu bè các nước, đặc biệt là Trung Hoa,
Nhật Bản và Bồ Đào Nha, ra vào buôn bán tấp nập. Các cha Ḍng Tên đặt trụ sở
truyền giáo tại đây, nên Hội An cũng là “ nhà chung” của các thầy giảng.
3. Dù Mưa Rơi Hay Băo Tới
Cha Đắc Lộ đến dinh trấn Phú Yên lần đầu, có thể thầy
giảng Anrê Phú Yên chỉ là một thiếu niên như bao thiếu niên khác ở miền quê.
Những mảnh ruộng nhỏ, những chiếc sơng nhỏ, hai con núi nhỏ là nơi anh cuốc
đất gieo lúa, bắt tôm bắt cá, kiếm củi kiếm than. Được rửa tội, anh mang tên
thánh Anrê. Ở nhà hoặc trong giấy tờ anh tên là ǵ, không ai biết nữa. Thật
là tiếc, nhưng cũng hay. Ngày nay, anh được mọi người gọi bằng tên thánh bổn
mạng ghép với tên xứ sở. Anh đă trở thành linh thiêng, không ai gọi bằng tên
riêng nữa. Năm 17 tuổi, anh ĺa bỏ gia đ́nh và quê quán, theo cha Đắc Lộ vào
Hội An, gia nhập Hội Thầy Giảng. Trong hai năm ở đây, anh đă làm ǵ ? Chắc
cũng như mọi thầy giảng khác, anh được huấn luyện về nghề nghiệp và về giáo
lư, đặc biệt là đời sống đức hạnh và phục vụ. Năm 18 tuổi, anh khấn hứa công
khai. V́ c̣n nhỏ có thể đóng vai tṛ phụ thuộc. Điều quan trọng là, như Chúa
Giêsu, anh ngày càng lớn lên, thêm khôn ngoan, được Thiên Chúa và mọi người
thương mến.
Đứng đầu nhóm thầy giảng ở Hội An là thầy Inhaxu. Đây
là một tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu. Tuy nhiên, có một người rất ghét
thầy, đó là một phụ nữ gọi là Tống Thị. Bà là vợ nhỏ của Vương Tử Kỳ, con
chúa Săi và làm trấn thủ Quảng Nam. Năm 1631, Vương Tử Kỳ chết, rồi năm
1635, chúa Săi cũng qua đời. Em của Vương Tử Kỳ kế vị cha, gọi là chúa
Thượng. Tống thị ra vào với chúa Thượng như vợ chồng, làm nhiều người gai
mắt, trong đó có thầy Inhaxu. Cha Đắc Lộ kể: “ Vào tháng 7 năm 1644, quan
trấn tỉnh Phú Yên từ phủ chúa về, đem theo sắc lệnh, không phải của chúa, v́
chúa vẫn tỏ thịnh t́nh với tôi, nhưng của bà chúa xưa nay vốn ghét đạo, như
tôi đă nói, và nhất là bà thề sẽ hăm hại thầy Inhaxu. Quan trấn này tự nhận
công việc, v́ hợp ư xấu đă có từ lâu.”
Một lần có dịp đến Hội An, tôi đă t́m đến nơi xưa kia
anh đă sống hai năm cuối đời. Dĩ nhiên, trụ sở của các cha Ḍng Tên hồi đó,
cũng như chính ngôi nhà thờ đầu tiên của Việt Nam, không c̣n lại dấu vết
nào. Hiện nay, đó là một ḷ giết mổ heo trên đường Cửa Đại. Theo quốc lộ 1
từ Điện Bàn về phía nam chừng mấy cây số, tôi đến nơi xưa kia là G̣ Xử.
Không một dấu tích ǵ. Trở lại xóm Ḷ Giấy, không ai c̣n nhớ đâu là căn nhà
đă đón anh vào đời. Chẳng những không ai nhớ tên anh, cũng chẳng ai biết cao
hay thấp, béo hay gầy, vui nhộn hay trầm lặng. Gần như anh không c̣n là một
con người bằng xương bằng thịt. Anh đă trở thành một lời chứng. Thác là thể
phách, c̣n là tinh anh. Vào đầu năm 1994, khi có dịp đi qua G̣ Xử, tôi dừng
lại một quán nước bên đường, nh́n vào nơi anh đă hy sinh. Tôi thấy rơ anh
vẫn quỳ dưới đất, mắt hướng lên trời cao, miệng kêu tên Chúa Giêsu: ít là
trong ḷng tôi.
4. Tâm Hồn Lớn Trong Vóc Dáng Nhỏ
Thấy người nằm đó biết sau thế nào? Kiều đă tự hỏi như
vậy trước mộ Đạm Tiên. Sau khi chứng kiến thầy giảng Anrê Phú Yên hiến dâng
mạng sống cho Đấng đă hiến dâng mạng sống cho ḿnh, cha Đắc Lộ nói với mọi
người: “ Tôi hết sức mong đợi mọi người trên thế giới được biết người đầy tớ
tuyệt diệu của Chúa, để thúc đẩy họ nhận biết và yêu mến Đấng bạn trẻ này đă
yêu mến đến chịu chết v́ Người.”
Tôi nhớ đến anh, một người trẻ gắn liền với việc theo
Chúa với việc phục vụ Hội Thánh. Anh không nghĩ theo Chúa chỉ để được lợi
lộc đời này hay hạnh phúc đời sau. Gương của cha Đắc Lộ và các thầy giảng
khiến anh bước theo Chúa Giêsu, dấn thân với Chúa. Những người chưa biết
Chúa, hoặc chưa biết Chúa đủ, đang bao vây anh. Anh không thể đến với Chúa
một ḿnh, v́ anh chắc sẽ bị Chúa hỏi, như đă hỏi Cain: “Em con đâu?”
Tôi nhớ đến anh, một thiếu niên thôn quê, chắc là ít
học và cả đến ngây ngô. Cha Đắc Lộ là một giáo sư thần học. Một số thầy
giảng từng là tiến sĩ, cử nhân. Anh không có ǵ đáng kể, đáng khoe. Nhưng ai
cũng có ǵ để đóng góp. Mặt trời chiếu sáng ban ngày hay mặt trăng chiếu
sáng ban đêm. Vào những đêm không trăng, những ngôi sao nhỏ lấp lánh cũng tô
điểm bầu trời. Và ngay cả một ngọn đèn dầu dưới một mái tranh cũng có thể
dẫn đường cho lữ khách.
Tôi nhớ đến anh, ngay hôm bị bắt, không đi làm tông đồ,
nhưng ở nhà săn sóc mấy thầy giảng bị bệnh. Trong chương tŕnh cứu độ bao
trùm cả không và thời gian, mỗi người chỉ đóng một vai tṛ rất nhỏ. Riêng
anh chấp nhận làm những việc được trao, những việc vừa sức, trong vai tṛ
của người đàn em, người phụ tá. Anh như một bông hoa nhỏ trước bàn thờ Chúa,
vào mỗi ngày thường. Anh như một đóa hoa 10 giờ, mọc đâu cũng được, ai hái
cũng được. Thế mà cuộc sống hằng ngày của muôn vàn người rất cần đến những
cây kim sợi chỉ.
Tôi nhớ đến anh, người thắp lên một ngọn đèn, chứ không
ngồi yên nguyền rủa bóng tối. Tống thị và quan trấn Quảng Nam thời nào chẳng
có? Anh không xuống đường la hét, cũng không đóng cửa rên rỉ. Anh nhập đoàn
với Hội Thánh, với Hội Thầy Giảng, làm một tia sáng, làm một hạt muối, để
mặt đất tươi đẹp hơn, đáng sống hơn. Một rừng cây ngày đêm lớn lên mà không
gây một tiếng động nhỏ. Cuộc đời luôn dư thừa những tiếng kêu la than văn,
chỉ thiếu những người âm thầm đem lại b́nh an và niềm vui.
Tôi nhớ đến anh, một người trẻ vui khi bị bắt, vui khi
bị hành h́nh. Anh không phải là một triết gia lạnh lùng trước sự sống và cái
chết. Anh có một niềm hy vọng. Khi theo đạo, anh bước theo Đức Giêsu. Khi
nhập Hội Thầy Giảng, anh muốn trở thành cộng sự viên của Chúa. Khi tử đạo,
anh hân hoan thấy ḿnh nên giống Chúa trên thánh giá. Đức Kitô đă phục sinh
: đó là hy vọng duy nhất của anh. Anh vui v́ t́m được niềm hy vọng. Anh vui
hơn v́ dấn thân với niềm hy vọng. Anh vui nhất khi đạt được niềm hy vọng.
Anh trở thành chứng nhân của niềm hy vọng.
Những lời cuối cùng từ miệng anh, từ ḷng anh, là Chúa
Giêsu. Tôi hiểu hết. Đó là trái tim của anh.
Nh́n mọi sự nhạt nḥa đi, tôi thấy anh nổi bật, ít là
trong ḷng tôi, giữa những người trẻ đă bước theo Đức Giêsu đến cùng: Tôma
Thiện, Anrê Trông, Giuse Tuân... Và cả những Luy Gonzaga, những Têrêsa Hài
Đồng nữa. Tôi nhớ đến Hội Thánh Việt Nam, đến đất nước Việt Nam của hai câu
mở đầu bài văn Anrê Phú Yên :
Cây lành sinh trái ngọt
Đất thánh trổ người hiền.
Và một ư trong ca khúc “Anrê Phú Yên” của Trương Đ́nh
Hiền :
Sống chứng nhân t́nh yêu
Chết lễ dâng toàn thiêu.
Anh đă vào trong kư ức ngàn đời của Hội Thánh.
Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt
NhỮng Phép LẠ nhỜ
lỜi cẦu bẦu
cỦa các Thánh TỬ
ĐẠo ViỆt Nam
đưỢc Ṭa Thánh
công nhẬn
Đ.Ô. Vinhsơn Trần Ngọc Thụ
Những Phép Lạ được tŕnh bày sau đây không phải do mỗi
cá nhân từng vị Thánh Tử Đạo đă làm, nhưng là khi giáo dân, Việt Nam cũng
như ngoại quốc, cầu khẩn, họ cầu một cách tổng quát: "V́ công nghiệp các
Thánh Tử Đạo Việt Nam" hay là "Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cầu cho chúng
tôi". Do đó những phép lạ nói đây mang tính cách tập thể, và giá trị được
tuyên bố là giá trị chung cho toàn khối các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Ba phép lạ đầu tiên (số 1, 2, 3 dưới đây) là những phép
lạ chính thức, nghĩa là đă được Ṭa Thánh nghiên cứu với các Ủy Ban Bác Sĩ
liên hệ, và đă công nhận: do đó có giá trị cho toàn khối 90 vị Tử Đạo (được
phong Chân Phước trong đợt I: 1900; đợt II: 1906; đợt III: 1909). C̣n lại 27
vị (2 vị đợt I: 1900 và 25 vị đợt IV: 1951), v́ đă có bằng chứng hiển nhiên
các ngài đă chết v́ đức Tin: v́ vậy Ṭa Thánh đă tha việc đ̣i hỏi phép lạ
trước khi tôn phong Chân Phước.
C̣n một số phép lạ khác (số 4) và các phép lạ do một
vài cá nhân Tử Đạo (hai Giám Mục Valentinô Berrio Ochoa và Melchor Garcia
Samedro), mặc dầu không được Ṭa Thánh lập Ủy Ban điều tra chính thức và
công nhận, tuy nhiên vẫn là những sự kiện siêu nhiên v́ đă cứu chữa rất
nhiều bệnh nhân một cách lạ thường, và c̣n tiếp tục trong thời gian hiện
tại.
1. Phép Lạ: Bà Margarita Maria Goldsmit, người Anh,
được khỏi bệnh ngày 4/04/1853:
Năm 1849, sau một lần đi tắm, bà Margarita Maria
Goldsmit tự nhiên bị lạnh cả người và cảm thấy đau đớn suốt trong mấy tháng
trời. Sang năm 1850, thấy có phần thuyên giảm, bà theo chồng sang Paris.
Nhưng rồi chính ở Paris cơn bệnh trở lại trầm trọng. Bác sĩ Skrimpton, Bác
sĩ tư của gia đ́nh, từ London sang hiệp lực với 3 vị Bác sĩ người Pháp,
nhưng không làm sao cho bà đi trong nhà. Nằm trên giường không thèm ăn,
không thèm ngủ măi cho tới cuối năm 1852 phải áp dụng cả đến phương pháp
dùng quang tuyến đốt một phần tế bào bên trong, nhưng càng làm cho bệnh nhân
suy nhược!
Bà Goldsmit là một thiếu phụ ngoan đạo, năng xin rước
lễ. Sau cùng, bỏ tất cả các thứ thuốc trần gian, bà nghe lời cha giải tội
làm tuần 9 ngày kính các vị Tử Đạo thuộc nhóm Thừa Sai Paris, trong đó có
nhiều vị Việt Nam, mà Đức Gregorio XVI vừa mới tuyên bố đưa lên bậc Đáng
Kính (năm 1840 và 1843). Trong suốt thời gian 9 ngày đặc biệt đó, bà đeo
trên ḿnh mẫu ảnh, trong đó đựng hài cốt mấy vị Tử Đạo, bắt đầu từ hôm
27/03/1853. Đêm sau cùng bệnh t́nh càng gia tăng, nhưng sáng hôm sau, ngày
4/04/1853, sau khi rước lễ, bà cầm trí tạ ơn Chúa, trong tay nắm chặt mẫu
ảnh mang di tích các vị Tự Đạo.
Tự nhiên bà cảm thấy nôn nao, nghe như có tiếng bên
trong thúc bà ngồi dậy, bà nhận chuông gọi y tá, rồi bà đ̣i ăn v́ cảm thấy
đói sau bao nhiêu ngày tháng kiêng cử. Cô y tá bưng thịt, bưng bánh đưa cho
bà ăn. Ăn xong bà đ̣i lấy xe đưa bà đến nhà thờ dự lễ: trên xe bà không c̣n
thấy diễn lại những lần chân tay co rút đau đớn và nhức nhói như hồi nào!
Trong nhà thờ bà đứng lên ngồi xuống một cách b́nh thản như mọi người khác.
Về tới nhà bà không cảm thấy mệt mỏi: cuộc đời đă tươi sáng trở lại, v́ từ
đó cơn bệnh đă hết hẳn!
2. Phép Lạ: Nữ Tu Saint Bernard, nhũ danh Eleonore
Rogé được chữa lành ngày 23/08/1854:
Là một nữ tu chuyên nghề y tá trong bệnh viện thành phố
Reims bên Pháp, năm 32 tuổi chị mắc chứng bệnh trẹo xương bên chân trái. Từ
tháng 5 năm 1850 cho tới tháng 4 năm 1854, chị bị giải phẫu tất cả 7 lần, và
lần thứ 8 (9/04/1854) là trầm trọng hơn cả. Bác sĩ bắt chị phải đi một thứ
giầy ống, và sau đó c̣n phải bó bột ống chân. Ngày 25/05/1854 chị mệt hẳn
người, và chứng đau gân nơi ống chân trái lan tới cả bộ gân trên đầu, đau
nhức đến mức độ chị lịm đi một hồi lâu, ai cũng tưởng là chị đă chết! Thực
ra chị phải nằm suốt 15 ngày đêm trong t́nh trạng đó. Chính lẽ, phải đưa chị
ra khỏi bệnh viện, đem về nhà Ḍng để chuẩn bị ra đi vĩnh biệt, nhưng chị
năn nỉ ở lại chờ vận mệnh Chúa sẽ gửi tới.
Đúng thế! Tự nhiên một Linh Mục bạn gia đ́nh đến thăm
và từ giă v́ sắp sửa tới ngày nhập chủng viện Hội Thừa Sai Paris và lên
đường truyền giáo. Một tháng sau vị Linh Mục đó viết thư đưa tin cho chị:
trong Hội Thừa Sai đang vận động cuộc phong Chân Phước cho các vị Tử Đạo
thuộc Hội Ḍng xưa kia ở Trung Hoa và Việt Nam, và đề nghị chị nên làm tuần
9 ngày cầu xin, Linh Mục đó hứa sẽ hợp ư cùng với Hội Ḍng Thừa Sai cầu
nguyện cho chị. Tuần cửu nhật bắt đầu hôm 15/08/1854, kính Đức Mẹ Nữ Vương
các Thánh Tử Đạo và kính tất cả những vị Thừa Sai và Giáo Dân đă chết v́ đức
tin.
Trong khi đó chân của chị mỗi ngày càng sưng phồng lên
và người ta thấy rơ nốt bầm máu lan rộng, bệnh nhân không ngủ được. Nhưng
sáng hôm 23 tháng 8/1854, ngày cuối cùng tuần cửu nhật, chị Saint Bernard
đ̣i xuống nhà thờ, một bên nách chống nạng, c̣n bên kia nhờ một chị em nâng
đỡ, chứ không dám để chân trái chạm tới đất. Chị ngồi vào chỗ, nh́n thẳng
lên nhà tạm và tượng Đức Mẹ, chị cảm thấy có một biến chuyển trong ḿnh,
nhưng không làm sao diễn tả cho chính xác, rồi chị tự nhủ: "Có lẽ nào mà
ḿnh được khỏi, nhờ lời cầu khẩn của bằng ấy vị Tử Đạo: Lạy Chúa, v́ Chúa mà
các ngài đó đă đổ hết máu đào, lạy Mẹ, chính Con Mẹ mà các ngài đă chịu cực
h́nh". Xong lễ, chị ra khỏi nhà thờ lúc 8 giờ sáng: một ḿnh chị chống nạng
hai bên nách và thử lê chân trái chạm tới đất. Chị tiếp tục làm hết tuần cửu
nhật. Vào buổi trưa, thay v́ nạng, chị di chuyển bằng một cây gậy.
Lúc 15g30, chị đi hát kinh chiều với cộng đoàn, ngồi
bên bà Giám Đốc. Về cuối giờ kinh chị cảm thấy nơi ống chân tự nhiên giật
mạnh một cái đau nhói, nhưng rồi êm luôn. Chị Saint Bernard một ḿnh đứng
dậy, hai tay không mang ǵ hết, chị tiến thẳng về tượng Đức Mẹ xa cách đó
chừng 20 thước và quỳ tạ ơn. Toàn thể cộng đoàn ngơ ngác nh́n chị với vẻ
ngạc nhiên, nhưng hết sức vui mừng phấn khởi, tất cả đều đứng lên theo bà
Giám Đốc Tu Viện và đồng nhịp họ lớn tiếng hát bài Magnificat tạ ơn Thiên
Chúa!
3. Phép Lạ: Cô Dolores Conflans được chữa khỏi chứng
bệnh tê liệt xương sống: 8/06/1888, tại VIC (Tây Ban Nha):
Cô Dolores Conflans, quê tại thành VIC, năm 18 tuổi, bị
tê liệt xương sống phải nằm suốt trong 11 năm liền. Đau tới mức độ lan ra cả
xương bả vai và hai cánh tay. Con người gầy c̣m, v́ không ăn uống được nhiều
chỉ c̣n da bọc xương. Mỗi lần mệt mỏi cô muốn cử động mấy đầu ngón tay là cả
một công tŕnh, v́ phải mất lâu thời giờ. 5 bác sĩ thay nhau khám bệnh và
điều trị, tuy nhiên không làm sao cho bệnh nhân có khả năng tiến đi được mấy
bước. Bác sĩ Torres, năm1879, khi mới bắt đầu đến chữa đă tuyên bố: thân cô
Dolores là "một vết thương cụ thể", nói trúng hơn là "một huỷ bại toàn diện
cơ thể" (leione materiale, o distruzione dell' organo).
Do người ta khuyến cáo, cô yêu cầu được chở tới đền các
vị Tử Đạo Việt Nam, đang được chuẩn bị tôn phong Chân Phước đợt II (1906),
nơi đây cô cầu xin ráo riết, nhất là cầu xin Thánh Linh Mục Amato, là vị đă
sinh trưởng tại VIC, và trong đền các vị Tử Đạo nói trên c̣n giữ hài cốt của
ngài. Cô dự thánh lễ: vào lúc Linh Mục chủ tế chịu Ḿnh Thánh Chúa, cô cảm
thấy trong ḿnh thoải mái dễ chịu, tự nhiên cô quỳ xuống đất, lúc ban đầu
tay c̣n vịn vào chiếc ghế đằng trước, cô quỳ gối làm dấu Thánh Giá, và rồi
cũng tự ḿnh đứng lên cho tới hết giờ đọc Phúc Âm sau cùng.
Cô Dolores Conflans c̣n ở lại trong đền các vị Tử Đạo,
dự thêm một thánh lễ thứ hai, nghe giảng, rước lễ, rồi sang tu viện các Nữ
Tu Đa Minh bên cạnh đền thờ, cô ăn sáng tại đây, và ở măi cho tới 8 giờ tối.
Buổi chiều hôm đó, cô đi lại thăm tu viện, và c̣n cầm đèn nến trong tay tham
dự cuộc rước kiệu Thánh Thể hôm đó, 8/06/1888, được tổ chức trong sân tu
viện như bất cứ một nữ tu b́nh thường khác vậy.
Bác sĩ Pellegrini, một trong 5 bác sĩ điều trị bệnh
nhân, đă trở lại khám nghiệm các phần thân thể đau yếu hồi trước của cô
Dolores Conflans, đă minh chứng: "Sau khi hội kiến với 4 Bác sĩ khác, chúng
tôi không thể giải thích theo phương pháp y khoa t́nh trạng khỏi bệnh bất
thường của cô Dolores Conflans".
4. Phép Lạ: Cô Adela Mac Master, ngày 4/09/1959, tại
Mexicô D.F.:
Bị ung thư ở ngón tay giữa bàn tay trái: đầu tiên như
một cái mụn mọc lên ở đốt cuối cùng ngón tay, mỗi ngày cứ phồng lên to như
quả nhăn, cô Adela Mac Master cảm thấy nhức nhói lan ra khắp bàn tay, và là
một cực h́nh mỗi lần phải cử động, hay lỡ ra bị va chạm vào đâu. Các Bác Sĩ
công nhận chỉ c̣n một cách giải phẫu và cưa hẳn ngón tay. Nghe đến chuyện
giải phẫu bệnh nhân rùng ḿnh kêu khóc.
Để trấn an cô con gái cưng, ông thân sinh tự xuất thân
làm "bác sĩ" bằng cách lấy thứ dầu Bengué thoa bóp ngón tay, rồi ông tự ư,
khi băng bó, gói cả trên vết thương miếng vải di tích của Thánh Giám Mục
Valentino Berrio Ochoa, tử đạo năm 1861 tại Hải Dương.
Sáng hôm 4/09/1959, cả gia đ́nh đi nhà thờ ḍng Đa Minh
có ư xin lễ cầu cho cô "v́ công nghiệp vị Thánh Tử Đạo" nói trên. Nhưng Cha
Giám Đốc Tu Viện chỉ định ngày 27 tháng 9/1959 mới có thể dâng thánh lễ theo
ư muốn gia đ́nh, v́ suốt thời gian trước đó đă có người khác dành chỗ cả
rồi! Tuy nhiên, ngay chiều hôm đó cô Adela (23 tuổi) nhỏm dậy chạy đi t́m mẹ
và cô em gái, cô la ó ầm ĩ: "Mẹ ơi, xem ngón tay con, hết đau rồi nè". Cục
ung thư biến đâu mất, và ngón tay trở về b́nh thường không thấy dấu vết ǵ
nữa. Các Bác sĩ được mời đến khám nghiệm đều ngơ ngác trước sự kiện lạ lùng
do quyền phép Chúa làm.
5. Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa vẫn c̣n
tiếp tục thi ân trong rất nhiều trường hợp các bệnh nhân được chữa lành
mạnh:
Một đặc điểm là Thánh Giám Mục Valentino Berrio Ochoa
vẫn c̣n tiếp tục thi ân trong rất nhiều trường hợp các bệnh nhân được chữa
lành mạnh. Tại thành phố Bilbao (Tây Ban Nha) người ta đă mở cả một "Văn
pḥng Tôi Tớ Chúa: Berrio Ochoa" (Secretariado Berrio Ochoa Dominicos) và đă
công bố một tài liệu về những phép lạ đă nhận được do sự bảo trợ của "Thánh
Valentino Berrio Ochoa và các Bạn Tử Đạo" nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhật
của Ngài 1827-1927.
Trong tập tài liệu nói trên, có ghi lại một vài sự kiện
như sau:
- Tính theo số những đơn đă xin đích danh và một ḿnh
Thánh Valentino Berrio Ochoa, từ tháng 6 năm 1908 tới tháng 5 năm 1985: được
116 phép lạ chữa lành bệnh nhân;
- Theo số đơn đă xin Thánh Valentino Berrio Ochoa và
các Bạn Tử Đạo: từ tháng 12 năm 1978 tới tháng 2 năm 1986: được 21 phép lạ
tập thể (miraculum globale);
- Sau cùng, hai phép lạ được khỏi bệnh qua sự bảo trợ
của Thánh Melchor Garcia Sampedro (Tử Đạo tại Nam Định, 28/07/1858).
Trên thực tế là những bệnh nhân đă được lành mạnh và đă
trở lại tri ân và ghi tên tuổi của ḿnh, nhưng các phép lạ được nhắc tới
trong mục số 4, và 5 không lập thành bản án điều tra theo thể thức giáo
luật, như mấy phép lạ kể trên số 1, 2, và 3. Tuy nhiên sự kiện vẫn minh
chứng ḷng tôn sùng sâu rộng của giáo đoàn, nhất là giới bệnh nhân, dành cho
các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, cũng như minh chứng sự kiện Chúa Quan Pḥng
bảo đảm uy thế các ngài trước ṭa thiên Chúa.
Đ.Ô. Vinhsơn Trần Ngọc Thụ
(Trích
tập sách Vụ Án Phong Thánh của tác giả
Đức
Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)
TỔ tiên chúng ta
đă chẾt v́ yêu
cho chúng ta đưỢc
sỐng dỒi dào
Lm Nguyễn Văn Khải, CSsR
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đi từ Bắc chí Nam, đâu đâu
chúng ta cũng thấy dấu tích liên quan đến các vị tử đạo. Ở Hà Nội này chúng
ta biết gần nhà thờ chúng ta ngày trước có pháp trường Cầu Giấy là nơi xử tử
nhiều đấng tử đạo. Ở Huế ngay trên con đường thiên lư Bắc Nam, ngang phía
thành cổ, ngày nay chúng ta c̣n thấy địa danh Cống Chém, nơi ngày xưa thường
chém cácvị tử đạo trong đó có Thánh Simon Hoà. Ở Sài G̣n, trên đường Nguyễn
Trăi, chỗ gần nhà thờ Chợ Đũi, c̣n dấu tích pháp trường Cây Da C̣m, nơi xử
tử thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm. Đi khắp các tỉnh đâu đâu cũng thấy dấu tích tử
đạo cũ mới. Máu các nhân chứng đức tin thấm đẫm đất Việt Nam ḿnh. Có nơi,
như ở Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tầu, hoặc ở Trí Bưu, Quảng Trị có hàng trăm
kitô hữu v́ đạo mà bị thiêu sống cùng lúc. Người ta đoán định cho đến cuối
thế kỷ XIX, sau gần 4 thế kỷ truyền giáo ở VN, có khoảng 150.000 vị tử đạo,
trong đó có 117 vị đă được phong hiển thánh và 1 vị đă được phong chân phúc.
Các vị tử đạo là ai? Thưa các ngài là tổ tiên của chúng
ta trong máu huyết và/họăc trong đức tin. Chúng ta mang họ tên các ngài. Các
ngài là những người con hiếu thảo: Thánh Anrê Trông dặn bạn đồng ngũ đang
canh ḿnh rằng: “Xin anh giúp đỡ mẹ em. Chúng ta là anh em. Xin nhắn mẹ em
đừng lo ǵ cho em cả. Cầu chúc cho mẹ măi thánh thiện và hài ḷng v́ cậu con
trai luôn trung thành theo Chúa cho đến chết”. Các là những người cha nhân
từ bác ái: Thánh Quỳnh, một người luôn tin Chúa quan pḥng và luôn giúp đỡ
người nghèo, đă nói với vợ con rằng: “Tôi chưa thấy ai hay giúp đỡ người
nghèo mà lại phải túng bấn bao giờ”. Các ngài là những người mẹ đảm đang:
Người con của Bà Thánh Đê làm chứng rằng: “Mẹ chúng tôi rất chăm lo việc dạy
dỗ con cái. Chính người dạy dỗ chúng tôi học chữ, học kinh bổn và học cách
dự thánh lễ. Người không bao giờ đề chúng tôi biếng nhác xưng tôi rước lễ.
Người cho chúng tôi vào Hội Con Đức Mẹ và Ban thưa kinh ở nhà thờ. Khi chúng
tôi lấy chồng người vẫn thường xuyên thăm viếng và khuyên bảo điều hay lẽ
phải”.
Các ngài là những người hết ḷng yêu mến và phục vụ đất
nước Việt Nam. Không những phục vụ nhân dân mà c̣n phục vụ cả vua chúa.
Không những phục vụ bằng việc giảng đạo mà c̣n bằng cả công tác khoa học. Sử
sách cho biết: Cha Thánh Minh đă cùng Đức Cha Tabert Từ soạn bộ từ điển
Annam - Latin, góp phần hoàn chỉnh chữ quốc ngữ và chuẩn hoá tiếng Việt mà
chúng ta đang sử dụng ngày nay. Cha thánh Jarcard Phan và Cha Thánh Gagelin
Kính đă dịch thuật các sách vở tài liệu và dạy ngoại ngữ cho các quan trong
Triều đ́nh Huế.
Các thánh tử đạo Việt Nam hết thảy đều là những người
tốt lành. Thế nhưng, các ngài đă phải chết. Có đấng bị chết rũ trong tù. Có
đấng th́ bị án bá đao nghĩa là bị xẻ thân ra làm trăm mảnh. Có đấng bị án
trảm nghĩa là bị chém đầu. Có đấng bị xử giảo nghĩa là bị treo cổ. Có đấng
bị án lăng tŕ nghĩa là bị chặt tay chặt chân trước khi bị chém đầu. Có đấng
chết rồi c̣n bị chém. Có đấng chết đă an táng rồi mà xác c̣n bị quật lên ném
trôi sông.
Các ngài phải chết và chết thảm như vậy , xét ở mức
tổng quát nhất, là v́ một lư do rất đơn giản: Các ngài tin Chúa Kitô, yêu
Chúa Kitô và muốn trở nên giống Chúa Kitô khi cùng chịu đau khổ và chịu chết
với Người. Chính ước muốn này là sức mạnh giúp các ngài đón nhận cái chết
cách thanh thản và cao thượng. Thánh Tôma Khuông nói: “Tôi không mong ǵ hơn
là được hy sinh mạng sống v́ đạo thánh”. Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh nói
với thánh Đaminh Đinh Đạt rằng: “Hai người bạn của ngươi (Thánh Huy và Thánh
Thể) đă bị chém làm tư quẳng xuống bể. C̣n ngươi có khôn th́ bỏ đạo để về
với vợ con”. Thánh nhân đă đáp: “Tôi đă chịu nhiều khổ h́nh v́ đức tin. Nay
tôi sẵn ḷng chịu những khổ h́nh khác nữa. Hai bạn tôi bị chém làm tư là
phúc trọng. Phần tôi, quan cứ bổ tôi làm tám cũng được”.
Thế đấy, Bằng cuộc sống và cái chết của ḿnh, các đấng
tử đạo là tổ tiên chúng ta đă t́m ra được sức mạnh trong sự yếu đuối như
thánh Phaolô kinh nghiệm. Bằng cuộc sống và cái chết của ḿnh các ngài đă
chứng thực rằng: Không ǵ có thể tách các ngài ra khỏi ḷng mến cũa Chúa
Kitô. Rằng trong mọi thử thách các ngài đă toàn thắng nhờ Đức Kitô. Bằng
cuộc sống và cái chết của ḿnh các thánh tử đạo đă làm chứng về sự sống lại
của Chúa Kitô, về sự sống đời đời trong t́nh yêu Thiên Chúa.
Kính thưa quư ông bà anh chị em, tôi thấy cái chết của
các đấng tử đạo Việt Nam là một trong những nền tảng cho sự tồn tại và phát
triển của GH. Đức Cha Retort Liêu, một thánh tử đạo VN, đă viết cho Cha
Thánh Khoan, cha xứ Phúc Nhạc quê tôi, khi ấy đang bị tù đầy thế này: “Máu
các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn GH và làm cho vườn Giáo Hội
thêm phong nhiêu”. Tôi thấy đúng vậy. Giáo xứ Phúc Nhạc ở Giáo phận Phát
Diệm là nơi có nhiều vị tử đạo trong đó có Bà Thánh Đê, Cha Thánh Khoan. Nhờ
máu của các ngài đổ ra mà từ một xứ Phúc Nhạc ngày xưa, ngày nay đă sinh ra
cả chục giáo xứ khác. Đấy là chưa kể một xứ Phúc Nhạc thứ hai ở Gia Tân,
Thống Nhất, Đồng Nai với khoảng 11 ngh́n giáo dân. Đấy là chưa kể những
người Phúc Nhạc tản mác khắp nơi trên đất nước này và ở ngoại quốc. Bao
nhiêu giáo xứ khác trên đất nước này cũng đă diễn ra t́nh trạng lớn mạnh
tương tự như vậy nhờ hạt giống đức tin của các ngài đă giao vào ḷng đất.
Người ḿnh thường bảo “con nhà tông không giống lông
cũng giống cánh. Chúng ta đều là con cháu của các vị tử đạo. Hôm nay, trong
ngày mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta xin Thiên Chúa nhân lành
cho chúng ta được sống chết v́ yêu Chúa Kitô và yêu người thân cận như các
ngài. Amen.
Lm Nguyễn Văn Khải, CSsR
HẠT GIỐNG SINH NGƯỜI KITÔ GIÁO
Mt 10, 17-22
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,
CSsR
Nói tới các Thánh Tử Đạo, chúng ta không khỏi ngạc
nhiên đến lạ lùng bởi v́ hàng hàng lớp các vị tử đạo trên khắp thế giới đă
đổ máu đào để minh chứng cho Chúa Giêsu. Tertullien đă viết :” Chính ḍng
máu các Thánh Tử Đạo đă nẩy sinh Kitô hữu “. Và chúng ta cũng không thể tả
xiết nỗi vui mừng khi sách Khải Huyền mô tả :” …Xuất hiện một đoàn lũ thật
đông đảo không thể đếm được, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi
ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Chiên Con, ḿnh mặc áo trắng, tay cầm
nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô :” Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng
ngự trên ngai và chính Chiên Con đă cứu độ chúng ta “ ( Kh 7, 9-11 ). Họ là
ai ? Vị Kỳ mục trả lời :” Họ là những người đă đến, sau khi trải qua những
cơn thử thách lớn lao, đă giặt và tẩy trắng áo ḿnh trong máu của Chiên Con
“ ( Kh 7, 14 ). Họ là những người đă không tiếc ǵ với Chúa, đă không khước
từ t́nh yêu dù để cứu lấy mạng sống ḿnh. Và họ là những người đă luôn tin
vào Chúa, tin vào ơn cứu độ chỉ có nơi Thập Giá của Đức Kitô.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO LÀ AI ? :
Đọc lại lịch sử các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta
hông khỏi bùi ngùi xúc động, bởi v́ các Thánh Tử Đạo Việt Nam xuất thân từ
mọi thành phần trong xă hội. Họ là những người thấp bé trong xă hội. Họ là
những giáo dân v́ theo Chúa, nên họ đă bị bắt, bị kết án và bởi v́ không
chịu chối đạo, không chịu bước qua Thánh Giá, họ đă bị xử tử h́nh bằng nhiều
cách hung bạo dă man. Họ là những phụ nữ chân yếu tay mềm, nhưng quyết không
nhường bước, không thỏa hiệp để được sống thảnh thơi mà chối Chúa. Họ đă
trung kiên, tín thác nơi Chúa và như thánh Phaolô họ đă :” Tôi làm được mọi
sự trong Đấng củng cố tôi “( Pl 4, 13 ). Họ là cụ già 80 tuổi như thánh Lê
Bảo Tịnh; là một bà cụ già 62 tuổi như nữ thánh Anê Đê; như một cậu trai 14
tuổi, thánh Phaolô Bột; là một thiếu nữ 12 tuổi như cô Lucia Liễu; như
Phaolô Đạm 10 tuổi; như em bé Phaolô Túc 9 tuổi. Họ là các Giám mục, các
Linh mục, các Nữ tu. Họ là chủng sinh, là Ban Hành Giáo, là quan trong triều
đ́nh, là quân lính, là công chức, là y sĩ, là thương gia. Họ thuộc đủ mọi
thành phần trong xă hội, trong Giáo Hội. Tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam dù
vô danh tiểu tốt hay có chức có quyền trong Hội Thánh, có địa vị trong xă
hội. Tất cả họ đă hy sinh mạng sống để làm chứng cho bộ mặt đầy yêu thương
của Chúa Giêsu.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO ĐĂ LÀM G̀ ?:
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có thể là tổ tiên, cha ông,
những người thân thương trong gia đ́nh chúng ta, có thể là những Kitô hữu
sống trong địa phận, trong giáo xứ, giáo họ, điểm giáo của chúng ta. Họ đă
sống trên quê hương, đất nước của chúng ta, đă chia sẻ niềm vui, nỗi buồn
với mọi người chúng ta. Tuy nhiên, họ đă giữ vững đức tin, thà chết chứ
quyết một ḷng không chối Chúa, không bỏ đạo. Họ đă nghe tiếng Chúa :” Không
có Thầy các con không thể làm được ǵ “ ( Ga 15, 5 ) hoặc “ Ai yêu mạng sống
hơn Ta th́ không xứng đáng làm môn đệ của Ta “. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đă
dám liều sống đức tin, làm chứng cho đức tin và chết cho đức tin, lấy máu
ḿnh làm chứng cho Thiên Chúa. Tử đạo là chọn Chúa, là chết cho Chúa. Tử đạo
là sống đạo một cách sống động và làm môn đệ của Chúa. Các thánh tử đạo Việt
Nam là men, là muối, là ánh sáng soi dọi đức tin cho những người khác. Nhờ
các thánh tử đạo Việt Nam mà Giáo Hội Việt Nam càng ngày càng phát triển
mạnh mẽ.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă nói :” Giáo Hội Việt
Nam đă phát sinh các nhân chứng, đặc biệt là các Vị Tử Đạo.Lời tiền nhân nói
rất đúng : Máu đào là hạt giống phát sinh Kitô hữu. V́ do máu các Đấng Tử
Đạo của dân tộc và Giáo Hội Việt Nam mà đức tin trong thế hệ trước đă mọc
lên, và đức tin của thế hệ hiện tại được bảo toàn, và hy vọng đức tin của
thế hệ mai sau được ǵn giữ “.
HĂY NOI GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM :
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đă sống hết ḿnh v́ đức tin.
Các Ngài đă giữ đạo và sống đạo một cách hết sức anh hùng. Các Ngài đă thà
chết chẳng thà bỏ Chúa. Nên, Chúa đă củng cố đức tin cho các Ngài và trước
những cực h́nh hết sức dă man, điên dại của những kẻ bách hại, các Ngài đă
anh dũng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Các Ngài đă
không hận thù, không gây hấn, không bạo lực; các Ngài luôn sống hiền lành và
khiêm nhượng như Chúa Giêsu. Các Ngài đă sống yêu thương, trung tín và đơn
sơ trước những kẻ bách hại đầy hận thù, gây hấn, dọa nạt. Các Ngài đă hiểu
rơ lời Chúa :” Không t́nh yêu nào cao vời bằng t́nh yêu của kẻ hiến mạng
sống v́ người ḿnh yêu “ ( Ga 15, 13 ). Các Ngài đă sống như lời một tu sĩ
nói :” Hăy để cho ḿnh bị bách hại, nhưng đừng bách hại ai. Hăy để cho ḿnh
bị đóng đinh, nhưng đừng đóng đinh ai . Hăy để cho ḿnh bị vu khống, nhưng
đừng vu khống ai “. Chúng ta hăy noi gương bắt chước các Ngài để làm chứng
cho Chúa bằng đời sống đạo tốt, trung kiên và bền vững, luôn bám chặt và
thuộc trọn về Chúa.
ÁP DỤNG THỰC TẾ :
Trong cuộc đời có nhiều người chỉ mang danh Kitô nhưng
lại sống phản Kitô. Họ sợ hăi, thỏa hiệp để được sống an nhàn. Họ quên ḿnh
là Kitô hữu. Chúa đă nói :” Không Thầy chúng con làm được ǵ “ hoặc như
thánh Phaolô viết :” Không phải là chính tôi mà là ơn Chúa ở với tôi “( 1 Co
15, 10 ). Theo Chúa, chúng ta phải can đảm sống chứng nhân giữa đời bằng đức
tin sắt đá của mỗi người.
GỢI Ư ĐỂ CHIA SẺ :
1.
Tử đạo là ǵ?
- Tại sao máu của các Thánh Tử Đạo lại nẩy sinh Kitô
hữu ?
- Ngày nay có c̣n cần đến việc tử đạo không ?
- Tại sao các Thánh Tử Đạo lại chịu được các cực
h́nh hết sức dă man ?
- Bách hại đạo là ǵ ?
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Lc 9,23-26
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,
CSsR
Tôi vẫn c̣n nhớ h́nh ảnh của các thánh tử đạo lúc tôi
c̣n tuổi thơ khi được xem tranh vẽ các thánh hân hoan tiến về nước trời tay
cầm cành lá chiến thắng. H́nh ảnh ấy ăn sâu vào tâm hồn non trẻ của tôi đến
nỗi mỗi lần đọc lại sách khải huyền miêu tả cảnh có hàng hàng lớp lớp các
vị thánh đă hy sinh cuộc đời ḿnh cho lư tưởng minh chứng Chúa đă phục
sinh, tôi lại cảm thấy sung sướng và cảm động v́ những gương anh hùng can
đảm, hy sinh, từ bỏ của các Ngài. Các Ngài đă sống đúng lời Chúa:” Không có
t́nh yêu nào cao vời bằng t́nh yêu của người hiến mạng sống v́ người ḿnh
yêu”(Ga 15,13 ).
Tranh vẽ hàng hàng lớp lớp các thánh tử đạo, mặt sáng
ngời, hiên ngang đầu cao mắt sáng, chiêm ngưỡng Chúa Giêsu luôn là h́nh ảnh
gây ấn tượng và để lại nhiều suy nghĩ cho tuổi thơ của tôi, đặc biệt cho
tôi ngày hôm nay. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, tôi thầm tạ ơn Thiên
Chúa Ba Ngôi v́ Hội Thánh Việt Nam là một chuỗi những ân sủng tuyệt vời.
những bước chân thừa sai của các giáo sĩ nước ngoài như sử liệu để lại sự
hiện diện của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt và sau đó nhiều
linh mục như Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques vv.. đă mở
ra một trang sử truyền giáo phong phú và oai hùng. Tuy nhiên, điều quan
trọng nhất vẫn là sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như ḍng máu
của các vị tử đạo đă đổ ra, tưới gội cho Hội Thánh Việt Nam sinh hoa kết
quả tươi tốt. Cái chết của chân phước Anrê Phú Yên năm 1644 đă loan báo một
chân trời hân hoan nhưng cũng đầy bóng tối. Hội Thánh Việt Nam được lớn lên
nhờ ḍng máu của các vị thừa sai và nhiều linh mục, chủng sinh, thầy giảng
và muôn vàn giáo dân: ta chỉ cần quay lại lịch sử từ lúc bước chân các vị
thừa sai đặt lên quê hương Việt Nam hẳn ta sẽ thấy hết ngạc nhiên này tới
ngạc nhiên khác.Lịch sử Giáo Hội Việt Nam là một chuỗi những ân huệ dồi
dào. Chúa luôn hiện diện
Và Chúa Thánh Thần luôn tác động trong lịch sử cứu độ.
Các thánh tử đạo trải qua nhiều thời kỳ, đặc biệt là các triều nhà Nguyễn
như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, với nhiều sắc lệnh cấm đạo ngặt nghèo đă
giết đi bao mạng người oan ức. Nhưng như Tertullien đă viết:” Máu tử đạo
là hạt giống trổ sinh người tín hữu”, Hội Thánh lớn lên và phát triển không
ngừng nhờ hàng hàng lớp lớp các tử đạo đă nằm xuống với muôn cực h́nh cay
đắng, khốn khổ. Các thánh tử đạo là những người như ta nhưng họ đă hơn ta
v́ dám hy sinh, từ bỏ, dám dấn thân cho nước trời:” Nếu hạt lúa ḿ rơi xuống
đất không thúi đi th́ nó không sinh nhiều bông hạt”.Các thánh tử đạo là
những người đă ư thức, cảm nghiệm lời của thánh Phaolô:”…không v́ miễn
cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện, như Thiên Chúa muốn, không v́ ham hố lợi
lộc thấp hèn, nhưng v́ ḷng nhiệt thành tận tụy”( 1Co 5,1-4). Đọc lại những
trang sử oai hùng của Giáo Hội Việt Nam, Hội ThánhViệt Nam trước hết cảm tạ
tri ân Thiên Chúa Ba Ngôi v́ nhờ ḍng máu của các thánh tử đạo gồm đủ mọi
thành phần đă xây đắp Giáo Hội tươi xinh và tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam đă
phát sinh những nhân chứng, đặc biệt là các vị tử đạo như lời Đức Thánh cha
Gioan Phaolô II đă nói. Nhờ các thánh tử đạo, đức tin của người Kitô được
củng cố, được bảo tồn và được ǵn giữ vẹn toàn.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II đă nâng 117 vị chân phước
lên hàng hiển thánh vào ngày 19/6/1988 và ngày 05/3/2000 cũng chính Đức
thánh cha Gioan Phaolô II đă tôn phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên hàng
chân phước. Đó chỉ là mặt nổi nói lên rằng Hội Thánh Việt Nam quả 300 năm
được loan báo Tin mừng đă làm nẩy sinh nhiều chứng nhân trung kiên và phát
sinh nhiều thánh tử đạo. Người ta ước chừng có hơn 100.000 Kitô hữu đă nằm
xuống cho Giáo Hội được đơm hoa kết trái. Vâng, Hội Thánh Việt Nam là cuốn
niên giám lớn ghi măi, ghi hoài tên của những con người đă tất cả v́ Chúa mà
xây dựng Giáo Hội Việt Nam.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam xin củng cố đức tin cho
chúng con và giúp chúng con biết sống yêu thương, không báo oán, không hận
thù, để luôn làm cho bộ mặt của Chúa được vinh quang, rạng rỡ.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,
CSsR
‘
“Chúng tôi đi vỀ
thiên đàng đây”
Lm Giuse Trương Đ́nh Hiền
1. Tử đạo là thế đó :
Nếu trong ngày lễ Các Thánh nam Nữ, sách Khải huyền đă
xác định rằng : các thánh đó là “những người từ đau khổ lớn lao mà đến và đă
giặt áo ḿnh trong Máu Con Chiên”, th́ hôm nay, lễ Các Thánh Tử đạo Việt
nam, Phụng vụ mượn Lời của sách Khôn Ngoan để tŕnh bày chân dung của các
Thánh Tử Đạo một cách đầy đủ và thâm thúy : “Linh hồn người công chính ở
trong tay Chúa và chẳng cực h́nh nào động tới được nữa…Người đă tinh luyện
họ như người ta luyện vàng trong ḷ lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn
thiêu…Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung
thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Ngươi….”
Và nếu chưa đầy đủ th́ chúng ta hăy nhớ lại lời của
Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma trong BĐ 2, như một chứng từ rơ nét về thân
phận của những người quyết chọn Chúa Giêsu làm t́nh yêu tuyệt đối đến độ mọi
thực tại khác trở thành nhỏ rức : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi t́nh yêu
Chúa Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ,
gươm giáo ? Như có lời chép : Chính v́ Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết,
bị coi như bầy cừu để sát sinh”.
Nhưng liệu những lời Kinh Thánh của Phụng Vụ đó, có
thật sự “tương thích” với cuộc đời và lời chứng của 117 anh hùng tử đạo của
Việt nam chúng ta chăng ?
Để trả lời cho vấn nạn đó, không ǵ bằng chúng ta thử
t́m về đôi chứng từ của các Cha ông anh hùng được mừng kính hôm nay :
- Thánh Phêrô Cao đă tâm nguyện : “Xin cho con chịu đau
khổ v́ danh Đức Ki-tô, được đón nhận ngành lá tử đạo về tới bến thiên đàng”
- Thánh Phêrô Quí với những ḍng thơ gởi cho mẹ hiền :
“Dù trăng trói, gông cùm tù rạc
Chén ngục h́nh xiềng tỏa chi nề
Miễn vui ḷng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử”
- Thánh Phaolô Tịnh can đảm thưa với quan án : “Thân
xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ư. Nhưng linh hồn là
của Chúa, không có ǵ khiến tôi hy sinh nó được”
- Thánh Phaolô Khoan đă hát lên lời nguyện hiến tế cuộc
đời : “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng
con xin dâng mạng sống cho Ngài”
- Thánh Anrê Kim Thông : “Thà tôi bị lưu đày và phải
chết v́ Chúa, chứ tôi không chối đạo”.
Có khác không cái chết của các Thánh Tử Đạo với bao cái
chết của các bậc anh hùng thế tục khi thất thế sa cơ? Thưa có đấy. Cái chết
của những vị nầy tuy can đảm đó, anh hùng đó, nhưng tận thâm tâm vẫn pha lẫn
một chút hận thù, một chút cay cú, một chút hờn căm như kiểu anh hùng Nguyễn
Văn Trỗi, trước khi bị xử bắn đă hô to “đă đảo đế quốc Mỹ...” hay như Chu
Thần Cao Bá Quát khi sắp bị chém đầu đă để lại câu đối mang đầy uất hận :
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời
Trái lại, Các Thánh Tử Đạo của chúng ta đă đón nhận
chén đắng theo mẫu gương của Thầy Chí Thánh Giêsu trong t́nh yêu phó thác,
trong tha thứ khoan dung, trong b́nh an thanh thản, trong vui tươi đón nhận
như lời chứng của Thánh Giám Mục Phêrô DUMOULIN-BORIE Cao [1] :
Khi viên quan vừa đọc xong bản án tử h́nh ngài nói :
"Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, v́ bên Âu châu đó là hành vi kính
trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm tôi quá vui
mừng, xin được bày tỏ ḷng tri ân của tôi theo lối Đông Phương". Rồi ngài
quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan đă kịp thời ngăn cản lại.
2. Những cánh sen giữa đời thường :
Nhưng, để viết đời ḿnh thành chứng từ sống động cho
Tin Mừng Phục Sinh, để biến cuộc sống trở thành hy lễ, 117 Vị Thánh Tử đạo
được kính tôn trên bàn thờ Giáo Hội hôm nay là những ai thế ?
Thưa đó là :
- Những người nông dân
thật thà chân chất : như Thánh Lô-ren-sô Ngôn, Đa-Minh Ninh, An-rê Tường,
Đa-Minh Nhi…
- Những anh dân chài
trên sông nước bềnh bồng : như Thánh Đinh văn Dũng, Đinh văn Thuần, Đa-Minh
Toại, Đa-Minh Huyên
- Hoặc là một chàng thợ
mộc nghèo nàn, đơn bạc : như Thánh Phêrô Đa.
- Họ cũng chỉ là những
giáo dân rất b́nh thường, sống mộc mạc giản đơn, thực hành kinh bổn nơi xóm
đạo nhà quê, hay lo lắng việc nhà Chúa với chức danh Trùm họ, Câu xứ : như
Giuse Túc, Phaolô Hạnh, An-rê Kim Thông, Nguyễn Văn lựu.
- Đặc biệt trong số nầy
có cả một người đàn bà, một người vợ đảm đang, một người mẹ hiền lành đạo
đức trong một gia đ́nh với 6 mặt con : Nữ Thánh Anê Lê Thị Thành.
- Cũng có cả những
người từng là “bộ đội” của triều đ́nh, sống cuộc đời lính : Thánh Phan Viết
Huy, Bùi Đức Thể…
- Dĩ nhiên làm sao
thiếu được những gương mặt sáng ngời của các Vị Mục Tử chăn dắt đoàn chiên :
đó là các Thánh Giám Mục như Stê-pha-nô Thể, Va-len-ti-nô O-choa, Linh mục
An-rê Dũng Lạc, Lê Bảo Tịnh, Nguyễn Bá Tuần…
- Có cả những chàng
thanh niên tuổi đời đầy mộng ước như chủng sinh Tôma thiện nhưng cũng có cả
những vị quan uy quyền nơi cung đ́nh như Thánh Hồ Đ́nh Hy…
Họ khác nhau về giới lớp, về thân phận xă hội, về tŕnh
độ tri thức, về chức vụ giữa cộng đoàn...nhưng họ đều giống nhau : thuộc
trọn về Chúa Kitô và coi cái chết nhẹ như lông hồng, bởi chưng họ đều xác
tin về cuộc phục sinh vinh thắng ở bên kia ngưỡng cửa sự chết như chứng từ
sau đây: Thầy Mậu đại diện cho anh em nói với quan : "Thưa quan, chúng tôi
mong ước t́m về bên Chúa như nai mong t́m thấy suối vậy". Ông Án Khảm vui vẻ
nói với mọi người : "Cha con chúng tôi hôm nay vào nước Thiên Đàng đây".
Linh mục Hạnh cũng tươi tĩnh đi chào mọi người : "Anh em ở lại nhé ! Chúng
tôi đi về Thiên Đàng đây". Ông Cỏn thấy người anh em sụi sùi nước mắt, ông
nói : "Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho tôi chứ ?".
3. Tỉnh táo trước những cơn bách hại hôm nay :
Ngay từ đầu, chúng ta đă khẳng định với nhau rằng : Tử
đạo là một hồng ân. Nếu không có ơn Chúa, không ai có thể vỗ ngực tự ḿnh
đứng vững trước bao cực h́nh thảm khốc. Trong cuộc bách hại khủng khiếp suốt
gần 200 năm, giữa hàng ngủ giáo dân Việt nam đă có không ít người “đạp qua
thánh giá”, “chối từ phẩm chức Kitô hữu”, “chối Chúa, bỏ đạo”. Tuy nhiên,
đừng vội trách cứ những anh chị em yếu đuối đó. Bởi chưng, giữa thế giới văn
minh, tiện nghi, việc đạo được tự do thoải mái, e rằng đang có rất nhiều
người trong chúng ta “đạp lên Thánh giá”, chối bỏ đức tin, phản bội Giáo
Hội...mà vẫn không hay.
·
Đó là khi chúng ta sống ích kỷ nhỏ nhen không bao giờ biết cho
đi và phục vụ.
·
Đó là khi chúng ta t́m kiếm bạc tiền và chức quyền danh vọng
bằng mọi thủ đoạn bất lương.
·
Đó là khi chúng ta yếu nhược trước những bất công và lănh đạm
thờ ơ trước những khổ đau nghèo đói của anh chị em đồng loại.
·
Đó là khi chúng ta vứt bỏ lời thề ước của hôn nhân để tự do
luyến ái ngoại t́nh.
·
Đó là khi những người mẹ giết con bằng hành vi phá thai, nạo
thai.
·
Đó là khi những thanh niên nam nữ vứt bỏ các nguyên tắc luân
lư của hôn nhân, tính dục, vứt bỏ đức trong sạch, nết na, để yêu cuồng sống
vội, đam mê buông thả.
·
Đó là khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa,
những mánh mung lợi nhuận hơn là những cuộc họp mừng Chúa Nhật.
·
Đó là khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá đỗ mối giây hiệp
nhất, hiệp thông trong cộng đoàn.
Thời nào cũng có bách hại, cũng có những bạo chúa Nêrô,
Minh Mạng, Tự Đức. Nhất là thời nào cũng đầy những cạm bẫy, những cám dỗ,
những mua chuộc, những dối gạt phĩnh phờ...Chính v́ thế, hăy luôn khiêm hạ
và tỉnh thức, hăy nhiệt t́nh và quảng đại, hăy cầu nguyện và hy sinh.
Chính v́ thế, mừng kính các Thánh Tử Đạo hôm nay cũng
là một lời đoan hứa mới, một quyết tâm mới trước Anh Linh Tiên Tổ : quyết
tâm “Làm Kitô Hữu cho đến chết” như lời xác quyết của Thánh Phaolô Hạnh, một
Kitô hữu sẵn sàng thuộc về Đức Kitô và Tin Mừng trên mọi nẽo đường cuộc
sống; một kitô hữu can đảm thực thi những lời dạy Phúc Âm, những việc đạo
đức hằng ngày, những bổn phận trong gia đ́nh, những ứng xử khoan dung, yêu
thương và tha thứ.
Nói cách khác, cử hành mầu nhiệm Tử đạo cũng có nghĩa
là quyết tâm sống “chiều kích tử đạo” trong giây phút hiện tại của đời
thường; hay, biến cuộc sống hôm nay trở thành cuộc hành hương tiến về thiên
quốc, như kiểu nói của Thánh linh mục Hạnh : "Anh em ở lại nhé ! Chúng tôi
đi về Thiên Đàng đây".
Lm Giuse Trương Đ́nh Hiền
Nhân chỨng tỬ đẠo
Kitô giáo
Lm Nguyễn Hữu Thy
Là người Việt Nam, dù ở trong nước hay ở hải ngoại,
chúng ta luôn tự hào về ṇi giống Rồng Tiên quật cường của ḿnh, với các vị
anh hùng dân tộc như hai nữ tướng Trưng Trắc Trưng Nhị, như một Lê Lợi, Ngô
Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, v.v… Nhưng nhất là
người Việt Nam Công Giáo chúng ta c̣n tự hào và hănh diện hơn nữa, v́ chúng
ta là con cháu của trên 300.000 các Thánh Tử Đạo Việt Nam oai hùng.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những công dân tốt, là
những người yêu nước triệt để và đồng thời cũng là những chiến sĩ Đức Tin
bất khuất. Vâng, các ngài thà chịu xiềng xích, gông cùm, chịu phanh thây xẻ
thịt, thà chịu đổ máu ḿnh ra và chịu chết đau đớn, chứ không thà phản bội
Đức Tin, chứ không thà công khai chối bỏ Thiên Chúa trước mặt quan quyền vô
đạo. V́ thế, sau Giáo Hội La Mă thời sơ khai, th́ Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam chúng ta là một Giáo Hội chịu bách hại, chịu đàn áp tàn khốc và lâu dài
nhất – kéo dài trong ba thế kỷ liền – và cũng v́ thế, Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam đă cống hiến cho Giáo Hội hoàn vũ nhiều anh hùng tử đạo nhất.
Đúng thế, máu của 1/3 triệu anh hùng Tử Đạo Việt Nam,
của những bậc cha anh trung kiên của chúng ta, đă nhuộm đỏ cả giang sơn đất
nước Việt Nam, từ bắc chí nam. Chính nhờ ḍng máu tử đạo oai hùng của Tổ
Tiên chúng ta mà ngày nay hơn tám triệu người Việt Nam Công Giáo chúng ta
được ơn Đức Tin Kitô giáo, biết nh́n nhận ra Thiên Chúa là Chúa Tể càn khôn,
là Đấng Tối Cao duy nhất, là Đấng đáng cho mọi loài trên trời dưới đất phải
qú gối tôn thờ và hơn thế nữa: là Cha đầy nhân hậu của chúng ta, đúng như
lời giáo phụ Tertulianô đă viết: "Gịng máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống
làm nẩy sinh các tín hữu."
Trong số hàng trăm ngàn vị Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam,
117 vị đă được Giáo Hội hoàn vũ nghiêng ḿnh kính phục và lần lượt suy tôn
lên bậc Chân Phước như sau
·
"Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII suy tôn 64 vị vào ngày 27.5.1900.
·
Đức Giáo Hoàng Piô X suy tôn 8 vị vào ngày 20.5.1906.
·
Đức Giáo Hoàng Piô X lại suy tôn 20 vị vào ngày 2.5.1906.
·
Đức Giáo Hoàng Piô XII suy tôn 25 vị vào ngày 20.4.1951.
·
Sau cùng ngày đại vinh quang 19.6.1988, tại quảng trường Thánh
Phêrô ở Roma, trước sự chứng kiến của hàng trăm ngàn tín hữu từ khắp nơi
trên thế giới kéo về, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă long trọng tôn phong
117 vị Chân Phước Tử Đạo Việt Nam lên hàng Hiển Thánh, nêu gương cho toàn
thể nhân loại soi chung.
Thật là cả một vinh dự vô cùng to lớn, thánh thiêng, có
một không hai, và không chỉ cho những người Công Giáo Việt Nam, mà c̣n cho
toàn thể dân tộc Việt Nam, dù lương hay giáo. V́ chính các Thánh Tử Đạo Việt
Nam là những người đă làm vẻ vang cho cả dân tộc ḍng giống con Lạc cháu
Hồng trên năm châu bốn bể bằng chí khí quyật cường bất khuất, bằng ḷng dũng
cảm trung kiên sắt đá và bằng chính ḍng máu của ḿnh để thà chết đau đớn,
chứ không thà chối bỏ một sự thật minh nhiên" sự hiện hữu của Thiên Chúa;
thà để cho lư h́nh và dă thú nghiền nát thân xác, chứ không giơ chân xúc
phạm đến Thánh Giá Đức Kitô và chối bỏ Đấng tạo thành trời đất. Chính v́
thế, tất cả các dân tộc trên khắp thế giới không ngớt ca tụng dân tộc chúng
ta là một dân tộc anh hùng, quật cường và bất khuất.
Nhưng người ta cũng thử hỏi: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
là ai? Các ngài thuộc vào những thành phần nào trong xă hội nước ta vào lúc
bấy giờ?
Nh́n vào tiểu sử các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta
thấy trong số 117 vị đại diện cho trên 300.000 các Anh Hùng tử đạo Việt Nam
đă được Giáo Hội hoàn vũ công khai tôn kính, gồm có:
• 8 vị là Giám Mục,
• 50 vị là Linh Mục,
• 59 vị là giáo dân.
Và trong số 59 vị thuộc hàng ngũ giáo dân này, chúng ta
lại thấy có vị từng là"
• Thầy Giảng, Chủng sinh,
Giáo lư viên,
• Trùm họ, Chánh trương,
• Số c̣n lại là các giáo
dân b́nh thường
C̣n trong đời sống đời thường, th́ các ngài thuộc đủ
mọi thành phần xă hội, chẳng hạn có vị từng là:
• Quan trong triều đ́nh,
• Chánh Tổng, Quan án, Lư
Trưởng,
• Sĩ quan hay quân nhân
trong quân đội,
• Thương gia, nông dân,
ngư phủ hay nội trợ, v.v…
Nói chung là các ngài thuộc đủ mọi thành phần Dân Chúa
cũng như mọi thành phần xă hội. Địa vị và chức nghiệp của các ngài không hề
là trở ngại hay là lư do phân cách các ngài trong sứ mệnh làm chứng cho Đức
Tin vào Đức Kitô.
Nhưng chúng ta cũng cần phải chân nhận điều quan trọng
này là phúc được tử v́ đạo, được chết để làm chứng cho Đức Kitô không phải
là một điều hễ ước là được, hễ t́m là thấy, mà là một ơn huệ cao trọng Thiên
Chúa ban thưởng cho những tín hữu luôn biết trung kiên, khiêm tốn và âm thầm
thực hiện tinh thần bác ái Phúc Âm trong cuộc sống cụ thể hằng ngày của
ḿnh. Dĩ nhiên, điều đó không loại trừ những tính chất yếu đuối sa ngă của
con người nơi các ngài, chẳng hạn thánh Luca Phạm Trọng Th́n, khi làm Chánh
Tổng đă có một thời gian dan díu t́nh cảm với cô Trung, người làng Trà Lũ,
hay như thánh Mát-thêu Lê Văn Gẫm, một thương gia giàu có, đă từng yếu ḷng
đèo bồng thêm một cô vợ bé, v.v… Nhưng sự khác biệt giữa các ngài và những
người thường, là một khi các ngài đă được các vị Linh Hướng hay gia đ́nh
khuyên bảo nhắc nhở, và các ngài ư thức được sự yếu đuối sai sót của ḿnh,
th́ các ngài lập tức hết ḷng ăn năn hối cải, dốc ḷng đổi mới lại cuộc đời,
nêu gương sáng cho người khác và ra sức phục vụ Giáo Hội, cứu giúp các linh
hồn.
Tiếp đến, chúng ta cũng thấy rằng, có vị đă từng khiếp
sợ trước gông cùm và sự tra tấn dă man của các lư h́nh, th́ đă chối Đạo, đưa
chân bước qua Thánh Giá Đức Kitô. Nhưng sau đó, nhờ có ơn Chúa trợ giúp và
lời cầu nguyện cũng như sự động viện khuyến khích của gia đ́nh và của bạn
bè, các ngài đă vội ăn năn sự yếu đuối ban đầu của ḿnh, và lại công khai
tuyên xưng Đức Tin trước mặt các vua chúa, nên lại được ơn tử đạo. Đó chính
là trường hợp của các thánh Augustinô Phan Viết Huy, Nicolas Bùi Đức Thể hay
thánh Đa-minh Đinh Đạt, v.v…
Sự tử đạo vinh thắng của các Tổ Tiên anh hùng của chúng
ta không phải là nguyên nhân, nhưng là hậu quả, là hoa trái của cuộc sống
thánh thiện và gương mẫu của các ngài trong việc thực thi tinh thần bác ái
Kitô giáo đối với đồng loại, nhất là đối với những người nghèo khổ, những
người cô thế cô thân, những người đang trong cảnh hoạn nạn rủi ro, v.v… Một
ví dụ điển h́nh: Thánh Phạm Trọng Tả, cựu Chánh Tổng, một người giàu có nhất
trong vùng, ruộng cả ao liền c̣ bay thẳng cánh, đầy tớ và kẻ thuê người làm
đầy nhà, nhưng chính cụ cũng lại là một người giàu ḷng từ tâm nhất trong
vùng. V́ ư thức được rằng, mọi của cải đời này mà cụ có được là do Chúa ban
cho, trước sau cũng vẫn thuộc về Người, c̣n cụ chỉ là người quản lư các của
cải đó mà thôi, nên cụ đă không hề bo bo giữ riêng cho ḿnh hay t́m cách
tích trử để làm giàu cho duy gia đ́nh ḿnh mà thôi. Trái lại cụ đă hết ḷng
thương giúp cứu đỡ tất cả mọi kẻ bần cùng đói khổ t́m đến gơ cửa nhà cụ. C̣n
những người mắc nợ gia đ́nh cụ, nhưng v́ gia cảnh túng thiếu không trả được,
th́ cụ giảm nợ cho hay tha hết nợ luôn. Do đó, có lần cụ Án bà đă đem lời
phàn nàn này nọ, th́ cụ đă vui vẻ trả lời ngay: "Ḿnh tha nợ cho người, th́
Chúa tha tội cho ḿnh!"
Đúng vậy, đó là chân lư của cuộc đời: Tất cả mọi sự
chúng ta đang có hay đang chiếm giữ ở đời này, hoàn toàn không phải của
chúng ta và không thuộc về chúng ta, nhưng là của Chúa và thuộc về một ḿnh
Người mà thôi. Chúa đă ban cho chúng ta tất cả những của cải đó là để chúng
ta sử dụng với ḷng cảm tạ Người và để giúp đỡ lẫn nhau mà thôi. V́ thế,
chúng ta không được khép cửa ḷng ḿnh lại khi chúng ta c̣n có khả năng, c̣n
có điều kiện nâng đỡ và cứu giúp người khác đang trong cảnh túng quẫn, ngặt
nghèo. Dĩ nhiên chúng ta có toàn quyền giữ lại cho ḿnh tất cả mọi của cải
mà chúng ta đang có, chứ không muốn san sẻ chia sớt cho các anh em đồng loại
của ḿnh, và không một ai có quyền cướp giựt chúng khỏi tay chúng ta. Chỉ
ngoại trừ Thiên Chúa: Người luôn có đủ toàn quyền trên mọi của cải đó. Người
đă ban tất cả chúng cho chúng ta và Người lại cất khỏi tay chúng ta bất cứ
lúc nào tùy Người muốn.
Hơn nữa, chúng ta đong cho ai đấu nào th́ chúng ta cũng
sẽ được đong lại đấu đó. Luật công bằng và luật nhân quả trong trời đất xưa
nay vẫn thế. Và chúng ta cũng cần phải biết rằng hạnh phúc của chúng ta
không tùy thuộc vào những ǵ chúng ta có hay chiếm giữ, nhưng là tùy thuộc
vào những ǵ chúng ta cho đi.
Thưa các bạn, đến đây chúng ta cũng thử nh́n lại bản
những án quái gỡ, những h́nh phạt mà các vua quan ngoại đạo xưa đă xử đối
với các Thánh Tử Đạo Việt Nam; hay nói cách khác, chúng ta cũng cần t́m hiểu
đâu là những cực h́nh khủng khiếp mà những kẻ vô đạo đă dùng để hành hạ và
tiêu diệt các con cái Thiên Chúa một cách man rợ và bất công.
·
Bá đao:
bị lư h́nh dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng.
Chết cách này co 1 vị.
·
Lăng tŕ:
bị chặt chân tay trước khi bị chém đầu. Chết cách này có 4 vị.
·
Thiêu sinh
: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
·
Xử trảm"
bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
·
Xử giảo"
bị tṛng dây vào cổ và bị lư h́nh kéo hai đầu dây cho đến chết. Chết cách
này có 22 vị.
·
Chết rũ tù"
bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và
chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Một điều quan trọng cần phải ghi nhận nữa, là các Thánh
Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những người đă từng sống đạo sốt sắng và khi bị
bắt bớ, bị hành hạ và vẫn luôn một dạ can đảm trung thành với Đức Tin vào
Đức Kitô của ḿnh cho đến chết, nhưng chính trong khi bị gông cùm xiềng
xích, bị tra tấn đánh đập tàn bạo, đến tan nát cả thân ḿnh, các ngài luôn
là những nhân chứng hùng hồn cho tinh thần yêu thương của Phúc Âm bằng sự
thông cảm tha thứ, bằng sự hài ḥa, bằng sự nhẫn nhục, noi gương Thầy Chí
Thánh khi bị treo trên thập tự giá đă cầu nguyện cho các lư h́nh của ḿnh:
"Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho họ, v́ họ không biết việc họ làm!"
Quả vậy, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đă không hề mở miệng
kêu ca phàn nàn hay nguyền rủa các lư h́nh đă hành hạ đánh đập ḿnh một cách
tàn bạo và bất công. Trái lại, các ngài vẫn luôn vui vẻ và khoan hậu với hết
mọi người, thương giúp và an ủi các bạn tù. Bà Rosa Hun khi làm chứng về
Thánh Đa-minh Ninh đă phát biểu: "Tôi thấy anh bị nhốt tù tại Đông Vi. Tuy
mang gông cùm xiếng xích nặng nề, anh vẫn vui vẻ tươi cười." Hoặc như Thánh
Nữ Anê Lê Thị Thành, khi người con gái bà là cô Lucia Nụ đến thăm bà trong
ngục, thấy y phục mẹ loang lỗ máu me, do bị những trận đ̣n chí tử trước đó,
cô liền thương mẹ khóc nức nỡ, th́ Thánh Nữ liền an ủi con bằng những lời
hóm hính vui tươi: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy mà, mẹ vui ḷng
chịu đau khổ v́ Chúa Giêsu, sao con lại khóc!" Thật đúng, các Thánh Tử Đạo
Việt Nam đă hoàn toàn trở nên giống như những con chiên hiền lành, không hề
mở miệng lên tiếng khi bị điệu đến thợ xén lông.
Kết luận
Gương anh hùng tử đạo của các bậc cha anh chúng ta thật
cao vời khôn kể xiết. Hôm nay là ngày Đại Lễ kính nhớ các ngài, nhưng v́
thời giờ hạnh hẹp, nên chúng ta chỉ có thể nhắc lại một vài nét sơ qua về
tấm gương kiên trung dũng cảm, cũng như đời sống đầy từ bi bác ái vị tha của
các ngài để chúng ta là con cháu, là hậu duệ của các ngài, cùng cảm tạ Chúa,
cùng vui mừng hănh diện và đồng thời cùng kiểm điểm lại thái độ sống Đức Tin
của chúng ta, liệu có xứng đáng với danh nghĩa là con cháu các Thánh Tử Đạo
Việt Nam anh hùng hay không!
Nguyện xin Chúa và Mẹ Maria - qua lời bầu cử đắc lực
của các Thánh Tử Đạo Việt Nam – ban cho tất cả chúng ta. Cho Giáo Hội Việt
Nam và cho toàn thể dân tộc Việt Nam chúng ta mọi ơn phúc Thiên đàng.
Lm Nguyễn Hữu Thy
NIỀM TIN PHỤC SINH
Lm Nguyển Hữu An
Sơ sử ở Việt Nam chỉ thực sự mở
đầu từ văn hoá Đông Sơn, cách đây khoảng 2500 năm. Nước Văn Lang của các Vua
Hùng là một sự thật của lịch sử Việt nam. Sách “Đại Việt Sử Kư Toàn Thư” là
bộ chính sử đầu tiên của nước ta ghi chép về nước Văn Lang và theo đó th́
nước Văn lang “Đông giàp Nam Hải, Tây giáp Ba Thục, Bắc giáp Hồ Động Đ́nh,
Nam giáp nước Hồ Tôn”. Nước Văn Lang chỉ tồn tại trước sau trong khoảng 300
năm và con số 18 đời Hùng Vương cho đến nay vẫn là con số của huyền sử. Tiếp
đến là nước Âu Lạc của An Dương Vương, rồi đến các triều đại Đinh, Lê, Lư,
Trần, Hậu Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc, Nguyễn…
Lănh thổ Việt Nam nhỏ bé chỉ đến Châu Cực nam là Hoan
châu, Hà Tĩnh ngày nay. Biên giới phía nam của An Nam là núi Hoành Sơn. Từ
Đèo Ngang, Quảng B́nh, Quảng Trị đến B́nh Thuận là đất nước Chiêm Thành với
kinh đô Trà Kiệu. Miền Nam, Miền Tây thuộc vương quốc Phù Nam, Stiêng, Chu
Nại, Lục Chân Lạp, Thuỷ Chân Lạp.
Việt Nam thực hiện Cuộc Nam Tiến bắt đầu từ thời Lê
Đại Hành mở mang bờ cơi về phía nam. Thời nhà Trần, Vua
Trần Nhân Tông gả Công Chúa Huyền Trân cho Vua Chiêm
là Chế Mân để đổi lấy 3 châu (Quảng B́nh, Quảng Trị, Huế). Thời nhà Hồ tiến
vào Quảng Nam, Quảng Ngăi. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Nguyễn Hoàng vượt
biên giới núi Thạch Bi tiến về phía Nam, cho đến năm 1697 đặt phủ B́nh
Thuận. Năm 1757, tháp nhập Hà Tiên vào Đại Việt, chấm dứt Cuộc Nam Tiến.
Việt Nam với bản đồ chữ S đă h́nh thành. Như thế chỉ dài chừng nửa đầu thế
kỷ 18, người Việt đă hoàn thành cuộc bành trướng của dân tộc từ B́nh Thuận
chiếm trọn Nam kỳ ( theo Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam,
tập I, 1994)
Trong bối cảnh lịch sử xă hội đó, Thiên Chúa đă cử
các nhà truyền giáo đến để gieo trồng hạt giống đức tin trên quê hương Việt
Nam. Lịch sử Giáo hội Việt Nam gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân
tộc. Các Họ Đạo phát triển cùng với Cuộc Nam Tiến và các cuộc bách hại. Từ
khi vị thừa sai Phanxicô Buzômi có công thiết lập cơ cấu Giáo xứ đầu tiên ở
Việt Nam năm 1615 cho tới khi Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thiết lập 1960,
thời gian đó kéo dài 300 năm. Hơn 3 thế kỷ phát triển cùng với các cuộc bách
hại dưới các thời đại Vua Lê Chúa Trịnh, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự
Đức. Hạt giống Nước Trời cứ phát triển khi được gieo xuống đất. Chúng ta
thấy được hồng ân Thiên Chúa tuôn tràn để sức sống Nước Trời nở rộ trên nước
Việt thân yêu.
Giữa những bách hại tàn khốc, Giáo hội vẫn lớn mạnh
không ngừng. Như một Linh mục Giáo sư đă nói : Giáo hội Công giáo ngoài bốn
đặc tính Duy nhất Thánh thiện Công giáo Tông truyền c̣n có thêm một đặc tính
thứ năm, đó là bách hại, càng bị bách hại càng lớn lên. Các bậc Tổ tiên đă
gieo trong nước mắt và đau thương nhưng hào hùng và can trường. “Đẹp thay
những bước chân gieo mầm cứu rỗi” (Is 52,7) để hôm nay Giáo hội Việt Nam
vững mạnh sánh vai cùng các Giáo hội trên hoàn vũ. Nh́n những thành quả hiện
tại như những bó lúa nặng hạt, là con cháu các Thánh Tử Đạo, người Công giáo
Việt nam không bao giờ quên ơn những Bậc Tiền Bối đă xây đắp nên Giáo hội
yêu dấu của ḿnh.
Chúng ta có thể khẳng định : Lịch sử của các Giáo hội
cũng là lịch sử những cuộc bách hại. Bắt bớ, bách hại luôn đi liền với những
kẻ tin nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa. Ngay từ trong Cựu ước, những người tin
vào Thiên Chúa Giavê cũng đă phải trải qua những cơn gian nan thử thách v́
niềm tin.
Vậy th́ tại sao người tín hữu thường bị bắt bớ và
bách hại? Lịch sử cho thấy người tín hữu bị bắt bớ và bách hại thường v́ một
trong hai hoặc v́ cả hai lư do là : bị người đời hiểu lầm và ghen ghét.
Chính Đức Giêsu là một minh hoạ tuyệt vời về sự kiện ấy. Đức Giêsu bị nhà
cầm quyền Do thái và Rôma kết án loại trừ, v́ họ cho rằng Người là mối nguy
hiểm cho địa vị, chức quyền của họ. Thế nhưng, qua cuộc khổ nạn và thập giá
mà Đức Giêsu bày tỏ ḷng hiếu thảo, vâng phục, yêu mến Chúa Cha và t́nh
thương đối với loài người. Cuộc Khổ nạn là con đường dẫn tới Phục sinh.
Các Thánh Tử Đạo của Giáo hội, 117 Thánh Tử Đạo Việt
Nam và hàng ngàn hàng vạn vị Tiền Bối Việt Nam cũng là những người đă chết
v́ Đạo mà nguyên nhân chính là do hiểu lầm và ghen ghét. Các vị ấy đă kiên
cường và anh dũng chứng minh ḷng tin của ḿnh đối với Đức Giêsu Kitô, bất
chấp gông cùm, tù tội, bá đao hay tùng xẻo, trảm quyết hay lăng tŕ.
V́ thế, ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là
dịp để Giáo hội hoàn vũ chiêm ngắm suy tôn 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, các
chứng nhân trung kiên của Đức Kitô. Đặc biệt là dịp mà mỗi tín hữu Công Giáo
Việt Nam ca tụng Thiên Chúa đă làm những việc vĩ đại trên quê hương ḿnh.
Mừng kính trọng thể các Ngài để cùng nhau chiêm ngưỡng, tự hào, học hỏi nơi
những chứng nhân đức tin trung kiên, ư chí quật cường của các chiến sĩ Đức
Kitô. Từ đó giúp nhau phát huy truyền thống hào hùng bất khuất, dám hy sinh
mạng sống cao quư để giữ vững đức tin nơi các thế hệ con cháu Các Thánh Tử
Đạo.
Chính trong ánh sáng cùa Đức Kitô, Vị Tử Đạo tiên
khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm :
Đầy tớ không lớn hơn chủ(Ga 15,20); Nếu chúng đă bách hại Thầy, chúng sẽ
bách hại các con. ..Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng…
Hăy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các
con đừng lo phải nói thế nào, v́ không phải các con, nhưng Thánh Linh của
Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ v́ danh Thầy.
Nhưng ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu độ. (Mt 10,16 -25)
Các Thánh Tử Đạo không t́m đến cái chết mà chỉ t́m
nên giống Thầy, giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu
thương tột cùng đă đưa Thầy đến cái chết.
Các Thánh Tử Đạo là những vĩ nhân của nhân loại. Các
Ngài đă chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Đức Kitô như chính Đức Kitô đă
chết cho các Ngài.
Các Thánh Tử Đạo hiên ngang v́ đă đáng được chịu đau
khổ cho Đức Kitô. Các Ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy
chương, huân chương, chiến công. Các Ngài chềt tử đạo là chết v́ Đức Kitô,
đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu.
Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa lựa khoát :
theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là sống trong gông cùm và
chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quư nơi trần
gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút
quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cơi phúc
vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đ́nh, tổ quốc, nhân sinh.
Người chết trong máu tử đạo đă coi nhẹ nghĩa phu thê, đă xem thường đường
phụ tử. Họ khao khát một t́nh yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời
vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đă hoan hỉ chấp nhận
chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ
nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong
gông cùm ṃn mỏi đă đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng
của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ
chết là v́ đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đă từng nghe biết :
“Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt
Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).
Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng
muôn ngàn vạn nét nhưng nét đẹp nhất trong chân dung các Ngài là Niềm Tin
Phục Sinh. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp
trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao
với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát măi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ.
Cái chết chẳng có giá trị ǵ, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền
diệu. Sự sống đó chính là t́nh yêu với tất cả những ǵ cao thượng và chân
thật. T́nh yêu đó bừng lên mănh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng.
Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế t́nh yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin
của những con người xác tín rằng: chết v́ Đức Kitô, chết đi là sống lại
trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh
cửu; chết là cánh cửa im ĺm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.
Bài học của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu
nóng t́m đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây từng phút của
đời ḿnh cho Thiên Chúa và tha nhân. Sự sống đó luôn kêu mời chúng ta : mỗi
ngày chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng và đấu tranh
cho Chân lư. Sự sống đó hứa hẹn với chúng ta một ngày sau rạng rỡ, ngày đoàn
tụ với cha anh chúng ta trên cơi bất diệt.( x. Thiên Hùng Sử, trang
495).Niềm Tin Phục Sinh măi măi là ánh sáng soi dẫn từng suy nghĩ từng lời
nói từng việc làm của người tín hữu trong cuộc sống hàng ngày.
Lm Nguyển Hữu An
NHỮNG BÀ MẸ TỬ ĐẠO
Lc 21, 5-19
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Hôm nay, Các Thánh Tử
đạo Việt Nam được tôn vinh. Chúng ta cũng không ngần ngại tôn vinh những
người mẹ Việt Nam, đă sinh ra cho dân tộc nhiều anh hùng Tử Đạo và chính
cuộc đời các bà mẹ, cũng đă là một mảnh đất màu mỡ để Thiên Chúa gieo trồng
ơn Thánh cho đàn con cháu được hưởng nhờ.
Số 117 vị tử đạo Việt
Nam, nói lên 117 tâm hồn Việt được phong Thánh 1998, có một phụ nữ duy nhất,
mẹ của 6 người con. Đó là bà Annê Lê Thị Thành, c̣n gọi là bà Đê. Trước khi
là một anh hùng tử đạo, bà đă là một người mẹ hiền gương mẫu. “Thân mẫu
chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con, chính người dạy chúng tôi đọc
chữ và học giáo lư, sau lại dạy cách dự Thánh Lễ và xưng tội rước lễ lần
đầu”. Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Trong một nhân chứng
khác, cô Anna Năm đă xác nhận: "song thân chúng tôi chỉ gả các con gái cho
những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, thân mẫu thường đến
thăm chúng tôi và khuyên bảo những điều tốt lành. Có lần người dạy tôi:
"Tuân theo ư Chúa con lập gia đ́nh là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn
ngoan, đừng căi lời cha mẹ chồng. Hăy vui ḷng nhận Thánh Giá Chúa gửi cho."
Nhà bà Đê là nơi các
Linh Mục trú ẩn. Buổi sáng Lễ Phục Sinh năm 1861, quan tổng đốc Nam Định cho
quân bao vây làng của Bà. Bà Đê bị bắt lúc 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn,
bị ép phải chối đạo. Bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con
gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn v́ thấy quần áo mẹ loang đầy vết
máu, bà đă an ủi con với niềm lạc quan lạ lùng : “Con đừng khóc, mẹ mặc áo
hoa hồng đấy, mẹ vui ḷng chịu khổ v́ Chúa Giêsu, sao con lại khóc ?”
Sau ba tháng chịu khổ
đủ mọi cực h́nh, người phụ nữ ấy đà hiến đời ḿnh cho Chúa.
Sách 117 vị Tử đạo c̣n
kể về những bà mẹ khác nữa, tuy không Tử đạo song đă vui ḷng hiến dâng con
cho Chúa như gương của bà Nhiệm, mẹ thánh Mathêu Lê Văn Gẫm thuật lại :" Hai
vợ chồng chúng tôi nghe con chết th́ chẳng có thảm thiết ǵ, một vui ḷng mà
rằng: chết vậy đặng làm thánh." Ta thấy, cái ước mơ rất đơn giản của bà mẹ
Việt Nam là thế đó, chẳng mơ ước con cái sống cao sang nhờ ân lộc vua ban,
mà chỉ mong con cái giữ lấy đạo Chúa cho đến cùng.
Đến như cuộc gặp gỡ
cuối cùng của bà Lư với chồng mà tất cả quan quân đều tưởng, vợ con làm xoay
chuyển ḷng dạ ông Mỹ để ông quá khoá, nhưng không dễ là như vậy, bởi ḷng
người phụ nữ Việt nam nặng nghĩa với đạo cũng như t́nh nghĩa chồng con, trên
tay bà bế đứa bé vài tháng tuổi trao cho ông bồng bế những giây phút cuối
cùng ông gặp được con, người phụ nữ ấy đă một ḷng trung kiên nói với ông :
" Vợ con ai mà không thương tiếc, nhưng ông hăy hy sinh vác Thánh Giá rất
nặng v́ Chúa, hăy trung thành với Chúa cho đến cùng, đừng lo nghĩ ǵ về mẹ
con tôi. Thiên Chúa sẽ quan pḥng tất cả. Đến viếng thăm ông lần này có lẽ
là lần sau hết, cầu xin cho ông được vâng theo ư Chúa."
Có một bà mẹ khác, v́
thương con nên không muốn con gặp điều này điều kia rắc rối, đă khuyên nhủ
con ở lại nhà thay v́ dâng ḿnh cho Chúa, nhưng ư của con do chính mẹ nhào
nắn, đă không thua cuộc trong cuộc chạy đua t́m kiếm triều thiên Tử đạo, như
trường hợp của Thánh Phanxicô Nguyễn Cần. Ḷng người mẹ thật bao dung khi
đón nhận con ḿnh tuỳ theo ư Chúa.
Thật là diệu vợi những
tấm ḷng bà mẹ biểu hiện t́nh yêu của Thiên Chúa, khi muốn cho con những
điều tốt nhất. Mẫu gương của một bà mẹ Việt Nam, phác họa lại h́nh ảnh của
một bà mẹ năm xưa đứng dưới chân Thập Tự Giá, hiến tế chính người con yêu
thương, như bà mẹ của Thánh Anrê Trần Anh Thông. Đến lúc, đầu con rơi khỏi
cổ bà vẫn c̣n can đảm đón nhận :" Đây là con tôi, đứa con mà con cưu mang
dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại cái đầu của con
tôi". Những bà mẹ có công sinh con ra cho trần thế lại c̣n sinh con cho
Nước Trời can đảm là vậy.
Có những tâm hồn khác
nữa của những tâm hồn bà mẹ, không là gốc Việt nhưng đă đổ tràn t́nh mẫu
thân của ḿnh trên đất Việt, bằng sự hiến tế những người con của ḿnh cho
công cuộc truyền giáo tại Đất Việt, như bà mẹ của thánh Jacintô Castaneda tử
đạo, đă hát lời kinh Te Deum, khi hay tin con ḿnh chịu tử đạo tại Việt Nam.
Điều này cho chúng ta thấy bằng chứng rằng, cuộc đời những bà mẹ đă tạo nên
những vị thánh cho trần thế này không hẳn là ít.
Trong cuộc sống không
lịch sử, không ít những bà mẹ đang sống cuộc đời Tử đạo ấy ngay trong cuộc
sống đời thường của ḿnh. Chỉ cần nh́n sự kiên nhẫn của một bà mẹ, chăm chút
cho đứa con thơ ăn từng bữa ăn thôi, đă có thể nhận biết về Thiên Chúa yêu
thương hết mực.
Nếu có thể nói ư nghĩa
Tử Đạo nơi những bà mẹ hôm nay, có lẽ cần kể về những giọt nước mắt của bà
mẹ. Những giọt nước mắt có giá trị linh thánh, thánh hoá được chồng, giáo
hoá được con, như giọt nước mắt Thánh Nữ Monica và của biết bao bà mẹ Việt
Nam.
"Từ giă hồn nhiên, mẹ
tôi đi lấy chồng năm 18 tuổi. Ngày lên xe hoa, mẹ khóc, nhưng dưới những
giọt nước mắt lăn dài c̣n ẩn chứa cả một niềm hạnh phúc. Mẹ chỉ thật sự khóc
trong ngưỡng cửa khổ đau ở quăng đời tiếp theo. Ba tôi, do hoàn cảnh phải xa
quê, mang vợ con đến một vùng đất lạ. Mẹ tôi khóc lặng lẽ, v́ từ ngày đó mẹ
tôi mới thật sự “xuất giá ṭng phu”. Đứng trước viễn cảnh tương lai mờ mịt:
không người thân, không nhà, không cửa, không c̣n được “bao cấp” bởi ông bà
ngoại nữa, mẹ ngổn ngang ưu tư, phiền muộn. Tuy buồn khổ nhưng mẹ tôi cũng
đă thích nghi dần với hoàn cảnh, mẹ đă tự lực nhiều hơn. Ba tôi thường xuyên
công tác ở xa, ít có dịp ở nhà lâu nên lần lượt từng đứa chúng tôi ra đời
dưới sự chăm lo ân cần của mẹ. Mẹ tôi vui nhưng có những chiều mẹ ngồi tựa
cửa, đăm chiêu nhớ về quê xa… Dù chưa trọn vẹn nhưng cảnh sống đó vẫn là
hạnh phúc.
Hạnh phúc ở chưa lâu
th́ bất hạnh đă xộc chân vào! Một hôm, có người bạn rất thân của ba tôi ghé
thăm. Chú nói ghé thăm nhà chơi nhưng linh cảm của mẹ tôi nhạy lắm. Bên ngọn
đèn khuya, mẹ tôi hỏi han măi, nửa đêm, chú mới nói thật: Ba tôi mất! Mẹ
khóc. Tiếng khóc xé ḷng trong đêm vắng làm chúng tôi bừng tỉnh cả. Rồi
chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi khóc không phải v́ hiểu được nỗi bất hạnh quá
lớn đă ập xuống gia đ́nh ḿnh, mà chỉ đơn thuần v́ thấy mẹ khóc. Lúc này mẹ
tôi mới 30 tuổi, em gái út của tôi mới gần 6 tháng. Mẹ khóc rất nhiều, nhưng
rồi mẹ cũng lại làm được rất nhiều. Từ một cô bé vô tư, lấy chồng được
chồng bảo bọc, giờ mẹ tôi mới thật sự “vào đời”. Mẹ đi làm, bất kể công việc
ǵ người ta thuê mướn. Mẹ phân công việc nhà cho mấy anh em chúng tôi. Chúng
tôi vẫn đi học đều, buổi trưa dắt díu nhau lên kư nhi viện ăn cơm. Tối về cả
nhà mới có mặt đầy đủ bên nhau.
Ngày tháng dần trôi,
chúng tôi lớn lên, gánh nặng càng oằn lưng mẹ. Đă có lúc mẹ phăi gửi hai đứa
giữa vào Cô nhi viện Thủ Đức. Nhưng chưa được một tháng, thấy hai chúng tôi
bị bắt nạt quá, mẹ lại đón về. Càng lớn, nhu cầu càng nhiều, tâm lư càng xáo
trộn, anh em chúng tôi có những lúc căi nhau ầm ĩ, thậm chí c̣n gây gỗ đánh
nhau. Chúng tôi đều bị mẹ đánh, nhưng chúng tôi chỉ thật sự hối hận khi mẹ
khóc. Mẹ khóc cứ ngỡ v́ tủi thân, v́ buồn con cái khó bảo nhưng thật ra là
v́ thấy con cái thiếu người cha để trông nom, dạy dỗ! Những lúc ấy, tiếng
thổn thức của mẹ nghe mới xót xa làm sao.
Anh Hai tôi có một dạo
bắt chước theo bạn bè hút thử heroin. Mẹ tôi biết được, ngồi khóc cả một
buổi tối. Chúng tôi khóc theo và anh Hai tôi cũng khóc. Nhờ lời mẹ dạy th́
chắc không nhớ hết, nhưng cứ nghĩ ḿnh mà tái phạm mẹ khổ mẹ khóc, th́ chúng
tôi lại chẳng dám làm. Mẹ khóc – chúng tôi bớt chơi hoang. Mẹ khóc – chúng
tôi định thần lại. Mẹ khóc – chúng tôi chín chắn hơn. Tôi nghiệm ra rằng,
mỗi lần mẹ tôi khóc, từ khổ đau mẹ lại kinh nghiệm hơn, vững vàng hơn và
nghị lực hơn.
Giờ đây, mỗi đứa chúng
tôi đă thành người. Trong sự thành đạt hôm nay của chúng tôi có những giọt
nước mắt của mẹ. Nước mắt của mẹ tôi chắc sẽ c̣n dịp rơi nữa, nhưng chúng
tôi hứa đó sẽ chỉ là những giọt nước mắt hạnh phúc và sung sướng."
Vẫn c̣n đó những tấm
ḷng của những bà mẹ Việt suốt đời lo cho chồng, lo cho con. Có một lần trên
trang báo, kể lại một bà mẹ miền Trung nghèo khổ, mua bán từng trái cóc,
trái ổi, từng những chắt chiu của mùa mót lúa, nhặt nhẹn từng chút, gom về
đổi chữ cho con. Bà đă nuôi bốn người con tốt nghiệp đại học thành nhân rồi
thành thánh.
Không thể kể hết những
hy sinh của những bà mẹ. Nhưng viết ra để tôn vinh những hy sinh đời thường
và rất thường ấy của những bà mẹ hôm nay. V́ chắc chắn rằng trong sự thành
công của những người con có rất nhiều giọt nước mắt mồ hôi nước mắt của mẹ
dệt thành.
Thiên Chúa đă làm điều
phi thường nơi một phụ nữ già nua yếu đuối như bà Annê Lê Thị Thành và c̣n
làm tất cả những điều kỳ diệu ấy nữa qua cuộc đời những bà mẹ hôm nay.
Lịch sử Cứu độ đă diễn
tiến theo một chiều hướng như vậy. Thiên Chúa đă chẳng chọn cụ già Abraham
để gầy dựng một dân tộc sống đức Tin đó sao? Thiên Chúa dùng Đavit để đánh
gục tướng Goliat , chọn một thiếu nữ miền quê để làm Mẹ Thiên Chúa và cứ như
thế Thiên Chúa dùng những con người rất b́nh thường, để thực thi những công
tŕnh hùng vĩ của Người.
Lịch sử đó thường được
thực hiện qua đời rất thường của những người Kitô hữu, nơi những người để
Thiên Chúa hoạt động trong cuộc đời của ḿnh.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Các Thánh TỬ ĐẠo.
Gm. Phaolô Nguyễn Văn
Ḥa
Sách Khôn Ngoan nói về cái chết của người công chính
thời Cựu Ước. Người công chính được Chúa cho hưởng an b́nh, được chứa chan
hy vọng trường sinh bất tử, được hưởng ân huệ lớn lao, được đón nhận như của
lễ toàn thiêu, được Người yêu thương và ở gần Người. Nhưng họ cũng đă bị sửa
dậy, bị thử thách và tinh luyện, như người ta luyện vàng trong ḷ lửa. Thánh
Gioan trong Tân Ước nhắc lại Lời Chúa, ví họ như hạt lúa gieo vào ḷng đất,
phải thối chết đi, th́ mới mọc ra cây và sinh sôi nảy nở được nhiều hạt
khác. Sách Tông Đồ Công Vụ kể chuyện ông Têphanô bị ném đá chết v́ đă giảng
về Thiên Chúa chịu đóng đanh và chịu chết. Nhưng Têphanô vẫn cầu xin Chúa
đừng chấp tội họ.
Nét đặc biệt của các thánh tử đạo là bị thử thách ở mức
độ cao nhất là mất sự sống, mà vẫn không căm ghét kẻ giết ḿnh. Chẳng những
không thù hằn, mà lại c̣n cầu nguyện cho họ nữa. Trong xă hội ngày nay cũng
có những người dám can đảm hy sinh mạng sống ḿnh. Nhưng sánh với các thánh
tử đạo, có rất nhiều khác biệt. Người cảm tử ôm bom tự sát, đầy ḷng oán thù
căm ghét, cố ư cho nhiều người khác phải chết theo, gieo nhiều tang tóc. Các
thánh tử đạo chịu chết là muốn hy sinh v́ Chúa, trong ḷng b́nh an nhân ái.
Các Ngài biến cái chết thành con đường hạnh phúc và trong ḷng không căm
ghét ai. V́ mến Chúa, các Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống và đồng thời rất
yêu thương người khác, kể cả kẻ giết ḿnh.
Dịp phong thánh cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào năm
1988, có người đă nêu lên ư tưởng đừng nên rở lại hồ sơ xưa nữa, sợ rằng sẽ
nhắc lại sự hận thù khi xưa. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đă trả lời rằng :
« Chúng tôi vẫn và càng yêu thương người khác ! Không có hằn thù đâu ».
Người khác lại bảo có những vị đă có những tật xấu. Chúng ta biết rằng có
những vị không phải là những người hoàn toàn. Có những vị chỉ vào lúc chót
mới hoán cải cuộc sống bất toàn khi xưa. Chết trong sự xám hối v́ Chúa cao
cả, để chuộc lỗi lầm khi xưa. Đó càng là một nghĩa cử làm sáng chói thêm đức
tin, đức cậy và ḷng mến cao cả của các vị tử v́ đạo. Giửa cái chết v́ ḷng
mến và cái chết v́ căm thù có nhiều khác biệt lắm.
Các Giám Mục Phi Luật Tân cũng mong muốn có các thánh
tử đạo. T́m măi họ mới kiếm được một vị. Toàn dân sung sướng. Có giám mục đă
nói « Chúng tôi không có các thánh tử đạo v́ vua quan ngày xưa của chúng tôi
hiền lành quá ».
Năm 1980, trong một cuộc họp tại Huế, Đức Tổng Giám Mục
Nguyễn Kim Điền đă mời các giám mục đi thăm các lăng các vua triều Nguyễn.
Trước lăng Minh Mệnh, Tự Đức,… Ngài nói với các vị khác rằng ḿnh cũng phải
cám ơn các vua, bằng không làm sao ḿnh có các thánh tử đạo. Các vua cấm
đạo, giết hại giáo sĩ và giáo dân. Đó là cơ hội để có được các thánh tử đạo
vinh quang mà ta tôn kính hôm nay. Rồi Ngài nhắc lại bài Công bố Tin Mừng
Phục Sinh : « Ôi tội hồng phúc, v́ đă đáng được Đấng Cứu Chuộc cao sang như
thể » !
Gm. Phaolô Nguyễn Văn
Ḥa
KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆTNAM
Ga 12,24-26
Lm. Giuse Phạm Thanh
Với khóa họp tháng 4 năm 1991, Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam đă dành Lễ Kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam vào Chúa nhật
XXXIII hằng năm để đa số các giáo hữu có thể tham dự. Con xin được gợi ư suy
niệm cho Chúa Nhật 33 này về Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam.
1) Chúng ta là con cháu các thánh. Cho dù không phải hết thảy
chúng ta có chung một ḍng họ máu mủ với các Thánh Tử Đạo, và cho dù một số
anh chị em đang sinh sống trên giải đất thân thương Việt Nam không cùng ḍng
giống Việt, nhưng tất cả chúng ta đều là “con cháu các Thánh”, bởi v́ “Máu
các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. Chúng ta được sinh ra
trong An Sủng Chúa, chúng ta được sinh ra trong đức Tin. Niềm hạnh phúc
thiêng liêng gắn bó chúng ta nên một hôm nay phải là ḷng biết ơn sâu xa với
Chúa qua những hạt giống tốt - các Thánh Tử Đạo - đă gieo văi và hôm nay
chúng ta được hưởng nhờ! Chúng ta là Hoa Trái, là con cháu các Thánh trong
đức Tin! Cảm tạ Thiên Chúa nhân lành đă ban cho Giáo Hội Việt Nam biết bao
nhiêu hạt giống tốt lành! Và như vậy, niềm vui Ngày Lễ hôm nay được mở rộng
cho hết mọi người! Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đă nói trong bài Giảng Lễ
Tôn phong Hiển Thánh 117 Vị Tử Đạo tại Việt Nam: “Hỡi giáo dân Việt Nam,
chúng tôi nói lại cho anh em rằng: Máu các vị Tử Đạo là nguồn ân sủng cho
anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em, đức tin
của tổ tiên vẫn tiếp tục và c̣n truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai!”
(X. Lm. Augustinô NGUYỄN VĂN TRINH, “Phụng vụ Chư Thánh” II, 1996, tr.
381-382)
2) Qua bài Phúc Âm Gioan (Ga 12,24-26)
:Sau khi “khải hoàn” vào Thành Giêrusalem- Ngày Lễ Lá - dân chúng tấp nập
đến gặp Chúa Giêsu. Chúa nói: “Nếu hạt giống gieo xuống đất không chết đi,
th́ nó trơ trọi một ḿnh; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ sinh ra nhiều bông
hạt”. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy cách nh́n cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu thật
đặc biệt: nó rất tích cực và phong phú. Ngài không lo cho bản thân, mà chỉ
cốt vâng theo Ư Chúa Cha, Ngài hi sinh chính thân ḿnh hầu mưu t́m hạnh phúc
phần rỗi cho nhân loại. Ngài quả quyết: “Ai yêu mạng sống ḿnh th́ sẽ mất
nó, c̣n ai ghét mạng sống ḿnh ở đời này, th́ sẽ giữ được nó trong cuộc sống
đời đời”.
Theo gương Thầy Chí Thánh, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đă sẵn ḷng xả thân v́
Danh Chúa, vui ḷng chết đi như thân lúa mục nát, hầu trổ sinh nhiều thế hệ
hạt giống mới:là các linh mục, tu sỹ và giáo dân tốt trong tương lai! Nếu
như xưa thánh IGNATIÔ Antiochia đă coi ḿnh như Hạt Lúa Ḿ cần được nghiền
nát nơi hàm răng sư tử, để trở thành Bánh Tiến cho Thiên Chúa! Th́ nay thánh
Phêrô Cao cũng cầu xin: “Xin cho con chịu đau khổ v́ Danh Đức Kitô, được đón
nhận ngành lá tử đạo về tới bến Thiên Đàng” (Đáp ca Kinh Chiều I Lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam, PVCGK trang 1489). Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông quả
quyết: “Thà tôi bị lưu đày và phải chết v́ Chúa, chứ tôi không chối Đạo”
(Kinh Chiều Lễ CTTĐVN, 24-11). Thánh Phaolô Tịnh, trong Thư gửi cho các
Chủng Sinh Vĩnh Trị, khi gặp những cảnh quan quyền xúc phạm tới Thánh Danh
Chúa, ngài đă ghi nhận: “Chứng kiến tất cả những cảnh này, v́ cháy lửa mến
yêu Chúa, con thà chịu chết và chịu phân thây để chứng tỏ ḷng con yêu mến
Chúa!” (Bài Đọc 2 Lễ Các TTĐVN 24-11).
3) Theo gương mẫu Chúa Giêsu Kitô đă hoàn
toàn quên đi chính ḿnh để hiến thân phụng sự Chúa Cha và phần rỗi nhân
loại, Đức Cha Cuénot THỂ, khi Nhà Vua Thái Lan bắt một số linh mục và chủng
sinh Việt nam sang tá túc, ngài đă coi nhẹ bản thân ḿnh để tận t́nh t́m
cách cứu giúp họ. “Như tôi (một thừa sai có) chết, người ta có thể gửi người
khác thay thế chậm lắm là một năm. Một linh mục hay chủng sinh Việt Nam nằm
xuống, phải mất hai, ba chục năm mới có người thay thế”. Bà thánh Anê Đê
(Thành) bị bắt v́ Đạo Chúa, bị tra tấn đẫm máu, bà vẫn b́nh thản nói với
con: “Con đừng khóc, Mẹ mặc áo hoa hồng đó! Mẹ vui ḷng chịu khổ v́ Chúa
Giêsu…” (Lm Hồng Phúc, Điển Ngữ các Thánh, trg 271a). Và lời cuối cùng của
Bà trước khi chết, bà than thở: “Giêsu, Maria, Giuse!con xin phó linh hồn và
thân xác con trong tay Chúa! Xin ban ơn cho con được tuân theo ư Chúa trong
mọi sự!” (Ibid.).
Qua gương mỗi vị Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta đều thấy những tấm gương
sáng ngời về sự xả kỷ hi sinh quên ḿnh v́ Chúa vô điều kiện! Những tấm ḷng
cao cả của các ngài là những bài học rơ nét cụ thể cho mọi người con cháu
hôm nay! Trẻ có, già có; nam có, nữ có; và thuộc mọi cảnh đời; Giám mục hay
linh mục, tu sỹ, chủng sinh hay người đời; thương gia hay binh lính; công
chức hay thường dân vv… Tất cả các ngài đều một ḷng trung thành với Chúa
cho đến cùng! Là công dân trong quốc gia và cũng luôn là con cùng một Thiên
Chúa!
4) Bước vào Ngàn năm thứ ba, chúng ta không quên lời nhắn nhủ
của Đức Gioan-Phaolô II: “Vào cuối ngàn năm thứ hai, Giáo Hội lại trở thành
Giáo Hội của các vị tử đạo. Các cuộc bách hại chống lại các tín hữu, linh
mục, tu sỹ và giáo dân đă gieo văi những hạt giống tử đạo tại nhiều nơi trên
thế giới. Chứng tá của họ đối với Chúa Kitô cho tới đổ máu, đă trở thành gia
sản chung của mọi tín hữu Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành…”
Người Kitô hữu đang bị bách Đạo, không những bởi những chế độ thù nghịch với
Chúa Kitô bằng vũ lực, mà c̣n bằng biết bao mưu thâm chước độc của những bất
công xă hội, những hận thù ích kỷ, những tham vọng trần thế đủ mặt, đặc biệt
những chiêu bài tự do và hưởng thụ hôm nay đang phân tán ḷng con người và
xâu xé xă hội. Chúng ta xin Chúa – nhờ lời bầu cử và gương sáng của các
Thánh Tiền Bối – cho ḿnh được trung kiên với Chúa đến cùng như người tôi
trung của Chúa! Và Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận khuyên chúng ta:
“Phải, có biết bao nhiêu là vị tử đạo: tử đạo v́ đức khiết tịnh, tử đạo v́
công lư, tử đạo trẻ em, phụ nữ tử đạo, nam nhi tử đạo, những dân tộc tử đạo…
Đó là cả một bức tranh trải dài trước mắt chúng ta: bức tranh một nhân loại
kitô-hữu hiền lành, khiêm nhượng, không bạo lực, chống trả sự dữ, yếu đuối
nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ trong đức tin, đă yêu và tin cho tới bên kia
thế giới… Đó là gia sản quí báu của các vị tử đạo … cho chúng ta, kitô-hữu
thuộc thế kỷ XXI mới bắt đầu, để ôm ấp và …sống mỗi ngày, sống yêu thương,
hiền lành và trung tín!” (HY FX Nguyễn văn Thuận, “Chứng nhân hy vọng”, Cộng
đoàn Đức Mẹ Lavang, 2000 tr. 180-181)
5) Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, Giáo Hội
không chỉ nhắc nhở chúng ta niềm hănh diện quá khứ hào hùng của cha ông
ḿnh, nhưng cốt dạy chúng ta hôm nay, trong cuộc sống hiện tại này, mỗi
người phải tích cực sống đức Tin sáng suốt, nhiệt thành t́m vinh Danh Chúa
và trung tín với Chúa đến cùng!
Mỗi Thánh Lễ phải là nguồn tôi luyện đức Tin chân chính, là mạch nghị lực
không biết mỏi mệt Chúa dành cho con người để trung kiên phụng sự Chúa và là
suối vô tận t́nh yêu Chúa giúp ta có chung tâm t́nh với Chúa Kitô biết quên
ḿnh phục vụ phần rỗi anh chị em đồng loại. Thật “Không ǵ có thể tách biệt
chúng ta khỏi t́nh yêu Chúa Kitô!”
Lm. Giuse Phạm Thanh
MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆTNAM
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Ông bà anh chị em rất thân mến !
Nếu chúng ta chiêm ngắm bức tranh diễn tả 117 Thánh Tử
Đạo Việt Nam, chúng ta sẽ thấy qua bức tranh này, phác họa rơ nét một h́nh
ảnh của Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội có những đặc tính phong phú và đa
dạng, trước hết diễn tả đức tin của các Thánh Tử Đạo, chúng ta thấy một Giáo
Hội gồm có những người nam, người nữ, những người trí thức và những người
b́nh dân, những người già, người trẻ, những người nông dân và những người đă
từng làm công chức trong triều đ́nh, chúng ta c̣n thấy những người mang quốc
tịch Việt Nam cũng như những người đến từ những quốc gia xa xôi, nhưng dù
xuất thân từ hoàn cảnh xă hội nào, từ tŕnh độ trí thức nào, th́ các Thánh
Tử Đạo đă có cùng chung một lư tưởng một mục đích đó là: Yêu mến quê hương
Việt Nam, yêu mến Giáo Hội Việt Nam và thao thức muốn làm chứng cho Đức
Giêsu qua cuộc sống của ḿnh và đó cũng chính là sứ điệp mà các Ngài đang
muốn nhắn gởi với chúng ta hôm nay, khi chúng ta tôn vinh các Ngài như những
bậc tiền bối niềm tự hào cho giáo hội, trước hết chúng ta thấy các Thánh Tử
Đạo là những người yêu mến quê hương Việt Nam, các Ngài là những người luôn
muốn cho quê hương và dân tộc của ḿnh được b́nh an, con người được công
bằng và yêu thương. Các Ngài muốn cho giáo lư của Tin Mừng ăn rễ sâu vào nền
văn hóa Việt Nam, như muối, như men, như ánh sáng để làm cho đời sống văn
hóa Việt Nam được phong phú và phát triển, và đối với các Thánh Tử Đạo là
những vị thừa sai đến từ Ngoại Quốc, các Ngài cũng yêu mến quê hương Việt
Nam, các Ngài đă muốn trở thành người Việt Nam, hầu hết các thừa sai đều
chọn cho ḿnh một tên gọi Việt Nam rất thân thương dễ mến, như chúng ta thấy
Thánh Berrioc Ochoa Giám Mục đă chọn cho ḿnh tên Việt Nam là Đức Cha Vinh,
Thánh Jeronimo Hermosilla đă mang một tên Việt là Đức Cha Liêm, Thánh Phero
Almato đă chọn cho ḿnh tên Việt là Cha B́nh. Những cái tên đó rất ư nghĩa,
đă gắn bó các Ngài với quê hương Việt Nam, với công cuộc truyền giáo tại
đây, cũng như đă gắn bó lư tưởng mà các Ngài đă chọn lựa. Chúng ta c̣n thấy
các Thánh Tử Đạo, các vị thừa sai Ngoại Quốc mang y phục Việt Nam, để phát
huy theo kiểu Việt Nam, nói theo ngôn ngữ Việt Nam, để gần gũi ḥa đồng với
nền văn hóa Việt Nam, yêu mến quê hương Việt Nam đó là sứ điệp mà các Ngài
muốn nói với chúng ta, và các Ngài đang muốn mời gọi chúng ta hăy noi gương
các Ngài để yêu mến Giáo Hội là Đức Giêsu cụ thể là Giáo Hội Việt Nam v́ yêu
mến Giáo Hội các Ngài chấp nhận mọi gian lao, các Ngài luôn t́m cách để cho
cộng đoàn đức tin nhỏ bé được phát triển, và đối với các thừa sai đến từ
Ngoại Quốc, các Ngài đến với chúng ta từ một miền đất xa xôi, từ một nền văn
minh khác lạ, đến với dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam, vào một thời đại,
một thời kỳ mà nền văn hóa c̣n chưa tới hồi phát triền, các Ngài đă lo lắng
thiết lập bằng chính tiếng bản xứ, xây dựng cộng đoàn tín hữu, và chính ḷng
yêu mến giáo hội đă gắn bó các Thánh Tử Đạo người Việt cũng như người Ngoại
Quốc đến từ nhiều nước khác nhau trở nên một trong đức tin và trong nhiệt
thành Tông Đồ.
Một sứ điệp quan trọng các Thánh Tử Đạo muốn nhắn gởi với chúng ta qua cuộc
đời của các Ngài đó là những thao thức là nhân chứng cho Chúa. Đức Giesu
chính là người chứng thứ nhất, Đức Giesu đến trần gian để làm chứng t́nh
thương của Chúa Cha. Đức Giesu đến trần gian để kêu gọi mọi người sống với
nhau trong t́nh huynh đệ, hăy đoạn tuyệt với chiến tranh, hăy bỏ mọi thứ tà
thần, hăy ḅ mọi thứ chia rẽ và mê muội. Đức Giesu để nói tiếng nói của chân
lư nên Ngài đă phải chấp nhận thập giá. Và noi gương Đức Giesu các Thánh Tử
Đạo là những người đă minh chứng Thiên Chúa là Cha, là Đấng yêu thương mọi
người, mà các Ngài đă thể hiện đức tin trung kiên vào Thiên Chúa và vào Giáo
Hội, các Ngài đă chiến thắng bạo lực bằng t́nh yêu, chiến thắng hận thù bằng
tha thứ, chiến thắng những người nguyền rủa bằng lời cầu nguyện, mặc dù phải
chết dưới đ̣n roi và mọi thứ nhục h́nh, các Ngài đă chiến thắng trong vinh
quang, các Ngài đă lănh nhận ngành Thiên Tuế như phần thưởng của Chúa cho
những tôi tớ trung thành.
Và khi chúng ta nh́n lên đức tin diễn tả các Thánh Tử Đạo, từ đủ mọi thành
phần xă hội khác nhau, chúng ta hăy rút ra một bài học, là ai trong chúng ta
cũng có thể làm minh chứng cho Chúa được, mặc dù là người học thức hay người
b́nh dân, mặc dù người ở thôn quê hay thành phố, mặc dù những người giầu có
và những người nghèo nàn, ai ai chúng ta cũng có thể làm nhân chứng cho Chúa
trong đời sống gia đ́nh, trong đời sống cộng đoàn và trong đời sống xă hội.
Các Thánh Tử Đạo đang mời gọi chúng ta hăy có cuộc đời nhân chứng, hăy dùng
lời nói và việc làm để giới thiệu Đức Giesu cho những người xung quanh.
Nhân chứng là một danh từ, một từ mà chúng ta thường nói, nhưng đôi khi có
nguy cơ trở thành một khái niệm trống rỗng vô hồn. Trong cuộc đời hôm nay,
có nhiều người dửng dưng với Thiên Chúa, dửng dưng với những giá trị tâm
linh, chúng ta yêu mến Chúa và nhiệt thành sống lời Chúa đó là chúng ta làm
chứng cho Người. Trong một xă hội mà có nhiều người coi thường những giá trị
nhân bản, như đức công b́nh, sự chung thủy, mỗi tín hữu Kito, chúng ta hăy
tôn trọng sự thật, tôn trọng nhau, đó là chúng ta làm chứng cho Tin Mừng. Và
hiện nay có nhiều phong trào trái ngược với luật công giáo về đời sống gia
đ́nh, như ly dị, như sống thử, chúng ta là những người tín hữu công giáo,
chúng ta hăy cố gắng sống chung thủy yêu thương, có trách nhiệm đối với nhau
trong đời sống gia đ́nh, đó là chúng ta làm chứng cho Chúa. Trên các phương
tiện thông tin, chúng ta thấy có những vụ bê bối, những vụ lừa đảo; là Kitô
hữu chúng ta hăy sống với một lương tâm ngay thẳng, đó là chúng ta làm chứng
cho Đức Giêsu. Và trong cuộc đời này xung quanh chúng ta c̣n biết bao anh
chị em đang đói khát nghèo nàn, họ đang đói vật chất, đang đói t́nh người,
đang đói chân lư, chúng ta chia sẻ với họ trong khả năng có thể được, đó là
chúng ta làm chứng cho Tin Mừng.
Ơn gọi tử đạo là ơn gọi gắn liền với mỗi tín hữu chúng
ta, cũng như những ai muốn theo Chúa Giesu mà khước từ thập giá, th́ không
thể nào mà theo Đức Giesu được. Ai muốn làm người Kito hữu chân chính mà
khước từ ơn gọi tử đạo, th́ không thể nào trở lên người Kito hữu chân chính
được. Tử đạo với chúng ta hôm nay, không phải là đi ra pháp trường, không
phải là phải chịu nhiều roi vọt; Nhưng tử đạo với chúng ta chính là một cuộc
sống chứng nhân, khởi đi từ cuộc sống gia đ́nh tới đời sống cộng đoàn rồi
đến xă hội, môi trường chúng ta đang sống, mỗi người chúng ta đều có thể làm
được nếu chúng ta có thiện chí ! và đặc biệt, chúng ta biết cậy dựa nơi
Thiên Chúa là Cha quyền năng, là Cha yêu thương. Chúng ta có thể làm được,
với lời cầu bầu của các Thánh Việt Nam mà hôm nay chúng ta long trọng tôn
vinh, xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta trong hành tŕnh đức tin và
trong hành trinh nhân chứng Amen.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
Lm. Phaolô Lưu Văn
Kiệu
Khi nói đến các thánh tử đạo, người ta nghĩ ngay đến
những thử thách mà họ phải chịu để giữ ḷng trung thành với Chúa, với Giáo
hội. Các bài đọc hôm nay nhằm nung đúc tinh thần của chúng ta để chúng ta có
can đảm đi theo cùng một con đường đó.
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta thấy các h́nh khổ của
các thánh chỉ là những thử thách, chính Chúa là Đấng thương yêu che chở họ,
thử thách họ, và chính Người sau đó sẽ thương họ bội hậu. Đối với thánh
Phaolô, những đau khổ đó c̣n là cách diễn tả quyền lực của Thiên Chúa; là
cách sống lại trong thân xác chúng ta những đau khổ của Chúa Kitô, nhưng
chúng ta tin rằng Chúa Kitô đă sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta được sống
lại với Người. Chúa Giêsu trong Phúc âm cho chúng ta thấy việc chúng ta phải
chịu thử thách đó là một điều cần thiết nếu chúng ta muốn làm môn đệ Chúa,
nhưng Chúa cũng hứa rằng Chúa Cha sẽ thưởng chúng ta.
BÀI ĐỌC I.
Sag 3,1-9.
+ Tác giả đang so sánh đời sống của người công chính và
tội lỗi. Những câu của chúng ta cho thấy ư nghĩa thực sự của cuộc sống của
những người công chính:
1. Nguyên tắc căn bản: Chúa bênh vực che chở, không ǵ
làm hại được họ (1).
2. Mổ xẻ thực tế: a- Nhượng bộ: theo cái nh́n nông cạn
bên ngoài th́ người công chính có chịu đau khổ thiệt tḥi (2. 3a. 4a).
- Nhưng trong thực tế:
+ Họ được sống yên ổn thân mật với Chúa (3b).
+ Họ có hi vọng được thưởng đời đời (4b).
+ Chúa chỉ thử thách để làm cho sự trung thành của họ sáng tỏ và để thanh
luyện họ. (5-6).
+ Ngày tận thế, họ sẽ được tham dự vào sự thắng trận vinh quang của Chúa
(7-9).
+ Cắt nghĩa vài từ ngữ: “Trong tay Chúa”. Được Chúa che
chở. “Ta che ngươi dưới bóng bàn tay Ta” (Is 57, 16); “Không ai cướp họ khỏi
tay Ta.”(Jo 10,28-29). “Khổ h́nh không đụng tới họ”. Đó là những khổ h́nh
thực sự, sau khi chúng ta ĺa khỏi đời này. C̣n những đau khổ đời này th́ dĩ
nhiên nó là sản nghiệp của người công chính, và như mấy câu sau minh định,
nó không phải là khổ h́nh.
“Họ sống trong b́nh an”. B́nh an đây không có nghĩa là
lương tâm không bị dày ṿ. Cũng không phải là khỏi tai ương hoạn nạn bên
ngoài (người công chính bị nhiều hơn). Nhưng đúng hơn có nhiều nghĩa là: qua
những tai ương hoạn nạn, họ cảm thấy đảm bảo và hạnh phúc v́ biết chắc chắn
Chúa che chở ḿnh (1), và nhất là họ được sống thân mật với Chúa (c.9).
“Hy vọng của họ đầy bất tử”. Họ hy vọng danh tiếng của
họ được lưu truyền măi măi (8,13). Ở đây, đúng hơn, có nghĩa là họ hy vọng
linh hồn của họ sau cái chết của thân xác này sẽ được sống măi trong hạnh
phúc, trong thân mật với Chúa.
“Thiên Chúa thử thách họ”. Những đau khổ được nh́n dưới
hai khía cạnh:
- Một là thử xem họ có thực sự trung thành với Chúa
không: như Chúa thử Abraham bảo ông hiến tế con ḿnh cho Chúa (Gen 22,1)
Chúa cho Tôbia để thử đức tin của ông (Tob 12,13), ông
Job cũng vậy (Job 1,2).
- Hai là để thanh luyện các thánh của Chúa; Chúa coi
những đau khổ như việc sửa dạy chúng ta (Correction) (năm A). Như luyện
vàng, luyện bạc phải đốt cháy cho sạch cặn bă (6a. Ps 66,10). Anh em vui
mừng (trong viễn tượng cánh chung) mặc dầu anh em c̣n phải trải qua một thời
gian nhiều thử thách, ngơ hầu đức tin của anh em được luyện lọc, quí báu hơn
vàng, là một vật hư mất, mà người ta (c̣n) luyện ở ḷ lửa, đức tin anh em
khi đó sẽ trở nên đề tài ca ngợi, vinh quang và danh dự, ngày Chúa Kitô tỏ
hiện (1 Pet 1, 6-7).
Ngày Chúa viếng thăm: Việc Chúa viếng thăm thường bao
gồm ư nghĩa; Chúa có toàn quyền nh́n xem, xét xử và thưởng phạt. Do đó, tùy
trường hợp mà phải hiểu là Chúa đến để mang ơn lành (Gen 21,1; Ex 4,31; Ps
65 , 10) hoặc đến để mang h́nh phạt (1 Sam 15,2; Sag 14,1). Ở đây đối với
người công chính, có nghĩa là ngày tận thế Chúa sẽ thưởng công họ.
“Như tia lửa cháy thiêu đám rạ”. Chỉ sự thiêu hủy nhanh
chóng và toàn diện. Thường trong Kinh Thánh dùng làm h́nh ảnh tượng trưng
cho cơn giận Chúa báo oán quân thù (Is 1, 31; 5,24; Nah 1,10; Abd 18; Za
12,6; Ml 13,9). Ở đây có những người công chính sẽ được tham dự với Thiên
Chúa vào việc thiêu hủy sự dữ để thiết lập nước Chúa và sẽ được cùng Người
hiển trị.
“Sẽ được biết sự thật”. Sự thật có thể hiểu đối lại với
sự trông cậy: có nghĩa là điểm đến, đối tượng mà ḷng trông cậy chờ mong.
- Cũng có thể hiểu là đến ngày đó, người ta mới thấy rơ
ư nghĩa của những đau khổ mà bây giờ ḿnh không hiểu được, biết sự thật khi
đó có nghĩa là ḿnh biết được cả ư định của Thiên Chúa trên cuộc đời chúng
ta.
Áp dụng cụ thể.
+ Nh́n chung bài đọc, chúng ta thấy tác giả kêu gọi
ḿnh giữa những đau khổ hiện tại, hăy hướng cái nh́n về đời sau, đó là đức
trông cậy. Nếu chúng ta cứ nh́n như người trần thế, thật chúng ta sẽ thấy
ḿnh bị thiệt tḥi quá.
+ Chúng ta đừng lật đật nói: Chúa bỏ chúng ta, Chúa
phạt chúng ta, đang khi trong thực tế, Chúa chỉ muốn làm cho chúng ta được
nên của lễ hoàn hảo đẹp ḷng Chúa hơn. Nhứt là khi thấy những thử thách Chúa
gởi cho người khác, nếu chúng ta vội vă kết luận: Họ có tội, Chúa phạt họ?
Đó là chúng ta tự mặc cho ḿnh cái nh́n của người điên dại (theo sách Khôn
ngoan 3,4), của người phàm trần.
+ Chúa luôn luôn thanh luyện Giáo hội Chúa bằng những
cuộc bách hại, bắt bớ. Mỗi lần như vậy, GH trở nên trong sáng, trưởng thành
và vững mạnh hơn. Chúng ta có lấy làm vui mừng v́ những điều đó hay buông
thả ḿnh theo cái nh́n trần thế làm cho ḿnh buồn sầu, nản chí, mất đức tin?
BÀI ĐỌC II. 2 Cor 4,7-15.
Ở đoạn trên, thánh Phaolô đang nói về sự cao cả của
chức vụ tông đồ và của sứ điệp ḿnh rao giảng, nhưng thánh Phaolô cũng không
quên nh́n lại bản thân với bao tai ương, hoạn nạn, bao chống đối, hiểu lầm,
thất bại. Đàng khác, những đối thủ của thánh Phaolô lại khoe khoang với
những thành công, những đức tính nhân loại lộ rơ bên ngoài. Điều đó không
làm cho vị tông đồ nản chí hoặc đặt nghi vấn về sứ vụ của ḿnh, trái lại
người nhận rơ thân phận của ḿnh và hiểu rơ đường lối của Chúa hơn:
1. Người tông đồ của Chúa vẫn là những tạo vật
yếu đuối.
Chữ “b́nh sành” làm cho chúng ta lạc hướng; phải dịch:
b́nh làm bằng đất, đất nhắc chúng ta đến con người, đến Adong được dựng nên
bằng đất và yếu đuối mọi đàng. Tuy hư hèn nhưng được Chúa trao ban những mầu
nhiệm cao cả của Chúa như b́nh đất đựng trân châu bảo ngọc.
2. Sự yếu đuối đó càng làm sáng tỏ quyền năng của
Chúa (7a).
Nếu chúng ta tài ba lỗi lạc, nếu chúng ta là những siêu
nhân, người ta sẽ nghĩ sự tồn tại của tôn giáo là do công lao chúng ta. Đàng
này, chúng ta bị bắt bớ, bị dồn ép tư bề, bị đè bẹp, nhưng đạo Chúa vẫn
không tiêu diệt được mà trái lại c̣n phát triển lạ lùng. Chứng tỏ phải có
một sức lực siêu nhiên nào khác ở trong đó (7b-9).
3. Những đau khổ của người tông đồ c̣n
thể hiện một sự thật khác nữa: là người tông đồ phải tái diễn lại trong hành
động và trong con người ḿnh mầu nhiệm tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu.
Chính ḿnh phải chết đi như Chúa Kitô chết (sự chết hoành hành nơi chúng
tôi) để mang sự sống đến cho người khác (để sự sống được (nẩy sinh) nơi anh
em) (11-12).
4. Những đau khổ đó chỉ có ở đời này, và
nó sẽ đưa chúng ta đến sự vinh hiển bên Chúa Giêsu (13-14)
5. Chính v́ tin tưởng như vậy, nên dầu ư
thức sự yếu đuối của ḿnh, tác giả không ngần ngại rao giảng (13): Chúng tôi
tin nên chúng tôi nói
6. Tất cả mọi việc trong đời sống của vị tông đồ,
cả những đau khổ, yếu đuối, đều được hiến dâng nhằm cứu rỗi mọi người, nhưng
cuối cùng là nhằm phục vụ vinh quang Chúa.
ÁP DỤNG CỤ THỂ.
+ Thánh Phaolô không nản chí trước những thất bại, tai
ương ? C̣n trước những dở dang, kém khả năng của chúng ta, chúng ta có nên
buồn rầu không? Cả trước những yếu đuối, những tội lỗi của chúng ta, chúng
ta có nên thất vọng không? Nếu chúng ta đủ khiêm nhượng, Chúa cũng có thể
dùng cả những việc đó để chứng tỏ quyền năng của Chúa.+ Chúng ta buồn khi
thấy anh em chúng ta bị lấn áp, hiếp đáp, nhưng nếu nh́n lại lịch sử. Chính
các thánh tử đạo đă trải qua những trường hợp như thế và chính sự hy sinh
nhẫn nhục của họ đă làm rạng rỡ vinh quang Chúa và nẩy sinh đức tin khắp
nơi.
PHÚC ÂM Jo 12,24-26Trong Phúc âm thánh Gioan, đây là đoạn Chúa Giêsu tiên
báo về cái chết của ḿnh. Chúa Giêsu dùng hai h́nh ảnh mượn từ đời sống tư
nhiên để cắt nghĩa sự chết và sự sống lại của Chúa (24-25)Câu 26 kêu gọi
chúng ta đi theo đường lối của Chúa để được Chúa Cha thưởng đời đời.
I. a). H́nh ảnh một. Lấy từ h́nh ảnh hột lúa. Khi gieo xuống đất, hột lúa có
vẻ chết đi, th́ mới nẩy mầm, mọc lên cây lúa và mang lại kết quả, hàng trăm
hột khác. Đối với Chúa Giêsu cũng vậy, Người phải chết mới mang lại sự sống
cho nhiều người.
b). H́nh ảnh hai. Cũng là để làm sáng tỏ sự thật ở trên, nhưng khía cạnh kêu
gọi chúng ta làm theo Chúa, rơ ràng hơn. Ai yêu mạng sống ḿnh cách ích kỷ
th́ làm cho sự sống ḿnh tàn lụi, c̣n ai có vẻ tôn trọng sự sống ḿnh, dám
dùng nó, hy sinh nó th́ sẽ làm cho nó nảy sinh đến sự sống đời đời. Ghét,
theo tiếng Do thái, có nghĩa ít yêu hơn, hiểu ngầm: coi nhẹ mạng sống đời
này hơn sự sống đời đời th́ sẽ được sự sống đời đời.
Áp dụng cho ngày lễ. + Không ai làm ruộng mà tiếc lúa giống. Chúa Giêsu
muốn cứu chuộc người ta đă không tiếc mạng sống ḿnh. Các thánh tử đạo đă
noi gương đó nên rộng răi, sẵn sàng hy sinh mạng sống v́ Chúa, v́ ư thức
rằng khi đó không phải ḿnh làm Giáo Hội bị thiệt tḥi mà đúng là làm “trổ
sinh con nhà có đạo”. Chúng ta có cái nh́n đó đối với ḿnh hiện nay không?
Chúng ta đồng ư trên nguyên tắc với Chúa, nhưng chúng ta có nhiều cách rất
khác để né tránh. “Tôi cần thiết cho giáo dân”. “Sẽ không ai làm lễ, ban các
bí tích cho giáo dân”. “Giáo hội đang thiếu Linh mục”. Dĩ nhiên là rất thiếu
tông đồ nhiệt thành cho Chúa, chớ những người chỉ lo cho bản thân được yên
ổn th́ không ích lợi ǵ cho Giáo Hội.
+ Nếu tôi sợ bịnh, sợ mệt, sợ ốm, th́ tôi c̣n sợ chết bao nhiêu lần hơn nữa!
Các thánh tử đạo không sợ chết nghĩa là lúc chưa tới giờ tử đạo, họ không
bao giờ lo cho mạng sống họ quá đáng. Như vậy họ mới là những vị thánh. Nói
cách khác, thánh tử đạo không phải chỉ làm thánh khi rơi đầu, mà đă là thánh
từ trước, đă ghét mạng sống ḿnh hàng ngày. Nếu tôi không dám hy sinh những
việc nhỏ nhặt hàng ngày, tánh ư riêng, dục vọng, xác thịt. Phần chắc là tôi
sẽ không dám hy sinh mạng sống tôi đâu!
Lm. Phaolô Lưu Văn
Kiệu
Máu các
thánh tỬ đẠo
là hẠt
giỐng đỨc tin
Mt 10,17-22
Lm.An Phong, OP
Hôm nay, chúng ta cùng toàn thể Giáo
hội Việt Nam nói riêng và Giáo hội Công giáo toàn cầu nói chung – mừng kính
các Thánh Tử đạo tại Việt Nam, những người tôi tớ anh dũng của Thiên Chúa,
những người con trung hiếu của Giáo hội và dân tộc. Các ngài đă lấy t́nh yêu
và máu hồng để tuyên xưng đức tin, tuyên xưng sự hiện diện sung măn của
Thiên Chúa trên mảnh đất nhỏ bé châu Á này.
Tôn phong lên hàng hiển thánh là chuẩn
y đời sống thánh thiện, đức tin mạnh mẽ, đức ái tuyệt hảo và đức mến nồng
nhiệt của một người thuộc về Thiên Chúa. Tôn phong lên Thánh là chấp nhận
một cung cách sống triệt để Tin mừng, đặt bàn chân ḿnh vào vết chân Đức
Giêsu đă đi qua, là tôn vinh một kiểu mẫu - không phải là cá nhân - sống
phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo hội và phục vụ con người hết ḿnh. Hơn nữa,
đối với các Thánh Tử đạo, là đóng dấu ấn mạnh mẽ, quyết liệt lên ḷng can
đảm, chí can cường, sự hiên ngang, kiêu hùng, đầu ngẩng cao, mắt hướng về
trời của những người con của Thiên Chúa. Đă dám sống cho Chúa th́ cũng dám
chết v́ Chúa. Không phải là gông cùm, xiềng xích, tù đày; không phải là
xương tan thịt nát, máu chảy đầu rơi cho bằng ḷng hiếu nghĩa và tín trung
với Thiên Chúa. Máu đă thấm vào ḷng đất Mẹ Việt Nam để làm những hạt giống
đức tin sinh sôi nảy nở.
Từ ngàn xưa ấy :
"Phúc cho những ai bị bách hại v́ sự
công chính, v́ Nước Trời là của họ". Từ miền hoang vu đồi núi Galilê, lời
Đức Giêsu nhắn nhủ c̣n vang vọng đến mút cùng bờ cơi trái đất. Lời từ miền
đất Palestin xa xưa đó vượt qua các biên giới thiên nhiên, địa lư, qua toàn
thể các lục địa châu Âu, Mỹ, Úc và đến đất châu Á này. Lời đă vượt qua muôn
ngàn cách trở của ḷng người, của ngôn ngữ, màu da và đă đến nơi đây – nước
Việt của chúng ta. Theo vết chân của Vị truyền giáo đầu tiên vượt qua bao
gian nguy, giông băo của biển cả mênh mông. Lời đă đậu lại trên đất Ninh
Cường, Quần Anh, thuộc giáo phận Bùi Chu, Bắc Việt năm 1533.
Ngày ấy, sừng sững trên cửa bể Đà Nẵng,
một Thập giá cao to, không biết đă được dựng từ khi nào và do ai. "Đất này
rồi sẽ lắm đau thương". Lời tiên tri của vị thừa sai đă không sai. Nhưng lời
"Phúc cho những ai bị bách hại v́ sự công chính..." lại càng mạnh mẽ, thôi
thúc hơn. Vang vọng suốt nhiều thế kỷ, năm bách hại đầu tiên dưới thời chúa
Trịnh Doanh, kéo dài đến hết thời vua Tự Đức. Lời đă chan ḥa khắp không
gian đất Việt như một sự khích lệ, an ủi và hứa hẹn những tín hữu đương
thời. Hạnh phúc của những người nghe lời Chúa phải trả bằng giá quá đắt :
hơn một trăm ngàn chứng nhân anh dũng đă nằm xuống.
Nhưng hôm nay, đă hơn 400 năm tính từ
ngày hạt giống đức tin được gieo xuống mảnh đất này, đă trổ sinh những bông
lúa vàng tươi, đầy nhựa sống. Hào khí đau thương hiên ngang đến pháp trường
"chết v́ đạo" đă được thay thế bằng hào khí vui tươi "sống v́ đạo". Hào khí
đau thương "chết cho Chúa" được thay thế bằng niềm vui "sống cho Chúa".
Noi gương các ngài :
Những trang sử tuy đầy máu và nước mắt
nhưng là những trang sử kiêu hùng anh dũng của một ḍng giống hùng anh,
chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa. Các ngài đă bị dồn
ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược
đăi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngă nhưng không bị tiêu diệt. Các ngài
luôn mang nơi thân ḿnh cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu
cũng được biểu lộ nơi thân ḿnh các ngài. Thật vậy, tuy sống, các ngài bị
cái chết đe dọa v́ Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi
thân xác phải chết của các ngài.
Trong mọi sự, các ngài luôn chứng tỏ
ḿnh là những người phục vụ Thiên Chúa, khi phải chịu đựng đ̣n vọt, tù tội,
loạn lạc, lo âu, vất vả, nhọc nhằn. Các ngài chứng tỏ điều đó bằng đời sống
trong trắng; bằng sự hiểu biết; bằng cách sống nhẫn nhục, nhân hậu; bằng một
tinh thần thánh thiện, một t́nh thương không giả dối, bằng lời chân lư, bằng
sức mạnh của Thiên Chúa. Các ngài lấy công chính làm vũ khí tấn công và tự
vệ. Khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng
xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực, các ngài chân thành; bị coi là vô
danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực, các ngài được mọi người biết đến; bị coi là
sắp chết, nhưng kỳ thực, các ngài vẫn sống; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ
thực, các ngài luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực, các ngài làm
cho bao người trở nên giàu có; coi như không có ǵ, nhưng kỳ thực, các ngài
có tất cả.
Lạy
Chúa,
chúng
con xin cảm tạ Chúa
đă ban
cho Giáo hội Việt Nam chúng con
một món
quà tuyệt vời : 117 vị tử đạo tại Việt Nam.
Các ngài
đă theo Chúa trên con đường thập giá,
xin cho
chúng con được vững chí bền ḷng
khi gặp
thử thách gian nan.
Các ngài
đă vâng lời Thiên Chúa
hơn là
vâng lời người phàm.
Xin cho
chúng con biết noi gương các ngài
những
khi phải lựa chọn.
Lm.An Phong, OP
Các
Thánh TỬ ĐẠo ViỆt Nam
VưỢt
Qua NỖi SỢ
Lc 21:5-19
Lm. Đỗ Vân Lực, OP
Ngày 28 tháng 10 năm 2007 vừa qua, Giáo
Hội phong chân phước cho 498 vị tử đạo Tây Ban Nha. Trong số đó, đặc biệt có
chân phước Bartolomé Blanco Márquez. Márquez bị tử h́nh vào ngày 02 tháng 10
năm 1936, lúc mới có 21 tuổi, trong lúc hô to : “Vạn tuế Vua Kitô !” Chính
niềm tin vào Đức Kitô đă giúp Márquez can đảm từ bỏ tất cả. Nhưng trước khi
chết, Márquez không quên viết cho bạn gái một lá thư rất ư nghĩa và giá trị.
Anh dặn ḍ người yêu : “Bản án kết tội anh trước ṭa án nhân loại sẽ mạnh mẽ
bênh vực anh trước ṭa Thiên Chúa. Khi cố sức nhục mạ anh, họ đă tôn vinh
anh. Khi sắp kết án anh, họ đă giải thoát anh, và khi toan tiêu diệt anh, họ
đă cứu anh. V́ khi giết anh, họ cho anh sống thực sự và khi kết án anh v́ lư
tưởng cao đẹp nhất của tôn giáo, quốc gia và gia đ́nh của anh, họ mở cánh
cửa thiên đàng trước mặt anh. Anh xin phép nêu lên một vấn đề với em : lúc
này chúng ta nhớ tới t́nh yêu đă chia sẻ với nhau. T́nh yêu đó vẫn lớn mạnh.
Mong em hăy lấy việc cứu rỗi linh hồn ḿnh làm mục tiêu hàng đầu. Nhờ đó,
chúng ta sẽ đoàn tụ để sống đời đời trên thiên đàng, nơi không có ǵ ngăn
cách được chúng ta.” (1)
Làm sao Márquez có thể hy sinh tất cả
và có thể vượt qua nỗi sợ trước cái chết như thế ? Tại sao trong cuộc sống
hàng ngày chúng ta không thể vượt qua nỗi sợ ? Nếu không thể vượt qua nỗi sợ
thường t́nh, làm sao có thể chống chọi với những tai họa ngày tận thế ? Có
cách nào không những vượt qua mà c̣n có thể lợi dụng những đau khổ để đạt
tới niềm hy vọng lớn lao không ?
LÀM SAO VƯỢT QUA NỖI SỢ ?
Chúa Giêsu không sợ đối diện với thực
tế. Người không muốn chúng ta trốn chạy hay quên lăng những đau khổ của kiếp
người. Trái lại, Người c̣n muốn chúng ta thấy trước nỗi khổ lớn nhất con
người phải đối đầu vào ngày cùng tận của thế giới. Vào những lúc khủng hoảng
cùng cực đó, con người không c̣n biết trốn chạy vào đâu. Người ta có thể
chạy theo bất cứ ai đưa ra lời hứa hấp dẫn nhất. Nhưng Chúa cảnh giác : “Anh
em hăy coi chừng kẻo bị lừa gạt. Anh em chớ có theo họ.” (Lc 21:8.9)
Đó là chưa kể có những kiểu lường gạt
tinh vi hơn nhiều. “Có nhiều kẻ sẽ mạo danh Thày đến nỗi nói rằng : ‘Chính
ta đây.’” (Lc 21:8) Thực tế, những hạng giả dạng ngôn sứ hay Kitô đó cố t́nh
khai thác sự nông cạn và dễ tin của quần chúng để thống trị và lôi kéo những
người đang hoảng loạn trước những đường cùng. Nhiều người đổ xô theo họ khi
nghe những lời tiên báo về ngày tận thế với những tai họa gần kề.
Khi Chúa mới nói một chút về số phận
cùng tận của đền thờ Giêrusalem, các môn đệ đă nhốn nháo hỏi về ngày tháng
và điềm báo. Họ tưởng biết trước những thông tin như thế, có thể giúp họ
tỉnh thức hơn, y như người ta theo dơi đài khí tượng tiên báo về thời tiết
vậy. Chúa đă không đáp lại sự mong đợi đó của các môn đệ. Trái lại, người
c̣n nói về các loại đau khổ cả tinh thần lẫn thể xác sẽ ập đến hành hạ con
người. Người không muốn cho họ tính toán ngày tháng, nhưng muốn cho họ thấy
ư nghĩa lịch sử nhân loại. Lịch sử đầy những biến động đau thương và bi đát,
nhưng phải có hồi kết thúc, kết thúc trong một định hướng. Định hướng này
phân chia lịch sử Giáo hội làm hai cực : bóng tối và ánh sáng. Chúng ta đang
hướng tới sự sống, dù đang phải trải qua cơn đau khổ. Lịch sử phải đi tới
một kết quả và thăng hoa nhờ cuộc phục sinh của Chúa Kitô, Đấng tuyên bố
chiến thắng dứt khoát trên tử thần và tội lỗi.
Nếu không thấy được hướng sống đó,
chúng ta sẽ ngă gục trên đường đời. Nhiều người tưởng đang sống trong một
thế giới được bảo đảm về mọi mặt. Những tiến bộ kỹ thuật, phương tiện vật
chất mạnh mẽ, hệ thống xă hội phức tạp và những phương tiện truyền thông vạn
năng đủ bảo đảm cuộc sống. Nhưng chính lúc đền thờ Giêrusalem đă làm cho mọi
người lóa mắt và hănh diện, Chúa Giêsu đă loan báo cho các môn đệ biết tương
lai sẽ “bị tàn phá hết không c̣n tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc 21:6)
Cũng thế, “cuộc đời như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.” (2) Một cuộc
động đất, sập cầu, khủng bố, dịch tả, cúm gà v.v. cũng đủ làm tiêu tan bao
mộng ước. Không ai có thể t́m được chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống nữa.
Giữa cuộc đời bấp bênh và đầy cạm bẫy
đó, “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.”
(Tv 119:105) Có Lời Chúa dẫn đường, chúng ta không thể sa hầm sập bẫy trần
gian. Lời Chúa không lừa dối, nhưng xua tan mọi ảo tưởng và phơi bày mọi sự
thực trần gian.
Hơn nữa, có điểm dựa nào vững chắc bằng
Tin Mừng ? Chính Chúa quả quyết : “Ai nghe những lời Thày nói đây mà đem ra
thực hành, th́ ví được người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay
băo táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, v́ đă xây trên nền đá.” (Mt 7:24)
Được Lời Chúa làm nền tảng, bản lănh chúng ta sẽ vững chắc và đủ sức đương
đầu với bất cứ thách đố nào trong cuộc đời.
Lời Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta thấy
“núi đá và thành luỹ bảo vệ con, chính là Chúa.” (Tv 31:4) Đó là lư do tại
sao ĐGH Gioan Phaolô dám nhắc lại lời Thày chí thánh để kêu gọi Giáo hội
“Đừng sợ!” ngay từ lúc mở đầu triều đại giáo hoàng.
Nếu thời đại có làm cho chúng ta lo âu
về thế giới và Giáo hội, th́ cũng đừng thối chí nản ḷng. Chúa bảo đảm cho
chúng ta. Người không bỏ rơi thế giới Người đă kết ước, cũng chẳng ĺa xa
Giáo hội “Người đă hiến thân.” (Ep 5:25) Phải nh́n lên Chúa Kitô mới thấy
được tất cả sức mạnh và lư do của niềm hy vọng. Nếu không, chúng ta sẽ bị
trôi dạt như những chiếc lá trong cơn nước lũ.
Khi đă tỉnh thức và t́m được ư nghĩa
lịch sử cũng như chỗ dựa vững chắc, không những chúng ta tràn trề niềm hy
vọng, mà c̣n có thể vận dụng chính những đau khổ thành phương tiện làm chứng
cho Thiên Chúa t́nh yêu.
Đối đầu với cơn lốc lịch sử nhân loại
và những cuộc bách hại không phải là một thái độ tiêu cực, nhưng là làm
chứng một cách tích cực. Tin Mừng không che đậy khi nói những thử thách đó
có thể là cơ hội “tử đạo” (nguyên nghĩa là “làm chứng”). Đó là lư do tại sao
Chúa nói : “Phúc thay ai bị bách hại v́ sống công chính, v́ Nước Trời là của
họ.” (Mt 5:10) Vào thời thánh Luca viết Tin Mừng, thánh Phêrô, Phaolô và
nhiều người đang làm chứng rất mănh liệt. Hiện nay, nhiều anh em kitô hữu,
giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân đang bị bách hại. Mỗi năm hàng chục
người đổ máu để làm chứng cho Chúa ở Phi châu, Á châu và các nơi khác. Mặt
trời công chính không bao giờ lặn !
Từ ngàn xưa, Chúa đă hứa : “Đối với các
ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo
các tia sáng chữa lành bệnh.” (Ml 3:20) Mặt trời công chính đă mọc lên là
Đức Kitô. Giữa cảnh tăm tối trần gian, các tông đồ đă thấy “dung nhan Chúa
chọi lọi như mặt trời.” (Mt 17:2) Phải có niềm tin sâu xa mới thấy ánh sáng
phục sinh là “các tia sáng chữa lành bệnh” cho những người đă bị thương tích
v́ Chúa Kitô. Tất cả sẽ được tái sinh trong một cuộc sống phong phú gấp vạn
lần. Nhưng phải nhớ một điều : “Có kiên tŕ, anh em mới giữ được mạng sống.”
(Lc 21:19) Tất cả không nằm ngoài chương tŕnh quan pḥng của Thiên Chúa.
Thật vậy, “dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu.” (Lc 21:18)
Phần đông chúng ta không bị bách hại
như thế. Nhưng chúng ta bị nhạo báng và chê cười về niềm tin. Những người vô
tín châm chọc chúng ta tại nhà trường, văn pḥng và cả trong gia đ́nh nữa.
Đó là cơ hội làm chứng. Đừng mất công t́m cách đối đáp với những người đó.
Chúa bảo đảm : “V́ chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến
tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay căi lại được.” (Lc
21:15)
Tuy nhiên, nên nhớ chứng từ có sức
thuyết phục nhất không phải là những bài diễn văn hùng hồn, nhưng là hành
động : ḥa hoăn, khoan dung, chia sẻ và tha thứ. Có thể thêm nhiều hơn nữa
vào các sứ vụ và bổn phận hàng ngày của chúng ta.
KHI MẶT TRỜI CÔNG
CHÍNH MỌC LÊN
Trên bước đường theo Đức Kitô, nhiều
người bị ngược đăi, bắt bớ, tù đày, bị chính những người thân nhất phản bội.
C̣n ǵ đau khổ hơn ?! V́ danh Đức Kitô, nhiều người đă trở thành đối tượng
cho mọi sự thù ghét. Mọi h́nh thức xỉ nhục và đau khổ thi nhau xuất hiện.
Sau cùng, một số người bị đẩy vào cơi chết. Thật là những mất mát quá lớn
lao! Làm sao bù lại được những ǵ đă mất sau những hy sinh đó ?
Xét về mặt trần gian, quả thật không ǵ
có thể bù đắp được! Nhưng tử đạo là một tiếng nói uất nghẹn và phản kháng
những thế lực chà đạp tự do tôn giáo. Khi chấp nhận cái chết, các vị tử đạo
không những muốn tuyên xưng đức tin, nhưng c̣n muốn khẳng định quyền tự do
tôn giáo là quyền căn bản nhất của con người. Không tuân phục lệnh nhà vua
hay bọn cường quyền, họ muốn khẳng định quyền tự do tôn giáo là một ân huệ
Thiên Chúa, chứ không phải là một thứ quà tặng theo chế độ “xin cho” của nhà
nước. Công đồng Vatican II quả quyết : “Tự do tôn giáo có căn cứ nơi phẩm
giá con người và phải được thừa nhận như một dân quyền trong lănh vực pháp
lư xă hội.” (3) Con người chỉ có một thứ phẩm vị duy nhất. Thế nên, không
thể có tiêu chuẩn kép hay hai cách hiểu về nhân quyền, nhất là về tự do tôn
giáo. Khi bóp nghẹt hay đàn áp tự do tôn giáo, nhà cầm quyền đă chà đạp lên
nhân phẩm và phủ nhận nhân quyền.
Đàng khác, tự do tôn giáo là tổng hợp
mọi thứ tự do, v́ nhờ đó, con người có quyền sống trong chân lư đức tin và
sống phù hợp với phẩm giá siêu việt con người. (4) Giá trị cao cả nhất nằm
trong quyền tự do tôn giáo : “Mọi người không thể bị bất cứ cá nhân hay đoàn
thể xă hội và quyền lực loài người nào cưỡng bức. Không ai bị buộc phải hành
động trái với niềm tin, cách kín đáo hay công khai, một ḿnh hay với người
khác, trong những giới hạn đ̣i buộc.” (5) Tôn trọng quyền tự do này là dấu
chỉ “con người có tiến bộ đích thực trong bất cứ chế độ xă hội, hệ thống hay
hoàn cảnh nào. (6) Tất cả những tiến bộ về mặt kinh tế, chính trị v.v. không
thể nhằm đáp ứng những nhu cầu tâm linh hay tôn giáo. Nhà nước không thể
đóng vai tṛ giáo hội. Các người lănh đạo cũng chỉ là con người. Không ai có
thể thay thế vai tṛ Thượng đế.
Hơn nữa, phát triển kinh tế để làm ǵ ?
Nếu chỉ dừng lại ở những sinh hoạt đó, con người chỉ đạt đến những phương
tiện sống, mà quên mất mục đích và cứu cánh cuộc đời. Trong khi đó, tín
ngưỡng hay tôn giáo nhằm thỏa măn nhu cầu tâm linh cao cả nhất của con
người. Nếu là một quyền sống, tôn giáo phải được công lư bảo vệ khỏi những
cuộc xâm phạm và đàn áp.
Công lư đ̣i mọi người phải tôn trọng
quyền tự do tôn giáo. Những người bị đàn áp và giết chết v́ niềm tin đă tạo
thành một tiếng nói phản kháng những chế đô độc tài. Máu họ đổ ra có sức kêu
thấu trời xanh và thức tỉnh lương tâm con người. Những ai c̣n chút lương tâm
không thể không tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Chỉ tôn giáo mới có thể huấn
luyện và hướng dẫn con người sống đúng lương tâm. Nếu hoàn toàn vô thần, làm
sao lương tâm được hướng dẫn ? Không có niềm tin tôn giáo, không thể có
lương tâm ngay chính. Người ta giữ luật pháp chỉ v́ sợ tù tội mà thôi. Nhưng
luật nào chẳng có kẽ hở ? Chế độ làm sao có thể thay thế lương tâm kiểm soát
mọi sinh hoạt dân chúng ? Trong chế độ vô thần, tự do tôn giáo không được
tôn trọng. Đàn áp tôn giáo là hủy diệt một sức mạnh lớn nhất giúp con người
sống theo đường ngay lẽ phải. Chỉ tôn giáo chân chính mới có thể huấn luyện
lương tâm và hướng dẫn con người sống theo công lư.
SỨC MẠNH ĐỨC TIN
Đàn áp tôn giáo cũng có nghĩa là chà
đạp lương tâm của chính ḿnh. Nhưng chính khi những người cầm quyền chà đạp
lương tâm ḿnh, tiếng nói công lư vang lên mạnh mẽ từ những con người đă
liều thân v́ niềm tin tôn giáo. ĐGH Gioan Phaolô II đă gọi họ là những người
“tử đạo v́ đức tin.” Những nhà độc tài đă dùng đủ mọi biện pháp bóp nghẹt
đức tin đó. Nhưng các vị tử đạo đă dùng cái chết để phản kháng và nói cho
mọi người biết không có ǵ mạnh hơn đức tin.
Đức tin nảy sinh trong tâm hồn tín hữu
từ khi họ được ǵm vào trong cái chết và phục sinh của Đức Kitô nơi giếng
rửa tội. Nhờ đó, họ được sống và sống dồi dào. Nhờ tin vào chân lư hằng sống
là Đức Kitô, họ được hứng khởi và can đảm làm chứng cho Chúa. Nếu không yêu
Chúa Kitô mănh liệt, Kitô hữu không thể hy sinh cả mạng sống cho Chúa và anh
em. Nhưng các vị tử đạo biết ḿnh đă đón nhận được ân sủng lớn lao để có thể
chọn cái chết v́ đức tin. Chỉ có ân sủng mới có thể giải thích và cho ta
thấu hiểu tại sao các ngài lại hy sinh đến thế.
Năm 1843, giữa gông cùm xiềng xích ngục
tù, thánh Lê Bảo Tịnh đă viết cho bạn: “Tôi là Phaolô đang bị xiềng xích v́
danh Chúa Kitô, muốn kể cho anh về những khổ cực tràn ngập thân tôi mỗi ngày
để v́ yêu mến Thiên Chúa, anh có thể dâng lên Người lời tạ ơn ‘v́ muôn ngàn
đời Chúa vẫn trọn t́nh thương.’ Nhà tù này quả là h́nh ảnh Hỏa ngục đời đời
... Nhưng ngày xưa Chúa đă giải thoát ba em nhỏ khỏi ngọn lửa, giờ đây Thiên
Chúa cũng luôn ở bên tôi và giải thoát tôi khỏi kiếp khốn cùng này và biến
cải những khổ đau thành hương vị ngọt ngào, ‘v́ muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
t́nh thương.’ Xin hăy cầu nguyện giúp tôi chiến đấu tới cùng, kết thúc ṿng
đua một cách hân hoan. Nếu không c̣n nh́n thấy nhau trên cơi đời này, chúng
ta sẽ vui mừng khi đứng trước ṭa Con Chiên vẹn tuyền, chung tiếng ngợi khen
Chúa, hân hoan mừng chiến thắng đời đời. Amen.” (7)
Khi chọn tử v́ đạo, các Kitô hữu hoàn
toàn tự do bước theo Chúa Kitô để dấn thân vào sứ mệnh Giáo hội. Họ từ bỏ
mạng sống để sống hoàn toàn tự do và tiếp tục sống măi, nghĩa là được cứu
độ. Nói khác, ơn cứu độ làm cho con người hoàn toàn tự do và có thể sống
hiệp thông hoàn toàn cũng như đối thoại với Thiên Chúa. Đó là mục tiêu cao
cả và quyết liệt nhất của mọi công cuộc loan báo Tin Mừng. Nghĩa là, “chân
lư Tin Mừng cũng được công bố để cứu văn nhân phẩm và sự thánh thiêng của
đời sống con người. Do đó, tự bản chất bất cứ hành động nào nhằm cổ vơ nhân
phẩm đều có đặc tính cứu độ, và bất cứ hoạt động nào nhằm dẹp bỏ hay ngăn
trở việc công bố này đều bị coi là cản trở hay bách hại đức tin.” (8) Người
ta đă huy động bao nhiêu lực lượng để đàn áp tôn giáo ? Nhưng lực lượng nào
có thể đọ với đức tin ? Lịch sử cho thấy trở lực nào cũng có hồi kết thúc và
phải trả lại công lư cho những người bị đàn áp tôn giáo.
Nói tóm, chỉ có một con đường cứu thoát
duy nhất là Đức Kitô. Chúa Giêsu quả quyết : “Chính Thày là con đường, là sự
thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Giữa bao nhiêu thách đố, Kitô hữu có thể t́m
được nơi Lời Chúa một nền tảng vững chắc và một nơi ẩn trú b́nh an. Đó là
tất cả bí quyết giúp Kitô hữu vượt qua mọi cơn sợ hăi và vận dụng mọi khả
năng biến đau khổ thành phương tiện làm chứng cho Đức Kitô. Không nắm được
bí quyết ấy, nhiều người sợ chết mà đành kéo lê kiếp trâu ngựa suốt đời. Đó
có phải là số phận dân tộc ta hôm nay không ?
Lạy Chúa, xin cho chúng con một đức
tin kiên cường như cha ông Tử Đạo Việt Nam, để chúng con có thể vượt qua mọi
nỗi sợ hăi hiện tại và biến những đau khổ thành phương tiện làm chứng cho
Chúa giữa ḷng dân tộc và nhân loại hôm nay. Amen.
Lm. Đỗ Vân Lực, OP
SỐng
đẠo tỐt
Mt 10,17-22
Lm.Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể
các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây là dịp để chúng ta tỏ bày ḷng biết ơn sâu xa
của chúng ta đối với các vị cha ông tổ tiên, cũng như nói lên những ước
nguyện và tâm t́nh của chúng ta.
Chúng ta biết : từ khi Tin Mừng được
loan truyền cho dân tộc chúng ta, hay từ khi đạo Chúa chính thức hội nhập
vào đất nước chúng ta vào giữa thế kỷ XVII cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là
vào khoảng từ năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo hội Việt Nam
có thể nói là một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác,
không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng th́ chỉ là tạm ngừng, để chuẩn bị tiến
sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn. Cuộc bách
hại chính thức bắt đầu nhóm lên với đời hai chúa Trịnh Nguyễn, rồi trở nên
ráo riết hơn trong thời Tây Sơn, qua đời Minh Mạng đă biến thành dữ dội, tới
đời Tự Đức, cuộc bách hại đi vào quyết liệt, chua xót đắng cay và từ đó ngày
càng thêm ác liệt đến cực độ trong thời Văn Thân.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính
ra có trên 100 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế, nước Việt Nam chúng ta, tuy
nhỏ hẹp và nghèo khổ, nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp, nhưng danh tiếng
vang lừng quốc tế, chúng ta đă đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự
nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó, mới chỉ có 117 vị được phong
chân phước, và ngày 19-6-1988, cả 117 vị này đă được Đức Giáo Hoàng Gio-an
Phao-lô II long trọng suy tôn lên bậc Hiển Thánh. Các ngài được suy tôn Hiển
Thánh để cho toàn thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài, đồng
thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài,
biết nối gót cha ông, dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng luôn trung
thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa ḷng dân tộc.
Người ta thường nói : “ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”, “uống nước phải nhớ tới nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử
đạo, được thừa hưởng một gia sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một
Giáo hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên được rằng
đó là kết quả của những ḍng máu cha ông đă đổ ra, thấm nhuần non sông đất
nước, trở thành một ḍng nhựa sống làm nảy nở một mùa xuân hoa trái tưng
bừng, đúng như Te-tu-liên đă nói : “Máu tử đạo là hạt giong phát sinh các
tín hữu”. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công nghiệp to lớn của tiền
nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát triển di sản quư báu rực rỡ
cha ông đă để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm t́nh hoan lạc phấn khởi và
biết ơn thôi th́ chưa đủ, chúng ta c̣n phải chú ư lắng nghe tiếng gọi tha
thiết của gịng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quư để áp dụng
vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói ǵ với chúng ta ?Trước hết, máu tử đạo nói
lên niềm tin mănh liệt sâu xa và ḷng trung thành sắt son của cha ông với
đạo thánh Chúa. Đức tin đă thấu nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài, đến
nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển. Đối với các vị tử
đạo, đức tin là một báu vật, một cái ǵ cao quư vô cùng, phải bảo vệ bằng
mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ h́nh dă man, ghê rợn, dầu phải
máu đổ đầu rơi, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên
vẹn. Được hấp thụ tinh thần Nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết,
không những trung với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là
trung với vua trên các vua, chúa trên các chúa, trung với quê hương siêu
nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sáng lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Được diễm phúc lănh nhận đức tin, được vinh dự mang danh hiệu Công giáo như
các vị tử đạo, chúng ta cũng phải noi gương hiếu trung của cha ông, sẵn sàng
hy sinh tất cả để bảo vệ đạo Chúa, bảo vệ Giáo Hội, trung thành với đức tin
đă lănh nhận.
Máu tử đạo nói ǵ nữa với chúng ta ?
Máu tử đạo c̣n nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người
ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không ham
sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đă thắng vượt tất cả mọi trở
lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy tŕ đức tin. Chúng ta không thể kể được
những khổ h́nh dă man các ngài đă phải chịu, có những người đă phải bỏ cửa
nhà, ruộng đất, chạy trốn vào rừng thiêng nước độc, có những người bị thích
tự trên má, bị gạt ra khỏi xă hội, bị nguyền rủa thậm tệ như hạng vong bản,
bất trung, phản quốc, hàng ngàn người phải chịu h́nh khổ tra tấn như xuy,
trượng, ḱm kẹp, xiềng xích, cấm cốc, phải xử tử bằng cách trảm quyết, voi
dầy, thiêu sinh, trầm hà, bá đao, lăng tŕ v.v… và biết bao h́nh khổ khác
nữa. Nhiều người trong số tử đạo lại là phụ nữ, trẻ em, chân yếu tay mềm,
tâm hồn non nớt tế nhị. Nhưng tất cả đă can đảm chịu mọi khổ cực đắng cay,
nhất định không bất trung xuất giáo, nhất định không chịu chối Chúa, bỏ đạo.
Các ngài đă thắng tất cả : thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần
gian, thắng ma quỷ và thắng chính ḿnh, để toàn công đắc trận. Và các ngài
đă chiến thắng như thế không phải bởi ǵ khác mà bởi chính đức tin mạnh mẽ
của các ngài.
Các vị tử đạo đă sẵn sàng đổ máu, sẵn
sàng chết để minh chứng đức tin chân chính, minh chứng đạo của các ngài là
đạo thật. Máu của các ngài đă tưới đẫm đất nước, và các ngài không mong ǵ
hơn là thấy quê hương biến thành vườn hoa Công giáo rực rỡ muôn màu sắc.
Nhưng thực tế cho chúng ta thấy, đa số đồng bào vẫn chưa nhận được ánh sáng
đức tin. Điều đó phải làm cho mỗi người chúng ta suy nghĩ, phải chăng tại
thái độ thờ ơ lănh đạm của chúng ta mà gương sáng của tiền nhân tử đạo bị lu
mờ trước mắt mọi người, làm cho họ không nhận ra đường chân lư đưa tới hạnh
phúc thật ?
Chúng ta hăy dâng lên Thiên Chúa những
lời cầu khẩn tha thiết, xin Chúa v́ máu các thánh tử đạo đă đổ ra, làm cho
cánh đồng truyền giáo Việt Nam được triển nở tốt tươi, và thêm nhiều thợ gặt
nhiệt thành trong hàng ngũ giáo sĩ cũng như giáo dân. Chúng ta cũng đừng
quên rằng đây là trách nhiệm của mỗi người chúng ta, Cách thi hành trách
nhiệm này tốt hơn cả là sống đạo tốt, và để sống đạo tốt trong thời buổi
này, mọi người chúng ta cần phải có chất lượng, chất lượng đó là đời sống
nội tâm, có Đức Ki-tô sống trong chúng ta, chất lượng đó là bác ái đối với
tha nhân, chất lượng đó là khả năng phục vụ : phục vụ Thiên Chúa, phục vụ
Hội Thánh, phục vụ đất nước, phục vụ đồng bào, phục vụ lẫn nhau.
Lm.Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Máu Các
Thánh TỬ ĐẠo
TrỔ
Sinh Các Tín HỮu
Lc 21,5-19
Lm. Joseph Vũ Hải Bằng, OP
"Ai gieo trong lệ sầu, Sẽ gặt trong hân
hoan" (Tv. 125-126, 5, 6) Tin mừng Thánh Luca (21, 5-19) cho chúng ta thấy
một bức tranh hiện thực về một bối cảnh, trong đó Đức Giêsu báo trước cho
các môn đệ những ǵ các ông sẽ phải trải qua và nhận được khi sống quyết
liệt và triệt để Tin mừng v́ Danh Đức Kitô. Chúa tiên báo cho các Tông Đồ và
cho các đồ đệ các ngài trong mọi thời đại, và Chúa tiên báo một cách hết sức
rơ rệt, không úp mở. Chúa không đưa đẩy với những lời hứa hẹn xa gần, nhưng
với thói quen nói thẳng lời chân lư toàn diện. Chúa chuẩn bị tâm hồn các
Ngài trước nguy cơ : “V́ danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng
dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên tŕ, anh em
mới giữ được mạng sống ḿnh.” (Lc 21, 17-19).
Một dự báo thật khó khăn và khắc
nghiệt. Nhưng xem ra, dường như những người theo Chúa Kitô Giêsu hôm nay
không phải chịu cảnh khắc nghiệt đó ?! V́ danh Đức Kitô, người ta dễ dàng
yêu mến và tôn trọng những người sống Tin Mừng cách triệt để. Dù chiến
tranh, bạo động… vẫn đang xảy ra tại các điểm nóng trên thế giới, nhưng mọi
người dù theo chủ trương bạo động hay bất bạo động, dù công khai hay âm
thầm, vẫn chân nhận quư mến và cảm phục những người đă hết ḿnh sống cho lư
tưởng và tinh thần của Tin Mừng (như Mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Gioan Phaolô
II…)
Nhưng, nếu chúng ta nghiên túc kiểm
điểm và hạch toán đời sống đức tin của chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra thật
không dễ dàng chút nào khi sống quyết liệt và trọn vẹn lư tưởng và tinh thần
của Tin Mừng, thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, hướng trọn
toàn tâm toàn trí về Danh Đức Kitô.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bỏ rơi
những ai tin theo Ngài trong những cơn bách hại : "Khi bị nộp vào tay họ,
các con đừng lo phải nói thế nào và nói ǵ, lúc đó sẽ dạy cho các con những
điều phải nói. V́ thực ra không phải các con nói, nhưng Thánh Thần của Chúa
Cha nói trong các con" (Mt 10, 19-20). Thánh Thần, chính là Thần Chân Lư.
Ngài sẽ là mănh lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là mănh
lực mà anh em mới có thể thành chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh em là
chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chăng phải là khôn ngoan, là
mănh lực vượt mức loài người đó ư ? Chính Thánh Phaolô đă nói : "Sự kiện
Chúa Kitô tử nạn là một ô nhục cho người Do Thái, là một cử chỉ điên rồ đó ư
?" (I Cor. 1, 23). Từ đời các Thánh Tông Đồ đă vẫn thế rồi, qua các thế hệ
lịch sử vẫn tiếp tục như thế; cũng như qua mấy thế kỷ bách hại tại Việt Nam,
sự kiện đó vẫn không thay đổi.
Thật vậy, cần phải có mănh lực, khôn
ngoan từ Thiên Chúa mới có thể tuyên xưng Mầu Nhiệm T́nh Yêu của Ngài, chính
là t́nh yêu được diễn tả trong cuộc tử nạn trên Thập Giá để cứu chuộc trần
gian: quả là mầu nhiệm bao la vượt hẳn sự suy luận của loài người. "Là v́
cái điên rồ nơi Thiên Chúa c̣n khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan của người
đời, và cái yếu hèn nơi Thiên Chúa c̣n mạnh hơn cả sức lực phàm nhân" (I
Cor. 1, 25).
Các vị Tử Đạo Việt Nam là những chứng
nhân lịch sử của Tin mừng đă sống triệt để Lời Chúa dạy. Trong vũng nước mắt
của các ngài đă gieo xuống hạt giống ân sủng, để rồi trổ thành vô số bông
hoa Đức Tin : "Hạt giống gieo xuống mà không mục đi th́ chỉ trơ trọi một
ḿnh, nếu mục đi sẽ sinh nhiều bông lúa" (Ga. 12, 24). Thực hiện lời dạy của
Chúa, Thánh Vinh Sơn Liêm, Ḍng Đa Minh là người Việt Tử Đạo đầu tiên năm
1773, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách. Lúc nào, cha cũng
luôn nhiệt t́nh yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên ai cũng hết ḷng thương
mến. Cha khích lệ mọi người thêm can đảm, cha an ủi những người buồn sầu, và
không nề hà bất cứ điều ǵ v́ lợi ích thiêng liêng của họ. Cha c̣n xin bề
trên của ḿnh cầu nguyện cùng Chúa khi dâng lễ và trong kinh nguyện, để mỗi
ngày được ḥan thiện hơn, và vui ḷng đón nhận những khốn khó theo ư Chúa".
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, để có thể
sống : “V́ Danh Đức Kitô” (Lc 21, 17), chúng con cũng phải đổ máu trong cuộc
sống đời thường. Chúng con cũng phải bắt chước giống như các thánh Tử Đạo
Việt Nam, đă anh dũng và can đảm sống chứng nhân Tin Mừng. Dù không bị ai
bắt bớ, giam hăm, nhưng cuộc sống của chúng con sẽ là lời chứng hay phản
chứng về Tin Mừng của Đức Kitô. Máu các thánh Tử Đạo đă đổ ra để ươm mầm và
nảy nở hạt giống đức tin của Giáo Hội. Phần chúng con cũng phải “đổ máu” để
góp phần làm trong sách hoá đức tin, làm lành mạnh hoá môi trường sống.
Quả thật, Lời Chúa vẫn c̣n vang măi và
mang lại ơn ích cho người muốn lắng nghe. Dù xă hội có bị xáo trộn và phức
tạp v́ những đổi thay thời “mở cửa”, chúng con vẫn nhận ra t́nh yêu quan
pḥng của Thiên Chúa: “Dù một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng không bị mất
đi” (Lc 21, 18). Máu các thánh Tử Đạo đă không đổ ra một cách vô ích. Những
chứng nhân hiện đại vẫn sống Tin Mừng cách âm thầm không bị rơi vào vô vọng
và lăng quên, ít nhiều đă gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh và làm chứng cho
Lời Chúa vẫn c̣n hấp -lực thu hút và thuyết phục, là ánh sáng soi đường cho
những ai muốn sống hướng thượng và toàn tâm toàn trí cho “Danh Chúa”. Một
lần nữa, khẳng định : “Có kiên tŕ, anh em mới giữ được mạng sống ḿnh” (Lc
21, 19) giúp chúng con vững tin và tạo thêm động lực để chúng con bước đi
dưới ánh sáng Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con
không thể làm được ǵ nếu không có ơn Chúa. Xin cho chúng con biết ư thức
những ǵ chúng có có được cũng là nhờ “Danh Chúa”, và nếu, chúng con có gặp
khó khăn, trở ngại hay chống đối , thiệt tḥi ǵ, th́ cũng là v́ “để Danh
Chúa được tôn vinh hơn”. Xin Chúa thêm sức cho chúng con, để chúng con biết
sống đức tin trong đời thường, trong môi trường làm việc và sinh hoạt… biết
can đảm và dám đổ máu “chết đi” con người cũ, ích kỷ, hưởng thụ và vô trách
nhiệm… hầu chúng con có thể trở thành chứng tá cho t́nh thương Chúa, và trở
thành khí cụ b́nh an của Chúa. Ước ǵ nhờ máu các thánh Tử Đạo Việt Nam,
chúng con ngày càng được triển nở và thăng tiến đức tin trong t́nh yêu Thiên
Chúa. Amen.
Lm. Joseph Vũ Hải Bằng, OP
ĐỂ Làm ChỨng Cho
Vua Quan
Manna
X
LỜi Chúa:
Mt 10, 17-22
Khi ấy, Đức Giêsu sai mười hai môn đệ đi và dặn rằng:
17 "Hăy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng,
và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. 18 Và anh em sẽ
bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền v́ Thầy để làm chứng cho họ và các
dân ngoại được biết. 19 Khi người ta nộp anh em, th́ anh em đừng
lo phải nói làm sao hay phải nói ǵ: 20 thật vậy, không phải
chính anh em nói, mà là Thần Khí của Chúa Cha nói trong anh em.
21 "Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người
ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha
mẹ phải chết. 22 V́ danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.
Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát."
X
Suy NiỆm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời
của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những ǵ các ngài
phải chịu đều v́ Đức Giêsu (c.18), v́ Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên
Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí
của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu
(c.19-20) Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi
thố nơi một con người mỏng ḍn yếu đuối.
Chết v́ Đạo là một cách làm chứng. Làm chứng cho một
niềm tin kiên vững: V́ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên
các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một t́nh yêu nỏng bỏng: "Không có t́nh yêu nào lớn hơn t́nh
yêu của người hiến mạng v́ bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mănh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc
vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu. Các vị tử đạo đă làm
chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Làm
chứng nào cũng đ̣i phải hy sinh, mất mát, thiệt tḥi,
v́ đ̣i ta lội ngược ḍng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua
là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù
đày, đ̣n vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là
mọi sự thay đổi. Đă có người bước qua, và cũng có người không. Có người bị
khiêng qua thánh giá, nhưng đă co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có
người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân
nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước
qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đ́nh Hy, nhưng họ đă
thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn
tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thánh
giá là giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh
của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ hăi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong
ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để
phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống
hưởng thụ và ích kỷ của ḿnh.
X
GỢi Ư Chia SẺ
·
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ư bạn, người Công Giáo Việt Nam
phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết
Chúa?
·
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó
trong đời thường không?
X
CẦu NguyỆn
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đă dám sống đến
cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của
các ngài cho thấy t́nh yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cơi sống
bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đă chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can
trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về t́nh yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước ǵ ngọn lửa đức tin mà các ngài đă thắp lên bằng
cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước ǵ máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê
hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Manna
CẢm MẾn CÔng Ơn
CỦa Các Anh Hùng
TỬ ĐẠo
2M 7,1-2.9-14; 2C 4,7-15; Mt 10,16-23
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
I. Phúc Âm:
Mt 10, 17-22
"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa v́
Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con
hăy coi chừng người đời, v́ họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập
các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua
chúa v́ Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi
người ta bắt nộp các con, th́ các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói
ǵ. V́ trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói ǵ: v́ chưng, không phải
chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ
phải chết. V́ danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ
đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
II.Suy NiỆm:
Ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để chúng ta ca
tụng Thiên Chúa đă làm những việc vĩ đại trên Quê hương Đất nước và nơi Dân
tộc anh hùng chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng lại khuôn mặt đẹp đẽ và ư chí
quật cường của bao bậc tiền bối. Chúng ta học để quư mến sự sống mà chúng ta
đang mạng trong ḿnh và do các ngài để lại. Và chúng ta sẽ cố gắng phát huy
cơ nghiệp mà tiền nhân đă hy sinh mạng sống để giữ lại cho chúng ta.
A. Cảm Mến Công Ơn Của Các Anh Hùng Tử Đạo
Bài sách Macabê thuật lại câu truyện tử đạo của một gia
đ́nh 7 mẹ con ở thời Cựu Ước. Đó là một gia đ́nh không tên không tuổi; và v́
thế được phụng vụ coi như là tiêu biểu cho bao bậc tử đạo vô danh. Chúng ta
có thể tựa vào câu truyện ấy để nhắc tới những bậc tử đạo quá nhiều trên Đất
nước chúng ta.
Thực vậy, Hội Thánh Việt Nam có nhiều tử đạo bậc nhất
thế giới: xét cả về tổng số, cả về tỷ số... Người ta đă nói tới con số
300,000 tử đạo ở Việt Nam. Được mấy Giáo hội có nhiều tử đạo như vậy! Và con
số 300,000 kia ở thời bấy giờ, chắc phải chiếm tới 3, 4 phần trăm tổng số
tín hữu. Chúng ta rùng ḿnh khi nghĩ đến điều ấy. Nhưng thật như lời người
ta nói: máu tử đạo làm nảy sinh kẻ có đạo. Chính Đức Yêsu cũng đă dạy trong
Phúc Âm: hạt thóc có rơi xuống đất, thối đi th́ mới mọc lên cây, đem lại mùa
màng phong phú. Chúng ta ngày nay có đời sống đạo, là nhờ có đông đảo tiền
nhân đă cương quyết giữ vững niềm tin cho đến cùng�
Chắc chắn có nhiều bậc phụ huynh ngồi đây, nhiều gia đ́nh Công giáo ở
bên cạnh chúng ta có thể tính lên đời thứ ba thứ tư và gặp thấy một hay
nhiều tử đạo trong gia tộc của ḿnh. Ít nhất ai cũng nói được rằng tổ tiên
của ḿnh đă phải giữ đạo một cách rất vất vả. Và tất cả chúng ta đều là con
cháu các tử đạo theo cả hai nghĩa thiêng liêng và xác thịt.
Điều đó chắc chắn không cần phải nói thêm. Nhưng phải
nói lên điều này, là: 300,000 tử đạo kia là một đoàn thể đông đảo đủ mọi màu
sắc, khác nào một cánh đồng bát ngát đủ mọi sắc hương. Giám mục, linh mục và
tu sĩ nam nữ có; nhưng số giáo dân đông hơn nhiều. Và già có, trẻ có; thanh
niên, phụ nữ, nhi đồng cũng có: không thiếu một hạng người nào. Đặc biệt hơn
nữa là rất nhiều người đă tử đạo trong y phục lư trưởng cũng như quân nhân.
Họ là những người dân tốt, phục tùng Nhà nước, làm việc tận tâm, được ḷng
quan chức nêu gương cho mọi người.
Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là viên chức có lẽ đă giết
rất nhiều tín hữu ở miền Bắc. Thế mà dưới quyền ông vẫn có nhiều người lính
có đạo. Và những người này nhiều khi lại gương mẫu và xuất sắc. Ông quư mến
họ và ra sức dụ dỗ họ bỏ đạo... Ông không hiểu rằng chính đức tin họ đang
giữ là động lực cho đời sống công dân tốt lành kia. Thấy họ cương quyết
trung thành với tín ngưỡng đang khi vẫn nhiệt t́nh với chức năng, ông t́m
cách bao che cho họ. Nhưng họ không chịu. Ông Huy, ông Thể, ông Hiếu và
nhiều người khác dưới quyền Trịnh Quang Khanh đă ra xưng đạo, trước sự khâm
phục và xót thương của bao nhiêu chiến sĩ, không cùng một quan điểm tôn giáo
nhưng không thể không cảm mến những người chiến hữu và đồng bào giá trị như
vậy.
Chúng ta không thể kể hết ở đây về đời sống gia đ́nh,
xă hội của các Tử đạo Việt Nam. Chúng ta thường chỉ biết các ngài tử đạo
nghĩa là chịu chết v́ đạo. Cùng lắm chúng ta chỉ hay nghĩ tới ḷng can đảm,
chí chịu đựng của các ngài khi bị tra tấn, hành hạ. Nhưng chúng ta cần phải
biết: Tử đạo là ơn rất lớn. Nó đưa thẳng người ta về thiên quốc và lên bàn
thờ các thánh ngay ở đời này. Một ơn như vậy không dành cho bất cứ một người
nào đâu, nhưng chỉ dành để cho những phần tử ưu tú được Chúa lựa chọn. Ở
thời các tử đạo, rất nhiều tín hữu đă bị bắt. Có những người đă chối Chúa.
V́ họ không mến đủ! Và sở dĩ như vậy v́ như lời thánh Yoan nói: người ta
không mến Chúa vô h́nh khi không yêu mến Người nơi anh em hữu h́nh. Các tử
đạo, dù ở chức năng nào, trước khi tuyên chứng lần cuối cùng về ḷng yêu mến
Đấng vô h́nh, cũng đă trải qua nhiều thử thách trong đời sống phục vụ tha
nhân. Chúng ta cứ đọc lại mà xem! Hết mọi hạnh thánh tử đạo Việt Nam đều kể
rằng trước khi ra pháp trường hay chịu chết trong ngục để xưng đạo, các ngài
đă là những người mẹ, người cha chu toàn phận sự gia đ́nh; những người chồng
người vợ thi hành tốt mọi phận sự công dân; những người con hiếu thảo và
những người lính dũng cảm; những y sĩ và lư trưởng được đồng bào quư mến
việc phục vụ. Bởi v́ không ai có thể trở thành công dân Nước Trời sau này,
nếu đă không là những công dân tốt trên mặt đất.
Ngay cái chết của các tử đạo Việt Nam cũng khiến chúng
ta phải suy nghĩ về khía cạnh vừa nói. Anh em Macabê được tử đạo trong một
hoàn cảnh đơn giản hơn. Họ là những người Israel bị ngoại xâm Batư bắt phải
bỏ đạo của tổ tiên. Trong một cái chết họ đă tỏ ra trung thành với Thiên
Chúa và Tổ Quốc. Trường hợp các tử đạo Việt Nam éo le hơn. Những người bắt
các ngài bỏ đạo lại là vua quan "phụ mẫu chi dân". Thế nên các ngài không có
một lời nào xúc phạm đối với các quan ṭa. Và cho đến lúc chết các ngài vẫn
chứng tỏ đă chu toàn tốt đẹp mọi nghĩa vụ xă hội. Các ngài đă chết trong
t́nh mến Chúa yêu người và thương nhà thương Nước. Các ngài đă hy sinh mạng
sống cho đức tin và chân lư ở trên giải đất này... Cho nên Giáo hội toàn cầu
chỉ biết các ngài là tử đạo của Việt Nam.
Do đó khi mừng lễ các ngài, chúng ta phải biết để ư đến
nét Việt Nam nơi các ngài. Chúng ta phải soi gương các ngài chu toàn các
nhiệm vụ xă hội một cách thánh thiện. Và cho được như vậy chúng ta phải t́m
hiểu động lực bên trong thúc đẩy đời sống của các ngài.Bài thư Phaolô có thể
giúp chúng ta làm công việc này.
B. Đi Theo Đường Lối Của Các Tử Đạo
Quả thật các Tử đạo Việt Nam có thể mượn những lời thư
Phaolô hôm nay để nói với chúng ta. Một đàng các ngài không giấu giếm sự
thật. Bí quyết khiến các ngài có thể vượt thắng trăm ngàn thử thách là chính
sự sống và sự sống lại của Chúa Yêsu trong thân xác yếu hèn của các ngài.
Các ngài nói: chúng tôi chứa đựng những kho tàng ấy trong những b́nh sành để
biết rằng quyền lực vô song ấy là của Thiên Chúa chứ không phải phát xuất tự
chúng tôi. Các ngài chịu khổ cực tư bề nhưng không bị đè bẹp, bị bắt bớ
nhưng không bị bỏ rơi... bởi v́ sự sống của Đức Kitô tỏ hiện nơi thân xác
của các ngài. Chính Đức Kitô trong bài Tin Mừng cũng đă nói không phải các
tử đạo ở trước ṭa nhưng là Thánh Thần nói trong các ngài.
Và để có Thánh Thần và sự sống của Đức Kitô ở trong
ḿnh như vậy, các tử đạo đă phải hư vô hóa ḿnh, tức là chết cho bản thân,
không sống theo xác thịt tự nhiên nữa, nhưng theo Thần trí của Đức Kitô, tức
là đường lối của Người. Hết mọi tử đạo đều đă chết cho đức tin và v́ đức
tin; nhưng đức tin ở đây không phải là một hệ thống tư tưởng vũ trụ nhân
sinh quan mà là đức tin sống động, tin Thiên Chúa và tin Đức Yêsu Kitô đă
yêu thương ḿnh cho đến chết. Đó là đức tin đầy ḷng mến và đầy ḷng trông
cậy, chắc chắn rằng nếu cùng chết với Đức Kitô và v́ Đức Kitô th́ sẽ được
sống lại với Ngài và được đồng thừa tự với Ngài. Thế nên, các tử đạo là
những người đầy Chúa Yêsu sau khi đă tát cạn bản ngă và các khuynh hướng xấu
xa ở nơi ḿnh.
Và cũng chính nhờ đó mà đàng khác, các vị tử đạo trước
khi hy sinh mạng sống ḿnh v́ Chúa, đă có một đời sống xă hội đáng khâm
phục. Điều này cũng rất dễ hiểu! Lời thư Phaolô viết: sự chết hoành hành nơi
chúng tôi c̣n sự sống hoạt động nơi anh em. Các tử đạo cũng có thể nói:
chúng tôi đă chết cho bản thân để sự sống tăng trưởng nơi anh em. Thật vậy,
con người đă chết đi cho chính ḿnh, th́ sống cho Chúa. Nhưng đối với họ,
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng Vô h́nh, mà hơn nữa c̣n là Đấng đang hiện
diện trong Hội Thánh và trong anh em. Mọi hành vi làm cho người anh em nhỏ
mọn nhất là làm cho Chúa. Thành ra các đấng thánh là những người nh́n thấy
Thiên Chúa ngay ở đời này và cụ thể trên mặt đất này nơi Hội Thánh và nơi
anh em. Và v́ họ không c̣n sống cho chính bản thân và v́ bản thân nữa, nên
mọi phục vụ của họ chỉ c̣n quy vào một đối tượng. Đó là Thiên Chúa nơi tha
nhân... Đó là tha nhân trong cái nh́n của đức tin và ḷng mến. Các tử đạo
làm tốt các nhiệm vụ xă hội là v́ thế. Và mọi người thật có lư để nghi ngờ
những kẻ đă phản bội đức tin của ḿnh.
Như thế, nếu hôm nay mừng lễ các Tử đạo Việt Nam, chúng
ta phải để ư đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải soi gương các ngài
trong đời sống xă hội phục vụ anh em đồng bào, th́ chúng ta
� người có đức tin � phải luôn
duy tŕ và phát triển động lực thúc đẩy đời sống xă hội kia tức là Thánh
Thần và Đức Kitô ở trong ḿnh. Và cho được như vậy, chúng ta phải mang sự
chết của Ngài trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng
vị kỷ. Phải làm như vậy mới đi vào được đường lối của các tử đạo và mới có
thể theo các ngài cho đến cùng. Bởi v́ muốn nên giống các ngài hoàn toàn,
chúng ta không những phải biết sống như các ngài mà c̣n phải biết chết như
các ngài. Mà muốn chết như các ngài, chúng ta phải sống đạo như trên mà vẫn
không quên Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
C. Tin Tưởng Như Các Tử Đạo
Chúa nhắc nhở chúng ta biết số phận thông thường của
các môn đệ Người: "Người ta sẽ bắt bớ các con". Và trong sách Tin Mừng Yoan,
Người c̣n nói rơ hơn: đó là điều thật dễ hiểu, v́ tôi tớ không trọng hơn
Thầy. Có lạ chăng là việc thế gian yêu các con chứ các con có thuộc về thế
gian nữa đâu mà thế gian quư mến các con! Và lịch sử làm chứng Hội Thánh của
Đức Yêsu, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, luôn luôn có các tử
đạo, không ở nơi này th́ ở nơi khác, không dưới h́nh thức này th́ dưới h́nh
thức khác. Đó là mầu nhiệm, nhưng là mầu nhiệm tương đối dễ hiểu.
Sứ mệnh của Đức Yêsu cũng như của Hội Thánh Người là sứ
mệnh tuyên chứng. Tuyên chứng về chân lư, về những chân lư siêu phàm; thế mà
chân lư th́ như ánh sáng và thế gian đă bị tối tăm bao phủ nên luôn luôn
muốn vùi dập ánh sáng. Và cũng đồng thời tuyên chứng về t́nh yêu, t́nh yêu
của Thiên Chúa yêu thương loài người và chẳng t́nh yêu nào lớn bằng t́nh yêu
nơi người hy sinh mạng sống v́ người ḿnh muốn yêu.
Thế nên chính khi chịu chết v́ đạo, người tín hữu trở
thành chứng tá hoàn toàn hơn cả. Cái chết của họ vừa nói lên niềm tin chắc
chắn, vừa nói lên t́nh mến tận cùng. Chỉ những kẻ có niềm tin yếu ớt mới sợ
tử đạo. Nhưng nếu chúng ta yếu th́ đă có Chúa ban Thánh Thần của Người đến
nâng đỡ sự yếu đuối nơi chúng ta. Và việc này tùy ở chúng ta trong lúc b́nh
thường có cầu xin và sống đạo để nhận được nhiều Thánh Thần hay không?
Giờ đây chúng ta cử hành thánh lễ. Chung quang bàn thờ
này hiện diện vô h́nh đoàn thể các tử đạo Việt Nam. Các ngài ước mong chúng
ta dâng lễ này sốt sắng và hiệu quả. Nếu chúng ta cầu xin và nhất là phó
thác bản thân trong tay Chúa th́ Người sẽ ban sự sống của Chúa Yêsu và Thánh
Thần của Người cho chúng ta. Chính Thánh Thần sẽ là sức mạnh cải tạo cho
chúng ta một nếp sống mới để chúng ta dần dần sống bớt đi cho ḿnh và nhiều
hơn cho Chúa, tức là cho Người ở trong anh em. Như vậy chúng ta sẽ có đời
sống trần gian này tốt để chúng ta cũng sẽ chết tốt như các tử đạo. Chúng ta
sẽ tuyên xưng Chúa khi sống và khi chết. Chúng ta sẽ khơi được ḷng ngưỡng
mộ của mọi người. Chúng ta sẽ xứng đáng với tổ tiên đức tin của ḿnh, những
vị mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
BA BÀI
GIẢNG TĨNH TÂM
Của Lm. FX. Vũ Phan Long, ofm
HĂY RAO GIẢNG LỜI CHÚA, LÚC THUẬN TIỆN
CŨNG NHƯ LÚC KHÔNG THUẬN TIỆN
2 Tm 4,2
Chúng ta đang đi vào thiên niên kỷ III, với nhiều hứa
hẹn, nhưng cũng nhiều khắc khoải. Người ta sợ nhiều thứ: sợ trái đất bị hủy
diệt, sợ bạo động, sợ lây bệnh, sợ thất nghiệp...
Giới trẻ của chúng ta đang bị đe dọa bởi nhiều mối
nguy: ma túy (ma túy ngay tại các xứ đạo!), SIDA... Hôm nay, người ta ghi
nhận một phần lớn người trẻ xa rời Giáo Hội.
Thế mà Kinh Thánh nói rất rơ về bổn phận của những thế
hệ đi trước đối với những thế hệ đến sau. Lời Đức Giêsu truyền bảo Gia-ia,
sau khi đă cho con gái ông sống lại, c̣n đó rất rơ: Hăy cho em bé ăn (Mc
5,43; x. Lc 8,55). Vô số thanh thiếu niên chưa được “ăn” no! Trong Cựu Ước,
các người cha được yêu cầu kể lại cho con cái nghe lịch sử Giao ước với
Thiên Chúa rồi giải thích, để chúng nên khôn ngoan (x. Xh 12,26; 13,14; Đnl
6,20). Vô số thanh thiếu nên chưa được “nghe” Lời ban sự sống! Đức
Gioan-Phaolô II đă nói với một nhóm giám mục Pháp đi viếng mộ hai thánh tông
đồ (ad limina): “Trong một thế giới nhắm tự tổ chức như thể Thiên Chúa không
hiện hữu, chỉ có việc vén mở cho thấy gương mặt của Thiên Chúa t́nh yêu mới
cung cấp những lư lẽ để tin, hy vọng và yêu thương... Giáo Hội phải không
ngừng thực hiện một công việc giáo dục sâu sắc, như một người mẹ yêu thương
muốn cóng hiến cho con cái phần gia tài Kitô giáo của chúng hầu mỗi đứa con
có thể phát triển nhân cách và đạt được mức viên măn về nhân tính. T́nh yêu
Đức Kitô mời gọi chúng ta mở người trẻ ra với niềm vui được hiểu biết Lời
có sức cứu độ. T́nh yêu Thiên Chúa mời gọi chúng ta giúp những người trẻ
khám phá ra, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, chiều hướng và sự
cao cả của con người, trong hữu thể nhiệm mầu và trong đời sống của nó, mà
chỉ Đức Kitô mới mạc khải ra trọn vẹn được thôi”.
Để được như thế, chúng ta phải chấp nhận 7 thách đố:
1.- Thách đố về việc làm chứng
Nếu muốn người trẻ nghe nói về Đức Kitô, chúng ta phải
nói về Người công khai. Hôm nay, những người lớn trong đức tin không dám nói
lên niềm tin của ḿnh cho những người trẻ, nên khiến người trẻ nghĩ rằng họ
không gắn bó ǵ với niềm tin (ngại đi lễ, đọc kinh, xưng tội, để mặc người
ta bôi nhọ các chủ chăn, chế nhạo đức tin...).
Nhiều thanh thiếu niên không được giáo dục về đức tin
Kitô giáo cho tốt (không được giáo dục hoặc giáo dục hời hợt, lỗi thời, quá
nhanh, kiểu trẻ em...). Cần có một kiểu giáo dục trí tuệ nhưng cũng đi tới
con tim và đánh động. Chúng ta cần phải sống nhờ Đức Kitô và truyền thông
cho người trẻ Đấng là một hôm qua, hôm nay và măi măi. Chúng ta là một ngón
tay chỉ về Đức Kitô cho họ (Thầy Émile, Taizé), làm sao cho mầu nhiệm Chúa
Kitô soi sáng được phần riêng tư nhất của mỗi con người mà chúng ta phục
vụ.
2.- Thách đố về đời sống nội tâm
Nhiều thanh thiếu niên nghĩ là đời sống nội tâm chính
là đọc kinh, lần hạt, đi lễ cho nhiều, hoặc ngồi yên nghe nhạc thính
pḥng... Sống nội tâm là t́m lại được chính ḿnh để t́m được Chúa: muốn vậy,
cần có sự thinh lặng và một bầu khí yêu thương tôn trọng họ. Có những thừa
tác viên lại không có kinh nghiệm ǵ về đời sống này để có thể chia sẻ và
hướng dẫn. Phải làm sao vạch được một lộ tŕnh tiến về với Thiên Chúa ngay
trong cuộc sống hằng ngày. Đây là chỗ để chúng ta nói về việc cầu nguyện
trong đời sống các thanh thiếu niên: trong một nhà nguyện đơn sơ, với những
câu hát ngắn được lặp đi lặp lại, một vài tiếng rất gợi ư được nhắc đi nhắc
lại, dần dần chân lư đức tin đi vào trong tâm hồn. Cha Stanislas Lyonnet,
cựu viện trưởng Học viện Kinh Thánh Giáo hoàng ở Rôma, đă nói: “Ngày xưa,
tôi tự nhủ: nếu các thính giả không hiểu, họ sẽ đặt câu hỏi. Nhưng tôi đă
phải nhận ra rằng thường không phải là như thế. Khi người ta không hiểu,
người ta ra đi. Chính là khi người ta đă hiểu ra điều ǵ đó, người ta mới
đặt câu hỏi!”.
Học hỏi Kinh Thánh và huấn giáo đưa người ta đến việc
cầu nguyện và cử hành Thánh Thể, nhưng kinh nghiệm về một v́ Thiên Chúa nhân
hậu, ân cần, ban ơn tha thứ, ban b́nh an, đạt được trong giờ cầu nguyện và
cử hành Thánh Thể cũng sẽ khơi dậy ước muốn được hiểu biết những nguồn mạch
của đức tin (Kinh Thánh, huấn giáo). Do đó, đôi khi cũng cần phải đi qua ngả
đường “thần học tiêu cực”, nghĩa là nói cho biết Thiên Chúa không phải là
những ǵ, để giúp lắng nghe về Thiên Chúa tích cực hơn.
3.- Thách đố về cộng đoàn tuyên xưng niềm tin
Nhiều thanh thiếu niên khao khát đời sống chung. Họ
thích nói rằng họ không thể sống đức tin một ḿnh. Nhưng chúng có thể sống
đức tin phong phú trong tập thể nhỏ bé hoặc cộng đoàn giáo xứ chúng ta
chăng? Khi dạy giáo lư, chúng ta không t́m cách tŕnh bày một hệ thống ư
tưởng mạch lạc. Tại Công Đồng Vatican II, một giám mục Phi châu, sau này là
Hồng y, đức cha Zoungrana, đă nói: “Các chân lư phải tin và các bổn phận
phải chu toàn cần được quan tâm đến hơn nữa trong tương quan với một con
người sống động. hăy nói với thế giới rằng mạc khải của Thiên Chúa, đó là
Chúa Kitô... Gương mặt xinh đẹp của Chúa Kitô cần phải rạng sáng lên hơn nữa
trong Giáo Hội. Chính nhờ đó mà anh em sẽ tái thực hiện được những điều kỳ
diệu về t́nh yêu và trung tín đă từng chói lọi trong Giáo Hội tiên khởi”.
Cha Congar, OP, sau này là hồng y, đă viết: “Một trong những điều tồi tệ của
thần học là nguyên-tử-hóa thành các khoản mục không liên hệ ǵ với một con
người sống động” (Cả hai bản văn: xem Henri de Lubac, La Révélation
divine, coll. Unam Sanctam, Cerf, tr. 182). Khi người trẻ nhận ra rằng
chân lư không phải là một ư thức hệ hoặc một hệ thống, nhưng là một Gương
Mặt, họ sẽ ao ước được hiểu biết về niềm tin.
4.- Thách đố về tính nhưng-không
Sống trong một thế giới t́m hiệu năng, con người luôn
tính toán: “do ut des” (La-tinh: “tôi cho để anh cho [lại]”). Nhiều
thanh thiếu niên chờ đợi sự nhưng-không này nơi Giáo Hội. Cách sâu xa hơn,
họ chờ đợi được tôn trọng và yêu thương cách nhưng-không. Các thừa tác viên
có thật sự “cho không” v́ đă “nhận không” chăng? Có đời sống nội tâm, người
trẻ sẽ cảm thấy được thúc bách sống t́nh liên đới giữa con người với nhau.
Khi tŕnh bày về thế giới là xấu xa, loài người là xấu xa, người ta khiến
cho người trẻ có một cái nh́n sai lạc về thế giới, người ta sẽ co lại, không
muốn cống hiến nữa, như Dostođevsky đă hiểu: mất niềm tin vào con người,
người ta đi đến chỗ mất niềm tin vào Thiên Chúa. Ở đây, cần phải nhấn mạnh
lại tầm quan trọng của việc làm chứng và của đời sống nôïi tâm.
Cần phải thấy là những con người chọn lựa yêu thương là
những con người mỏng ḍn, dễ tổn thương: “Chỉ cần một que diêm là đủ dốt
cháy một trang trại. Thế mà ta cần, đă cần nhiều năm dài xây dựng. Chuyện ấy
không khó, chuyện ấy không có ǵ là tài. Cần nhiều tháng này sang tháng nọ,
đă cần làm việc và làm việc, để tạo ra một đồng lúa. Và chỉ cần một que diêm
là đủ thiêu rụi một cánh đồng. Phải năm này sang năm khác để làm lớn lên một
con người, đă phải có bánh để nuôi nó và phải có việc làm và việc làm và
những việc làm đủ kiểu. Và chỉ cần một nhát là đủ giết một người, một nhát
gươm và thế là xong. Để làm ra một Kitô hữu tốt, chiếc cày cần phải làm việc
trong hai mươi năm. Để làm hỏng một Kitô hữu, chỉ cần thanh gươm làm việc
một phút” (Péguy).
5.- Thách đố về chân lư
Đức Phaolô VI đă nói trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng:
“Sự đoạn giao giữa Tin Mừng và văn hóa có lẽ là tấn bi kịch của thời đại
chúng ta” (số 21). Sự đoạn giao này là chuyện đă rồi, và nó nằm ở khái niệm
chân lư. Thanh thiếu niên cần được thấy các thừa tác viên dám nói sự thật,
sống chết cho sự thật. Người ta cần phải hiểu đúng nội dung của những điều
chúng ta nói với họ. Cha Henri de Lubac đă viết: “Vị tông đồ chỉ đạt tới
trái tim của đám đông nhờ cách nói về sự phong phú của trái tim ḿnh”
(Paradoxes, Seuil, tr.21). Thầy Roger (Taizé) cho biết thầy không thề viết
những lá thư mà thầy gửi mỗi năm cho các bạn trẻ, nếu khi viết thầy không
t́m cách trước tiên diễn tả cho chính ḿnh những ǵ làm cho thầy tiến tới,
và cứ lên đường bước theo Chúa Kitô. Điều nghịch lư là cuộc t́m kiếm chân lư
cách riêng tư nhất lại có thể soi sáng cho một đám đông với những hoàn cảnh
khác nhau nhất.
6.- Thách đố về công bằng
Hôm nay người trẻ muốn sống t́nh liên đới với những
người khác. Họ muốn góp phần vào cuộc sống cùng với những người khác. Nhưng
chỉ có thể sống t́nh liên đới nếu có sự công nhận giá trị bản thân họ và
giao cho họ những trách nhiệm khi có thể được. Như vậy cần có thời gian để
khắc phục thứ bạo động chúng ta c̣n mang trong ḷng khiến chúng ta không bao
giờ muốn tôn trọng người khác đúng trong t́nh trạng của họ. Cũng cần có thời
gian để vượt qua một thứ cẩn thận quá đáng. Ít ra điều quan trọng là chúng
ta biết lắng nghe. Thầy Roger đă viết: “Mỗi con người khao khát được người
khác yêu thương và cũng khao khát được yêu thương người khác. Không phải
đương không mà Tin Mừng lại khiến chúng ta chú ư không để ḿnh bị giam hăm
vào trong một t́nh trạng cô lập. Được lắng nghe, việc này phá đổ những trở
ngại đă được tạo nên bởi những nỗi tat đoạt trong tim, bởi những vết thương
của một quá khứ a hoặc gần. Được lắng nghe, việc này là khởi đầu cho việc
chữa lành tâm hồn. Và bừng lên làn gió của một niềm tin tưởng... Và hé mở
khung cửa của một tự do” (Etonnement d’un amour, Les Presses de Taizé,
tr.2).
7.- Thách đố về tính công-giáo
Đứng trước xu thế toàn-cầu-hóa, người trẻ có ba thái
độ: hoặc họ dửng dưng, hoặc họ là công dân của thế giới, hoặc họ co lại để
t́m một chân tính mạnh mẽ và như thế chiến đấu chống lại các nỗi sợ hăi của
họ.
Không một ai có thể sống mà không có một liên hệ với
một miền đất và một nền văn hóa, nhưng có những người trẻ không biết như thế
do không có trí nhớ và họ mơ một thế giới trong đó họ không phải đảm nhận
căn tính của họ. Người ta nói đến một thế hệ “peace and love”... Chúng ta
phải giúp họ trở thành công giáo: hănh diện về chính bản thân họ và mở ra
với người khác, hănh diện về chính họ nhờ mở ra với người khác trong t́nh
huynh đệ phổ quát của Chúa Kitô. Thế giới “Internet” không c̣n một
biên giới nào ngoài biên giới văn hóa. Và không một nền văn hóa nào có thể
tồn tại nếu không ư thức về giá triï phổ quát của nó. Chúng ta phải giúp
người ta sống trong một Giáo Hội đa nguyên. Nhưng làm sao giúp được nếu
chúng ta không hănh diện về Giáo Hội miønh và mở ra với người khác?
Vai tṛ giáo lư viên là một vai tṛ cao quư nhưng trách
nhiệm nặng nề không thiếu những ê chề khiến ta chán nản, muốn buông xuôi.
Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ chúng ta trong ơn gọi này.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đă phán rằng: “Những ai làm cho người người
nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những v́ sao”. Để khuyến khích
con chu toàn bổn phận hơn, Chúa phán thêm rằng: “Điều ǵ ngươi làm cho một
người anh em bé nhỏ nhất của Ta, đó là làm cho chính Ta vậy”. Điều này khiến
con nh́n lại trách nhiệm của ḿnh trong sự nghiệp giáo dục. Lạy Chúa, xin
giúp con:
Biết sống nghiêm nghị mà không nghiêm khắc,
Biết sống nhu ḿ mà không nhu nhược,
Biết sống khoan dung mà không dung túng...
Để nhờ đó con trẻ được thêm ngoan,
vui mà khai ḷng mở trí ra.
Sau hết, xin Chúa ban cho con: khi đang truyền đạt
tri thức trần gian cho chúng, th́ cũng không quên đào luyện tri thức về Nước
Trời vĩnh cửu. Để ở đời này, thầy tṛ chúng con có thể trở thành nhân chứng
cho t́nh yêu của Thiên Chúa. Ước ǵ bao nhiêu học tṛ Chúa giao phó cho con,
th́ ở đời sau, con sẽ được trao lại cho Ngài bấy nhiêu Đấng Thánh trên thiên
đàng. Amen.
FX Vũ Phan Long, ofm,
tổng hợp
ChỨng nhân trong
Kinh Thánh
I. TruyỀn
thỐng Luca
Ngoài Tin Mừng IV, Sách Công vụ tông đồ là quyển sách
thuộc bộ Tân Ước trong đó từ “chứng nhân” (martys) và các từ phái sinh (làm
chứng, martyreô; chứng tá, martyria; chứng từ, martyrion) được sử dụng
nhiều nhất: 29 lần. Lư do: Đây là tác phẩm viết về việc làm chứng.
Không được lẫn lộn từ “chứng nhân” (martys) với “mục
chứng” (autoptês, eyewitness) của hy ngữ cổ điển (và chính tác giả Luca có
dùng, Lc 1,2). Vai tṛ của một autoptês khá thụ động, với lại vai tṛ này
chỉ là một t́nh trạng thực tế : một autoptês được may mắn chứng
kiến một biến cố nào đó, nên nếu cần phải làm hoặc toà án buộc làm, người ấy
có thể tŕnh bày những ǵ ḿnh đă được thấy, như ḿnh đă thấy, bằng mắt. C̣n
“chứng nhân” (martys) có một vai tṛ tích cực hơn nhiều, có một sứ mạng phải
hoàn tất: đó là không những công khai tŕnh bày những ǵ ḿnh đă chứng kiến,
mà c̣n xác định ư nghĩa, tầm mức của biến cố ấy nữa. Là người đă đi qua biến
cố, chứng nhân trở thành người tuyên cáo sứ điệp được hàm chứa trong biến cố
ấy. Câu truyện tuyển chọn Mátthia thay thế cho Giuđa minh họa điểm phân biệt
này (x. Cv 1,15-26). Trong thực tế, ta khó mà hiểu được v́ sao lại phải đi
tới một cuộc tuyển chọn, thậm chí một sự chuẩn nhận, để cắt đặt một chứng
nhân, nếu người này chỉ cần một điều kiện là hiện diện bằng thể lư tại một
biến cố thuộc quá khứ. Trái lại, ta hiểu là quả thật, cần phải có một cuộc
tuyển chọn (ở đây là “rút thăm”), nếu vai tṛ của người được tuyển vượt quá
công việc giới hạn là kể lại biến cố, nếu cùng với việc công bố biến cố,
người ấy c̣n phải biết minh giải đúng đắn biến cố ấy. Vậy các chứng nhân mà
truyền thống Luca nói tới (các tông đồ: Lc 24,48; Cv 1,8.21-22; 10,41;
13,31; Têphanô: Cv 22,20; Phaolô: Cv 26,26) là những nhà thần học về các
hoạt động cứu chuộc của Thiên Chúa.
II. TruyỀn
thỐng Gioan
Với thánh Gioan, từ ngữ “chứng nhân” có một giá trị đặc
biệt. Theo một nghĩa có một không hai, Đức Giêsu là chứng nhân về sự thật
(Ga 18,37), về những ǵ Người đă thấy và đă nghe nơi Chúa Cha (Ga 3,11.32t).
Gioan Tẩy Giả, các công việc Đức Giêsu làm, chính Chúa Cha, đó là nền tảng
Đức Giêsu dựa vào để làm chứng (Ga 5,19-47). Nếu không nhận lời chứng này,
ta biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối (1 Ga 5,9- 11). Ở trong ḷng người tín
hữu, Thánh Thần làm chứng cho Đức Giêsu (Ga 15,26), về tư cách của Người là
Con Thiên Chúa và về sự công chính của Người (Ga 16,8-11). Gioan đă bắt gặp
những khẳng định của Phaolô (Rm 8,16) và thư Do-thái (Dt 10,15).
C̣n sách Khải huyền th́ tóm tắt bằng cách gọi Đức Giêsu
là “Chứng nhân trung thành” (Kh 1,5; 3,14). Chứng tá tối hậu là chứng tá
bằng máu (x. Kh 11,3-12): khi đó chứng nhân được liên kết vào định mệnh của
Đấng mà ḿnh làm chứng cho (Kh 2,13; 17,6; 22,20).
FX Vũ Phan Long, ofm,
tổng hợp
Các chỨng nhân
trên quê hương ViỆt Nam
I. Đôi nét
lỊch sỬ
Ngày 19-6-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đă tôn
phong hiển thánh 117 chứng nhân tử đạo Việt Nam. Đó là các vị đă từng được
tôn phong chân phước trong bốn đợt: Năm 1900, Đức Lêô XIII tôn phong 64 vị;
năm 1906, Đức Piô X tôn phong 8 vị; năm 1909, cũng chính ngài tôn phong 20
vị; năm 1912, Đức Piô XII tôn phong 25 vị. Trong số 117 vị, có 8 giám mục,
50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Hồ sơ phong thánh đặc biệt chú ư đến các tên tuổi sau
đây:
- Người Việt Nam: Thánh Anrê Dũng Lạc, linh mục
(+1839), thánh Tôma Trần Văn Thiện, chủng sinh (+1838), thánh Phaolô Lê Bảo
Tịnh, linh mục (+1857), thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, giáo lư viên và cha gia
đ́nh (+1859).
- Người ngoại quốc: Các tu sĩ Đa-minh người Tây-ban-nha
thuộc Tỉnh Ḍng Mân Côi: thánh Giêrônimô Hécmôxila Liêm, giám quản tông ṭa
địa phân Đông đàng ngoài (+1861), thánh Valentinô Beriô Ôchoa, giám mục
(+1861) và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP), thánh Têôphan
Vêna (+1861).
II. Gương
chỨng nhân
A.- Biết chết cho một lư tưởng siêu việt
1.- Không làm tổn thương
truyền thống cao quí của dân tộc
Khi rao giảng hoặc sống
niềm tin Kitô giáo, các chứng nhân của chúng ta không những không đi ngược
lại truyền thống của dân tộc, mà c̣n củng cố truyền thống đó khi thanh lọc
khỏi truyền thống ấy những ǵ là mê tín dị đoan. Chẳng hạn cha ông ta tin
vào “Ông Trời”, “thiên mệnh”. Chính “Ông Trời” ấy đă được nhắc tới và tôn
dương trong bài giáo lư hoặc giờ cầu nguyện của người tín hữu. Các chứng
nhân giảng giải cho rơ hơn: vị Thượng Đế ấy là ai, đă làm những ǵ cho loài
người chúng ta… Các ngài cũng đưa t́nh huynh đệ đại đồng tới chỗ yêu thương
vô vị lợi, tha thứ không cùng, do đón nhận t́nh yêu của chính Thiên Chúa vào
ḷng. Thánh Carôlô Tân (= Gioan Carôlô Cornay, người Pháp) đă thưa: “Chúng
tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái
thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan. Thế th́ tôi đâu có thể
đi ngược lại giáo huấn của ḿnh mà chống nhà vua được?” hoặc, như thánh
Phaolô Khoan: “Chúng tôi không phạm tội ác, không chống lệnh vua, không lỗi
luật nước. Chúng tôi chết chỉ v́ là Kitô hữu”.
Các ngài đă phải chết, v́
dám tuân theo Thiên Chúa hơn vua. Các ngài đă chết v́ đă hùng hồn xác định
rằng phải tôn thờ Đấng Tối Cao và sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để trung
thành với niềm tin. Thánh Têôphan Vêna: “Tôi thiết nghĩ sự sống đời này
đâu quí hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua?”, hoặc thánh Anrê Thông: “Thà tôi
bị lưu đày và phải chết v́ Chúa, chứ tôi không chối đạo”.
2.- Không bỏ cha mẹ
Người ta gán cho các
ngài tội dạy người ta bất hiếu. Thánh Phêrô Quư đă nói: “Dù trăng trói, gông
cùm tù rạc, chén ngục h́nh xiềng tỏa chi nề, Miễn vui ḷng cam chịu một
bề cho trọn đạo trung thần hiếu tử”, hoặc thánh Carôlô Tân, như đă nói
trên. Thật ra, các ngài đă đặt gia đ́nh vào đúng chỗ của nó, và đă truyền
vào trong gia đ́nh một tinh thần mới, đó là t́nh yêu phổ quát, lấy từng con
người làm đối tượng, lấy Thiên Chúa Ba Ngôi làm kiểu mẫu. Chúng ta cứ nghe
lời thánh Simon Phan Đắc Ḥa nói với các con: “Cha yêu thương và hằng săn
sóc các con, nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn nữa”.
3.- Không làm tay sai
cho ngoại quốc
Nếu tính từ 1615 là năm mà
Sử VN ghi lại rằng giáo sĩ đầu tiên đă tới đất Ninh Cường (= Bùi Chu) cho
đến đầu thế kỷ XIX, th́ đạo công giáo đă có tới 300 năm lịch sử. Thế mà măi
đến hậu bán thế kỷ XIX, đất nước mới bị người Pháp chiếm. Theo những biên
bản c̣n lưu lại, các vị tử đạo nhất mực chối tất cả những bỏ vạ cáo gian về
phương diện chính triï. Như thánh Phaolô Khoan: “Chúng tôi không phạm tội
ác, không chống lệnh vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ v́ là
Kitô hữu”. Trong số những nguyên nhân đưa đến mất nước, ông Trần Trọng
Kim kể ra ḷng tàn bạo của giới cầm quyền thời ấy, bất chấp chữ nhân của cha
ông, cũng như sự thiển cận của họ (chẳng hạn Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đă
coi nước Pháp không bằng tỉnh Nam Định của ông!). Không ai quên rằng người
dâng sớ lên nhà vua để xin cải cách quốc gia là ông Nguyễn Trường Tộ, một
người công giáo. Các ngài chết chỉ v́ một lư tưởng: “Ai khôn mới biết
hiến ḿnh cho chân lư, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời” (thánh
Phêrô Truật).
B.- Biết chết một cách sáng suốt, như một chọn
lựa tự do
Các ngài không tự ḿnh đi t́m cái chết, v́ đó là tự tử:
“Chúng tôi không được tự vẫn v́ đó là trọng tội. Nhưng nếu v́ đạo mà quan
truyền giết tôi, th́ tôi vui mừng khôn kể xiết” (thánh Inhaxiô Y).Theo lời
dạy của Thầy chí thánh, các môn đệ Người không tự phụ, coi rẻ sự sống.
Các ngài vẫn sợ chết; các ngài vẫn muốn sống như ai. Thánh Vinhsơn Liêm đă
tuyên bố: “Nếu vua quan tha cho, th́ chúng tôi thành thực cám ơn.”
Nhưng các ngài muốn sống là để phụng sự Thiên Chúa, để tiếp tục giữ đạo, chứ
không phải trong thân phận phản bội niềm tin: “Tôi đă suy xét kỹ, và tin
nhận đạo Thiên Chúa là đạo thật, nên tôi không chối bỏ bao giờ” (Thánh
Micaen Mỹ).
Nếu trốn tránh mà vẫn bị bắt, các ngài b́nh thản đi
theo lư h́nh, đến trước mặt quan quyền. Ở đây các ngài đă nói lên chọn lựa ư
thức và tự do: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào
tùy ư. Nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có ǵ khiến tôi hy sinh nó
được” (thánh Phaolô Tịnh). Khi nghe thánh Giaxintô Castaneda bị xử v́ là
người ngoại quốc, c̣n ḿnh được tha về, thánh Vinhsơn Liêm đă nài xin cho
được theo chân bạn, để cũng lấy máu đào tưới vườn nho Giáo Hội VN.
C.- Biết chết với một quả tim vững niềm tin cậy
và yêu thương
Các ngài đă chấp nhận chết, không phải v́ các ngài
cuồng tín, cũng không phải v́ các ngài đầy ơn Chúa như một chất thuốc mê hay
thuốc tê làm cho các ngài không c̣n cảm thấy đau đớn ǵ ! Các ngài đă can
đảm chết v́ tin vào Chúa: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là
Chúa Cả trời đất. Chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” (thánh Phaolô
Khoan). Các ngài tin vào Thiên Chúa là Đấng toàn năng đă tạo dựng nên ḿnh,
th́ cũng có thể tái tạo ḿnh.
Các ngài dám chết, v́ cậy trông vào Chúa: “Đức Kitô
không chỉ nh́n tôi chiến đấu, mà chính Người đang chiến đấu và chiến
thắng” (thánh Phaolô Tịnh). Các ngài tin Thiên Chúa có toàn quyền trên
ḿnh mà lại yêu thương ḿnh, th́ ḿnh hoàn toàn có thể cậy dựa nơi Người.
Các ngài sẵn sàng chết trong t́nh yêu và v́ t́nh yêu:
“Cha yêu thương và hằng săn sóc các con, nhưng cha phải yêu Chúa nhiều
hơn nữa. Chúa đă muốn cha chịu khổ h́nh, cha xin vâng ư Người cho trọn”
(thánh Simon Ḥa). Các ngài nhận thức rằng Thiên Chúa đă yêu thương ḿnh
đến nỗi ban tặng chính Con Một của Người, không tiếc ǵ với ḿnh, th́ giờ
đây các ngài dùng cái chết như một lời bày tỏ ḷng cảm mến ân t́nh bao la
đó.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam,
các ngài đă dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy t́nh yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cơi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đă chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chung con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về t́nh yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước ǵ ngọn lửa đức tin
mà các ngài đă thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước ǵ máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
FX Vũ Phan Long, ofm,
tổng hợp
cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta,
những đồng bào không Công giáo cũng đă quan tâm rất nhiều đến sự bác ái yêu
thương đối với nhau và đối với kẻ khác: những việc làm xoá đói giảm nghèo,
những ngôi nhà t́nh nghĩa, những lớp học t́nh thương, những chia sẻ cho
những anh em bị băo lụt, những người bệnh tật, neo đơn… Chúng ta có quan tâm
đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự
hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức
tin không? Ngoài việc tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin trong những nghi
lễ của chúng ta, trong nhà thờ của chúng ta, chúng ta c̣n phải tuyên xưng
bằng những việc từ thiện bác ái, bằng cách sống chân thành, cởi mở, yêu
thương với những người chung quanh nữa. Nói tóm lại, chúng ta cần phải
thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa
của đạo chúng ta bằng sự chúng ta sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh
thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là t́nh yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức
cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương, để chúng ta thêm t́nh
mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một
cách quảng đại, bởi v́ chỉ có t́nh yêu là cách sống đạo tốt nhất và làm
chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
4. Chứng nhân t́nh yêu – ĐTGM.
Ngô quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh
hùng tử đạo. Máu của 117 vị đă được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập
tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là
thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp
như những cánh hoa v́ phát xuất từ t́nh yêu cao quí. Máu dường như toả hương
thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây
ghê tởm nhưng gợi ḷng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu
thương. Đó là những ḍng máu làm chứng cho t́nh yêu.
T́nh yêu Thiên Chúa.
Các thánh tử đạo Việt nam có ḷng tin mạnh mẽ. Ḷng tin của
các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong
thái độ chan chứa yêu thương. Đă nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha
thiết. Đă cảm nhận được t́nh yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền
t́nh yêu đó.
T́nh yêu của các ngài là t́nh yêu hi sinh. Nên các ngài đă từ
bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống v́ Chúa.
Thánh Hồ đ́nh Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đ́nh. Thánh Tôma Thiện
vui ḷng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua
quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đ́nh êm ấm với những
người con ngoan ngoăn dễ thương. Tất cả v́ t́nh yêu Chúa.
T́nh yêu của các ngài là t́nh yêu chung thuỷ. Các ngài yêu
mến Chúa khi b́nh an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử
thách. Các ngài đă thực hiện lời thánh Phao lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu
là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ
tạo nào khác, không có ǵ tách được chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Thiên Chúa
thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39).
T́nh yêu của các ngài là t́nh yêu cao quí. Đáp lại t́nh yêu
của Đức Giêsu Kitô đă hiến thân v́ các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng
sống để minh chứng t́nh yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có t́nh
thương nào cao cả hơn t́nh thương của người đă hy sinh tính mạng v́ bạn hữu
của ḿnh (Ga 15:13).
T́nh yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một
cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp
của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lư tưởng, như t́nh yêu,
ḷng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung
thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn
mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống
nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống
nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
T́nh yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một t́nh yêu vô biên đối với
nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà c̣n yêu mến gia đ́nh. Hăy nh́n
cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi
ra pháp trường. T́nh yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và
lư h́nh. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của ḿnh. Tất cả các
thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ ḷng oán hận. Và nhất là không
có vị nào thù ghét các lư h́nh.
T́nh yêu của các ngài phát xuất từ t́nh yêu Chúa nên rộng răi
toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. T́nh yêu ấy là t́nh yêu
nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm
hại ḿnh. T́nh yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ ṿ nát nó.
T́nh yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc ŕu bổ vào
nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là t́nh yêu. Cái chết
của các ngài làm chứng cho t́nh yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước
các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được phúc tử đạo,
nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu
ta không được chết cho t́nh yêu, ta vẫn có thể sống cho t́nh yêu. Có lẽ ngày
nay Chúa cũng không mong ta chết v́ đạo mà mong ta hăy sống v́ đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc lành cho quê hương và
Giáo hội Việt nam. Amen
5. Sống v́ đạo - ĐTGM. Ngô quang
Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Lc
9,23-26.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ.
Chúng ta đang sống trong một xă hội văn minh vật chất. Khuynh
hướng t́m chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay
kêu gọi ta phải từ bỏ ḿnh, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải
chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không
phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hăy biết từ bỏ ḿnh v́ lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quư hơn. Trong
đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quư. Nhưng c̣n những thứ cao quư hơn. Ví
dụ như danh dự, t́nh yêu, ḷng chung thủy. Mạng sống là quư. Nhưng có những
giá trị c̣n cao quư hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quư. Nhưng
linh hồn c̣n cao quư hơn. V́ thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết
chọn những giá trị cao quư hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật
chất là quư. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo
được vật chất theo ḿnh. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi
vẫn c̣n tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”.
Cuộc sống đời này là quư. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc
sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta
phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn
mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những ǵ tốt đẹp nhất. Chúa là
giá trị cao quư nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn
hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không
bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con
người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa
Giêsu không nói suông. Chính Người đă thực hành. Người đă từ bỏ ḿnh, vác
thánh giá. Người đă liều mạng sống, chịu chết v́ chúng ta. người đă từ bỏ
tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ư Đức Chúa Cha. Cuối cùng
Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy ḿnh ra không lại
được trở thành Vua vũ trụ. Người đă từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban
cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam
đă đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đă chịu mất tất
cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. V́ hiểu
rằng đức tin là gia tài cao quư nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đă
sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. V́ biết rằng
những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để
trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. V́ biết rằng
Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật
can đảm. V́ khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục.
Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa
chọn của ḿnh. Các ngài thật khôn ngoan. Đă biết từ bỏ cái tầm thường để lựa
chọn điều cao quư. Đă biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đă
biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để
sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để
chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành
luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta
phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ḷng ta đau đớn như bị
vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều
khi khiến ta rơi lệ. Những ḍng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử
đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. V́ máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo
không thấy lệ. V́ lệ đă nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối
lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của
Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa
chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các
thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích
thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU.
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ ḿnh? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đă theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu,
Đấng chịu khổ h́nh, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không c̣n cấm đạo, không c̣n giết người có đạo, bạn nghĩ rằng
thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
6. Sống chứng nhân Tin Mừng-
ĐTGM. Ngô quang Kiệt
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hănh diện mừng kính các
Thánh Tử Đạo Việt Nam v́ 3 lư do:
-
Hân hoan và hănh diện v́ các thánh là người
Việt Nam, không ǵ vui mừng và hănh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có
những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
-
Hân hoan và hănh diện v́ số lượng đông đảo các
Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nh́ trong
Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
-
Hân hoan và hănh diện v́ các Ngài là những
chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên
cường của các Ngài. V́ trung thành với Chúa, các Ngài đă cam chịu thiệt tḥi
trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn
khổ h́nh, chịu mất mạng sống v́ đức tin .
Có những vị như thánh Hồ đ́nh Hy, làm quan lớn trong triều
đ́nh. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xă hội đă
thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. V́ Chúa, các Ngài không
những đă sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xă hội mà c̣n sẵn sàng chịu mất
mạng sống .
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt,
gánh nặng gia đ́nh, nhưng cũng đă sẵn sàng chịu mọi cực h́nh để minh chứng
t́nh yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột,
mười mấy tuổi đầu, tương lai c̣n dài, đường đời c̣n nhiều hứa hẹn. Nhưng các
Ngài đă cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin
chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu
sử các Ngài, ta cảm thấy một ḍng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản.
Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài , có lẽ
ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng .
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày
nay đâu c̣n cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày
xưa. Ngày nay ta không c̣n hy vọng chết v́ đạo. Ta chỉ c̣n một cách bắt
chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống v́ đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm,
giết chết v́ đạo. Nhưng để sống đạo trong xă hội hôm nay, ta gặp không ít
khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát
triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đ́nh của ḿnh. Ai cũng lo làm
ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rơ ràng là ngày nay người ta
kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn,
nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa măn, đầy đủ. V́ thế
càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến
người khác. Trong khi đó những người nghèo th́ càng nghèo hơn, những người
yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo
cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau.
Họ bị gạt ra ngoài lề xă hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành
với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân ḿnh, gia đ́nh ḿnh để nghĩ
đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển.
Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở
thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có
nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đă không từ chối một phương
cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng,
hối lộ. Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá
những gía trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn
trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa
chọn. Thà cam chịu nghèo khổ c̣n hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa.
Thà cam chịu thiếu thốn c̣n hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để
kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dăi để
chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Qủa thực xă hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để
trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những
chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém ǵ những khổ h́nh. Những hy
sinh v́ Phúc Âm đó cũng khiến ḷng ta rỉ máu không kém ǵ chịu tử h́nh. Các
Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. C̣n chúng ta chết ṃn mỏi mỗi ngày trong
những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúa Âm trong thời đại mới đúng
là một cuộc tử đạo liên tục .
Sống v́ đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém ǵ
chết v́ đạo. Sống v́ đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa,
cho Phúc Âm không kém ǵ chết v́ đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đă anh dũng hy
sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con
hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa
trong đời sống hằng ngày. Amen.
7. Những tấm gương đức tin - Lm.
Vũ Xuân Hạnh
Đọc lại lịch sử buổi đầu của Giáo Hội Việt Nam, tôi thấy rất
giống bối cảnh lịch sử của Hội Thánh tiên khởi thuở ban đầu. Ngày ấy, Hội
Thánh tiên khởi c̣n rất mới mẽ, rất non nớt. Sau khi Chúa Giêsu về trời
(khoảng đầu thập niên 30) các thánh tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên vâng
lệnh Chúa lên đường tiếp nối sứ mạng của Chúa. V́ thế lúc ấy, Tin Mừng chỉ
mới ở giai đoạn khởi đầu. Do đó, Đức tin của các Kitô hữu cũng vẫn đang ở
giai đoạn khởi đầu, th́ năm 64, Hội Thánh đă bị bách hại dữ dội. Thế nhưng,
càng bị bách hại, càng nếm trải đau khổ và sự chết bao nhiêu, đức tin ấy
càng cho thấy nó có một sức mạnh lạ lùng bấy nhiêu. Và sự khẳng định đức
tin, bằng những ḍng máu đỏ thắm, nơi chính các Kitô hữu càng rực sáng, rất
đáng quư trọng. Có đọc lại lịch sử, và có cảm nhận hết những thương đau mà
các Kitô hữu đầu tiên phải chịu đựng, ta mới thấy hết sức mạnh không thể lay
chuyển của đức tin ấy. Một dức tin dù rất mới mẽ, nhưng lại kiên trung đến
thế, đó mới chính là phép lại phi thường.
Chẳng hạn cuộc bắt bớ của hoàng đế Neron, một bạo vương khét
tiếng độc ác, đă giết vợ, mẹ và con ḿnh. Để giập tắt dư luận lúc đó đang đổ
thừa cho hoàng đế đốt thành Rôma, ông đă đổ lỗi cho các Kitô hữu. Ông ra
lệnh bắt bớ khắp thành. Các Kitô hữu phải chịu vô vàn những h́nh phạt tinh
vi. Đó là những ǵ rùng rợn và nhục nhă nhất chụp xuống trên Giáo Hội nhỏ bé
này. Giết người bằng mă tấu, bằng gươm, bằng những h́nh khổ dă man như: đâm,
chém, phanh thây, treo thập giá… vẫn chưa lấy làm đủ, ông c̣n tạo ra những
tṛ tiêu khiển như lột trần họ ra rồi bỏ vào hầm thú dữ đói để nh́n ngắm
cảnh tượng thú dữ rượt đuổi, c̣n họ th́ chạy ṿng khắp hang cùng với sự
hoảng loạng, sợ hăi và la hét rợn trời cho đến khi thú dữ nhai sạch xác họ.
Có khi ông cho họ mặc da thú vật để cho chó cắn xé. Hoặc ông buộc chặt cả
một tập thể vào các thập giá, tẩm dầu, để đêm đến đốt lên cháy sáng như
những ngọn đuốc… Sự độc ác của ông lớn đến nỗi, dù bị vu oan là đă đốt thành
Rôma, một tội ác nặng nề, nhưng dần dần người ta nhận ra việc khử trừ các
Kitô hữu không phải v́ lợi ích của đất nước, mà chỉ v́ sự độc ác của một con
người.
Chính trong thời hoàng đế Neron, năm 64, thánh Phêrô và năm
67, thánh Phaolô bị giết. Tất cả cùng chịu đóng đinh thập giá.
Và những cuộc bắt bớ trên đất Việt cũng gần giống như thế.
Nhiều vị Thánh Tử đạo Việt Nam bị hiểu lầm, thậm chí bị vu oan. Chẳng hạn
trường hợp thánh Phaolô Hạnh. Sống ở Chợ Quán, Sài G̣n và làm nghề buôn bán,
thánh nhân là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị
trong giới gian hồ. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không
thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc
chúng trả lại tất cả những ǵ đă lấy của nạn nhân. V́ hành động nghĩa hiệp
này, thánh nhân phải trả giá: Họ tố cáo Phaolô Hạnh ngoài tội là Kitô hữu,
c̣n tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị
trảm quyết tại Chí Ḥa ngày 28. 5. 1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan c̣n đáng thương và cảm
động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt
Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đan tâm nộp Cha cho quan huyện Phú
Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng,
ngày 5. 6. 1840, thánh Luca Loan bị chém đầu.
Các thánh Tử đạo Việt Nam, cách chung, tuy được đối xử tôn
trọng hơn và cũng không bị hành h́nh để làm tṛ tiêu khiển như các thánh Tử
đạo của Giáo Hội tiên khởi. Nhưng các h́nh phạt mà các thánh Tử đạo Việt nam
phải chịu, vẫn là những h́nh phạt dă man, rất đáng sợ, rất đớn đau, và đáng
thương tâm vô cùng. V́ muốn các ngài phải bỏ đạo, vua chúa, quan quyền đă ra
lệnh đánh đập, không phải một lần, nhưng nhiều lần đến nỗi rách cả da thịt,
ứa đầy máu, có lúc tưởng đă chết dưới những làn roi của những con người
không một chút lương tâm. Có khi những vết thương do bị đánh đ̣n c̣n chưa
kịp lành, các thánh Tử đạo Việt Nam đă bị lôi ra tiếp tục tra tấn. Các vết
thương cùng những trận đ̣n tàn nhẫn ấy càng nhân lên sự đau đớn gấp bội. Đến
lúc kết thúc cuộc đời, có khi v́ tuổi già, sức yếu; hoặc không thể chịu nỗi
cảnh áp bức của nhà tù, một số vị đă chết rũ tù. Đa số các thánh Tử đạo Việt
Nam bị xử trảm (chém đầu). Có trường hợp, v́ lư h́nh run tay, nên chém rất
nhiều nhát, đầu mới ĺa cổ. Một số thánh Tử đạo khác bị thiêu sống (h́nh
phạt thiêu sinh). Số khác bị xử giảo (dùng dây xiết cổ cho đến chết). Nhiều
vị Tử đạo khác nữa bị xử lăng tŕ (phanh thây ra làm nhiều mảnh). Ví dụ
thánh Augustinô Phan Viết Huy và thánh Nicôlas Bùi Đức Thể, trong ngày xử án,
thống đốc Trịnh Quang Khanh và lư h́nh mang hai vị anh hùng đức tin ra cửa
biển Thuận An. Trên một chiếc thuyền, họ đă trói cả hai vào cột chèo, thay
v́ chặt làm đôi (chặt ngang lưng), lư h́nh chặt đầu trước, sau đó chẻ thân
thể làm bốn và quăng xuống biển làm mồi cho cá.
Một bản án lăng tŕ khác dành cho thánh Sampedro Xuyên, một
Giám mục thừa sai đến từ Tây Ban Nha, thật kinh hoàng. Ngày 28. 7. 1858, sau
khi đến pháp trường Bảy Mẫu, lư h́nh xô Đức cha Xuyên nằm sấp trên chiếu có
phủ vải sẵn, trói chân tay thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, thêm hai cọc ở
dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Năm lư h́nh cầm ŕu, lần lượt thi hành
nhiệm vụ. Họ chặt từng chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn lai
láng đọng thành vũng.
Trong số các vị hiển thánh và chân phước được Giáo Hội tuyên
phong, có một trường hợp bị xử vô cùng thương tâm. Thánh Marchand Du, linh
mục thừa sai người Pháp, phải thụ án bá đao (xẻo đủ một trăm miếng thịt).
Ngày 30. 11. 1835, cha được đưa ra pháp trường. Người ta cột chặt thân thể
cha vào cọc và nhét đá vào miệng để cha không kêu la v́ đau đớn. Dân chúng,
những người xem xử án, bị đuổi lùi ra cách 30 thước. Sau một hồi trống hiệu,
lư h́nh lột da trán cha Du, lật xuống để che mắt, rồi cắt từng mảnh thịt bên
ngực, sau lưng, tay chân. Quá đớn đau, vị anh hùng đức tin của chúng ta giẫy
giụa quằng quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt ĺa đời.
Nhưng lư h́nh vẫn tàn nhẫn tiếp tục xẻo đủ 100 miếng thịt như đă định. Cuối
cùng, lư h́nh chặt đầu cha, rồi chẻ thân ḿnh làm bốn và ném xuống biển, mất
xác. C̣n đầu của cha được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi trả về kinh đô, bị bỏ
vào cối giă nát và đem rắc xuống biển.
Đă nói đến các thánh Tử đạo, không thể nào ta không nhắc đến
đức tin mà các vị ấy đă tuyên xưng bằng chính máu đào và bằng chính sự sống
của ḿnh. Một đức tin quá kiên trung, quá lạ thường mà măi măi người đời sau
vẫn cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi chiêm ngưỡng các thánh
Tử đạo Việt Nam. Bởi mấy trăm năm, ḍng lịch sử của Giáo Hội Việt Nam đă cho
ta cảm nhận trọn vẹn một chân lư thật lớn lao: Chính bàn tay Thiên Chúa đă
hiện diện để nâng đỡ và lèo lái lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Thật giống trường
hợp các thánh Tử đạo tiên khởi, Tin Mừng chỉ mới đến với quê hương Việt nam
khoảng nửa sau thế kỷ XVI, nghĩa là đức tin vừa chớm nỡ, vậy mà ngay sau đó,
đă bị bắt bớ, bách hại. Những cuộc bách hại có lúc rất căng thẳng, có lúc
nhẹ nhàng hơn theo từng giai đoạn, nhưng như thế cũng đủ để làm cho tinh
thần đức tin bị lung lạc, suy yếu. Vậy mà điều đó đă không xảy ra. Càng ra
sức bắt đạo bao nhiêu, càng có nhiều người anh dũng chết cho đức tin bấy
nhiêu. Vua quan, một mặt ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự
phát triển của đạo, th́ lại vô t́nh làm cho đức tin càng được dồn nén, càng
được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh
chóng lang tỏa mănh liệt hơn bất cứ lúc nào.
Các thánh Tử đạo không phải là những người quá khích tự đi
t́m cái chết v́ đạo, mặc dù điều đó có thể xảy ra. Các thánh càng không quá
khích đến độ tự đi t́m cái chết để như một cách trả thù, một phương thế ngạo
ngễ vua chúa. Trước sau như một, các ngài vẫn yêu mến quê hương, vẫn tỏ ḷng
tùng phục và kính trọng các cấp chính quyền. Không bao giờ các thánh Tử đạo
quyên cầu nguyện cho vua quan. Dường như đối với các thánh, phải t́m mọi
cách để các cấp chính quyền từ vua, quan, đến quân gặp được chân lư của Tin
Mừng. Không quá khích đă vậy, ngược lại các Kitô hữu c̣n có thể chạy trốn
cuộc bách hại. Nghĩa là các ngài vẫn t́m mọi cách để cố giữ ǵn mạng sống
của ḿnh. Nhưng khi bị bắt, các ngài làm chứng tới cùng, theo Chúa Giêsu cho
tới khổ nạn và chết. Như vậy, các thánh Tử đạo là những người khôn ngoan,
tỉnh táo, vẫn rất yêu quư mạng sống của ḿnh. Chấp nhận chết là v́ hết cách,
là bước cuối cùng, chỉ v́ ḷng yêu mến Chúa và muốn bảo toàn đức tin mà thôi.
Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô
hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên
hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quư giá. Dẫu là sự
sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm
dứt sự hiện diện đời đời, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn
cội, là tất cả của vũ trụ. Từ sự hiểu biết về chân lư cao cả ấy, các thánh
Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù
phải hiến dâng cả mạng sống của ḿnh.
Không biết bạn có nhớ bài giảng của Đức Thánh Cha trong thánh
lễ phong thánh cho các thánh Tử đạo Việt Nam ngày 19. 6. 1988? Đức Thánh Cha
nói rằng: “Máu các Tử đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em
thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và
c̣n truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền
tảng xây dựng sự kiên tŕ cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ
trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của
Chúa Kitô” (số 6).
Đúng như lời Đức Thánh Cha, Giáo Hội Việt Nam thật hạnh phúc
v́ được thừa hưởng một kho tàng quư giá vô cùng. Kho tàng ấy không phải trả
giá bằng tiền của, nhưng đáng giá máu của hàng trăm ngàn người Công giáo
Việt Nam: KHO TÀNG ĐỨC TIN. Một kho tàng lớn lao, quư báu vô ngần và vững
chăi như núi đá ngay từ những ngày đầu tiên, đă qua suốt bốn trăm năm và c̣n
tiếp tục măi về sau, chắc chắn sẽ không dễ ǵ mai một, càng không dễ ǵ lay
chuyển. Bởi thế sự khôn ngoan của loài người là hăy nh́n vào tấm bia vàng đă
sống hàng trăm năm ấy mà tiếp tục vung bồi, tiến tục dựng xây chứ đừng có
thái độ thù nghịch, đừng có ác cảm.
Và chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, hăy noi gương
cha ông của ḿnh mà sống đức tin và làm chứng cho đức tin ấy một cách ngoan
cường trong cuộc đời hôm nay, để “đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và c̣n
truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai”. Và hôm nay, mừng lễ các thánh Tử
đạo Việt Nam, nêu cao bài học mà các ngài để lại, không phải là khơi lên máu
nóng t́m đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây phút của đời
ḿnh cho Thiên Chúa và tha nhân. Bởi thế, sống ơn Tử đạo hôm nay là biết
chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng cho đức tin bằng sự
hy sinh trong bổn phận, trong từng lời kinh nguyện, trong tất cả nếp nghĩ,
nếp sống. Chính khi hiến thân sống ơn Tử đạo như thế, là lúc ta làm được
điều mà các thánh Việt Nam đă làm: yêu quê hương, xây dựng quê hương, nhưng
cũng biết ḿnh là con cái của Cha trên trời. Bởi một lẽ không thể sai sót
được: ĐỨC TIN LÀ MỘT NỀN TẢNG VỮNG CHẮC: “Đức tin này tồn tại để làm nền
tảng xây dựng sự kiên tŕ cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ
trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của
Chúa Kitô”.
8. Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
trước tiên chúng ta hăy hợp cùng các ngài để tạ ơn Chúa. Các ngài là cha ông
của chúng ta đă từng sống trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, và từng dấu
chân của các ngài đă đặt trên các con đường chúng ta đang đi. Nói chung, các
ngài là những con người như chúng ta, cùng một phong tục, một văn hoá như
chúng ta. Và xét về mặt con người, các ngài cũng có những mặt t́nh cảm, mặt
giới hạn, những yếu đuối như chúng ta. Nhưng các ngài đă trung thành với ơn
Chúa cho đến cùng, bất chấp mọi gian nan thử thách, bất chấp những dă man và
các ngài đă dùng cái chết thảm thương của ḿnh để nói với tất cả con cháu và
toàn thể thế giới rằng: "Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đáng được tôn thờ và yêu
mến mà thôi".
Nhờ đâu mà các ngài được can đảm và mạnh mẽ như thế? Chính là
nhờ ơn Chúa, vậy chúng ta hăy cùng với các ngài tạ ơn Chúa. Ngày hôm nay
mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta hăy cùng chia vui với các ngài,
v́ những đau khổ chóng qua của đời này đă hết, số phận đời đời của các ngài
đă được định đoạt. Các ngài hưởng nhan thánh Chúa đến muôn thuở muôn đời và
không c̣n lo âu sợ hăi ǵ nữa, nhất là sợ mất Thiên Chúa. V́ từ nay Chúa
chính là phần gia nghiệp của các ngài. Chúng ta hăy chia vui với cha ông của
chúng ta và cùng vui mừng với Giáo Hội Việt Nam yêu quí của chúng ta, v́ đă
có những người con ưu tú đang sống trọn vẹn niềm vui, sự an b́nh và sung măn
của Nước Trời.
Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay chúng ta cũng đừng
quên cầu xin Chúa cho Giáo Hội, nhất là cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của
chúng ta. Bởi v́ hầu như bất cứ ở đâu và thời nào, Giáo Hội cũng luôn luôn
bị bắt bớ và thách hại và những người con trung thành của Giáo Hội vẫn luôn
chịu tử đạo. Nhất là ngày nay, sự tử đạo dần ṃn v́ bị trị áp đảo tinh thần.
Lư do là v́ những đường lối hướng dẫn của Giáo Hội trong mọi lănh vực của
đời sống con người luôn là ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa, luôn bênh vực cho
những quyền căn bản của con người, để giúp tất cả mọi người không phân biệt
màu da ngôn ngữ, văn hoá, chủng tộc... luôn sống đúng nhân phẩm của ḿnh
trong vũ trụ này, hầu chu toàn bổn phận làm con cái của Chúa.
Nhưng một thực tại không chối căi được nơi trần gian này mà
thánh Gioan đă ghi ngay trong những câu đầu Phúc âm của ngài, ngài viết: "Ánh
Sáng chiếu trong bóng tối, nhưng bóng tối không chịu tiếp nhận ánh Sáng". Và
chính Chúa Giêsu, Ngài cũng đă quả quyết: "Ai thích làm những điều ám muội
trong bóng tối th́ ghét ánh Sáng". Cho nên hầu như lúc nào lực lượng của
bóng tối cũng t́m đủ mọi lư do để phủ nhận ánh sáng bằng cách nhân danh một
nền văn hoá, nhân danh một cá nhân, một bè đảng trần thế, nhân danh một ư
thức hệ để loại trừ Giáo Hội.
Chúng ta hăy cầu nguyện cho Giáo Hội luôn vững tin vào Thiên
Chúa và luôn nhớ rằng, chính Chúa Giêsu, Đấng Sáng Tập Giáo Hội đă nói với
Simon con ông Giona, tức là Phêrô rằng: "Này con là đá, trên đá này Thầy sẽ
xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng nổi. Chúng ta hăy cầu
xin cho những người con của Giáo Hội biết trung thành bền vững đi trong ánh
sáng và hướng dẫn người khác luôn tiến bước trong ánh sáng của Giáo Hội.
Đừng bao giờ hùa theo sức mạnh của bóng tối, đừng chạy theo cặn bă phù vân
để bách hại Giáo Hội là Mẹ của ḿnh.
Nh́n lại lịch sử của Giáo Hội, có một điều làm chúng ta an ủi
là Giáo Hội vẫn trường tồn và phát triển qua bao nhiêu bách hại. Mặc dù các
đế quốc quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội, nhưng họ đă bị sụp đổ, các cá nhân v́
những quyền lợi riêng tư đă thù ghét đàn áp Giáo Hội, nay đă nằm yên trong
ḷng đất lạnh và không c̣n ai nhắc đến nữa. Gần đây, các thế lực vô thần độc
tài bài trừ Giáo Hội một cách khoa học và tinh vi cũng đă tan tành bể vụn ra
từng mảnh trước mắt chúng ta.
Nhiều nơi sau thời bách hại đă qua, các tín hữu đă cùng hát
lên với nhau Thánh Vịnh 125:
"Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,
Chúng con thuở ấy dường như đang mơ.
Miệng cười thú vị làm sao,
Lưỡi dân rối rít xôn xao nỗi mừng.
Ai gieo trong lệ sầu,
Sẽ gặt trong hân hoan.
Ai vừa khóc vừa đi,
Đem hạt giống ra văi,
Ắt se trở về vui vẻ, mang theo bó lúa bên ḿnh".
V́ thế, chúng ta hăy cầu xin cho Giáo Hội Việt Nam đem hạt
giống chôn vùi trong ḷng đất, nhưng không phải để mục nát thối rữa, mà là
để nảy mầm tươi tốt trong mùa xuân của dân tộc đang như con nhộng nằm trong
kén, nhưng không phải để ngủ mê mà để âm thầm chuyển ḿnh chờ ngày cánh kén
tung bay thành con bướm nhởn nhơ với muôn màu muôn sắc trên cánh đồng đầy
hoa tươi rực rỡ trên bầu trời trong mát.
Sau cùng, mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi
người chúng ta hăy cầu nguyện cho chính bản thân và cho gia đ́nh của ḿnh,
nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho mỗi
người, mỗi gia đ́nh biết noi gương các thánh luôn trung thành yêu mến Chúa,
sống đời đạo đức gương mẫu, để ngày kia chúng ta được sum vầy trong Nước
Chúa, bên Các Thánh Tử Đạo cha ông của chúng ta.
Thật là đau khổ biết bao nhiêu khi chúng ta tường tượng thấy
người thân yêu sẽ không cùng với chúng ta để hưởng hạnh phúc đời đời trong
Nước Thiên Chúa, mà phải trầm luân muôn kiếp trong chốn tối tăm. Cho nên,
yêu thương nhau thật sự chúng ta hăy cầu nguyện cho nhau và luôn luôn khuyến
khích, hướng dẫn nhau giữ đạo cho tử tế, thờ kính yêu mến Chúa hết ḷng, để
một ngày kia tất cả chúng ta cùng với các thánh ca khen danh Chúa măi măi
muôn đời. Amen.
9. Các thánh Tử Đạo Việt Nam- Lm
Nguyễn Minh Hùng
Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam trên 400 năm, th́ hết 300
năm, Giáo Hội Việt Nam thấm đẫm ḍng máu các anh hùng tử đạo. Giai đoạn bách
hại nặng nề nhất là vào thế kỷ 19, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức. Cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngă cho dân tộc Việt
Nam: những người Việt Nam tàng nhẫn sát hại nhau. Chính những đồng bào Việt
Nam chung cội, chung nguồn lẽ ra phải yêu thương nhau, lại quay mũi kiếm
giết nhau hàng loạt.
Thật vinh phúc cho Giáo Hội Việt Nam, một Giáo Hội c̣n non
trẻ, nhưng lại căng tràn sức sống, đạp trên đầu sóng ngọn gió, vượt thắng
mọi thử thách, mọi đau đớn, mà cho đến nay, dẫu đă qua đúng một thế kỷ, thời
gian đủ b́nh tĩnh để suy niệm, sao vẫn c̣n nghe hăi hùng, vẫn c̣n nghe nhức
nhối tâm can, làm lặng đi mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi thanh âm. Những
người con đất Việt tưởng như gục ngă không thể gượng dậy nổi dưới bàn tay
tàn bạo của làn kiếm, mă tấu, gông cùm, tù đày, lửa nung, bá đao, tùng xẻo,
xiết cổ, chém bay đầu, lại là sức mạnh ngàn đời của một đức tin không ǵ lay
chuyển nổi. Bởi Thân xác các thánh Tử đạo dù bị giết, nhưng đức tin của các
ngài th́ không ai giết được.
Một Giáo Hội c̣n non trẻ đến thế, lại có sức chịu đựng sự
giày xéo quá sức tưởng tượng của người đời. Giờ nh́n lại sự nhiệm mầu của
sức chịu đựng, ta chỉ c̣n có thể bật thốt lên như thánh nữ Têrêsa: Tất cả là
hồng ân. Hồng ân nhận được không chỉ là một quà tặng, nhưng c̣n là một quà
tặng vinh dự, một quà tặng của niềm kiêu hănh thánh thiện. Hồng phúc tử đạo
không chỉ là một hành động dâng hiến tận cùng mà c̣n là một dâng hiến vinh
thắng tận cùng. Đó không là một vinh phúc lớn lao lắm hay sao! Một vinh phúc
lớn lao mà một Giáo Hội c̣n non trẻ như Giáo Hội Việt Nam lại có thể cùng
Giáo Hội hoàn vũ đă qua mấy ngàn năm, vẽ thêm vào đó một đường lịch sử của
đức tin không bao giờ mệt mơi, không bao giờ dừng lại.
Các thánh Tử đạo đă viết sử bằng máu của ḿnh. C̣n chính
Thiên Chúa, Người cũng đă làm cho Giáo Hội Việt Nam được khai sinh, lớn lên
và phát triển nhờ ḍng máu các thánh. Nếu cuộc bách hại để lại một trang sử
đầy nghiệt ngă cho dân tộc Việt Nam, th́ đối với đức tin, đó lại là một
trang sử hùng tráng cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói
chung: Bởi những người con đất Việt càng yêu mến quê hương, yêu mến bản thân
ḿnh, luyến tiếc cuộc đời, luyến nhớ người thân và điều đặc biệt: yêu mến
các vua quan là những người bên trên ḿnh, th́ càng yêu mến đức tin khôn
cùng. Chính cái chết của các thánh Tử đạo là một lời nói xác quyết và chung
quyết cho mọi lời tuyên xưng đức tin rằng: Không có bất cứ cái ǵ có thể
ngang bằng đức tin
Hiểu rất rơ Chúa Giêsu, Đấng mà ḿnh tôn thờ vượt trên tất cả,
dẫu là chính bản thân các vua quan hay lệnh truyền của các vua quan đi nữa,
không có ǵ sánh ví được với Đức Chúa mà lẽ ra các vua quan cũng phải tôn
thờ, các thánh Tử đạo đă chối từ một cuộc sống dễ dăi.
Hiểu rất rơ Chúa Giêsu, Đấng mà ḿnh tôn thờ là Đức Chúa của
ḿnh, v́ thế, dẫu chỉ là hai que củi vắt chéo trên mặt đất, b́nh thường chỉ
là hai que củi không hơn, không kém, nhưng để biểu lộ đức tin, th́ bất cứ
một bàn chân giẫm đạp nào, bất cứ lời lụy mạ nào, hay bất cứ một hành động
nào đối lại đức tin khi đứng trước hai que củi ấy, tất cả đều là sự chà đạp
đức tin, chà đạp Giáo Hội, chà đạp chính Đấng mà ḿnh tôn thờ.
Ngược lại, bất cứ một hành động hay một lời nói nào để tuyên
xưng đức tin mà phải tôn trọng hai que củi h́nh chữ thập ấy, điều đó không
c̣n đơn thuần là hai que củi h́nh chữ thập nữa nhưng là h́nh tượng Thánh Giá,
h́nh tượng của ḷng tin, h́nh tượng của một tâm hồn quả cảm quyết một ḷng
tôn thờ Đức Chúa của ḿnh! Hiểu rất rơ điều đó, cho nên dù chỉ là đối điện
với hai que củi vắt chéo h́nh chữ thập, các thánh Tử đạo không chỉ đứng
trước hai que củi, nhưng là đối diện với nỗi giằng co mạnh bạo, đối diện với
sự chọn lựa không khoan nhượng, nhưng dứt khoát: đức tin hay cuộc sống trần
thế. Và cái giá phải trả cho sự chọn lựa đứng về phía đức tin là bị tước
đoạt tất cả những ǵ đang có trong cuộc trần. Bị tước đoạt cả sự sống, cả
đến giọt máu sau cùng.
Máu các thánh Tử đạo Việt Nam đă dệt đỏ thắm ḍng lịch sử
Giáo Hội Việt Nam, v́ thế, các thánh Tử đạo măi măi vẫn xứng đáng sống trong
ḷng Giáo Hội và nơi từng người tín hữu Việt Nam.
Vượt trên tất cả mọi tấm gương, vượt trên tất cả mọi bài học,
máu các thánh phải là chính cuộc sống của những người Việt Nam Công giáo hôm
nay, khi làm người Việt Nam giữa dân tộc ḿnh, và làm người giữa đời.
10. Để làm chứng cho vua quan
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của
đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị
tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những ǵ các ngài phải
chịu đều v́ Đức Giêsu (c.18), v́ Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của
Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu
(c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được
thi thố nơi một con người mỏng ḍn yếu đuối.
Chết v́ Đạo là một cách làm chứng.
·
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: V́
tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua
thánh giá.
·
Làm chứng cho một t́nh yêu nỏng bỏng: "Không
có t́nh yêu nào lớn hơn t́nh yêu của người hiến mạng v́ bạn hữu" (Ga 15,13)
·
Làm chứng cho một niềm hy vọng mănh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với
Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đă làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đ̣i phải hy sinh, mất mát, thiệt tḥi, v́
đ̣i ta lội ngược ḍng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được
tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đ̣n
vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự
thay đổi.
Đă có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đă co chân lên, như
thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là
trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt.
Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh
Micae Hồ Đ́nh Hy, nhưng họ đă thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn
Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm
dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng
vượt những sợ hăi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của
sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của ḿnh.
Gợi Ư Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ư bạn, người Công Giáo Việt
Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết
Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm
đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đă dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn
cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy t́nh yêu mạnh hơn sự chết và
chết là cửa mở vào cơi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các
ngài đă chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường
sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết
nhiệt thành làm chứng về t́nh yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước ǵ ngọn lửa đức tin mà các ngài đă thắp lên bằng cuộc
sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước ǵ máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để
công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
11. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi
dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ṭa Thiên Chúa và trước
Chiên Con, ḿnh mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến
thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được Chúa cho thị
kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị
trưởng lăo cho biết, đó là những người đă qua cơn đại họa, đă giặt áo họ
trong Máu Chiên Con và nay trở về. V́ thế họ được hân hạnh đứng trước ṭa
Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên ṭa sẽ
chở che và phù trợ họ, họ sẽ không c̣n phải khát nữa, không c̣n bị mặt trời
và nóng bức làm khổ nữa. V́ Chiên Con đứng ở giữa ṭa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa
họ đến suối nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh
chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho
chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng
trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con
cháu ḍng giống lạc hồng, các ngài đă trải qua những cơn thử thách gian
truân, lấy mạng sống của ḿnh để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về
với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền
giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha,
nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy linh mục, mười sáu thầy
giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo
dân Việt Nam đă đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi
muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ư với anh chị em hôm nay, các
thánh Tử Đạo là những công dân hiền ḥa, sống đời gương mẫu, nêu gương lư
tưởng trung kiên với Thượng Đế, không pḥ vua bách hại, nhưng một ḷng tùng
phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ư
định cầm khí giới để pḥng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện
cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đă kư sắc
lệnh tử h́nh và thật ḷng tha thứ cho những kẻ hành quyết ḿnh. Cử chỉ này
không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như
câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành
tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đă ghi
vào những trang sử của Giáo Hội, là ḷng tôn kính của các ngài đối với thập
giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên
thập tự để minh chứng t́nh yêu tột đỉnh của ḿnh đối với Thiên Chúa và đối
với nhân loại, v́ thế không một khổ h́nh nào có thể di chuyển đôi chân của
các ngài tự ư bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ
đạo dù phải đ̣n vọt, tra tấn, dù phải chịu tử h́nh, các vị Tử Đạo Việt Nam
đă nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại t́nh yêu của Đấng đă chết treo trên
ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em công giáo khắp năm châu Mừng Kính Lễ các
Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ư thức rằng, cuộc
sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những ḍng chữ đầu trong
các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và
thách đố. Hăy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết
lên thành tích của ḷng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống
chứng nhân cho t́nh yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, ḥa giải và
chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ư nghĩa thập giá qua nếp
sống hằng ngày của ḿnh, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường
sống của ḿnh.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương
đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn
trung thành với niềm tin, đức cậy và ḷng mến trung thành. Amen.