CN XXVI Thường niên A
Mt. 21, 28 - 32
28-9-2008
CN XXVI Thường niên Lm
PX. Vũ Phan Long,
ofm 02
CN XXVI Thường niên Lm Carolô Hồ Bặc Xái 07
CN XXVI Thường niên Lm Mark Link, SJ 14
CN XXVI Thường niên Lm Augustine, SJ 19
CN XXVI Thường niên Lm Giuse Dinh Lập Liễm 24
CN XXVI Thường niên Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 33-36
CN XXVI Thường niên Lm Đaminh Trần Đ́nh Nhi 40
CN XXVI Thường niên Lm Ansgar Phạm T́nh 45
CN XXVI Thường niên Lm Trần Thanh Sơn 48
CN XXVI Thường niên Lm Giuse Nguyễn B́nh An 52
CN XXVI Thường niên Lm Bênađô Nguyễn Tiến Huân 54
CN XXVI Thường niên Lm JB Nguyễn Minh Hùng 56
CN XXVI Thường niên Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb 59
CN XXVI Thường niên John Nguyễn
63
CN XXVI Thường niên Đ.Ô. Đổ Văn Khả 69
CN XXVI Thường niên Lm. Trọng Thưởng, CMC 72
CN XXVI Thường niên Lm. Louis Minh Nhiên, CMC 74
CN XXVI Thường niên Lm. An Phong, OP 78
CN XXVI Thường niên Lm Giuse Đỗ Vân Lực, OP 79
CN XXVI Thường niên Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP 83
CN XXVI Thường niên Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP 88
CN XXVI Thường niên Manna
91
CN XXVI Thường niên Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
94
Nghe và làm –
dỤ ngôn hai NgưỜi con
Mátthêu 21,28-32
Qua bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá trị tôn giáo
của người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc thể theo những cam
kết về lư thuyết hay nguyên tắc.
Lm PX. Vũ Phan Long, ofm
I. NgỮ cẢnh
Nh́n vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc
tính bút chiến của ba dụ ngôn Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch của
Thiên Chúa:
1)
Dụ ngôn Hai người con (21,28-32) xác định trong Israel có những người tội
lỗi thực sự v́ bất phục tùng.
2)
Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (21,33-43) vạch trần kế hoạch sát
nhân của người Do-thái và loan báo chương tŕnh của Thiên Chúa là sắp chuyển sứ
mạng của người Do-thái cho Dân ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng tế và người
Pharisêu hiểu là Người nói về họ, và như thế là gián tiếp nh́n nhận dự tính sát
nhân của họ).
3)
Dụ ngôn Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các dữ kiện của hai
dụ ngôn trước (từ khước v́ bất phục tùng, sát hại người con trai, hủy diệt những
kẻ sát nhân, kêu gọi những người khác).
Ba bài dụ ngôn này cũng được tŕnh bày tiệm tiến (làm việc, cung cấp hoa trái,
đến dự tiệc).
Dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho (20,1-16) đă nêu bật rằng Thiên Chúa không
hề bị lệ thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và tốt lành. Trong dụ
ngôn Hai người con, Đức Giêsu cho thấy lần nữa rằng thi hành ư muốn của Thiên
Chúa là một bổn phận không thể tránh né.
II. BỐ cỤc
Bản
văn có thể chia làm hai phần:
1)
Dụ ngôn Hai người con (21,28-31a);
2)
Bài học (21,31b-32).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai
(28): Đức Giêsu hỏi ư kiến của các thính giả và cả các đối thủ của Người. “Người
kia” tượng trưng Thiên Chúa; c̣n “hai người con” tượng trưng cho hai thành phần
làm nên Dân Thiên Chúa vào thời Đức Giêsu: những người “tội lỗi”, không tuân giữ
Lề Luật và các quy định của kinh sư, và những người “công chính” trung thành với
tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ lănh của Dân. Cả hai bên đều được gọi là
“con” của Thiên Chúa.
- nó hối hận (30): Mt không
dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là động từ khác, “hối hận” (metamelomai),
chỉ có ở đây và ở 27,3 trong Mt, nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX theo
nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa” (Ed 14,22; Tv 105,45; Xh 13,17…).
- vào Nước Thiên Chúa trước các ông
(31): Động từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”, nhưng ở đây có nghĩa
là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
IV. Ư nghĩa cỦa bẢn văn
* Dụ ngôn Hai người con (28-31a)
Cả hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân t́nh là đi
làm vườn nho cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả
lời bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, nhưng rồi anh nghĩ
lại và đi làm việc trong vườn nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Thưa
ngài, con đi!” lịch thiệp và khả ái, nhưng anh không đi đến vườn nho và không
động một ngón tay vào. Nơi người thứ nhất, lời nói th́ không thỏa đáng,
nhưng hành động th́ tốt. Nơi người thứ hai, các lời nói th́ tốt, nhưng thiếu
hành động. Thế mà chắc chắc là không phải các lời nói nhưng các hành động mới
có tính quyết định. Chỉ ai làm theo ư muốn của người cha, th́ mới thực hiện ư
muốn của ông.
Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho “các thượng tế và kỳ mục trong dân”
(21,23), v́ họ đă đến Đến thờ gặp Người mà hỏi về nguồn gốc của quyền Người.
Trong cách đánh giá ví dụ được nêu ra, Đức Giêsu và các đối thủ đồng ư với nhau.
Cả họ nữa, họ cũng nhận định là ư muốn của người cha chỉ được thực hiện qua hành
động. Tuy nhiên, họ không đồng ư với Đức Giêsu về cách áp dụng.
* Bài học (31b-32)
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này mà mô tả một bên là lối xử sự
của giới lănh đạo tôn giáo và bên kia là lối xử sự của những người thu thuế và
những người tội lỗi đối với ư muốn của Thiên Chúa, ư muốn này đă được Gioan Tẩy
Giả công bố. Đức Giêsu đă trả lời câu hỏi của họ về quyền của Người bằng một
câu hỏi ngược lại liên hệ đến quyền của vi Tẩy Giả. Người muốn họ cho biết
cách họ lượng định về Gioan: họ coi ông là một sứ giả của Thiên Chúa,
nhận quyền bính từ Ngài, hay là họ coi ông chỉ là một người thường, nhân
danh ḿnh mà đến (21,25). Phải hiểu điểm này để hiểu ư nghĩa và vai tṛ của
Gioan, hiểu lời loan báo và phép rửa ông làm. Họ đă muốn tránh lấy lập trường,
nên đă giả bộ không biết.
Tuy nhiên Đức Giêsu nói thẳng ra Người nghĩ ǵ về vị Tẩy Giả và
Người đánh giá thế nào lối xử sự của ông. “Ông Gioan đă đến chỉ đường công chính
cho các ông” (21,32; x. 11,7-19). Gioan đă đến do Thiên Chúa sai phái và đă loan
báo những ǵ người ta phải làm, đâu là lối xử sự đúng đắn, phù hợp với ư muốn
của Thiên Chúa. Qua trung gian ngài, Chúa Cha đă bày tỏ ư muốn của Ngài và đă
mời đi làm trong vườn nho Ngài. Nhưng họ hoàn toàn không muốn tin; họ đă không
chịu nhận biết ngài là vị ngôn sứ được Thiên Chúa cử đến nên đă không lắng nghe
sứ điệp của ngài (x. c. 25). Do đó họ tương ứng với người con thứ hai, đă nói
những lời tốt đẹp, nhưng không làm đúng ư của cha.
Lời khuyến cáo của Đức Giêsu càng gây đau đớn, bởi v́ Người đặt
đối lập người thu thuế và các cô gái điếm với những người đang đối thoại với
Người. Đối với các thủ lănh Do-thái, chỉ nguyên việc được nhắc tới cùng với
người thu thuế và các gái điếm đă là một chuyện sỉ nhục rồi. Theo họ,
người thu thuế và kẻ tội lỗi theo nguyên tắc bị loại khỏi Nước Thiên Chúa do lối
sống của họ. Ngược lại, Đức Giêsu lại thấy người thu thuế và kẻ tội lỗi này
chính là đứa con lúc đầu đă cương quyết nói không, nhưng rồi hối hận và đă đi
làm theo ư cha. Đức Giêsu không đồng ư với lối sống của họ, nhưng nh́n nhận rằng
họ đă nhận biết sứ điệp Gioan gửi đến để kêu gọi hoán cải và coi đó là thi hành
ư muốn của Thiên Chúa; Người khẳng định rằng đây là điều cần thiết để được vào
Nước Thiên Chúa.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá
trị tôn giáo của người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc
thể theo những cam kết về lư thuyết hay nguyên tắc. Nói cho cùng, chính cách xử
sự cho thấy đáy ḷng.
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có
thể thấy được là các quan hệ giữa Đức Giêsu và giới lănh đạo Israel xấu đi rơ
ràng. Người con nói không, rồi hối hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con hoang
đàng, nhưng người con nói vâng mà không làm ǵ cả th́ bị phê phán nghiêm khắc
hơn người anh cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca (ch. 15), thính giả có
ấn tượng là người cha gia đ́nh c̣n hy vọng bao trùm sự ghen tương tồi tệ của đứa
con cả bằng t́nh thương của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người con, ta đoán
ra rằng Đức Giêsu không c̣n hy vọng hoán cải người Pharisêu được nữa. Họ đă
chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, họ đă thấy những người thu thuế và
các phụ nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không hề băn khoăn nghĩ ngợi! Sự chai đá
của họ thật vô phương cứu chữa!
V. GỢi ư suy niỆm
1. Chúng ta học nơi Đức Giêsu bài học không có nhận định kiểu
thành kiến về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng
người tùy các dấn thân theo nguyên tắc hay các lư thuyết của họ. Chỉ lối sống
thực tế mới cho thấy ḷng dạ con người.
2. Dù đă nói “không”, hoặc đă sống xấu xa, chẳng một ai
lại phải tuyệt vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta
không ở lại trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư
xử đúng đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đă sống
sai lạc hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán
cải, nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của ḿnh.
3. Cần phải đi t́m biết ư Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần
phải nhận biết các sứ giả Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ư muốn
của Ngài. Từ khước lấy lập trường là một cách lấy lập trường chống lại ư
muốn của Thiên Chúa. Lời nói không thể thay thế hành động hữu hiệu. Đă nói là
vâng theo ư Thiên Chúa th́ phải nghiêm túc thực hiện thánh ư Ngài trong đời sống
ḿnh.
4. Dù chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con
của cùng một Cha, được Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công
việc đồng đều: chăm sóc chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh
dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và sứ mạng của ḿnh, đồng thời giúp anh
chị em cũng sống được như thế chăng?
Lm PX. Vũ Phan Long, ofm
ĐưỜng lỐi cỦa
Thiên Chúa
Mt 21, 28
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪn vào Thánh lỄ
Anh
chị em thân mến
Chúng ta sống ở trần gian này như những lữ khách đang đi trên một con đường dài
đằng đẳng. Nếu không có Chúa dẫn đường, không biết chúng ta sẽ đi về đâu. Nhưng
dù có Chúa dẫn đường mà nếu chúng ta không theo Ngài th́ chúng ta cũng vẫn lạc
hướng.
Bởi
vậy trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hăy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết đường
lối của Chúa để chúng ta đi theo, ngơ hầu mọi người chúng ta đều đến được cùng
đích hạnh phúc vĩnh viễn của đời ḿnh.
II. GỢi ư sám hỐi
·
Chúng ta măi mê lo cho cuộc sống trần gian hiện tại mà không nghĩ
đến cuộc sống đời đời mai sau.
·
Nhiều lần chúng ta không đi đường công chính mà lại đi theo đường
tội lỗi.
·
Chúng ta thường nói ḿnh mến Chúa nhưng lại không làm theo thánh ư
Ngài.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I Êd 18, 25-28
Trong đoạn này, ngôn sứ Êdêkien cố gắng bài bác hai quan niệm sống "tự măn" và "tự
ti":
-
Tự măn: có những người nghĩ rằng ḿnh đă "công chính" rồi nên tự măn
không cố gắng sống tốt hơn. Êdêkiên cảnh cáo: "Khi người công chính từ bỏ đường
công chính và phạm tội ác, nó sẽ phải chết".
-
Tự ti: có những người khác thấy ḿnh lỡ tội lỗi nên nản ḷng ở ĺ măi trong
tội lỗi. Êdêkiên khuyến khích: "Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác nó đă đi và thực
thi công b́nh chính trực, nó sẽ được sống".
Như
vậy, đường lối của Thiên Chúa là một con đường mở rộng cho tương lai, khuyến
khích cả người tốt lẫn kẻ xấu ngày càng hướng về điều tốt hơn.
2. Đáp ca Tv 24
Đây
là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi. Người này quyết chí bỏ đường tội lỗi, nài
xin Chúa mở ḷng thương xót mà tha thứ tội lỗi xưa, và chỉ cho họ con đường mới
hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
3. Bài đọc II Pl 2, 1-11
Thánh Phaolô dạy cho tín hữu Philipphê một phương hướng sống: Đừng lấy nghĩ bản
thân ḿnh làm chuẩn để mà tự măn. Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng so sánh
để mà kiêu căng hoặc phân b́.
Hăy
nghĩ đến Đức Giêsu Kitô như một tấm gương để chỉ lo bắt chước Ngài: Đức Giêsu
Kitô chỉ biết vâng lời Thiên Chúa mà hạ ḿnh xuống tới mức tận cùng, nhưng nhờ
đó Thiên Chúa đă tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.
4. Tin Mừng Mt 21, 28-32
Bài
đọc I cho biết một nét của đường lối Chúa là không chấp nhất quá khứ mà khuyến
khích người ta hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Bài
Tin Mừng cho biết nét thứ hai của đường lối Chúa: không chú trọng tới lời nói mà
chú ư tới việc làm. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người con và đề cao người
con thứ nhất:
Người con thứ nhất (đại biểu cho lương dân) tuy ban đầu nói "không" nhưng sau đó
hối hận và đi "làm" theo ư Thiên Chúa.
Người con thứ hai (đại biểu cho dân do thái) ngoài miệng luôn nói "vâng" nhưng
thực tế th́ không "làm" theo ư Thiên Chúa.
IV. GỢi ư giẢng
1. Đường lối lạ lùng của Thiên Chúa
Những bài đọc hôm nay tŕnh bày đường lối hành xử của Thiên Chúa, rất khác với
suy nghĩ của loài người:
Cảnh cáo phạt người công chính và khuyến khích thưởng người gian ác (bài đọc I)
Phê
phán những người "đạo đức" như biệt phái, luật sĩ, tư tế, và đề cao những người
tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm (bài Tin Mừng).
Không phải v́ Thiên Chúa muốn làm ngược với loài người mà v́ Ngài quan tâm tới
những giá trị thực:
·
Giá trị thực của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội
lỗi của người đó, mà hệ tại hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay
không.
·
Giá trị thực của con người không do những lời tốt đẹp người đó nói
ra, mà do hành động của người đó.
V́
Thiên Chúa theo một đường lối như thế cho nên Ngài đă ưu ái những người một thời
nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalêna, tên trộm lành...
Phần chúng ta, đă biết đường lối của Chúa là như thế th́ chúng ta phải làm sao?
Đừng nghĩ rằng ḿnh đang thuộc hàng "công chính" để rồi ngủ mê trong ảo tưởng
đạo đức về ḿnh. Cũng đừng cho rằng ḿnh thuộc hạng "thu thuế và đĩ điếm" để rồi
buông xuôi cho ḍng đời lôi cuốn.
2. Thành kiến
Bài
đọc I cho thấy Thiên Chúa hành xử rất sáng suốt và hợp lư khi Ngài không có
thành kiến đối với quá khứ của con người: người có quá khứ tội lỗi nhưng biết
sửa đổi th́ Ngài khen ngợi, kẻ có quá khứ đạo đức nhưng đang hướng theo con
đường tội lỗi th́ Ngài vẫn trách mắng.
Thực ra, con người không phải là một món đồ một khi đă được đúc khuôn thế nào
th́ măi măi vẫn là thế ấy. Con người là một tác phẩm đang được thực hiện: hôm
qua khác hôm nay, và ngày mai sẽ c̣n khác nữa.
Thiên Chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi và hoàn chỉnh. Tại sao chúng ta
không cho chính ḿnh những cơ hội ấy? Tại sao chúng ta không cho người khác
những cơ hội ấy?
3. Mảnh suy tư
-
Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là "Vâng" và "Không". Nhưng giá
trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người
ta có thực hiện hay không. Nói "vâng" mà không làm đâu có giá trị bằng nói "không"
mà lại làm.
-
Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho
những việc làm tốt.
-
Con người chúng ta có thể thay đổi từ "vâng" sang "không" và từ "không" sang
"vâng". V́ thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho
chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đă lỡ nói "không" với Chúa bấy
lâu nay th́ bây giờ chúng ta có thể nói lại "xin vâng"; c̣n nếu chúng ta giống
người con thứ hai đă thưa "xin vâng" th́ đừng để cho ḿnh bị thay đổi mà sửa lại
thành "không".
-
Trong lịch sử Giáo Hội, rất nhiều vị thánh lớn đă từng là những kẻ tội lỗi ban
đầu đă nói "không" với Chúa nhưng về sau đă sửa đổi và thưa "xin vâng". Thánh
Augustinô là một thí dụ điển h́nh.
4. Chuyện minh họa
a/
Cha sở bảo ông chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ t́m cho đủ 10 người đến cầu nguyện bên
giường một người hấp hối.
Khi
mọi người đă tụ họp đông đủ bên giường bệnh. Có người rỉ vào tai Cha Sở:
-
Thưa Cha, trong đám này có mấy thằng chuyên môn trộm cắp.
-
Càng tốt chứ sao, bởi v́ trong trường hợp Thánh Phêrô không chịu mở cửa
thiên đàng th́ ḿnh nhờ họ mở khóa dùm.
b/
Một người suốt đời hết sức tránh tội. Hôm anh chết và lên tŕnh diện với Thánh
Phêrô th́ trùng hợp cũng có một đám các cô đĩ điếm ở đó.
Thánh Phêrô hỏi các cô một cách ân cần, rồi mời các cô vào thiên đàng. Người nầy
khó chịu quá, hỏi tại sao, th́ thánh nhân đáp:
-
Nếu ngươi không chấp nhận ḷng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi, th́
hăy đi đi. Chỗ của ngươi không phải ở đây!
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
CT: Anh chị em thân mến
Sám
hối, canh tân đời sống và đón nhận Tin Mừng là những việc làm thường xuyên trong
đời sống đức tin của người kitô hữu. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng
ta cùng dâng lời nguyện xin.
1- Đức Kitô đă thiết lập Hội Thánh để đam lại ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta
hiệp lời cầu xin Chúa ban nhiều ân sủng / cho Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / để
Hội Thánh được măi măi là bạn tinh tuyền của Người.
2- Trong cuộc sống thường ngày / tệ nạn xă hội làm điên đầu những kẻ có trách
nhiệm / Không ít người đă bán rẻ nhân phẩm / và danh dự của ḿnh / v́ nghèo đói
cũng có / mà v́ đua đ̣i ăn chơi cũng có / Chúng ta hiệp lời cầu xin cách riêng
cho giới trẻ / biết tránh xa những cạm bẫy tinh vi của những kẻ buôn người / để
khỏi phải chôn vùi cuộc đời trong hố sâu tội lỗi.
3- Không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa / V́ thế thái độ đúng
đắn nhất là ư thức thân phận tội lỗi yếu hèn của ḿnh / và đừng xét đoán cũng
như kết án người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn
cố gắng sống những ǵ Chúa Giêsu đă dạy.
4- Đức Giêsu nói / "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy / Lạy Chúa / lạy Chúa /
là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thực hành ư muốn của Cha Thầy Đấng
ngự trên trời / mới được vào mà thôi" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn
giáo xứ chúng ta / biết nỗ lực thực thi ư Chúa / tức là làm trọn mọi bổn phận
trong giây phút hiện tại.
CT: Lạy Chúa Giêsu, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu không đủ để bảo đảm
phần rỗi cho chúng con, mà phải sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng và thi hành ư
Chúa mới giúp chúng con được sống muôn đời. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để
chúng con có thể sống như Chúa đă dạy. Chúa hằng sống và hiển trị...
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
CẢM NGHIỆM TRONG CĂN PH̉NG KHÁCH SẠN
Chủ đề: "Hối cải là một
tiến tŕnh, là một cuộc du hành liên tục chỉ kết thúc vào lúc chết. "
Lm. Mark Link, S.J.
Thomas Merton mồ côi cha mẹ năm 16 tuổi.
Cậu gia nhập Đảng Cộng sản năm 20 tuổi và gặp được Đức Kitô năm 23 tuổi. Đến năm
24 tuổi chàng trở thành phóng viên tờ Nữu Ước thời báo (New York Times). Năm 26
tuổi, chàng thu gom toàn bộ tài sản vào một chiếc túi vải rồi đến sống ở
Kentucky và trở thành một thầy ḍng chiêm niệm Trappist (Anh em hèn mọn). Trong
quyển sách tự thuật về cuộc sống tâm linh rất ăn khách nhan đề "The Seven
Storey Mountain" (Ngọn núi bảy tầng), Thomas Merton mô tả lại bước đầu tiên
trong tiến tŕnh hối cải của chàng. Ngay khi vừa tốt nghiệp trung học, Thomas đă
đi du lịch một ḿnh qua Âu Châu và sống một cuộc sống hơi buông thả. Một đêm nọ,
chính trong căn pḥng chàng. Thomas bỗng nhiên ư thức được tội lỗi của ḿnh.
chàng viết: "Toàn bộ sự việc xảy ra nhanh như chớp… Bỗng dưng một nhận thức sâu
xa về nỗi bất hạnh và sự hư hỏng của linh hồn ḿnh xâm chiếm hoàn toàn thân tôi.
Tôi vô cùng ghê tởm những ǵ tôi trông thấy… và linh hồn tôi ao ước trốn thoát
khỏi tất cả điều ấy một cách mănh liệt và cấp bách mà trước đó tôi chưa hề bao
giờ cảm thấy như thế".
Merton nói rằng đó là lần đầu tiên chàng đă cầu nguyện, cầu
nguyện thực sự. Chàng cầu xin Chúa, Đấng mà trước đó chàng chưa hề biết, xin
Ngài tự trời ngự xuống giải thoát chàng khỏi quyền lực xấu xa đă cầm giữ tâm hồn
chàng trong ṿng nô lệ.
Câu chuyện về Thomas Merton minh hoạ về sự hối cải của người con
thứ trong câu chuyện Phúc âm hôm nay. Đồng thời nó cũng minh họa cho sự hối cải
mà tiên tri Êdêkien nhắc đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.
Điều ǵ đă khiến cho người ta hối cải giống như trường hợp của
đứa con thứ trong Phúc âm hôm nay, hay giống như Thomas Merton trong câu chuyện
trên?
Cách đây nhiều năm, các lư thuyết gia chính trị thường phác thảo
những bước cần thiết cho một cuộc cách mạng trong một nước.
Bước thứ nhất là tạo ra tâm lư bất măn tận căn nơi dân.
Bởi v́ thiên hạ chỉ nghĩ đến việc đổi thay nếu họ cực kỳ bất măn với t́nh cảnh
hiện tại của họ. Điều này cũng đúng xét về b́nh diện từng cá nhân. Người ta chỉ
lưu tâm thay đổi cuộc sống riêng khi nào họ bất măn với hiện trạng cuốc sống ấy.
Chúng ta thấy rơ điều này trông trường hợp của Thomas Merton. Chàng đă bất măn
sâu xa với cuộc sống ḿnh. nói cách khác, bước đầu tiên trong tiến tŕnh hối cải
là bất măn với cuộc sống của chính ḿnh. "Bước nảy lửa" trong đời Thomas Merton
chính là điều chàng kinh nghiệm được trong căn pḥng khách sạn của chàng. Nói
theo ngôn ngữ thần học, đó là lúc ân sủng Chúa tuôn xuống.
Bước thứ ba là thực hiện một điều cụ thể đầu tiên hướng
về một cuộc sống mới. Chúng ta cũng thấy điều này nơi cuộc đời Thomas Merton.
Ngay sáng hôm sau, sau khi có được cái kinh nghiệm đă xảy ra trong căn pḥng
khách sạn, Thomas Merton đă đi bộ ra ngoài ánh nắng ban mai. Tâm hồn ngài tan
nát v́ đau đớn và ăn năn. Nhưng đây là một cảm giác tốt đẹp, giống như cái nhọt
được bác sĩ dùng dao giải phẫu.
Dù chưa phải là người Công giáo, Merton vẫn đi đến một nhà thờ
qú gối xuống và chậm răi đọc kinh Lạy Cha với tất cả niềm tin của ḿnh. Sau khi
cầu nguyện xong, Merton trở lại dưới ánh nắng mặt trời. Chàng cảm thấy như được
tái sinh. Trông thấy một bức tường thấp bằng đá, Merton liền ngồi xuống trên đó
ḷng hân hoan trong niềm an b́nh tâm hồn mới t́m gặp được. Trước đây chưa bao
giờ Merton có được sự an b́nh như thế.
Merton vẫn c̣n quăng đường dài phải bước trước khi hoàn tất cuộc
hối cải của chàng. Tuy nhiên chàng đă bắt tay làm một việc đầu tiên cực kỳ quan
trọng là hướng về một cuộc sống mới. Cần phải ghi nhớ rằng tất cả chúng ta vẫn
c̣n lữ hành trên đường hướng về sự hối cải trọn vẹn. Chẳng hạn, trong chúng ta
có một số người cần phải chiến đấu để từ những Kitô hữu b́nh thường trở thành
Kitô hữu tốt, một số khác cần phải cố gắng từ những Kitô hữu tốt trở thành những
Kitô hữu xuất sắc. Và số khác nữa th́ cố gắng từ những Kitô hữu xuất sắc trở
thành kitô hữu gương mẫu.
Khi b́nh luận về cuộc du hành bất tận của người kitô hữu hướng
về sự hối cải trọn vẹn, một thần học gia thế kỷ 19 người Đan Mạch tên là Soren
Kierkegaard đă nói: "Không hề có t́nh trạng đă thành một kitô hữu mà chỉ có t́nh
trạng đang trở thành một kitô hữu". Như thế, sự hối cải là một tiến tŕnh, là
một cuộc du hành đang tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết.
·
Bước thứ nhất trong cuộc du hành này là sự bất măn
tận căn với nếp sống hiện tại của chúng ta. Hăy nhớ lại Merton đă bất măn với
cuộc sống ḿnh như thế nào.
·
Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa
thúc giục chúng ta phải làm một điều ǵ đó cho cuộc đời ḿnh. Hăy nhớ lại cảm
nghiệm trong căn pḥng khách sạn của Merton.
·
Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực
kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Hăy nhớ lại Merton đă tới nhà thờ
để cầu nguyện ngay sáng hôm sau khi xảy ra cảm nghiệm trong căn pḥng khách sạn.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của
ḿnh. Chúng ta có cảm thấy bất măn về mối tương giao hiện tại giữa ḿnh và Chúa
Giêsu không? Chúng ta có ao ước thân t́nh sâu sắc hơn với Chúa không? Chúng ta
có muốn yêu thương gia đ́nh láng giềng chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu
yêu thương họ không?
Nếu có th́ các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để
biến thành ngọn lửa mà chúng ta cần thiết phải có để làm nên một điều ǵ cụ thể
cho các mối tương giao nêu trên.
Có
lẽ việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng hướng về cuộc sống mới là ra tŕnh diện
để được chữa lành trong Bí tích Cáo giải; là bắt đầu bỏ giờ ra nhiều hơn cho
việc cầu nguyện, là lưu tâm đến một số vấn đề gia đ́nh, chẳng hạn như tính hay
nóng nảy với con cái, đồng thời cầu xin Chúa Giêsu giúp chúng ta làm một điều ǵ
đó cụ thể ngay tức khắc để lướt thắng khó khăn ấy.
Đây
là lời mời gọi hướng đến đức tin mà chúa ngỏ với mỗi người chúng ta đang hiện
dịên nơi đây qua các bài đọc hôm nay.
Để
kết thúc, chúng ta hăy cầu nguyện:
Ôi giọng nói của Chúa Giêsu,
Xin hăy kêu gọi chúng tôi,
Khi chúng tôi lạc bước quá xa Ngài.
Ôi đôi mắt Chúa Giêsu,
Xin hăy mỉm cười nh́n chúng tôi
Khi chúng tôi cần Ngài khích lệ
Ôi đôi tay Chúa Giêsu,
Xin hăy xức dầu cho chúng tôi
Khi chúng tôi yếu đuối mệt mỏi.
Ôi cánh tay Chúa Giêsu,
Xin hăy nâng đỡ chúng tôi
Khi chúng tôi vấp ngă.
Ôi trái tim Chúa Giêsu,
Xin hăy giúp đỡ chúng tôi yêu thương nhau
Như chính Ngài đă yêu thương chúng tôi.
Lm. Mark Link, S.J.
Chúa NhẬt 26
Mùa ThưỜng Niên
Lm Augustine S.J.
Một phụ nữ đă thú thật về đời sống đạo của ḿnh như sau:
Giống người con thứ hai hay người con thứ nhất? Hoặc giống cả hai?
"Tôi sinh ra trong một gia đ́nh đạo gốc nên vốn là một tín hữu
không những siêng năng giữ đạo mà c̣n hăng say đối với việc thăng tiến xă hội
như về công bằng và b́nh đẳng. Quả thật tôi là một "Kitô hữu tốt lành" như người
ta vẫn nói. Nhưng đức tin của tôi từ từ tan ra không thiếu lư do để tôi dễ dàng
bỏ lễ Chúa Nhật; Thánh Thể không lâu đă trở nên biểu tượng mà thôi. Trong khi đó
tôi chống lại tất cả những ǵ có hại cho tự do, đồng thời nhiệt thành bảo vệ
quyền phá thai.V́ người em dâu đon đả mời tôi đi dự mấy ngày họp Tổ Ấm gọi là
Thành Phố của Đức Maria, tôi cũng ṭ ṃ đi coi thử. Trải qua hai ngày ở đó tôi
chẳng thấy những đề tài nói về đức bác ái và t́nh yêu có liên quan ǵ đến tôi
cả.
Nhưng chiều ngày hôm đó khi đọc cuốn sách do chị Lưu Bích viết dưới nhan đề Lấy
Đức Bác Ái Làm Lư Tưởng tôi bỗng giật ḿnh như do một cú sét đánh! Khi ấy như có
một tấm màn bị đánh toạc ra cho tôi thấy tôi là ai và Thiên Chúa là ai. Khi ấy
tôi mới hiểu đức bác ái chính là Thiên Chúa, nghĩa là khác hẳn với tất cả cách
tôi từng sống. Đó là lúc tâm hồn tôi như được chiếu sáng do một luồng sáng tỏa
ra trên tất cả những ǵ cần được đổi thay nơi tôi. Cùng lúc, tôi thoáng thấy
Thiên Chúa thực sự thương tôi bằng một t́nh yêu bao la ngay trong hoàn cảnh tôi
vẫn chỉ là tôi từ trước tới nay. Trong khi vẫn ư thức về những thiếu sót và tội
lỗi của tôi, tôi thấy nổi dậy nơi tôi ḷng ước ao mănh liệt để nói lên với Chúa
một lời xin vâng lập tức và tận căn, khả dĩ quét sạch đi tất cả và cho tôi được
nhập vào sức mạnh toàn năng của t́nh yêu Thiên Chúa. Khi ấy Chúa cho tôi hiểu
được điều luật của Người là luật đ̣i tôi mỗi lúc phải bày tỏ một t́nh yêu luôn
phải mạnh mẽ hơn đối với mỗi người lân cận, cũng là điều luật mang lại cho tôi
sức mạnh có thể sống thứ t́nh yêu ấy.
Vậy tôi muốn bắt đầu ngay để yêu như vậy. Và người lân cận gần tôi hơn cả chính
là chồng tôi. Khi ấy chồng tôi đă muốn ly dị và từ ít lâu nay hầu như không c̣n
ở nhà nữa. Nhưng v́ rất gắn bó với các con nên chồng tôi thường đến thăm chúng
hoặc đem chúng đi với ḿnh.
Ngày hôm sau khi đi họp Tổ Ấm về, vừa nghe chồng tôi bấm chuông ngoài cửa, tôi
cảm nhận thấy có tiếng nói trong tôi: "Thực hành đi nào, hăy bắt đầu yêu đi."
Vậy tôi đă nhoẻn một nụ cười và đă đề nghị chồng tôi tháp tùng mẹ con đi dự một
buổi sân khấu ngoài trời cách đó ít bữa. Điều ngoại thường là chồng tôi đă chấp
nhận lời mời; đó là điều tôi chẳng ngờ, và đó là bước đầu được ghi nhận về cuộc
sống chung trở lại, với lư do v́ các con và cho các con của chúng tôi. Đó là
điều chẳng dễ dàng đối với chồng tôi cũng như đối với bản thân tôi, nhưng khi ấy
tôi cảm thấy mỗi lần tôi "thất bại" tức là cảm thấy tôi không thể yêu
chồng tôi được, th́ Thiên Chúa có đó để giúp tôi bắt đầu yêu trở lại. Tôi chỉ
cần lắng nghe tiếng Chúa nói trong tôi và thưa "xin vâng" với Người. Khi
ấy tôi cảm thấy thực sự nơi tôi một sức mạnh làm mất đi tính hung hăng cũng như
sự mất kiên nhẫn của tôi. Đó là sức mạnh cho tôi sự thèm khát để yêu với đà trớn
trơn tru hơn. Chính việc đặt ḿnh vào sự sẵn sàng để yêu, khiến tôi chú ư hơn để
nghe tiếng nói của Chúa vang dội nơi tôi.
Trọn cuộc sống của tôi bắt đầu bật sáng lên và được thống nhất. Tôi không c̣n
nh́n với cái nh́n phân chia thành những lănh vực dành riêng cho Thiên Chúa tách
rời khỏi những lănh vực dành riêng cho thế gian. Chẳng có ǵ hiện hữu mà không
để qui về Người. Trong chọn lựa loại đó mà tôi phải h́nh thành rồi luôn phải lập
lại mỗi ngày, đó là chọn để đặt Thiên Chúa lên trên hết trong đời tôi. Xem ra
tôi được thấy mỗi ngày rơ nét hơn rằng tất cả những người Chúa giao phó cho tôi
cũng như tất cả những việc tôi phải thực hiện, đều được chứa đựng nơi Người.
Chính khi đặt ḿnh lắng nghe tiếng Chúa nói nơi tôi, tôi nghiệm được b́nh an và
niềm vui để thông chia cho người khác. Trong gia đ́nh tôi một bầu khí mới xuất
hiện.
Cần phải xóa ḿnh đi
Vậy Chúa cho tôi hiểu rằng tôi cần phải xóa ḿnh đi trong tương
quan với chồng tôi để có thể bày tỏ t́nh thương của tôi đối với một đứa con trai
nghiện ngập nặng nề lâu năm rồi. Có như vậy mới tạo được cái mới tích cực giúp
cho việc chữa trị đứa con đáng thương.
Không lâu sau đó, con tôi được đặt trước một lựa chọn về nơi ở, lựa chọn ấy sẽ
cho thấy rơ nó có muốn thoát ra khỏi t́nh trạng nghiện nghập chăng. Khi ấy tôi
đă t́m người để tâm sự mà chẳng t́m được ai. Tôi thực đă nghiệm được chút nào
tâm trạng của Mẹ Maria một ḿnh dưới chân thánh giá! Quả thật, về phần tôi, tôi
chỉ c̣n biết phó thác con tôi nơi ṿng tay của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Tôi
đă không thất vọng v́ chiều hôm đó tôi đă nhận được cú điện thoại báo tin mừng
là con tôi đă chọn đúng hướng!
Thế là tôi được củng cố trong sự sống hoàn toàn mới. Sự sống phát xuất do tiếng
Thiên Chúa vang dội trong tâm hồn tôi đưa tôi thoát ra khỏi nếp sống cũ. Nơi tất
cả những điều đáng sống, giữa mọi khó khăn, giữa những chọn lựa tôi phải đảm
nhận, chính Thiên Chúa là Đấng cho tôi ḷng khao khát để yêu trong cụ thể cũng
như sức mạnh để thể hiện ḷng khao khát đó giữa những khó khăn mà không sờn
ḷng.
Thử hỏi người phụ nữ vừa chia sẻ về ơn biến đổi nàng nhận được, có dáng dấp như
nhân vật người con trai thứ nhất hay người con trai thứ hai của bài Tin Mừng hôm
nay?
Buộc tội giới lănh đạo Do Thái Giáo
Tác giả Mátthêu đặt bài Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh những
cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và giới lănh đạo Do Thái Giáo tại Giêrusalem, mà
cuộc tranh luận đầu tiên được nêu là "Ông lấy quyền nào mà làm những điều ấy?"
(Mt 21,23). Họ có ư vặn hỏi Đức Giêsu về quyền bính dựa vào đó Người đuổi những
người buôn bán ra khỏi khu vực đền thờ và đứng lên giảng dạy dân chúng
(21,23tt). Đáp lại, Đức Giêsu vặn hỏi lại các thượng tế và kỳ mục về chính niềm
tin trong ḷng họ: Họ có tin phép rửa của ông Gioan do Trời chăng? Nếu tin th́
tại sao họ không chịu phép rửa của Gioan? Thấy họ câm lặng không trả lời được,
Đức Giêsu tuyên bố: "Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền
nào mà làm các điều ấy." (c.27). Kế đến, Người nói dụ ngôn hai người con
trong Tin Mừng hôm nay buộc tội giới lănh đạo Do Thái Giáo (cc.28-32) trước khi
tuyên bố h́nh phạt dành cho họ (cc.33-43) và cho thấy h́nh phạt đó được thi hành
như thế nào (22,1-14).
Dụ ngôn hai người con thừa nhận công cuộc rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên
Chúa là mấu chốt của lịch sử Do Thái Giáo. Cũng như người con thứ nhất ban đầu
từ chối lệnh truyền của bố nhưng sau đă hối lỗi và vâng lệnh (c.29), th́ những
người thâu thuế và gái điếm đă hành xử y như vậy (c.31), bởi lẽ hiện họ đang đổi
đời theo lời dạy của Đức Giêsu hầu gia nhập Nước Thiên Chúa. Ngược lại, người
con thứ hai hứa vâng lệnh bố, nhưng rồi lại không vâng theo (c.30). Các thượng
tế và kỳ lăo đă hành xử y như người con thứ hai này v́ họ từ chối sứ điệp về
Nước Thiên Chúa do Đức Giêsu công bố, mặc dầu họ từng được dân chúng nh́n nhận
là những nhà lănh đạo tôn giáo và từng khinh chê lớp người thâu thuế và gái
điếm.
Áp dụng hôm nay
Đúng ra người phụ nữ vừa chia sẻ cho chúng ta biết về ơn biến
đổi nàng nhận được chẳng thể giống nhân vật nào trong dụ ngôn nguyên thủy về hai
người con, bởi lẽ theo lời chia sẻ, không có nhân vật đối chọi với nàng. Nhưng
ban đầu nàng có dáng dấp là nhân vật người con thứ hai của bài Tin Mừng ở chỗ
nàng thuộc gia đ́nh đạo gốc, không những siêng năng giữ đạo mà c̣n hăng say hoạt
động cho thăng tiến công bằng. Thế nhưng sau nàng đă để cho đức tin của ḿnh suy
thoái, giống như người con thứ hai ban đầu vâng lệnh bố, nhưng sau lại không
vâng lệnh. Đó là lúc nàng trở nên giống như người thâu thuế hoặc gái điếm tức
người con thứ nhất trong bài Tin Mừng. Và thật là hạnh phúc cho nàng v́ được Tin
Mừng Đức Giêsu đụng chạm tới nội tâm và hoán cải nàng. Đó là khi nàng đọc cuốn
Lấy Đức Bác Ái Làm Lư Tưởng do chị Lưu Bích viết. Tâm hồn người phụ nữ này như
được chiếu sáng do một luồng sáng toả ra trên tất cả những ǵ cần được đổi thay
nơi nàng. Điều quan trọng là nàng đă muốn bắt đầu ngay để yêu, tức là nhập vào
sức mạnh toàn năng của t́nh yêu Thiên Chúa. Nhờ vậy nàng không những đă nhập
Nước Thiên Chúa nhưng c̣n đạt được nhiều tiến bộ, ảnh hưởng tới hạnh phúc của
các con và cả người chồng trước kia đă muốn ly dị nàng.
Một số câu hỏi gợi ư
1.
Bạn nghĩ người phụ nữ chia sẻ ở trên có dáng dấp giống như người con thứ
nhất ở điểm nào và giống người con thứ hai ở điểm nào theo bài Tin Mừng hôm nay?
2.
Bạn hiểu thế nào về những điều người phụ nữ ấy chia sẻ
sau đây: "Khi ấy tôi mới hiểu Đức Bác Ái là chính Thiên Chúa, nghĩa là khác
hẳn với tất cả cách tôi từng sống"? "Tôi thấy nổi dậy nơi tôi ước ao mănh
liệt để nói lên với Chúa một lời xin vâng lập tức và tận căn khả dĩ quét sạch đi
tất cả và cho tôi được nhập vào sức mạnh toàn năng của T́nh Yêu Thiên Chúa"?
Bạn có ư kiến khác?
Lm Augustine S.J.
HĂY BẮT TAY VÀO VIỆC
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường nói nhiều mà làm ít, giữa lư thuyết
và thực hành c̣n một khoảng cách lớn, v́ thế mới có câu nói :”năng thuyết bất
năng hành”, đúng là làm láo, báo cáo hay. Lư thuyết có hay mấy mà không
được thực hiện th́ cũng không có giá trị.
Trong đời sống đạo cũng thế, chúng ta cần biết Chúa, cần thông hiểu giáo lư v́
“vô tri bất mộ” mà. Như thế cũng chưa đủ, c̣n phải đem cái biết ra thực hành
trong đời sống hằng ngày nữa. Chúa Giêsu đă nói :”Ai yêu mến Thầy th́ hăy
giữ lời Thầy” mà “giữ lời Thầy” th́ có nghĩa là hăy thực hành những điều
Thầy dạy, là làm theo ư Thầy. Bài dụ ngôn về “Hai người con” trong Tin mừng hôm
nay đă chứng tỏ điều đó.
Người ta thường nói :”Trăm voi không được bát nước sáo” (Tục ngữ).
Câu này mang tính chất mỉa mai, ngụ ư chê những người ba hoa khóac lác, hứa hẹn
suông, nói th́ to tát, mà rốt cuộc chẳng có ǵ, họ là người biết nói mà không
biết làm. Có những người xưng ḿnh là Kitô hữu, nhưng họ chỉ có cái tên, cái mă
bề ng̣ai, c̣n cuộc sống của họ chẳng có ǵ cả, có khi c̣n ngược lại. Hăy sống
trung thực với ḷng ḿnh. Hăy sống cho xứng đáng là một Kitô hữu chính danh để
cuộc sống của ḿnh lúc nào cũng phải “ngôn hành đồng nhất”.
I. T̀M HIỂU DỤ NGÔN.
1. Dụ ngôn về hai người con.
Các
thượng tế, kỳ hào, luật sĩ và biệt phái Do thái thường tự hào ḿnh là con cái
Abraham, đă từng giữ luật Maisen một cách cặn kẽ, thế nào cũng được phần thưởng
là Nước Trời. Theo họ nghĩ, Nước Trời được dành riêng cho người Do thái, c̣n các
dân tộc khác, những người ngoại giáo sẽ bị loại ra ngoài, nhất là những người
tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm.
Để
sửa đổi quan niệm sai lạc đó, Chúa Giêsu đă đưa ra cho người Do thái dụ ngôn về
hai đứa con. Người cha có hai đứa con, ông bảo đứa thứ nhất đi làm vườn nho cho
ông, lúc đầu nó từ chối, nhưng sau nghĩ lại, hối hận, lại đi làm. Ông cũng bảo
đứa con thứ hai như vậy, nó vui vẻ nhận lời, nhưng nó lại không đi làm. Chúa
Giêsu hỏi người Do thái, trong hai đứa con, đứa nào đă làm theo ư cha ḿnh ? Họ
đều cho là đứa con thứ nhất.
2. Ư nghĩa dụ ngôn.
Chúa Giêsu đă kết luận dụ ngôn này :”Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế
và gái điếm, sẽ vào Nước Trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Chúa Giêsu
đă nói thẳng với người biệt phái như lần này. Chính họ có lẽ cũng không ngờ.
Câu
đó có nghĩa là : các ông tưởng ḿnh thánh thiện trong sạch, giữ luật không trách
được điểm nào, c̣n người thu thuế các ông coi như cặn bă xă hội, những người mà
các ông cấm không cho đi chung đường với họ, coi như là những đàn bà dơ dáy đến
nỗi con cái Israel đi vô ư quệt phải áo họ th́ phải về tắm rửa đă. Các ngươi lầm.
Những người thu thuế và đĩ điếm mà các người miệt thị đến mức đó sẽ vào Nước
Trời trước các ông. Nói rơ là họ tốt hơn các ông.
Sự
thực đă xẩy ra : Lêvi (Mt 9,9) và người đàn bà tội lỗi (Lc 7,37) đă theo sống
bên Chúa, và biết bao người thu thuế đă tin lời Gioan (Mt 9,10 ; 11,19 ; Lc
3,12) trong khi đó th́ Hội đồng Cộng tọa chống đối Chúa t́m giết Chúa.
(Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm A, tr 236)
3. Con người thật và con người giả.
a) Thế gian có hai hạng người : thật và giả.
Người ta chia con người thành hai loại : tốt và xấu, thật và giả.
Nhưng làm sao có thể phân biệt một cách chính xác vềø hai loại người đó ? Ai là
người tốt hay xấu ? Ai là người thật hay giả ? Bởi v́ có những người bề ngoài
tốt lành thánh thiện mà trong ḷng th́ xấu xa, như người ta thường mỉa mai :
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao.(Truyện
Kiều)
Người đời xưa cũng như đời nay hay công kích những bậc tu hành,
những vị này sống khắc khổû, chay tịnh, tuân theo kỷ luật của giới ḿnh, là
những người đáng kính nể, nhưng trong nơi riêng rẽ kín đáo th́ lại phạm luật
trai giới, việc làm bị bại lộ, người đời không kiêng nể đă giáng trên đầu những
vị phá giới đó những câu không thương tiếc :
Nam mô,
Một bồ dao găm,
Một trăm con chó,
Một lọ mắm tôm,
Một ôm rau húng.
Một thúng rau răm.
Có
những người chỉ chú trọng đến cái dáng bên ngoài theo phương châm “tốt đẹp khoe
ra, xấu xa che lại”, nhưng chính cái họ khoe ra không phải là cái tốt thật bên
trong mà chỉ là lớp hào nhoáng bên ngoài, làm ḷe mắt mọi người, nhưng không bịt
được ai :
Khác nào quạ mượn lông công
Ngoài h́nh xinh đẹp trong ḷng xấu xa.(Ca dao)
Thế
giới ngày nay, quá ít người sống chân thật. Quá nhiều người sống mă nước sơn bên
ngoài. Họ không c̣n biết giá trị “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Lợi dụng nhược điểm
này, nghệ thuật tuyên truyền quảng cáo tràn ngập thị trường. Hàng giả, hàng
giỏm, đẹp mă, bán chạy như tôm tươi. Hàng thật, hàng tốt th́ lại ế ẩm không ai
mua. Người tài đức bị liệng bỏ. Kẻ vô tài thất đức, lẻo mồm tâng bốc nịnh hót
th́ lên như diều, để rồi “làm láo , báo cáo hay” :
Trông anh như thể sao mai,
Biết rằng trong có như ngoài hay không. (Ca dao)
b) Kitô hữu thật hay giả ?
Theo bài đọc 1 hôm nay, th́ tiên tri Ezéchiel cho biết, tiên tri thật th́ ít,
tiên tri giả th́ quá nhiều. Họ làm nhiều người công chính, bỏ đàng công chính
của Thiên Chúa đi theo tà thần đế quốc Babylon để kiếm danh lợi. Tiên tri
Ezéchiel đă phải quyết liệt cảnh cáo họ :”Khi người công chính bỏ đàng công
chính mà làm điều gian phi...th́ nó phải chết”. Đồng thời ông cũng kêu gọi :”Kẻ
bất luơng bỏ đàng bất lương, mà thi hành người công chính th́ nó sẽ được sống”.
Ngày xưa có nhiều tiên tri giả, ngày nay không c̣n tiên tri nữa th́ lại có Kitô
hữu giả. Họ mang danh là Kitô hữu nhưng cuộc sống thực tế của họ không c̣n là
Kitô hữu nữa. Có nhiều người cố gắng làm ra vẻ bề ngoài là Kitô hữu nhưng cuộc
sống riêng tư của họ không c̣n là Kitô hữu chính danh nữa, v́ họ không c̣n sống
theo luật Chúa nữa. Có thể họ sẽ nói rất hay về đạo đức nhưng trong thực tế họ
không sống đạo chút nào. Họ chỉ có cái vỏ bề ngoài là đạo nghĩa.
Muốn trở thành người Kitô hữu chính danh th́ cần có sự “Hối cải”, v́ như triết
gia Soren Kierkegaard, th́ “không hề có t́nh trạng đă thành một Kitô hữu mà chỉ
có trong t́nh trạng đang trở thành một Kitô hữu”.
Theo Mark Link th́ sự hối cải chỉ là một tiến tŕnh, là một cuộc du hành đang
tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết. Tiến tŕnh này gồm ba bước :
- Bước thứ nhất trong tiến tŕnh này là sự bất măn tận căn với nếp
sống hiện tại của chúng ta..
- Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa thúc giục chúng ta
làm điều ǵ đó cho cuộc sống ḿnh.
- Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng là
hướng về một cuộc sống mới, nhờ sự cầu nguyện kiên tŕ.
Các
bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của ḿnh. Chúng ta có cảm
thấy bất măn về mối tương giao hiện tại giữa ḿnh và Chúa Giêsu không ? Chúng ta
có ao ước thân t́nh sâu sắc với Chúa không ? Chúng ta có muốn yêu thương gia
đ́nh láng giềng của chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu yêu thương họ không
?
Nếu
có th́ các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để biến thành ngọn lửa
mà chúng ta cần thiết phải có để làm nên một điều ǵ cụ thể cho các mối tương
giao trên.
(x. Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 289).
II. TRỞ THÀNH KITÔ HỮU THỰC THỤ.
1. Tránh tính phô trương.
Chúa
Giêsu đă nhiều lần lên án thói phô trương của đám luật sĩ và biệt phái. Ngài
không ngại gọi họ là rắn độc, mồ quét vôi trắng. Chúa khuyên họ hăy lo làm đẹp
cái bên trong chứ đừng chỉ lo cái bên ngoài :”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật
sĩ và biệt phái ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng
bên trong th́ đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên
ngoài th́ có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả h́nh
và gian ác”(Mt 23,27).
Cái
tính phô trương này xuất hiện trong khi người ta không để ư đến bởi v́ nó được
ngụy trang bằng nhiều cách. Nhưng giấu đầu hở đuôi, sự phô trương cũng bị lộ ra
một cách bất ngờ.
Truyện : Ông Diogène và ông Platon.
Platon hồi ấy là người yêu nghệ thuật. Nhà ở của ông được trang trí bằng nhiều
bức thảm qúi đẹp. Một hôm, DIOGENE, - người chủ trương sống màn trời chiếu đất,
đầu đường xó chợ -, tới thăm Platon. Tới nơi, mặt đỏ gay, con mắt trợn trừng,
ông ta vừa đạp th́nh thịch lên tấm thảm qúi của Platon, vừa nghiến răng nói :
- Ta chà đạp dưới chân tính phô trương kiêu hănh của nhà ngươi.
Ông Platon b́nh tĩnh trả lới :
- Phải, và với một sự phô trương kiêu hănh sâu rộng hơn nhiều.
Th́
ra đời sống bên ngoài đầy quảng cáo của Diogène không đi đôi với đời sống bên
trong. Nhà quân tử cũng mắc phải chứng bệnh phô trương như ai.(Vũ minh
Nghiễm, Dừng, 1962, tr 207).
2. Sống trung thực với ḷng ḿnh.
Chúa Giêsu đă nói :”Có th́ nói có, không th́ nói không, thêm thắt là do ḷng
xấu mà ra”. Biết thế, nhưng con người vẫn phô trương, mà phô trương là phô ra
ngoài những cái ḿnh không có, ví dụ các luật sĩ và biệt phái, họ chỉ có cái vỏ
bề ngoài, c̣n bên trong th́ trống rỗng.
Phải sống trung thực với ḷng ḿnh, phải làm sao cho “ngôn hành đồng nhất”, lời
nói và việc làm không được mâu thuẫn nhau. Nhiều người nói th́ rất hăng nhưng
khi làm th́ chẳng thấy đâu, họ giống như đứa con thứ trong dụ ngôn hôm nay. Lời
nói không có giá trị khi không có việc làm kèm theo :”Đức tin không có việc làm
là đức tin chết”. Nói mà không làm th́ sẽ bị người ta chê cười :
Nói th́ đâm năm chém mười,
Đến khi tối trời chẳng dám ra sân. (Tục ngữ)
Người ta đánh giá trị một người không phải ở lời nói nhưng là việc làm. Có một
khoảng cách xa giữa lời nói và việc làm, cũng như giữa lư thuyết và thực hành :
một lư thuết dù hay mấy mà không đem ra thực hành th́ cũng vô ích. V́ vậy mà
người ta nói :”Năng thuyết bất năng hành”, chỉ nói mà không làm.
Truyện : anh chàng Aristogiton.
Aristogiton hồi ấy lúc thanh b́nh, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa
trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ vơ những đức tính anh
hùng kiêu hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn
tượng như chàng đang tuyên chiến với tất cả các cường quốc trên thế giới.
Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước
đi khập khiễng, tay chống gậy, chân th́ băng bó, trông thảm năo vô cùng.
Biết rơ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói :”Aristogiton đă làm một
người què lại c̣n hèn nhát”.
Theo các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể rút ra được hai bài học :
1. Giá trị của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi
của người đó, mà hệ ở hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không.
Theo bài đọc 1 :”Khi người công chính bỏ lẽ công chính của ḿnh và làm điều bất
chính mà chết, th́ chính v́ điều bất chính nó đă làm mà nó phải chết. C̣n nếu kẻ
gian ác từ bỏ điều dữ nó đă làm, mà thi hành điều chính trực công minh, th́ nó
sẽ cứu được mạng sống ḿnh... nó không phải chết”.
2. Giá trị thực của con người không do những lời nói tốt đẹp người đó
nói ra, mà do hành động của người đó :”Trong hai người con đó, ai đă thi hành ư
muốn của người cha ? Họ trả lời : “Người thứ nhất””. V́ Thiên Chúa theo đường
lối như thế cho nên Ngài đă ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi như
Giakêu, Mađalena, tên trộm lành...
Phần chúng ta đă biết đường lối của Thiên Chúa là như thế, chúng ta phải làm sao
?
- Đừng nghĩ rằng ḿnh đang thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong
ảo tưởng đạo đức về ḿnh.
- Cũng đừng cho rằng ḿnh thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi
buông xuôi cho ḍng đời lôi cuốn. (x. Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 491-492)
Hăy
sống trung thực với ḷng ḿnh. Hăy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho
ḿnh xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của ḿnh toả ra
mùi thơm tho nhân đức v́ “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô
trương, tự cuộc sống của ḿnh đă minh chúng điều đó :
Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
Trúc xinh trúc mọc đầu đ́nh,
Em xinh em đứng một ḿnh cũng xinh.(Ca dao)
Chúng ta hăy cầu xin Chúa ban cho chúng ta có một tâm hồn và thể xác xinh đẹp
như lời cầu của nhà hiền triết Aristote :
“Lạy các thần thánh
Xin cho tôi được xinh đẹp bên trong.
Xin cho mọi sự tôi có ở bên ngoài
đều thuận lợi cho vẻ đẹp của hồn tôi”.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
NgưỜi
vâng lỜi đích thỰc
Mt 21, 28 – 32
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
Đối với Thiên Chúa sự trung tín, ḷng chân thành và sự công chính thánh thiện
không chỉ được nằm trên đầu môi chóp lưỡi mà phải được thể hiện bằng việc làm cụ
thể. Tin Mừng hôm nay và hai bài đọc cho chúng ta thấy rơ ai là người thực hiện
ư của cha ḿnh và ai là người chỉ có hứa suông hứa cuội. Tin Mừng Mt 21,28 – 32
cho biết người làm vừa ḷng cha là người vâng lời và thực hiện lời của cha, chứ
không phải chỉ hứa làm mà không làm theo ư của cha.
Ư TƯỞNG CÁC BÀI ĐỌC CHÚA NHẬT HÔM NAY:
Ngôn sứ Ê-dê-kiên trong đoạn 18, 25-28 viết: tư tưởng và đường lối của con người
không phải là tư tưởng và đường lối của Chúa. Đường của Chúa và việc Ngài hành
động hoàn toàn công minh chính trực. Ngôn sứ Ê-dê-kiên nói rằng “ người con vâng
lời là người con làm theo ư của cha. Thiên Chúa là cha chúng ta và chúng ta là
con của Ngài. Do đó, Ngài gọi con người, mời gọi chúng ta đi theo con đường của
Ngài. Thiên Chúa c̣n mời gọi kẻ gian ác quay trở về, bỏ đường gian ác mà đi theo
đường công minh chính trực th́ Ngài sẽ cứu họ ban cho họ sự sống, họ không phải
chết. Vị ngôn sứ c̣n nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi người và đề cao sự hoán
cải của con người. Và để làm rơ tư tưởng của ngôn sứ Ê-dê-kiên, thánh Phaolô
trong thư gửi tín hữu Philip 2, 1-11 đă kêu gọi cộng đoàn Philip hăy hợp nhất
với nhau bởi v́ Chúa Kitô, là Con Thiên Chúa đă hiến thân v́ phần rỗi con người.
Đó là tấm gương mà mỗi người Kitô hữu chúng ta phải bắt chước quên ḿnh để phục
vụ tha nhân, phục vụ anh em. Thánh Phaolô đă viết:” Giữa anh em với nhau, anh em
hăy có những tâm t́nh như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy tŕ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đă hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân sống như người trần thế. Người lại c̣n hạ ḿnh, vâng lời cho đến nỗi bằng
ḷng chịu chết, chết trên cây thập tự “ ( Pl 2, 5 – 8 ). Chính v́ thế, người con
vâng lời phải có thái độ khiêm tốn, quên ḿnh, chỉ biết triệt để phục vụ và vâng
lời thực thi ư của cha cho đến hy sinh chính mạng sống của ḿnh. Bài Tin Mừng
của thánh Matthêu làm nổi bật ư nghĩa bài đọc I và bài đọc II. Thánh Matthêu
tŕnh bầy dụ ngôn hai người con, Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến việc vâng phục ư
của cha và thực thi ư của cha. Thánh sử cho đây là điều kiện thiết yếu để đạt
được Nước Trời, có Chúa làm gia nghiệp.
Ư NGHĨA CHÍNH YẾU CỦA ĐOẠN TIN MỪNG Mt 21, 28 – 32:
Tŕnh thuật cho hay cả hai người con đều được cha mời gọi làm việc cho cha trong
vườn nho. Người cha cũng hoàn toàn bầy tỏ cho hai người con biết họ đều là con
của cha. Điểm khác biệt ở đây là người con có làm hay không làm việc theo ư của
người cha. Thiên Chúa luôn yêu thương mọi người, không loại trừ bất cứ ai dù họ
là người Do Thái hay người ngoại. Ngài muốn cứu độ mọi người nhưng con người có
được cứu hay không là do mỗi người có làm theo ư của cha hay không làm theo ư
của cha. Dụ ngôn này được áp dụng cho hai hạng người Do Thái. Một hạng người cho
ḿnh là công chính, thánh thiện, đạo đức v́ họ giữ tỉ mỉ mọi lề luật như may dài
tua áo, tay đeo thẻ kinh, đi đâu cũng muốn cho người khác gọi ḿnh là thầy, là
bậc thông thái vv…Đó là người Pharisiêu, Kinh sư, các thầy thông luật, biệt phái.
Hạng người khác bị loại vào hạng thu thuế, tội lỗi, nghèo hèn. Dụ ngôn này người
con thứ nhất được coi như hạng thu thuế, tội lỗi, gái điếm. Họ bị đẩy ra khỏi lề
xă hội, bị khinh miệt. Tuy nhiên, họ đă thành tâm thống hối, quay trở về với
Thiên Chúa. Chính v́ vậy, Chúa đă nói một câu làm những người Pharisiêu, biệt
phái, thông luật cảm thấy trơ trẽn, kinh ngạc: ” Tôi bảo thật các ông; những
người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông “( Mt 21,
31 ). Chúa Giêsu ám chỉ người con thứ hai là các thượng tế và kỳ mục. Họ tự cao,
tự đại cho ḿnh là công chính nên họ đă không được vào Nước Trời. Tệ hơn nữa, họ
không tin Đức Kitô là Con của Thiên Chúa được sai đến trần gian để cứu độ trần
gian. Như thế, Nước Thiên Chúa thuộc về những người có ḷng tin. Tin vào Con
Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đă được Thiên Chúa cha sai tới trần gian để cứu độ
gian trần.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Chúa Giêsu đă làm gương cho con người, cho loài người, cho mỗi người. Người
không bao giờ rao giảng điều ǵ mà Người đă không thực hiện trước. Lời của Người
là lời hằng sống. Lời nói và việc làm của Người luôn đi đôi với nhau. Giữa cuộc
sống của Chúa và lời nói của Người không bao giờ có khoảng cách. C̣n các kinh sư,
biệt phái, thượng tế, họ nói nhiều mà không làm. Ngôn hành bất nhất. Do đó, Chúa
nói với các môn đệ và chúng ta: ” Ngôn hành phải đi đôi với nhau “. Nói mà không
làm giống như đứa con thứ hai trong dụ ngôn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong đời sống
thường ngày, chúng ta hăy bắt chước Chúa: ” …Cha tôi vẫn làm việc, th́ tôi cũng
làm việc “( Ga 5, 17 ) hoặc nói như thánh Giacôbê: ” Đức tin không có việc
làm là đức tin chết “ ( Gc 2, 26 ). Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ư cha:”
Lạy cha nếu được th́ xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ư con mà
theo ư của cha mà thôi “. Chúa luôn nói:” Không phải những ai kêu lạy Chúa,
lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời đâu, nhưng là kẻ làm theo ư Cha Thầy “ ( Mt
7, 21 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không
chưa đủ, mà c̣n phải làm theo ư của Chúa “. Amen.
GỢI Ư ĐỂ CHIA SẺ:
1.
Tại sao người con thứ nhất lại được Chúa chấp nhận
2.
Người con thứ hai tượng trưng cho hạng người nào
3.
Lắng nghe lời của Chúa không đă đủ chưa ? “. Phải làm ǵ ?
4.
Nước Trời thuộc về ai ?
5.
Tại sao Chúa Giêsu lại thích đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ
tội lỗi ?
Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
Thái
ĐỘ CẢnh TỈnh
Mt 21,28-32
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
H́nh ảnh Chúa Giêsu dùng để tŕnh bầy giáo lư của Ngài trong
chúa nhật hôm nay vẫn là vườn nho.Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin
Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối h́nh ảnh vườn nho,nghĩa là nước trời,Chúa Giêsu
muốn giới thiệu cho nhân loại.Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách
dí dỏm,thú vị, giúp mọi người hiểu được ư Chúa muốn nói. Người Cha trong trích
đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giầu ḷng thương xót, luôn chạnh
ḷng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi,yếu
đuối.Người cha một hôm nói với đức con cả: "Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp
cha nhé ". Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là
một lời mời gọi.
HAI THÁI ĐỘ CỦA HAI NGƯỜI CON
Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ư nghĩa của sứ điệp Tin
Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái
nghịch lư ở đây là người con cả nói "không", nhưng sau đó nghĩ lại và đi
làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đ́nh.Người con cả đă biết hy sinh lợi
ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đ́nh lên trên.
C̣n người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha "vâng, con sẽ đi ".
Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người
con thứ thưa "vâng" để nhằm mập mờ đánh lận con đen.Vâng, nhưng không
làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không
hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đ́nh và người ở
ngoài xă hội. Người con cả xác định lập trường của ḿnh, nói lên sự tự do của
con người ḿnh, nhưng cuối cùng người con cả đă biết vượt lên tất cả để chọn lựa
điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đ̣i
hỏi sự quả cảm và t́nh thương. Chính v́ có ḷng tốt,con tim nhậy cảm, ánh mắt
biết nói, nên người con cả đă làm theo ư cha của ḿnh. C̣n người con thứ chỉ
sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy ḷng của anh đă
hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đă biểu lộ thái độ của
ḿnh ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp
với lời Chúa Giêsu: "Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà
được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ư Chúa". Thánh ư Chúa
phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách
khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của ḿnh.
CH̀A KHÓA NƯỚC TRỜI
Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy
Lạp, La Mă, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định:
�Những người đĩ
điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi
�.Chúa Giêsu đă nói:"
Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc,nhưng là những kẻ ốm đau
".Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay
thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt
phái, luật sĩ,kỳ mục, thượng tế đă quan niệm Thiên Chúa như một vị quan ṭa ác
nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn
biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả h́nh, làm bộ. Họ
thích khoe khoang,tự măn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ
áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bầy đặt để bắt buộc
người khác làm,thực hiện chứ họ th́ hoàn toàn không làm ǵ hết như Chúa Giêsu đă
từng nói :...một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ
tự kiêu, tự măn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Ao
thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn vv?Đạo
như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa
Giêsu đă không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con
người để thưởng phạt, tất cả đều do t́nh thương nhưng không của Chúa. Ch́a khóa
dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn :"Hăy
hối cải v́ nước trời đă gần"( Mt 3,2 ).
Thái độ của con người sẽ làm chứng cho việc vào nước trời của họ v́ ơn cứu độ
của Chúa dành cho tất cả những ai biết mở ḷng đón nhận và tin tưởng vào cái
chết của Chúa Giêsu trên thập giá."Khi nào Ta được nâng cao khỏi đất, Ta sẽ
kéo mọi người lên cùng Ta ".
THÁI ĐỘ PHẢI CÓ
Theo Chúa là chấp nhận con đường hẹp.Thánh Phaolô đă có lần
nói:"Anh em có th́ nói có, không th́ nói không ". Theo Chúa,con người
luôn phải sống trong những trái ư của ḿnh. Theo Chúa là chấp nhận vác thập giá
mỗi ngày mà theo Chúa.Theo Chúa là chấp nhận không thỏa hiệp,cương quyết sống sứ
mạng của các ngôn sứ. Trong cuộc đời có nhiều trái ư,có nhiều điều chướng tai
gai mắt,thỏa hiệp là đi ngược với Tin Mừng. Theo Chúa,con người không được sống
giả h́nh,bề ngoài,nhưng phải sống với con người thật của ḿnh. Điều ǵ tốt ta
làm,điều ǵ xấu dứt khoát ta phải tránh xa.
GỢI Ư CHIA SẺ
1.
Anh chị có xác tín lời của thánh Phaolô tông đồ:có nói có,không nói không
?
2.
Anh Chị chọn thái độ nào ? Thái độ của người con cả hay người con thứ
?Tại sao?
3.
Theo Chúa anh chị có thích thỏa hiệp để được dễ dàng không ?
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
Chúa
NhẬt 26 mùa ThưỜng niên, A
Lm. Đaminh Trần Đ́nh Nhi
Ki-tô hữu chọn lựa lối suy nghĩ và hành động không theo lối của
thế gian, nhưng theo gương mẫu Chúa Ki-tô. Để thực hiện điều này, họ phải phấn
đấu với chính ḿnh, v́ bản chất con người không muốn bất cứ điều ǵ bất lợi cho
ḿnh. Do đó, rất nhiều khi họ nhủ ḷng theo đường lối Chúa, nhưng sự lôi cuốn
của lối sống người đời vẫn thắng thế. Tuy nhiên điều quan trọng là mỗi khi như
vậy, họ cố gắng hối cải, trở về với căn tính Ki-tô của họ và tiếp tục con đường
Ki-tô hóa chính ḿnh.
1. Sám hối là đường đưa đến sự sống (Ed
18:25-28)
Dân Ít-ra-en chưa hoàn toàn tin tưởng Thiên Chúa là Đấng giàu
ḷng thương xót và rộng lượng thứ tha, do đó họ cũng nghi ngờ luôn cả đường lối
của Người. Một lần nữa, qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa quả quyết là đường
lối của Người ngay thẳng và rơ ràng: từ bỏ lẽ công chính mà làm điều dữ sẽ dẫn
đến cái chết, c̣n bỏ điều bất chính mà làm điều lành sẽ đem lại sự sống. Chỉ có
một con đường và một sự chọn lựa đưa ta tới sự sống, đó là bỏ điều dữ mà thi
hành điều chính trực. Khi tạo dựng con người, Chúa ban cho ta quyền tự do lựa
chọn. Sự chọn lựa đầu tiên của con người, tức ông A-đam, đă để lại hậu quả là
tội tổ tông làm cho con người có khuynh hướng chọn điều trái thay v́ điều phải.
Con người dễ dàng phạm tội v́ bản chất yếu đuối. Tuy nhiên đối với Chúa, sự yếu
đuối không phải là xấu, trái lại để con người biết họ cần đến Chúa và ân sủng
của Người. “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo
hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 24:8-9).
Con người ai mà chẳng là “tội nhân” trước mặt Chúa. Nhưng trái lại, Chúa lại
“nghĩa nặng ân sâu” đối với tội nhân và muốn tội nhân đi con đường sám hối để
trở về với Người.
Con đường sám hối gắn liền với bản chất yếu đuối của ta, cho ta
thấy trước mặt luôn luôn là Chúa và sau lưng ta là quá khứ tội lỗi. Càng bỏ lại
sau lưng tội lỗi, ta càng gần Chúa hơn và Chúa càng lớn lên trong ta. Giá trị
Tin Mừng càng được trân quư và ảnh hưởng đến cuộc sống th́ thực tại Nước Trời
càng rơ rệt và vững chắc trong ta. “Nước Trời đă gần” có nghĩa là nó đang phát
triển ngay trong ḷng ta mỗi ngày một mạnh mẽ thêm. Để Nước Trời mỗi ngày một
gần ta hơn th́ sám hối là con đường ngắn nhất để ta đi tới. Sám hối là cả một
vấn đề phức tạp, cần phải nhận định rơ ràng t́nh huống để biết phải bắt đầu từ
đâu và tiếp tục mỗi ngày thế nào. Quyết định sám hối cần rơ ràng, không ôm đồm,
nhưng ngắn gọn và nhất là đúng với sức của ta. Năng xét ḿnh hoặc xét ḿnh hằng
ngày là phương thức hiệu quả nhất giúp cho sám hối được kết quả. Xét ḿnh hắng
ngày không chỉ là việc dành cho linh mục hoặc tu sĩ nam nữ, nhưng là cho mọi
Ki-tô hữu, để họ thấy được khoảng cách giữa họ với Chúa Ki-tô đă dần dần rút
ngắn được bao nhiêu. Thực hành sám hối đ̣i hỏi ta phải kiên tŕ và khiêm tốn,
v́ không phải là công việc của một ḿnh ta, nhưng giữa ta với ơn Chúa và Thánh
Thần. Kiên tŕ v́ việc từ bỏ một nết xấu đ̣i hỏi thời gian. Khiêm tốn v́ phải
chấp nhận những thiếu sót và giới hạn của ta, đồng thời nhận thức rằng với sức
riêng, ta sẽ không thể làm nổi.
2. Một câu truyện sám hối trong Tin Mừng
(Mt 21:28-32)
Đây chỉ là một câu truyện Chúa kể, nhưng không phải là truyện
tưởng tượng mà là truyện thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Hai người con
trai trong gia đ́nh kia đều được ông bố sai đi làm vườn nho. Người con thứ nhất
phản đối, không chịu đi làm. Nhưng rồi anh ta hối hận và lại đi làm. C̣n người
con thứ hai th́ vâng vâng dạ dạ, rồi cuối cùng anh ta làm ngược lại lời cha và
không chịu đi. Kết luận người con thứ nhất đă thi hành điều ông bố muốn. Điều
câu truyện muốn nhấn mạnh chính là việc người con thứ nhất ân hận v́ đă căi lời
cha và anh đă sửa lại lỗi lầm đó. Quả thực là một câu truyện hết sức đơn sơ nói
về sám hối và được áp dụng vào việc đón nhận Nước Trời.
Đón nhận Nước Trời là điều Thiên Chúa Cha muốn mọi người phải
làm. Người sai Con Một Người đến với ư độc nhất là để “bất cứ ai tin vào Con
của Người th́ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Kế hoạch sai
Con Một đến đă được báo trước bao nhiêu đời cho dân Chúa qua các ngôn sứ. Gần
đây nhất, đó là qua việc rao giảng của ông Gio-an Tẩy giả. Chính ông đă chỉ cho
người ta thấy Chúa Giê-su là “Đấng phải đến” theo điều các ngôn sứ đă báo
trước. Muốn đón nhận “Đấng Cứu Thế”, người ta phải bạt đồi kiêu căng, lấp thung
lũng tội lỗi, uốn nắn những quanh co của tâm hồn. Nhiều người nghe ông Gio-an
rao giảng đă từ chối, không muốn làm cuộc thay đổi như thế và luôn luôn cho ḿnh
là những người công chính không cần thay đổi. Trái lại tầng lớp người vẫn bị
coi là xấu xa tội lỗi như gái điếm và thu thuế th́ lại nghe lời ông Gio-an và
thực hành sám hối.
Một trong những điều khiến Chúa Giê-su băn khoăn nhất, đó là
thái độ cao ngạo và bướng bỉnh của những tư tế, Pha-ri-sêu và các kinh sư. Nói
nhẹ, nói nặng, Chúa Giê-su đă làm, ngay cả việc tố cáo thái độ giả h́nh, kiêu
căng của họ Chúa cũng không bỏ qua, miễn sao đưa họ về nấp dưới bóng cánh gà mẹ
của Thiên Chúa. Nhưng sám hối đối với họ là chuyện không đúng chỗ, v́ họ luôn
luôn coi ḿnh là những người công chính. Thật buồn thay. Chẳng những không
chịu nghe lời Chúa Giê-su, họ c̣n “t́m cách bắt người” để tiêu diệt (Mt 21:46).
3. Thánh Phao-lô xin anh chị em tín hữu hăy sám hối, thay đổi
lối sống (Pl 2:1-5)
Với địa vị người cha trong một gia đ́nh cộng đoàn dân Chúa,
thánh Phao-lô đă nhận thức được sự cần thiết của việc sám hối và ngài tha thiết
xin mọi phần tử trong cộng đoàn hăy thay đổi lối sống. Không nhiều th́ ít, lối
sống của tín hữu Phi-líp-phê vẫn c̣n chịu ảnh hưởng lối sống dân ngoại. Họ cần
phải thay đổi nhiều để sống sao cho xứng danh Ki-tô hữu đích thực. Nhưng biết
thay đổi ǵ đây? Do đó, thánh Phao-lô đă đưa ra một số điểm thực tế liên quan
tới đời sống cộng đoàn. Vậy điều ngài quan tâm hàng đầu đó là mầm mống chia rẽ
và chống đối nhau đă bắt đầu trong cộng đoàn Phi-líp-phê. Cần phải thay đổi
t́nh huống nguy hiểm này. Cho nên thánh Phao-lô đưa ra một vài mục tiêu cụ
thể: a) hăy có “tứ cùng”, cùng một cảm nghĩ, cùng một ḷng mến, cùng một tâm
hồn và cùng một ư hướng như nhau; b) hăy có ḷng khiêm nhường mà coi người khác
hơn ḿnh; c) đừng t́m lợi ích riêng, nhưng hăy mưu ích cho người khác. Đó là
tất cả những tâm t́nh ta gặp thấy nơi đời sống Chúa Ki-tô, Đấng đă trút bỏ vinh
quuang Thiên Chúa để cùng sống chung với ta. Giờ đây, muốn kiến tạo một cộng
đoàn yêu thương, ta cũng “hăy có những tâm t́nh như chính Đức Ki-tô Giê-su”.
Không phải chỉ là lời khuyên dành cho một cộng đoàn tín hữu xa
xưa, nhưng là cho mọi người mọi thời. Ta đang sống trong những cộng đoàn, nhỏ
là gia đ́nh, lớn hơn là giáo xứ, tu viện, lớn hơn nữa là giáo phận, Giáo Hội
toàn cầu và thế giới. Nhưng nếu mỗi người đều thay đổi để mang tâm t́nh của
Chúa Giê-su th́ quả thực Nước Trời đă đạt tới kết quả cánh chung của nó rồi và
muôn loài muôn vật đă được quy tụ trong Chúa Ki-tô và trong Thiên Chúa.
4. Sống Lời Chúa
Sám hối là điều khó thực hiện, nhưng không phải là không thể
làm. Trước hết ta nh́n vào mục đích để tiến tới. Mục đích là từ bỏ con người
tội lỗi để trở nên giống Chúa Ki-tô. Để từ bỏ tội lỗi, ta xét ḿnh hằng ngày để
kiểm điểm sự thay đổi tích cực trong lối sống. Để trở nên giống Chúa Ki-tô, ta
đọc và suy gẫm Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, để biết, yêu mến và làm môn đệ
Chúa. Sám hối là một tiến tŕnh liên tục, chứ không phải chỉ thực hành vào mùa
Chay. Với cố gắng riêng và nhất là với ơn thánh Chúa, chắc chắn ta sẽ thay đổi,
trở nên tạo vật mỗi ngày một mới hơn.
Suy nghĩ:
·
Đọc và suy gẫm Kinh Thánh giúp tôi khám phá được những tâm t́nh
nào của Chúa Giê-su?
·
Tôi có đem những tâm t́nh ấy vào đời sống của tôi không?
·
Việc xét ḿnh hằng ngày tôi có thực hành không? Việc ấy giúp ích
ǵ?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, t́nh thương Chúa thật
là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người; xin rộng t́nh tha
thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại,
ḷng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô,
Chúa chúng con. A-men.
Lm. Đaminh Trần Đ́nh Nhi
AI NGOAN NHẤT?
Lm Ansgar Pham Tĩnh
Xin phép bạn cho tôi được paraphrase bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay một
chút.
Các bạn nghĩ sao?Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ
nhất: "Này con, hôm nay con hăy đi làm vườn nho." Nó đáp: "Con không muốn đâu! "
Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như
vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây! " nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con
đó, ai là người con ngoan của ông chủ vườn nho?
Tôi đoán thế nào bạn cũng trả lời giống như những anh biệt phái: “Dĩ nhiên đó là
người con thứ nhất!”
Nếu vậy th́ bạn... lầm to! Trong hai anh con trai, chẳng có anh nào ngoan cả, cả
hai đều cứng đầu, bướng bỉnh và phạm tội không vâng lời cha ḿnh.
Bạn có biết tại sao cả hai người con lại không muốn đi làm vườn nho hay không?
Tôi nghĩ chắc chắn là tại v́ hai anh chàng này sợ “phải làm việc nặng nhọc cả
ngày, lại c̣n bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt. 20:12) cho nên mới ngần ngại không
muốn đi làm vườn nho như ư cha của hai anh muốn.
Bạn thân mến, khi lănh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, bạn và tôi, chúng ḿnh đă trở
thành con cái của Thiên Chúa, chúng ḿnh đều được sai đi làm vườn nho cho Ngài.
Thế nhưng, bạn và tôi cũng giống như hai người con trong dụ ngôn vậy! Chúng ḿnh
đều là những đứa con cứng đầu, bướng bỉnh và hay bất tuân lệnh của Cha. Chúng
ḿnh sợ phải làm việc nặng nhọc, và sợ bị nắng nôi thiêu đốt.
Giống như hai người con trai trong dụ ngôn, bạn và tôi thường có hai thái độ
trước giáo huấn của Giáo Hội:
·
Một là tỏ ra khó chịu, bất măn và phản kháng,
chống lại một cách công khai.
·
Hai là chỉ ậm ừ cho qua chuyện, ngoài mặt th́ vui
vẻ tỏ vẻ vâng lời nhưng trong thực tế lại dửng dưng, làm lơ, không thực hành.
- Tôi làm lơ và thậm chí bất tuân những lời dạy dỗ của Giáo Hội về những vấn đề
liên quan đến luân lư và đạo đức. Ví dụ như không được chung sống với nhau trước
khi làm lễ cưới, không được phép ly dị, không được xem phim có dính dáng
tới...Trư Bát Giới, không được dùng những phương pháp ngừa thai nhân tạo, không
được phá thai, không được thí nghiệm trên phôi thai người...
-
Tôi bực bội và làm lơ đến lời mời gọi của Chúa trong những thánh lễ ngày
Chúa Nhật và lễ buộc. Tôi lư luận rằng ở nhà tôi cũng tôn thờ Chúa, cũng yêu
Chúa được vậy? Làm việc cả tuần lễ tôi cần phải có thời gian để relax, enjoy,
nghỉ ngơi, đi shopping, đi câu cá, đi casino...
-
Tôi bất măn, phản đối và có khi nổi loạn v́ Giáo Hội khẳng định rằng phụ
nữ sẽ không được làm linh mục; khẳng định rằng noi gương Chúa Kitô, linh mục
phải sống đời sống độc thân để có thể chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng: một
là lập gia đ́nh hai là sống độc thân chứ không có cái kiểu bắt cá hai tay, vừa
muốn có vợ, lại vừa muốn thiên chức linh mục.
Bạn thân mến, bạn và tôi, chúng ḿnh đều là những người con bướng bỉnh đă và
đang bất tuân những lời dạy bảo, khuyên nhủ của Thiên Chúa qua những giáo huấn
của Giáo Hội. Chúng ḿnh hăy bắt chước anh con trai lớn: HĂY HỐI HẬN ĂN NĂN.
-
Chúng ḿnh hăy ăn năn sám hối v́ những lần chúng ḿnh bất tuân những giáo
huấn của Giáo Hội bởi v́ khi tôi phản đối quyền giáo huấn của Giáo Hội là khi đó
tôi bất tuân Thiên Chúa “Phê-rô, con là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây
Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho
anh ch́a khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều ǵ, trên trời cũng sẽ cầm
buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều ǵ, trên trời cũng sẽ tháo cởi như
vậy”(Mt. 16:18-19).
-
Chúng ḿnh hăy xin lỗi Chúa bằng cách đi xưng tội thường xuyên hơn, một
tháng một lần, đừng để 6 tháng hay 1 năm mới đến ḥa giải với Chúa. Mỗi lần đến
xưng tội là mỗi lần bạn và tôi lănh nhận được rất nhiều ơn thánh. Thiên Chúa vui
mừng và cả triều thần trên trời cũng vui mừng v́ một người tội lỗi như tôi cũng
như bạn ăn năn hối lỗi, quay trở về với Ngài (Luke 15:7).
ĐỪNG CHẦN CHỜ NỮA! HĂY ĂN NĂN, HỐI HẬN
V̀ NHỮNG LẦN CHÚNG M̀NH BƯỚNG BỈNH, CỨNG ĐẦU CỨNG CỔ, BẤT TUÂN LỜI GIÁO HUẤN CỦA
CHÚA QUA TRUNG GIAN LÀ GIÁO HỘI.
Lm Ansgar Pham Tĩnh
ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG
Lm Trần Thanh Sơn
Bài đọc 1: Ed 18, 25-28
Bài đọc 2: Pl 2, 1-11
Tin mừng: Mt 21, 28-32
Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, nằm trong phần
cuối sứ vụ tại thế của Đức Giêsu. Hiện tại, Ngài đă khải hoàn vào thành
Giêrusalem (x. Mt 21, 1-11). Khi thấy dân chúng buôn bán nơi đền thờ, Ngài đă
đánh đuổi họ (x. Mt 21, 12-17). Thấy thế, các Thượng Tế và niên trưởng trong dân
đă đến chất vấn Đức Giêsu: Ngài đă nhân danh quyền năng nào mà làm những việc đó.
Để trả lời, Đức Giêsu đă chất vấn lại họ về thái độ của họ đối với lời rao giảng
của Gioan Tẩy Giả (x. Mt 21, 23-27). Tiếp đó, Ngài nói tiếp ba dụ ngôn để nhắc
nhở về thái độ cứng tin của họ trước sứ điệp của Thiên Chúa.
Dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe hôm nay là dụ ngôn đầu tiên trong ba dụ ngôn đó.
Với dụ ngôn về hai người con này, Đức Giêsu muốn cảnh cáo thái độ cố chấp của
những người Luật sĩ và Biệt phái. Họ đă nghe lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, đă
nghe lời rao giảng và chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đă làm. Thế mà họ vẫn
không tin, thậm chí c̣n nhân danh niềm tin để âm mưu hăm hại Đức Giêsu. Điều đó,
cho thấy giữa lời tuyên xưng đức tin và hành động để chứng minh niềm tin của con
người có một khoảng cách đôi khi thật gần, nhưng lắm lúc cũng thật là xa.
Dụ ngôn hôm nay kể lại, người kia có hai người con. Ông đến nói với người con
thứ nhất đi làm vườn nho cho Cha. Người này nói “Không”, nhưng sau đó hối hận,
anh ta lại đi. C̣n người con thứ hai th́ ngược lại, anh ta mau mắn đáp lại: “Thưa
Cha, vâng, con đi”, nhưng cuối cùng anh ta lại không đi.
Trước hết, chúng ta cùng quan sát người con thứ hai. Anh ta khi nghe cha bảo đi
làm vườn nho, anh ta đă thưa “Vâng” thật mau mắn, nhưng cuối cùng anh ta chẳng
làm ǵ. Khi đọc đến đây, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta chê trách anh v́ đă
nói mà không làm. Tới đây, tôi nhớ một câu chuyện vui như sau:
Tại một giáo xứ nọ, cứ mỗi năm có một chủ đề sống. Chủ đề năm ấy là “Mau mắn
quảng đại chia sẻ cho người nghèo”. Vào cuối dịp tĩnh tâm đầu năm, Cha xứ muốn
mỗi người nói lên quyết tâm của ḿnh trong ngày đầu năm, Ngài hỏi:
-
Ông Hai! Ông có sẵn sàng sống bác
ái chia sẻ theo chủ đề của Giáo xứ không?
-
Vâng! Con nhất trí ạ!
-
Vậy, nếu ông có hai con
ḅ, ông sẽ góp quỹ tặng cho người nghèo một con chứ?
Ông Hai hiên ngang trả lời trước Cha
xứ và cộng đoàn:
-
Đương nhiên rồi thưa Cha!
-
Nếu ông có hai căn nhà,
ông hứa dâng một căn nhé!
-
Bảo đảm trăm phần trăm
với Cha.
-
Nếu ông có hai con gà,
ông sẽ nhường lại cho người nghèo một con gà, phải không?
-
Ồ, không được, thưa Cha.
Cha xứ ngạc nhiên hỏi:
-
Sao vậy? Tôi không hiểu. Sao năy
giờ, ông luôn nói đồng ư mà bây giờ, ông lại nói không?
Ông Hai thành thực thú nhận:
-
Những thứ trước, Cha hỏi, nhà con
không có, c̣n gà, nhà con có nhiều ạ!
Thế đó, ông Hai đă sẵn sàng nói sống bác ái,
nhưng với những ǵ không đụng chạm đến cuộc sống của ông. C̣n nếu việc bác ái đó
cần đến một sự hy sinh nào đó của chính bản thân, cho dù đó chỉ là một con gà,
th́ ông không dám. H́nh ảnh người con thứ hai và ông Hai trong câu chuyện trên
đây, có lẽ một cách nào đó, đây cũng là h́nh ảnh của tôi và quư ông bà anh chị
em. Chúng ta vẫn lớn tiếng tuyên xưng rằng ḿnh mến Chúa hết ḷng và yêu anh em
như chính ḿnh trong Nhà Thờ này, nhưng khi trở về trong cuộc sống, có lẽ tôi và
quư ông bà anh chị em chưa thực sự sống bác ái như Chúa muốn. Chúng ta c̣n quá
nhiều ganh tị, hờn ghét, lười biếng, đam mê và ích kỷ. Chúng ta c̣n để cho ḷng
tự ái và những điều thấy trước mắt lôi cuốn ḿnh. Chúng ta chưa sống đúng với
lời miệng chúng ta thưa với Chúa. Hay tắt một lời chúng ta nói nhiều mà chưa
sống được bao nhiêu.
C̣n người con thứ nhất mặc dù đă trả lời “Không”, nhưng sau đó, anh ta đă hối
hận và đă ra đi. Trong thân phận con người, với kinh nghiệm của bản thân, chắc
hẳn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, con người của chúng ta thật là yếu
đuối, bất toàn. Biết bao điều lầm lỡ, yếu đuối chúng ta không muốn mà chúng ta
vẫn làm (x. Rm 7, 15. 19. 24). Nhưng dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng
ta. Ngài vẫn chờ chúng ta trở về để cứu sống chúng ta, như lời Ngài nói qua
miệng ngôn sứ Êdêkien mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Nếu kẻ gian ác
bỏ đàng gian ác nó đă đi, và thực thi công b́nh chính trực, nó sẽ được sống. Nếu
nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đă phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết.”.
Người con thứ nhất đă nói “Không” trước lời mời gọi của Cha, nhưng sau đó
anh ta đă hối hận và ra đi làm vườn nho. Anh ta hối hận v́ anh nhận ra lời từ
chối của ḿnh đă làm cho Cha buồn, đă phụ lại với ḷng mong mỏi, yêu thương của
Cha ḿnh.
Như thế, bước đầu của việc trở lại đó là ḷng thống hối, hay đúng hơn để có thể
trở lại, chúng ta phải thật ḷng khiêm tốn, nhận rằng ḿnh là kẻ có tội, nhận
rằng ḿnh đang c̣n bất toàn, và thiếu thốn.
Có lẽ tới đây, lời Chúa hỏi những người đối thoại với Chúa cũng là đang hỏi tôi
và quư vị: “Các ông nghĩ sao? Ai trong hai người con đă làm theo ư Cha ḿnh?”.
Và câu trả lời của chúng ta chắc hẳn là: người con thứ nhất. Vâng, đúng như vậy,
ư của cha là đi làm vườn nho và anh ta đă làm đúng điều đó. C̣n những điều khác
không quan trọng.
Tuy nhiên, thái độ đẹp ḷng Cha hơn cả có lẽ đó là thái độ của người con thứ ba.
Người con mà bài Tin mừng hôm nay không nói đến, nhưng được thánh Phaolô mô tả
tỉ mỉ trong thư gởi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe. Người con đó chính
là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô nói: “Người tuy là thân phận Thiên Chúa,…
Người đă tự hạ ḿnh mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.”. Đó
mới đúng là người con đẹp ḷng Cha nhất. Người con này đă thưa: “Này con xin
đến, … để thi hành ư muốn Người, lạy Thiên Chúa” (Dt 10, 7) và đă thực hiện
mọi sự đúng theo ư muốn của Cha cho dù đó là chén thập giá: “Lạy Cha! Nếu Cha
muốn, xin cất chén này đi khỏi con! Song đừng cho ư của con, mà là ư của Cha
được thành sự!” (Lc 22, 42). Chính Chúa Cha cũng đă nhiều lần xác nhận: “Này
là Con chí ái Ta, kẻ Ta đă sủng mộ” (Mt 3, 17; x. Mt 12, 18; 17, 5).
Giờ đây, nhờ sự trợ lực của Thánh Thể, ước ǵ mỗi người chúng ta luôn sống theo
gương mẫu của Đức Kitô như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hăy cảm nghĩ
trong anh em điều đă có trong Đức Giêsu Kitô”. Nghĩa là chúng ta hăy can đảm
thưa “Vâng” trước lời mời gọi của Chúa và sống đúng với lời thưa vâng đó.
Như thế, Thánh Lễ không kết thúc ở Nhà Thờ này, nhưng sẽ được tiếp tục trong
suốt cuộc đời của chúng ta, trong đời sống vâng phục, chia sẻ, bác ái hàng ngày
của chúng ta. Amen.
Lm Trần Thanh Sơn
ThỨc
TỈnh TrỞ VỀ
Lm Nguyễn B́nh An
Trên đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha
đă khai sáng một lối suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội
tâm. Trong tác phẩm "Ngọn núi bẩy tầng" (The Seven Story Mountian) Thomas
Merton đă diễn tả ơn trở về đặc biệt của chính bản thân.
Lúc 20 tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. "Bỗng một đêm ở
Paris, tôi nhận ra cái t́nh trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của ḿnh trong
cơn ác mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng
lâm nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi qú xuống khẩn cầu. Đây là
lần đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu
khỏi sự dữ đang ḱm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đă ra tay thị uy và tạo cơ hội
cho tôi trở về". Khi 23 tuổi, Merton đă tin nhân và suy phục Chúa. Anh làm phóng
viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tṛn 26, anh giă từ nghề nghiệp, bố thí gia
sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gơ cửa xin gia nhập ḍng Trapist
tại Kentuckty. Chúa đă chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành một thầy ḍng
khổ tu. Thật lạ lùng!
Không hài ḷng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và
tranh đấu cho công bằng xă hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc.
Một là dấn thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đ́nh, học đường
và xă hội. Đây là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo hội c̣n
ghi đậm những nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô.
Hai là bất măn, chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết "thần
học giải phóng". Thuyết này đă được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù
hận vào tâm năo; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ
đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng,
chán chường.
Sống bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim t́m về tổ ấm và ra
khỏi ngơ cụt của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba
giai đoạn. Một là ư thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết
thăng tiến và thay đổi. Ba là dấn thân sống lư tưởng và hành hiệp trượng nghĩa.
Đây là ba chặng chuyển hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn
sinh. Merton, Phaolô, Mai Đệ Liên, Augustinô... đă thành công và trở thành những
"tín hữu thật" theo quan niệm của Soren Kierkegaard "Chưa có một tín hữu thật
sự trên đời, mà chỉ có tiến tŕnh trở thành một tín hữu". Quả vậy tâm t́nh
"ngại núi e sông" đang trói chặt chúng ta. V́ thế chúng ta c̣n tiếc xót đời tiện
nghi, ấm cúng, hạnh phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.
Phúc Âm hôm nay tra vấn, thức tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi giấc mơ tầm thường
của thế tục. Bạn nghĩ sao? Cải tử hoàn sinh để nhập vương quốc nước trời hay lết
lê kiếp sống tai bay vạ gió và miệt mài với cảnh nay c̣n mai mất!!
Lm Nguyễn B́nh An
Nó
HỐi HẬn và Đi Làm
Ed 18,25-28; Pl 2,1-11; Mt 21,28-32
Lm Bênađô Nguyễn Tiến Huân
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu lấy ví dụ người cha có hai con. Ông đến
nhờ đứa thứ nhất đi làm vườn cho ông. Nó trả lời rằng nó không đi, nhưng rồi sau
đó nghĩ lại hối hận, nó lại đi. Ông nhờ đứa thứ hai, nó trả lời nó sẽ đi làm
nhưng rồi lại không đi. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi các Thượng tế và Kỳ lăo Do thái:
"Ai trong hai người con đó đă làm theo ư cha ḿnh" và họ đáp "người
con thứ nhất" (Mt 21,31).
Chúa Giêsu dùng chính câu trả lời của họ mà kết luận về chính họ: "Tôi bảo
thật các ông, người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông"
(Mt 21,31). Tại sao vậy? Tại v́ họ cũng giống như người thứ hai, biết ư cha ḿnh
muốn và ngoài miệng th́ trả lời là làm theo, nhưng thực sự th́ không. Họ là "những
kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, c̣n ḷng th́ ở xa Người" (Mt 15,8). Mà
những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ư Người th́ không
thể vào Nước Trời: "Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước
Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ư Cha" (Mt 7,21)
Họ như cây vả xum xuê cành lá bên ngoài, nhưng không có trái là việc làm tốt,
nên bị nguyền rủa (Mt 21, 18-19). Họ là những kẻ mà Chúa Giêsu đă ca thán: "Tại
sao các ngươi kêu với Ta "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà điều Ta nói, các ngươi lại
không làm?" (Lc 6,46).
Gioan đến với họ trong đường công chính và bề ngoài th́ họ kính nể Gioan bởi nếu
không, th́ sẽ bị dân chúng ném đá (Lc 20,5-6), nhưng trong ḷng th́ không tin
ngài (Mt 21,32). Trái lại những người thu thuế và gái điếm vẫn bị coi là kẻ tội
lỗi, th́ như người con thứ nhất, biêt "hối hận và đi làm" (Mt 21,29)
Thực vậy, khi Gioan rao giảng th́ những người thu thuế đă thống hối xin chịu
thanh tẩy và c̣n hỏi cho biết việc phải làm: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm
ǵ?" (Lc 3,12) "Họ đă chấp nhận Thiên Chúa công minh, c̣n Biệt phái và
Luật sĩ đă khinh màng ư Chúa" (Lc 7,29). Khi cầu nguyện với Chúa, th́ ngược
hẳn với thái độ kiêu ngạo khoe khoang của Biệt phái, họ "Đứng đàng xa, không
dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con v́
con là kẻ có tội". (Lc 18,9-14). Họ biết thực hiện lời Chúa phán mà "bố
thí nửa phần gia tài cho kẻ khó và nếu có gian lận ai th́ đền gấp bốn".
C̣n những nguời gái điếm như người phụ nữ trong Luca 7,37-49 hay Maria Madalena
trong Luca 8,2, và bọn Biệt phái khinh khi kẻ tội lỗi (Lc7,39), đă biết thống
hối cải thiện đời sống theo ư Chúa muốn: "Họ đă tin Người. C̣n các ông (Biệt
phái), sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin Người".
(Mt 21,32).
"Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác th́ nó phải chết:
chính v́ tội ác nó phạm mà nó phải chết. Khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đă đi
và thực thi công chính th́ nó sẽ được sống" (Ezekiel 18,26-27- Bài đọc I) Đó
là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và đem ra thực hành trong đời sống Công Giáo
của chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con quyết vừa vâng nghe vừa làm theo thánh ư Chúa để đáng là
đức con hiếu thảo tận t́nh của Chúa.
Lm Bênađô Nguyễn Tiến Huân
NGUY CƠ TỰ MĂN
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
"Các ông nghĩ sao?". Ngay từ đầu câu chuyện, Chúa Giêsu đă đưa
ra lời hỏi đột ngột như một lời thẩm vấn buộc người nghe phải động năo, phải tự
đặt vấn đề cho ḿnh. Có thể nói lời hỏi đột ngột của Chúa Giêsu như muốn gây
giật ḿnh, cùng lúc lôi cuốn sự chú ư của người nghe vào trong câu chuyện mà
Người sắp nói nhằm giúp họ tra xét chính bản thân họ.
"Các ông nghĩ sao? Người kia có hai con trai". Cả hai con trai đều được ông sai
đi làm vườn nho. Nhưng các con của ông sao mà tính khí bất định, để rồi tiếng
vâng mà thực là không, tiếng không lại là vâng. Đứa thứ nhất trả lời không, cuối
cùng đi làm. Đứa thứ hai trả lời có, cuối cùng bất tuân. Dù tính cách và những
câu trả lời của những người con bất định đến thế, nhưng theo mạch văn của Tin
Mừng, đối với Chúa Giêsu, h́nh như cái làm cho chúng trở nên đúng hay sai, tốt
hay xấu, không thuộc về tính cách và càng không phải là lời những người con ấy
nói, nhưng là rốt cuộc chúng làm hay không làm theo ư của cha ḿnh.
"Các ông nghĩ sao?". Nếu ngày xưa Chúa hỏi những người đương
thời như thế, th́ hôm nay lời ấy cũng sẽ là lời tra vấn chúng ta. Hay nói cách
khác, Chúa cũng sẽ hỏi bạn và tôi: "Các con là loại người nào trong hai người
con trai kia?". Dù trong ta, có thể có cả hai thái độ của hai người con,
nhưng hôm nay, chúng ta nói đến người con thứ hai, qua đó xét lại thái độ sống
đức tin của ḿnh.
Chắc chắn không ai là không ủng hộ, đồng t́nh với việc giữ đạo từ nhỏ đến lớn,
ủng hộ việc thường xuyên lănh bí tích, thường xuyên dự lễ, đọc kinh... Nếu ai
sống đạo được như thế, thực sự họ đă là những người ngoan đạo. Nhưng cái được
coi là ngoan đạo của những người ngoan đạo ấy, nếu không để ư, có khi đẩy ta rơi
vào một thái cực khác khá nguy hiểm: chỉ sống đạo theo thói quen. Việc
giữ đạo lâu ngày trở thành một cái khuôn, chỉ cần rập khuôn theo là đủ, hoặc sự
sáo ṃn từ ngày nay qua ngày khác làm ta cảm thấy ḿnh không sai luật, không lỗi
bổn phận, và cuối cùng, không thấy cần phải sám hối ăn năn, v́ không biết ḿnh
có phạm tội ǵ để ăn năn hay không? Từ đó sinh ra một thái độ khác càng tệ hại
hơn nữa: thái độ tự măn, tự kiêu, tự đắc thắng. Đó cũng chính là thái độ tự
phong ḿnh làm "thánh", dù không nói ra thành lời. Nếu điều này có thật
th́ thật nguy hiểm cho ta. Bởi v́ có ai hoàn hảo đâu, chỉ v́ chưa nhận ra ḿnh
bất toàn nên không hoán cải mà thôi.
Đấy chính là thái độ của người con thứ hai. Anh ta thưa với cha ḿnh: "Vâng,
thưa cha con sẽ đi làm vườn nho", nhưng lại không đi. C̣n chúng ta, ai cũng
đang sống trong Giáo Hội, ai cũng có thể thưa với Chúa rằng: con yêu mến Chúa,
con tin Chúa, con muốn theo Chúa, nhưng trong thực tế, đời sống đạo của ḿnh cứ
́ ạch, không có ǵ khá hơn, không đổi mới ǵ và cũng không thấy ḿnh cần phải ăn
năn hối cải.
Nếu đúng là ta có một cung cách, một thái độ sống đạo tự măn đó, chỉ biết rập
khuôn theo luật, mà không có một tâm t́nh, một ư thức nào để cải thiện đời sống,
điều đó có nghĩa là ḿnh đang tự lừa dối chính bản thân. Nếu có lúc nào bạn và
tôi thật khiêm tốn, tự kiểm điểm ḿnh thật thành tâm, tôi nghĩ, chắc là lúc ấy
chúng ta không c̣n dám tự măn nữa.
Chắc bạn c̣n nhớ lời khen của Chúa Giêsu đối với thái độ của người thu thuế khi
cầu nguyện. Anh ta đứng xa xa ở cuối nhà thờ, không dám ngước mắt lên, đấm ngực
mà cầu nguyện: "Lạy Chúa tôi là kẻ có tội". Sau lời cầu nguyện ấy, anh ra
về và tội của anh được tha. Thế nhưng cùng lúc ấy, cũng có một người biệt phái
cầu nguyện trong nhà thờ ấy. Rất tiếc và rất đáng thương cho anh ta. Anh ta quá
tự măn, chỉ thấy nơi ḿnh toàn điều tốt. Thái độ tự măn ấy đă biến lời cầu
nguyện thành lời khoe khoang. Làm sao một người không từng thấy ḿnh yếu đuối,
thấy ḿnh tội lỗi lại có thể được thứ tha! Bạn và tôi cần lắm thái độ của người
thu thuế nơi chính bản thân ḿnh. Và cũng cần lắm thái độ của người con thứ nhất
trong bài Tin Mừng hôm nay: trả lời "không" với cha. Nhưng tiếng "không"
lại biến thành tiếng "có" ngay sau đó. Tiếng "không" như thế vẫn
đẹp rực rỡ, đẹp hơn nhiều so với tiếng "có" của người con thứ hai, rốt
cuộc chỉ là một tiếng "không" vô tận. Bởi lời đáp trả dẫu có quan trọng,
nhưng hành động đi liền với lời đáp trả ấy quan trọng hơn nhiều. Biết tránh thái
độ tự măn, biết nhận ra bản thân để thánh y Cha được thể hiện mới là điều quí
giá vô cùng.
"Các ông nghĩ sao?". Ngày xưa Chúa hỏi những người biệt phái, thượng tế,
kỳ lăo như vậy. Ngày hôm nay Chúa cũng hỏi mỗi người hiện diện ở đây, từng người
một rằng: "Các con nghĩ sao? Nghĩ sao về cách sống đạo của ḿnh? Nghĩ sao về
cách thể hiện đức tin? Nghĩ sao về ḷng yêu Chúa mà ḿnh phải có? Nghĩ sao về
thánh ư Chúa mà ḿnh phải thực hiện?".
"Các ông nghĩ sao?", lời đó xin gởi lại cho bạn và cho những ai thành tâm
thiện ư để tất cả chúng ta cùng suy gẫm và xét đạo cách sống đạo của ḿnh. Trên
hết mọi sự, bạn và tôi hăy để Lời Chúa tra vấn ḿnh: "Các con nghĩ sao?".
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Gái
điếm vui vẻ vào nhà Cha…
Mt 21, 28-32
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Giả từ Galilê, Chúa Giêsu cùng các môn đệ tiến về Giêrusalem -
nơi Người giảng dạy, chịu khổ nạn và chịu chết như Người đă loan báo. Chính tại
đây, không ít lần Chúa Giêsu đụng chạm với nhóm thượng tế và kỳ mục dân Dothái.
Chúng ta thấy dường như nhóm người này được cất nhắc lên không phải làm lănh
đạo, làm thầy dạy cho dân mà để ŕnh ṃ, gài bẫy, lên án và chất vấn Chúa Giêsu
về mọi lănh vực. Chính v́ thế mâu thuẫn nảy sinh giữa Chúa Giêsu và họ mỗi ngày
càng thêm nghiêm trọng. Trong khi giảng dạy, thấy cảnh chướng tai gai mắt xảy ra
nơi Đền thờ, Chúa Giêsu đă đánh đuổi bọn buôn bán ra khỏi nơi thờ phượng. Nhóm
thượng tế và kỳ mục lấy làm khó chịu bởi lẽ Chúa Giêsu đang đụng đến “nồi cơm”
của họ. Bởi thế họ lên tiếng chất vấn Người đă dùng quyền bính nào để làm những
điều ấy. Trong bối cảnh đó, dụ ngôn “hai người con” ra đời không chỉ là câu trả
lời mà c̣n là lời lên án của Chúa Giêsu nhắm trực tiếp vào nhóm người này.
Câu chuyện xem ra đơn giản và dễ hiểu về nội dung nhưng lại sâu sắc về mặt đạo
lư. Các thượng tế và kỳ mục - dĩ nhiên, trả lời rất chính xác câu hỏi của Chúa
Giêsu đặt ra cho họ. Với câu trả lời này, vô h́nh trung, chính họ đă tự buộc
ḿnh, tự kết án chính ḿnh. Bởi Chúa Giêsu đă không ngần ngại sánh ví họ như đứa
con thứ hai vâng vâng dạ dạ lời dạy của cha nhưng rồi chẳng thực thi lời cha
truyền. “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào
nước Thiên Chúa trước các ông”. Ở đây Chúa Giêsu không có ư nói rằng những người
thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước, c̣n mấy ông thượng tế
và kỳ mục vào sau. Trong ngôn ngữ Sêmít, “trước” ở đây không phải hiểu theo
nghĩa “trước - sau” mà được hiểu theo nghĩa “được- mất”. Theo đó, những người
thu thuế và những cô gái điếm vào được nước Thiên Chúa, c̣n các ông thượng tế và
kỳ mục th́ không được vào.
Lư do mà các vị thược tế và kỳ mục Dothái không được vào nước Thiên Chúa là bởi
v́ họ không tin theo đường công chính mà Gioan Tẩy Giả rao giảng cũng như không
chấp nhận sự hiện diện của Chúa Kytô ở trần gian này. Họ vâng vâng dạ dạ với
Thiên Chúa nhưng kỳ thực là để cố thủ, gắn bó với lề luật một cách giả tạo. Họ
tự tạo ra trăm ngàn khoảng luật và tự cho ḿnh là đă gắn bó và vâng lời Thiên
Chúa. Thực ra, những con người này chỉ nấp đàng sau lề luật, mượn danh lề luật
để từ chối sứ mạng của Gioan Tẩy Giả cũng như t́m mọi cách khước từ lời rao
giảng của Chúa Giêsu - người mà họ biết là có uy quyền và sức quyến rũ lạ
thường. Họ cố thủ trong thành tŕ lề luật của họ để không ngừng chỉ trích, lên
án lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận cách giáo huấn
cũng như con người Chúa Giêsu. Không đón tiếp Chúa Giêsu cũng đồng nghĩa với
việc họ từ chối con đường dẫn vào nước Thiên Chúa.
Ngược lại, những người thu thuế và những cô gái điếm là những người được xem là
công khai hoá đường tội lỗi của ḿnh, bị người Dothái và đặc biệt là mấy ông
thượng tế và kỳ mục liệt vào hạng “hết thuộc chữa”, là loại thối tha, đáng
nguyền rủa,… lại được Chúa Giêsu sánh ví và khen ngợi như người con thứ nhất
trong dụ ngôn. Sánh ví và khen ngợi những con người này, Chúa Giêsu không hề cổ
xuư cho những hành động tội lỗi công khai của họ. Hơn ai hết, Chúa Giêsu là
người lên án mạnh mẽ sự ác và tội lỗi cũng như không bao giờ Người thoả hiệp
theo đường tội lỗi. Chúa Giêsu trân quư họ bởi v́ những con người này từ chỗ coi
thường sự công chính, không chấp nhận sự ràng buộc của lề luật, chôn vùi cuộc
đời trong vũng lầy tội lỗi,… đến chỗ họ ư thức về đường tội lỗi của ḿnh để rồi
hối cải ăn năn và t́m về với lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả cũng như tin vào
giáo huấn của Chúa Giêsu.
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước
Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên
trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21). Mấy ông thượng tế và kỳ mục Dothái
thường hay khoe khoang ḷng đạo đức của ḿnh, vênh vang với người khác về việc
ḿnh thực thi nghiêm chỉnh giới luật của tiền nhân, tự đắc v́ ḿnh luôn trung
thành với truyền thống giao ước của Giavê. Họ tự cho rằng ḿnh đă “đắc đạo”, đă
giác ngộ và không cần phải phản tỉnh, không cần phải duyệt xét lối sống nhầy
nhụa sự ô uế vốn được sánh ví như mồ mả tô vôi. Thế nên, măi măi họ cũng chỉ là
những con người chỉ biết dùng đầu môi chót lưỡi để xưng tụng danh thánh Chúa
nhưng ḷng dạ th́ ngập tràn kiêu căng và tự măn, măi măi họ sẽ không được vào
nước Thiên Chúa. C̣n những người thu thuế và những cô gái điếm, những người
không sống theo nguyên tắc, theo luật lệ, luôn luôn chống đối, nhưng lại biết
phản tỉnh, biết thay đổi thái độ, biết nhận ra những giới hạn của bản thân, biết
hoán cải để đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Chính v́ thế, cửa trời rộng mở đón
tiếp họ bởi họ đă biết tiếp nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, của Chúa Giêsu
và đă thành tâm hoán cải, trở về nẻo chính đường ngay.
Ư thức thân phận yếu hèn, tội lỗi và không ngừng thống hối ăn năn được xem là
điều kiện tiên quyết, là ch́a khoá để được vào nước Thiên Chúa. Thiên Chúa không
nh́n theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không ưa thích những câu chúc tụng trống rỗng
chỉ nhằm loè thiên hạ. Ơn cứu độ chỉ thực sự ban cho những ai biết mở ḷng ḿnh
ra đón nhận Lời Chúa Kytô, biết phản tỉnh và thực thi thánh ư của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay, một lần nữa nhắc nhở chúng ta : Những người thu thuế và những
cô gái điếm vui vẻ hân hoan đến rơi lệ bước vào nước Thiên Chúa, c̣n chúng ta
th́ sao?...
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Chúa
NhẬt 26 ThưỜng Niên
John Nguyễn
Câu hỎi gỢi ư:
1.
Khi giải quyết những vấn đề quan trọng, việc phân biệt điều chính điều
phụ có quan trọng không? C̣n trong việc nên thánh, việc giữ đạo, việc vào nước
Trời th́ sao? Điều nào là điều quan trọng nhất để nên thánh?
2.
Đối với Đức Giê-su, thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện và sống yêu thương,
việc nào quan trọng nhất? Cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện?
CHIA SẺ
1. Cần phân định chính phụ trong việc sống đạo để nên
thánh
Trên đời, biết bao người cùng nhắm một mục đích, nhưng đạt được mục đích lại
chẳng mấy người! Lư do: người ta không biết điều nào chính, điều nào phụ. V́
thế, họ cứ làm những cái phụ thuộc, chẳng cần thiết hoặc ích lợi ǵ cho mục
đích. Việc nên thánh, nên hoàn hảo cũng vậy. Biết bao Ki-tô hữu lấy việc nên
thánh, nên hoàn hảo làm lư tưởng cho cả cuộc đời ḿnh, nhưng họ chẳng đi tới
đâu. Họ có một cuốn Kinh Thánh chỉ cho họ đầy đủ con đường để nên hoàn hảo,
nhưng họ lại không chịu đọc để xem cái cốt yếu hầu nên hoàn hảo là ǵ. Họ chỉ
nghe người này nói thế này người kia nói thế nọ để bắt chước. Cuối cùng họ chẳng
đạt được ǵ.
Nên thánh là việc chính yếu và quan trọng nhất của đời sống Ki-tô hữu. V́ thế,
thiết tưởng người Ki-tô hữu cần nắm thật vững điều nào chính yếu và điều nào phụ
thuộc trong việc sống đạo của ḿnh. Nếu không, họ giống như một người muốn nấu
cơm, mà lại cứ dùng cát để nấu: dù có nấu muôn đời cũng chẳng thành.
2. Những người dẫn đường mù quáng
Theo thánh Mát-thêu th́ bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nói với
«các thượng tế và kỳ mục trong dân» (Mt 21,23), tức những bậc thầy về tâm
linh cho các tín hữu Do Thái giáo. Điều thật bất ngờ đối với chúng ta là Đức
Giê-su dám nói thẳng vào mặt họ: «Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế
và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông». Những người thu
thuế và các cô gái điếm vốn là những người bị những bậc «đạo sư» Do Thái ấy coi
thường và loại bỏ ngay từ đầu ra khỏi «Nước Thiên Chúa» theo quan niệm
của họ. Lúc nào họ cũng chắc mẩm rằng họ là đối tượng ưu tiên của Nước Trời. V́
thế, câu Đức Giê-su nói làm cho họ bật ngửa. Điều thật mỉa mai là: họ là những
bậc thầy chỉ dẫn người ta vào Nước Trời, thế mà chính họ lại được vào đấy sau cả
bọn đĩ điếm. Lư do: họ là «những kẻ dẫn đường mù quáng» Mt 23,16), «là
những người mù dắt người mù» (Mt 15,14).
Tại sao? V́ họ chuyên quan trọng hóa những điều phụ thuộc, c̣n những điều chính
yếu và quan trọng nhất th́ họ không thèm để ư tới. Đức Giê-su nói về họ: «Các
người bảo: Ai chỉ Đền Thờ mà thề, th́ có thề cũng như không; c̣n ai chỉ vàng
trong Đền Thờ mà thề, th́ bị ràng buộc. Đồ ngu si mù quáng! Thế th́ vàng hay Đền
Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?» (Mt 23,16-22); «Các
người nộp thuế thập phân về bạc hà, th́ là, rau húng, mà bỏ những điều quan
trọng nhất trong Lề Luật là công lư, t́nh thương và sự thành thật» (Mt
23,23).
Rút kinh nghiệm quá khứ, thiết tưởng để nên thánh, chúng ta nên đọc kỹ Kinh
Thánh để nghe chính Đức Giê-su chỉ dẫn cho những điều cốt yếu, và nên dựa trên
những ǵ mà bản thân chúng ta xét thấy hợp lư. Đừng thuần túy dựa vào ư kiến hay
chỉ dẫn của người khác.
3. Đức Giê-su chỉ cho chúng ta bí quyết để nên thánh
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su hé mở cho chúng ta bí quyết hay
điều cốt yếu phải làm để nên thánh qua dụ ngôn hai người con: một người nói ḿnh
sẽ làm theo ư cha ḿnh, nhưng lại không làm, c̣n người kia không nói mà làm.
Người không nói mà làm mới là kẻ làm đẹp ḷng Cha. Rất nhiều chỗ trong Tin Mừng,
Đức Giê-su cho biết điều chính yếu để nên thánh là thực hiện thánh ư của Thiên
Chúa. Thiết tưởng đoạn sau đây là rơ ràng nhất: «Không phải bất cứ ai thưa
với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi
hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày
ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng:"Lạy Chúa, nào chúng tôi đă chẳng từng
nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm
nhiều phép lạ đó sao?" Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: "Ta không hề biết các
ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!" Vậy ai nghe những lời
Thầy nói đây mà đem ra thực hành, th́ ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù
mưa sa, nước cuốn, hay băo táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, v́ đă xây trên
nền đa» (Mt 7,21-27).
Tóm lại, điều chính yếu nhất để nên thánh và để vào nước Thiên Chúa chính là
vâng theo thánh ư Thiên Chúa, tức thực hành những điều Đức Giê-su dạy.
Vậy, chúng ta cần phải nắm thật vững thánh ư Thiên Chúa là ǵ, hay Đức Giê-su
dạy ta điều ǵ? Hăy nghiêm túc đặt lại vấn đề này một lần cho cả cuộc đời để đi
cho đúng đường, và đạt được mục đích của ḿnh là nên thánh. Nếu không, coi chừng
kẻo chúng ta giữ đạo cả cuộc đời mà vẫn «sôi hỏng bỏng không», hay như «dă
tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán ǵ», chỉ v́ điều
quan trọng nhất th́ ta coi thường, c̣n điều phụ thuộc th́ chúng ta lại coi là
tối quan trọng.
Đọc toàn bộ Tin Mừng, tôi thấy điều quan trọng nhất mà Đức Giê-su muốn nhấn mạnh
là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hăy yêu thương nhau; anh
em hăy yêu thương nhau như Thầy đă yêu thương anh em» (Ga 13,34). Ngay câu
kế tiếp, Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của nó: «Mọi người sẽ nhận biết anh em
là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có ḷng yêu thương nhau» (Ga
13.35). Ngoài điểm chính ấy, th́ tất cả những điều khác, đều là phụ thuộc, và
những điều phụ thuộc này dù quan trọng tới đâu th́ cũng chỉ là quan trọng hàng
thứ yếu. Chính v́ thế, vào ngày phán xét, Đức Giê-su chỉ phán xét mọi người về
một điều duy nhất: cách họ đối xử với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Chúng ta cần chú ư tới điều mà Đức Giê-su muốn nhấn mạnh, và những người dẫn
đường thiêng liêng cho quần chúng cũng phải nhấn mạnh giống như Đức Giê-su. Nếu
điều quan trọng nhất lại không nhấn mạnh, mà lại nhấn mạnh những điều phụ thuộc,
th́ họ cũng chỉ giống như những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng
trong đạo Do Thái mà thôi.
4. Chúng ta đặt nặng và sống đúng điều quan trọng nhất chưa?
Điều quan trọng nhất trong Ki-tô giáo chính là sống yêu
thương: trước tiên là yêu thương những người gần gũi ḿnh nhất (cha mẹ,
vợ con, anh chị em?),
rồi đến những người xa hơn một chút (bà con, lối xóm, bạn
bè, người cùng cộng đoàn?),
rồi mới đến những người xa hơn nữa (người quen, người gặp
ngoài đường?), để
rồi yêu thương không trừ một ai, kể cả kẻ thù của ḿnh
(v́ họ cũng là con người, là h́nh ảnh và là con cái Thiên Chúa). Cần ghi ḷng
tạc dạ điều quan trọng nhất ấy để thực hành. Tất cả những chuyện khác đều là thứ
yếu - không có nghĩa là không quan trọng, mà chỉ là không quan trọng bằng
- thường là phương tiện để giúp ta thực hành điều quan trọng nhất ấy.
Chẳng hạn việc thờ phượng Chúa và việc cầu nguyện. Đây là hai việc được coi là
rất quan trọng trong Ki-tô giáo mà không một Ki-tô hữu nào được phép coi thường.
Nhưng chúng ta không thể coi hai việc này quan trọng hơn điều răn quan trọng
nhất là sống yêu thương được. Đọc hết Tin Mừng, tôi không hề thấy có chỗ nào Đức
Giê-su nhấn mạnh đến việc thờ phượng Thiên Chúa hay cầu nguyện bằng hoặc như
Ngài đă từng nhấn mạnh bổn phận phải yêu thương cả.
Qua câu «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh
em đang có chuyện bất b́nh với anh, th́ hăy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi
làm hoà với người anh em ấy đă, rồi trở lại dâng lễ vật của ḿnh» (Mt
5,23-24), tôi thấy rơ rằng Ngài coi trọng việc thể hiện t́nh thương đối với đồng
loại hơn cả việc thờ phượng Thiên Chúa nữa. Ngôn sứ I-sa-i-a c̣n cho thấy Thiên
Chúa ghê tởm việc thờ phượng và cầu nguyện của những con người đối xử với đồng
loại không ra ǵ: «Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các
ngươi. Những thứ đó đă trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi
các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nh́n; các ngươi có đọc kinh cho
nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. V́ tay các ngươi đầy những máu» (Is 1,14-15;
nên xem hết cả đoạn Is 1,11-19). Hăy nghe Ngài kết án hết sức nặng nề những việc
làm thiếu bác ái: «Ai giận anh em ḿnh, th́ đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh
em ḿnh là đồ ngốc, th́ đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. C̣n ai chửi anh em
ḿnh là quân phản đạo, th́ đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt» (Mt 5,21-22).
Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Ngài có vẻ như cay cú với thầy tư tế và
lê-vi đă bỏ mặc nạn nhân bị cướp trên đường v́ đă coi trọng việc thờ phượng và
giữ những chi tiết trong luật Mô-sê hơn bổn phận bác ái là giới răn quan trọng
nhất.
Cầu nguyện là để tiếp xúc với Thiên Chúa hầu nhận được sức mạnh của Ngài mà sống
yêu thương anh chị em ḿnh. Nó là phương tiện cần thiết để đạt được mục đích là
sống yêu thương. Đừng biến phương tiện thành mục đích mà quên mục đích đích thực
phải thực hiện. Về việc thờ phượng Thiên Chúa, hăy bắt chước Đức Giê-su: cả đời
chỉ thực hiện t́nh thương đến mức hy sinh cả mạng sống, và cuộc đời đầy yêu
thương đó chính là hy tế thờ phượng Thiên Chúa đẹp ḷng Ngài nhất.
Đối với điều chính và điều phụ, lập trường của Đức Giê-su là: «Các điều này
(điều chính yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (điều phụ thuộc)
th́ không được bỏ» (Mt 23,23c). Dẫu phải làm cả hai, nhưng vẫn phải phân
biệt điều nào chính điều nào phụ để khi không thể làm được cả hai, th́ biết phải
chọn lựa điều nào.
CẦu nguyỆn
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Lạ thật! Biết bao người nói rằng
họ theo Ta, nhưng những điều Ta khuyên hay yêu cầu họ làm th́ họ chẳng thèm làm.
Họ cứ tưởng: họ bám theo Ta và lải nhải nịnh nọt Ta suốt ngày th́ Ta sẽ hài ḷng
và như vậy mới là theo Ta. Họ làm như Ta là một bạo chúa chỉ thích nghe những
lời nịnh nọt! Ta là Thiên Chúa, Ta có cần họ làm ǵ cho Ta đâu, thế mà họ lại cứ
quan tâm đến Ta, đang khi anh chị em của họ ở ngay bên cạnh họ, rất cần họ yêu
thương săn sóc - những người đó chính là hiện thân của Ta ở giữa họ - th́ họ
chẳng thèm màng tới. Quả thật, họ đang làm những chuyện vô ích mà cứ tưởng là
cần thiết».
John Nguyễn
LỜi
MỜi GỌi CỨu RỖi
Mt 21,28-32
Đ.Ô. Trần Văn Khả
Bài Phúc âm theo thánh Matthêô 21,28-32 cần được đọc
trong bối cảnh của những cuộc tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và các người
Pharisiêu và nhóm thù địch khác chống lại Chúa, và các cuộc này đưa tới sự căm
thù và việc Chúa Giêsu bị lên án tử trên thập giá.
Ngoài ra đoạn Phúc Âm này cũng cần được đọc chung với bài sách Ngôn sứ Êdêkien
(Ed 18,25-28, bài đọc thứ I Chúa nhật 26 Thường niên) về việc Thiên Chúa
kêu mời người tội lỗi trở lại. Và đây là chủ đề của Chúa nhật thứ 26 hôm nay.
Trong mạch văn của Phúc âm thánh Matthêô, dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32),
cùng với Dụ ngôn những người tá điền vườn nho (Mt 21,33-41), và lời giáo huấn về
viên đá góc tường bị loại bỏ (Mt 21,42-46), là những dụ ngôn và giáo huấn nhắm
vào các tư tế và những người biệt phái và thái độ cứng cỏi của họ không chấp
nhận lời mời gọi cứu rỗi của Thiên Chúa, qua con người và các phép lạ của Chúa
Giêsu Kitô. Những người biệt phái đă hiểu rơ Chúa Giêsu nói những dụ ngôn này ám
chỉ về ḿnh, nên đă t́m cách bắt Chúa và loại trừ Chúa (xc Mt 21,45-46). Trước
đó, họ chất vấn Chúa lấy quyền nào mà đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi
khuông viên đền thờ (xc. Mt 21,23-27). Để trả lời họ, không những Chúa làm cho
họ cứng họng im lặng, mà c̣n cho họ thấy sự cứng cỏi trong thái độ đối với Chúa,
cũng như với lời kêu gọi thống hối ăn năn. Như vậy, không những Chúa Giêsu cho
cho họ biết Ngài là ai, mà c̣n đ̣i buộc chấp nhận Ngài là vị cứu rỗi duy nhất.
Trở lại với bản văn của dụ ngôn Hai người con, chúng ta có đưa ra mấy nhận xét
sau đây để có thể hiểu được ư nghĩa của dụ ngôn và từ đó có những áp dụng cụ thể
cho đời sống đức tin của ḿnh.
Trước tin, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với chính những người hỏi Chúa. Chúa bắt họ tự
vấn về thái độ phải có đối với lời mời gọdi thống hối và trở về, tức là đối với
chính Chúa Kitô: "Các ông nghĩ sao?"
Tiếp theo, Chúa dùng h́nh ảnh vườn nho, rất quen thuộc với người biệt phái và
các tư tế, để nói lên thái độ của người môn đệ đối với Nước Trời, tức là với
Chúa Kitô. Họ thuộc về vườn nho đó, hay không thuộc về vườn nho đó; thế nào là
thuộc về vườn nho đó hay không thuộc về vườn nho đó, là ở trong vườn nho đó hay
ở ngoài vườn nho đó? Có người mang tiếng thuộc về vườn nho, ở trong đó, nhưng
lại thực sự không thuộc về, không ở trong đó.
Sau cùng là h́nh ảnh trái ngược giữa nhóm người biệt phái và những người tội
lỗi. H́nh ảnh này thường thấy trong Phúc âm thánh Matthêô. Những người biệt phái
tưởng là thuộc về, là ở trong vườn nho Thiên Chúa, v́ là thành phần nồng cốt;
nhưng thực ra họ bị phán quyết là đă bị loại ra ngoài (Mt 6,2.5.16; 7,21). C̣n
những người thu thuế, đĩ điếm, tội lỗi, th́ lại được tuyên bố là thuộc về, là ở
trong vườn nho (xc. 9,10-13), Lư do chỉ là v́ một bên không có, một bên có điều
kiện cần của việc thuộc về này: đó là tâm t́nh thống hối trở về (xc. Mt 5,20;
7,21)
Đó là tóm lược giáo huấn của Gioan Tẩy Giả gửi tới mọi người và dọn đường cho
Chúa Kitô tới (Mt 3,1tt;11,12). Đó là sự công chính do Gioan rao giảng: thống
hối trở về để tin nhận Chúa Kitô.
Hôm nay khi đọc và suy niệm bài Phúc Âm này, chúng ta cũng đang được Chúa Giêsu
Kitô hỏi chúng ta: con nghĩ sao về Ta? Về lối sống đạo của con trong liên hệ với
Ta? Về sự công chính mà con tưởng con đang có và từ đó tự nhủ thầm về phần phúc
thiên đàng mai sau? Và chúng ta hăy tự kiểm thảo cách thành thực đức tin của
chúng ta trước mặt Chúa trong lương tâm của ta.
Đ.Ô. Trần Văn Khả
“
Nhưng Sau Nó HỐi HẬn Và Đi Làm ”
Mt 21,28-32
Lm Trọng Thưởng, CMC
Một chiến hạm Hải Quân đi trên biển vào một đêm sương mù dày đặc. Bất chợt vị
thuyền trưởng nh́n thấy có ngọn đèn ớ phía trước chiến hạm. Ông truyền lệnh dùng
đèn đánh Morse cho thuyền bên kia:
-
Đổi hướng 10 độ.
Bên kia trả lời:
-
Các anh mới phải đổi hướng 10 độ.
Thuyền trưởng hơi nóng mặt, truyền gửi message:
-
Đây là hạm trưởng Hải quân. Các anh phải đối hướng 10 độ.
Bên kia trả lời:
-
Đây là dân quèn. Các anh phải đổi hướng 10 độ.
Thuỵền trưởng nổi trận lôi đ́nh ra tối hậu lệnh:
-
Đây là chiến hạm Hải Quân có đầy đủ hoả lực. Các anh phải đổi hướng 10
độ.
Bên kia trả lời:
-
Đây là hải đăng. Các anh có “ngon” th́ nhào dô.
Chiếc chiến hạm vội vàng chuyển hướng.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Kitô kể dụ ngôn về hai người con được cha nhờ
giúp làm việc. Người thứ nhất từ chối nhưng sau hối hận mà đi làm. Người con thứ
hai hứa làm nhưng lại không làm. Người thứ nhất đă làm theo ư cha ḿnh. Sau dụ
ngôn, Chúa kết luận: những người thu thuế, đàng điếm, tội lỗi vào nước Thiên
Đàng trước những người biệt phái tự cho ḿnh là công chính. Người con thứ nhất
có sự chuyển hướng trong ḷng. Lúc dầu anh không muốn làm theo ư cha, nhưng sau
hối hận và đổi ư. Chúa dùng anh để tượng trưng cho những người tội lỗi. Họ v́
hoàn cảnh đưa đẩy hoặc lư do nào đó đă bước vào con đường tội lỗi, nhưng khi
được cảnh tỉnh do lời giảng của Gioan Tẩy Giả, họ đă thống hối và làm lại cuộc
đời. Người thứ hai nói vâng, dạ với cha nhưng rồi không làm điều cha nhờ. Nếu đó
không phải là gian dối th́ cũng là hành động thiếu trách nhiệm. Người này tượng
trưng cho những người biệt phái, luật sĩ tự cho ḿnh là công chính. Bề ngoài họ
sống cặn kẽ theo lề luật, nhưng dùng điều đó để phô trương, khinh thường, chèn
ép, bốc lột người khác. Họ đă không chấp nhận Gioan v́ ông quá rơ bộ mặt gian ác
của họ.
Cuộc sống con người là một cuộc hành tŕnh đi về Thiên đàng. Mọi cuộc hành tŕnh
đều có đích điểm. Cuộc sống con người nhắm đến Thiên Đàng là đích điểm. Cuộc
hành tŕnh càng dài, càng có nhiều cơ hội để lạc đường (hay c̣n gọi là “peanut
sugar”), đi sai mục đích ḿnh muốn đến. Mỗi lần nhận ra bị lạc đường, người
ta cần chuyển hướng đi. Trong đời sống, muốn làm một cuộc chuyển hướng người ta
phải nỗ lực cố gắng, có khi phải chấp nhận đau đớn chia ĺa. Nhiều vị thánh
trong Giáo Hội đă từng sống cuộc đời tội lỗi nhưng được ơn trở lại để sống thánh
thiện. Thánh Augustinô là một gương trở lại hay được nói đến. Thánh nhân đă từng
sống trong tội lỗi: ăn ở với phụ nữ ngoài hôn nhân; đi theo lạc thuyết... Lối
sống đó đă trở nên sự ray rứt làm cho cuộc đời của ngài trở nên bất hạnh. Được
lời Chúa hướng dẫn, Augustinô đă trở lại, từ bỏ tội lỗi, lạc thuyết, trở nên
linh muc, giám mục, tiến sĩ bênh vực Giáo Hội.
Theo tâm lư, người ta chỉ thay đổi khi cảm thấy đau đớn. Những ông bợm nhậu,
hoặc những “chuyên gia xông hương” hút thuốc ph́ pḥ suốt ngày như ống
khói xe lửa b́nh thường sức mấy à bỏ “chất cay” hoặc thuốc lá. Chỉ khi
nào lục phủ ngũ tạng, tim gan phẻo phổi bị cháy nám, “lột dên”, đ́nh công
nghỉ việc, lúc đó bố bảo cũng không dám rờ đến chai rượu hoặc gói thuốc. Nếu bỏ
được những thứ đó, người ta cũng phải chiến đấu gay go lắm, nhiều người không
chịu nổi nên đánh liều đổi mạng lấy gói thuốc, chai rượu.
Khi sống trong đam mê tội lỗi, con người luôn cảm thấy lạc lơng bơ vơ, bất hạnh
v́ đă lạc xa mục đích của đời người, mất đi ư nghĩa cuộc sống. Đó là nổi đau ray
rứt trong tâm hồn khiến chúng ta thấy ḿnh cần thay đổi, lấy lại hướng đi cho
đúng tới đích điểm. Cái đam mê tội lỗi của chúng ta có thể là một chút tham lam
tiền trợ cấp, đồ đạc trong chợ, trong sở làm, hay chiều theo dục vọng của con
mắt, nh́n xem những h́nh ảnh xấu trên TV, Internet, sách báo, hay mê man cờ bạc,
rượu chè, hút sách... hoặc không làm chủ được miệng lưỡi hay nói xấu, dèm pha,
chửi bới, nói tục, hoặc đánh đập, la lối người khác... Những điều đó đưa dẫn
cuộc sống chúng ta xa ĺa Thiên Chúa là cùng đích, hạnh phúc thật. Vậy chúng ta
hăy chuyển hướng đời ḿnh, chấp nhận dứt bỏ những hứa hẹn giả dối của đam mê xấu
để chiếm đoạt được sự b́nh an, hạnh phúc thật là mục đích mà Thiên Chúa đă xếp
đặt khi dựng nên chúng ta.
Lm Trọng Thưởng, CMC
Nghĩ
ĐẾn NgưỜi Khác
Mt 21, 28-32
Lm Louis Minh Nhiên, CMC
Một bà mẹ trẻ bồng con ngang qua sườn đồi vùng nam Wales nước Anh trong mùa đông
giá lạnh, chẳng may bị băo tuyết. Sau khi băo hết, người ta thấy xác bà dưới làn
tuyết phủ, đồng thời khám phá ra rằng trước khi chết, bà đă cởi hết áo ngoài của
ḿnh để phủ che cho con.
Người ta ngạc nhiên và vui mừng khi mở dần những lớp áo và thấy cậu bé c̣n sống
và khoẻ mạnh. Bà mẹ đă hy sinh mạng sống v́ con. Những năm sau đó, cậu bé David
Lloyd George lớn lên và trở thành một thủ tướng, và là một trong những chính
khách nổi tiếng nhất của nước Anh.
Bà mẹ cậu David đă thực thi điều thánh Phaolô muốn nhắn nhủ dân thành Philipphê
trong bài thánh thư hôm nay: "Mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về
ḿnh, nhưng hăy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác". Định luật bảo tồn sự
sống lo cho ḿnh là một trong những định luật căn bản của con người. Con người
có trách nhiệm và bổn phận lo cho ḿnh được hạnh phúc. Việc cần được chu toàn đó
là một điều tốt và là một bổn phận. Nhưng nó trở nên xấu khi con người ích kỷ,
nghĩ đến ḿnh nhiều quá mà không tế nhị để ư đến hoàn cảnh đáng thương của anh
chị em ở chung quanh.
Bé Khanh, chín tuổi đi lễ Chúa Nhật với bố. Trước khi đi mẹ bé cho bé hai đồng
cắc và dặn:
-
Một đồng con bỏ vào giỏ tiền nhà thờ dâng cho Chúa, c̣n một đồng con mua
kẹo ăn sau khi tan lễ nghe.
Bé cầm chặt hai đồng trong tay rồi theo bố đi dự lễ. Trên đường
đi chẳng may bé vấp phải một khúc cây và té nhào xuống đất, hai đồng bạc cắc
văng ra khỏi tay, một đồng lăn ra vệ đường, c̣n đồng kia lăn xuống ống cống dưới
mặt đường mất tiêu. Bé lồm cồm ḅ dậy nhặt đồng các c̣n sót lại rồi nói:
-
Chúa ơi, hôm nay Chúa xui quá, cái đồng con tính dâng cho Chúa bị rơi
xuống hố mất tiêu rồi.
Giáo hội và những nguời nghèo đói chung quanh ta nhiều lần chẳng
được ǵ v́ chúng ta đă tính toán theo kiểu đồng bạc cắc của bé Khanh.
Một chuyện khác kể rằng có hai anh chàng A và B dùng cơm chung với nhau, và trên
mâm cơm chỉ có hai con cá: một lớn một bé. Sau một hồi nhường cho nhau lấy
trước, anh A liền gắp con cá lớn cho vào bát ḿnh. Anh B thấy vậy liền nói: "Anh
chẳng biết điều chi cả, theo lịch sự, khi lấy trước, nên lấy phần bé." Anh A
hỏi: "Vậy nếu anh lấy trước th́ sao?" "Dĩ nhiên tôi lấy con cá bé",
anh B đáp. Anh A liền nói: "Nếu anh đă lấy con cá bé th́ dù có lấy trước hay
lấy sau, con cá lớn vẫn về tôi, có phải không nào?” Trong đời sống gia đ́nh
đă có những lần chúng ta đóng vai anh A hoặc anh B khi chọn phần hơn, nhường
phần kém, hoặc vui chịu một cách không tự t́nh.
Nếu chiều Chúa Nhật có chiếu Football trên Tivi, chúng ta ngồi thưởng thức hoặc
đi chơi đá banh, rồi tối về thấy cơm ngon đă dọn sẵn, chúng ta ngồi ăn, và lấy
làm vui sướng th́ niềm vui đó được đánh đổi bằng sự hy sinh to lớn của người mẹ,
người chị, hay người em chúng ta. Không cần phải giỏi toán, chúng ta cũng hiểu
rằng nói một cách thông thường sự vui hưởng của người nầy là sự hy sinh của
người khác. Vào một ngày hè nóng nực, một ông lăo nhà giầu đi chơi về, mồ hôi ra
đầm đ́a như tắm. Ông sai đầy tớ lấy quạt ra quạt cho ông. Anh đầy tớ cắm đầu
quạt. Một lúc sau, ráo mồ hôi, ông khoái quá, nói:
-
Ô ḱa, mồ hôi của tao nó đi đâu mất cả rồi nhỉ?
Anh đầy tớ bỏ quạt xuống, ṿng tay thưa:
-
Dạ thưa cụ, nó chuyển sang cả ḿnh con rồi ạ!
Trong những công việc hằng ngày ở gia đ́nh, có việc nặng việc
nhẹ, trong thùng táo có quả ngon quả dở. Nếu v́ vô t́nh và tự nhiên, chúng ta
chọn phần hơn, chọn việc nhẹ th́ một cách gián tiếp chúng ta nhượng phần kém,
những việc nặng nhọc hơn cho cha mẹ anh chị em. Nhưng ngược lại nếu chúng ta
biết chọn phần kém, việc nặng nhọc hơn th́ cha mẹ anh chị em được hạnh phúc vui
sướng do ḷng quảng đại của chúng ta.
Mẹ Têrêsa kể rằng vào một chiều nọ, một ông lăo xin đến gặp mẹ và nói: "Thưa
mẹ, mọi người đều cho mẹ đồ để mẹ cho người nghè. Con cũng muốn dâng cho mẹ chút
ǵ nhưng hôm nay cho chỉ có được 10 cents và con xin đưa cả cho mẹ". Mẹ
Têrêsa thầm nghĩ: Nếu ḿnh nhận, có lẽ ông lăo sẽ không có ǵ để ăn tối nay,
nhưng nếu ḿnh không nhận lại sợ ông buồn tủi chăng. Cuối cùng mẹ đă nhận quà
ông dâng. Mẹ kể tiếp chưa bao giờ mẹ nh́n thấy một niềm vui rạng rỡ như thế trên
khuôn mặt những người cho tiền hay cho thực phẩm như mẹ đă nh́n thấy trên khuôn
mặt ông. Ông sung sướng v́ ông đă có thể cho đi.
Thế giới hôm nay tỏa niềm hy vọng v́ có nhiều tâm hồn quảng đại như thế. Nhưng
thế giới vẫn c̣n nhiều buồn sầu, thất vọng, và đau khổ, v́ thế giới c̣n có quá
nhiều người thiếu quảng đại chỉ nghĩ đến ḿnh mà không để chỉ đến sự bất hạnh
của tha nhân. Ước chi lời thánh Phaolô nhắn nhủ dân thành Philipphê cũng được
chúng ta mau mắn thi hành với một tâm hồn quảng đại hy sinh: "Mỗi người đừng
chỉ nghĩ đến những sự thuộc về ḿnh, nhưng hăy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ
khác."
Lm Louis Minh Nhiên, CMC
Nói
Vâng VỚi Chúa BẰng CẢ CuỘc ĐỜi
Mt 21,26-32
Lm. An Phong, OP
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện hai người con được kêu gọi
để làm vườn nho cho cha. Một người, ban đầu từ chối (no); nhưng sau anh hối hận
và đi làm (yes). C̣n một người đồng ư (yes), nhưng lại không đi làm (no). Như
thế, người con thứ nhất là loại người "no" trước "yes" sau; c̣n người thứ hai là
người "yes" trước "no" sau.
Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, đó là một đ̣i hỏi tất
yếu trong cuộc sống và trong đời sống Đức Tin. Đức Tin là một tiến tŕnh thuận
theo (yes) Đức Giêsu bằng cả lời nói, cả việc làm, và cả cuộc đới. "Đức Tin
không việc làm là Đức Tin chết" (thánh Giacôbê). Đôi lúc, một công việc nhỏ bé
được thực hiện v́ Đức Tin lại có giá trị hơn một công việc lớn mà do một động
lực nào khác. Ai cho một người bé mọn, dù chỉ một chén nước lă thôi - nhân danh
Đức Kitô - th́ đă nói được tiếng yes với Chúa rồi.
Bạn có bao giờ thể hiện Đức Tin - cho dù c̣n chưa "bằng hạt cải"
- trong một hành động nào, dù thật nhỏ bé chưa ?
Một kinh nghệm về sự yếu đuối (no) đôi khi có thể là cơ hội hoán
cải. Nguyễn Huy Thiệp, đă có lần viết : "Ngập trong bùn : khuấy động nó lên,
thăng hoa nó - và thế là chí thánh". Đức Giêsu đă đến để kêu gọi người tội lỗi
chứ không phải người công chính. Những ngời thu thuế, gái điếm là những người
tội lỗi, nhưng họ đă biến cái "no" của gian tham, dục vọng… thành cái "yes" của
sự chấp nhận thân phận tội lỗi, dám đưa tay cầu khẩn ơn tha thứ, và thay đổi đời
sống.
Ban đă bao giờ dám chân nhận bản thân ḿnh; và thật sự cần đến
ơn cứu độ của Chúa chưa ?
Một tiếng "yes" hời hợt, vô trách nhiệm sẽ dễ dàng dẫn đến tiếng
"no". Những người sống hời hợt, những người dễ dàng nói "yes" đối với nhiều
chuyện, nhất là những chuyện "đạo đức" có lợi cho bản thân ḿnh; chưa hẳn đă dám
nói tiếng "yes" với Chúa trong những chuyện khó khăn, gian khổ. Ai đó đă nói
"một lỗi lầm lớn nhất của người trẻ là sống hời hợt, thiếu chiều sâu".
Bạn đă dám sống hết ḿnh, hết tấm ḷng, hết nhiệt huyết của tuổi
trẻ chưa?
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đă dấn thân trọn vẹn cuộc đời
và đă dám chết để dâng trọn vẹn sự sống;
Nhằm thể hiện Thánh Ư Chúa Cha
và mang lại ơn cứu độ cho con người.
Xin cho mỗi người chúng con,
cũng dám nói lời "vâng"
với t́nh yêu bao la
và với sứ mệnh Chúa trao phó.
Lm. An Phong, OP
THÁCH ĐỐ CUỐI CÙNG
Mt 21,26-32
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
Thách đố lớn nhất cuộc đời có lẽ là cái tôi. Chính v́ thế Đức
Giêsu muốn phơi bầy tất cả sự thật để cảnh giác mỗi người chúng ta trên bước
đường theo Chúa.
HAI THÁI ĐỘ
Để minh họa chướng ngại lớn lao đó, Đức Giêsu dùng h́nh ảnh hai
người con được thân phụ sai đi làm vườn nho, tượng trưng hai thái độ khác nhau.
Người con thứ nhất có dáng dấp thật khó thương. Anh ta bướng bỉnh v́ dám cưỡng
lệnh thân phụ. Tại sao anh lại có thái độ như vậy ? Phải chăng đó là thái độ
tuổi trẻ ngang tàng ? Nhưng sau cùng lương tâm đă thức dậy. Anh không thể cưỡng
lại t́nh phụ tử. H́nh ảnh đó chẳng khác ǵ "kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đă làm,
mà thi hành điều chính trực công minh". (Ed 18:27) Chắc chắn hành động đó sẽ thu
hút cái nh́n của Thiên Chúa. Thực vậy, những người thành tâm "sẽ cứu được mạng
sống ḿnh." (Ed 18:27)
Ngược lại, người con thứ rất dễ thương từ lời nói tới cử chỉ.
Không cần suy nghĩ, anh nhanh nhẹn đáp lại lệnh cha truyền. Anh nói để cha yên
ḷng, chứ không muốn hành động ǵ cả. Cùng chịu một nền giáo dục như nhau, tại
sao lại có hai thái độ khác nhau ? Bao nhiêu luật lệ và thói tục trong nhà đă
không hướng được con mắt anh vào đường lối thân phụ. Anh có khác chi "các thượng
tế và kỳ mục trong dân" (Mt 21:28.)? Mặc dù đă được ông Gioan chỉ đường công
chính, họ "vẫn không chịu hối hận và tin ông ấy." (Mt 21:32.)
Sau khi vẽ lên hai h́nh ảnh đó, Đức Giêsu đặt vấn đề : "Trong
hai người con đó, ai đă thi hành ư muốn của người cha ?" (Mt 21:31) Cách đặt vấn
đề đă mạc khải chủ điểm câu truyện hôm nay. Thực ra, cả hai người con đều đă có
lúc làm phật ḷng cha. Nhưng dầu sao, điểm quan trọng là thực hành, chứ không
phải chỉ dừng lại ở lư thuyết. Chính v́ thế, khẳng quyết của Đức Giêsu đă khiến
mọi người giật ḿnh : "Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô
gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông". (Mt 21:31) Ngay bây giờ ai dám nói
một điều như thế trước những người cầm quyền ? Sở dĩ những hạng người tội lỗi đó
được tuyển chọn v́ họ đă hối hận khi nh́n về quá khứ và bước vào đường công
chính do ông Gioan Tẩy Giả vạch ra. (Mt 21:32.)
Trên đời, chỉ có một người con duy nhất vừa mau lẹ đáp ứng lệnh
truyền của thân phụ, vừa thi hành tới nơi tới chốn, đó là Đức Giêsu. Chính Đức
Giêsu đă nói : "Lương thực của Thầy là thi hành ư muốn của Đấng đă sai Thầy và
hoàn tất công tŕnh của Người." (Ga 4:34) Bởi vậy, Chúa Cha đă âu yếm giới thiệu
Đức Giêsu với các môn đệ : "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài ḷng về Người."
(Mt 17:5) Chính nhờ vâng phục, Người đă trở thành mẫu gương cho muôn ngàn thế
hệ. Từ nay muốn chu toàn sứ mệnh Kitô hữu, "anh em hăy có những tâm t́nh như
chính Đức Kitô Giêsu," (Pl 2:5) Đấng suốt đời tâm niệm : "Tôi không t́m cách làm
theo ư riêng tôi, nhưng theo ư Đấng đă sai tôi." (Ga 5:30) Để thi hành thánh ư,
"Người lại c̣n hạ ḿnh, vâng lời cho đến nỗi bằng ḷng chịu chết, chết trên cây
thập tự." (Pl 2:8) "Chính v́ thế, Thiên Chúa đă siêu tôn Người và tặng ban danh
hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu." (Pl 2:9) Thật đơn giản. Chỉ cần vâng
phục, Đức Giêsu đă "được trao toàn quyền trên trời dưới đất" (Mt 28:18) để thi
hành sứ mệnh cứu thoát muôn dân.
KHÁM PHÁ MỚI
Sứ mạng đó đă được trao cho các tín hữu ngay trong bí tích thanh
tẩy. Đó là một vinh dự lớn lao và là một trách nhiệm nặng nề. "Trong xă hội tục
hóa ngày nay, càng ngày càng có nhiều người lănh đạm với tôn giáo và sống như
không có Thiên Chúa, nhiều người cần tái khám phá các bí tích khai tâm Kitô
giáo, đặc biệt là bí tích thanh tẩy" (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 23.09.2002).
Quả thật, tất cả ơn gọi cao đẹp đều được Kitô hữu lănh nhận trong bí tích thanh
tẩy. Chính v́ thế, trong cuộc gặp gỡ 1,200 linh mục và giáo lư viên, "ĐGH Gioan
Phaolô II đă coi Phương Pháp Tân Giáo Lư như một đường lối quan pḥng đáp ứng
lại sự lănh đạm tôn giáo trong nhiều xă hội." (Zenit 23.09.2002) Phong trào này
hiện có 17,000 cộng đoàn trong 105 quốc gia, rải rắc trên 900 giáo phận và 5,500
giáo xứ. Trên một triệu giáo dân, 1,500 chủng sinh và 800 linh mục khắp thế giới
đang theo đuổi Phương Pháp Tân Giáo Lư này. Thành quả có thể chứng minh rơ ràng
khi nh́n đến "bao nhiêu người nhiệt thành và quảng đại rao giảng Tin Mừng Đức
Giêsu Kitô nhất là cho những người sa ngă. Biết bao người đă thức tỉnh trước ơn
gọi linh mục và tu sĩ." (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 23.09.2002)
Hơn bao giờ, thế giới hôm nay cần có những nỗ lực thức tỉnh
trước những giá trị Tin Mừng. ĐGH nhận thấy thế giới "rất giầu những phương tiện
kỹ thuật, vật chất và tiện nghi, nhưng bi đát thay lại nghèo về cứu cánh, giá
trị và lư tưởng. Dầu vậy, chúng ta không được phép bi quan và chán nản, v́ Thần
Khí hướng dẫn Giáo Hội và ban cho Giáo Hội can đảm xông pha khám phá những
phương pháp tân Phúc âm hóa, để có thể tới những những miền chưa từng khám phá.
Chân lư Kitô giáo hấp dẫn và có sức thuyết phục rơ ràng v́ có thể in đậm vào
cuộc sống nhân loại một chiều hướng rất rơ nét, vững chí công bố Đức Kitô là
Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại. Việc loan báo Tin Mừng đó ngày nay vẫn có
giá trị như Kitô giáo tiên khởi, khi Tin Mừng loan truyền khắp nơi nhờ bước chân
các nhà truyền giáo vĩ đại đầu tiên." (Zenit 23.09.2002) Đó là sứ mạng cao cả
nhất đă được Giáo Hội hoàn thành vẻ vang.
Thấy trước những thách đố lớn lao, Đức Giêsu đă cầu nguyện cho
các môn đệ: "Con đă truyền lại cho họ lời của Cha. Xin Cha lấy sự thật mà
thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đă sai con đến thế gian, th́ con cũng
sai họ đến thế gian." (Ga 17) Sự thật ấy đang bị lăng quên giữa một thế giới
trống vắng những giá trị. Con người ngày nay thường rút vào những khung trời nhỏ
hẹp và tương đối. Trong bối cảnh vô tri và đôi khi thù nghịch đó, Giáo hội không
dễ thực thi sứ mạng cứu độ. (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 23.09.2002) Nhưng ngay
trong hoàn cảnh khó khăn nhất như xă hội Hồi giáo hay vô thần, vẫn có thể có
nhiều sáng kiến và nỗ lực Phúc âm hóa. Thực vậy, TGM Henri Teissier nói : ngay
tại Algeria, một quốc gia Hồi giáo, "việc rao giảng có thể thực hiện, dù không
qua việc dạy giáo lư, nhưng bằng việc loan báo về Thiên Chúa t́nh yêu, bao dung
và về lương tâm tự do. Việc công bố Tin mừng sẽ vang vọng khắp nơi nếu mọi người
đồng tâm tranh đấu cho nhân phẩm." (Zenit 23.09.2002)
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
Có
hay là không ?
Mt 21,26-32
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Nhạy cảm trước t́nh yêu
Sau khi Đức Giêsu đuỗi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, các
thượng tế và kỳ mục rất bực ḿnh. Họ chất vấn Đức Giêsu : "Ông lấy quyền nào mà
làm những điều ấy ? Ai cho ông quyền ấy ?" Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của
họ, Người lại hỏi họ : "Phép rửa của ông Gioan do đâu mà có ? " Nếu họ trả lời
được câu hỏi này, th́ họ cũng trả lời được điều họ đă chất vấn Đức Giêsu, bởi v́
ai ai cũng tin ông Gioan là ngôn sứ làm chứng về Đức Giêsu ; nếu tin ông Gioan
th́ cũng phải tin Đức Giêsu.
Các thượng tế và kỳ mục lúng túng. Họ không biết phải trả lời
thế nào, hay nói đúng hơn, họ không dám trả lời, v́ họ nhận thức được mối liên
hệ giữa vị Tiền Hô và Đấng Thiên Sai. Nếu nhận phép rửa của ông Gioan là do từ
Thiên Chúa th́ cũng phải nhận Đức Giêsu từ Thiên Chúa sai đến, v́ chính ông
Gioan loan báo và chỉ cho dân biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Bởi vậy, họ nghĩ
rằng tốt hơn hết là tảng lờ như không biết.
Trước lời đáp giả vờ này, Đức Giêsu kể dụ ngôn về hai người con
để vạch rơ tâm địa và sự sai trái của họ.
Thượng tế và kỳ mục ... thu thuế và gái điếm. Hai thế giới riêng
biệt, chẳng có ǵ liên lạc với nhau, nhưng Đức Giêsu đă đặt hai thế giới đó bên
cạnh nhau, có vẻ như hơi thô bạo, để làm bùng nỗ những khác biệt về xă hội cũng
như về tôn giáo.
Lời giảng của Đức Giêsu gây bối rối cho những người không cảm
thấy rung động trước lời Chúa. Họ đă bị đóng kín trong một hệ thống vững chắc có
vẻ như rất phù hợp với tinh thần tôn giáo, và rất đạo đức, nhưng thực ra, chính
hệ thống ấy lại hàm chứa những yếu tố khiến Thánh Thần không thể hoạt động.
Dụ ngôn là một lời tra vấn những kẻ chống đối Đức Giêsu và t́m
cách bắt bẻ Người. Ư nghĩa của dụ ngôn này thật rơ ràng : trong hai người con,
người thi hành ư định của cha lại không phải là kẻ chỉ nói suông, nhưng là kẻ,
dù đă từ chối vâng lời, nhưng lại sám hối và thi hành.
Người ta có thể nhận ra ngay Đức Giêsu muốn nói đến các thượng
tế và kinh sư qua h́nh ảnh người con thứ hai, c̣n những người thu thuế và gái
điếm trong h́nh ảnh người con thứ nhất. Khởi đầu, những người này có lẽ đă lầm
lạc, đă hành động không phù hợp với thánh ư, và tỏ ra xa lạ với Nước Thiên Chúa,
nhưng cuối cùng họ đă hối hận, đă cảm thấy cần phải thay đỗi đời sống khi nghe
sứ điệp của ông Gioan.
Sau đó, cuộc tra vấn c̣n tiếp tục mạnh mẽ hơn : "những người thu
thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy". Đức Giêsu tố cáo
những kẻ chất vấn Người là đă không đón nhận sứ điệp do ông Gioan loan báo. Họ
tự nhận ḿnh là những người tốt, và coi thường những người khác. Trong thực tế,
những người vốn thường bị kết án là những người tội lỗi lại có tinh thần nhạy
cảm trước Tin Mừng.
Và điều quan trọng hơn "khi đă thấy vậy rổi, các ông cũng vẫn
không chịu hối hận mà tin ông ấy." Câu nói của Đức Giêsu như muốn đặt ra một câu
hỏi việc người tội lỗi được sống không phải là một dấu chỉ về Nước Trời sao ?
Tại sao lại có những người muốn tự giam hăm chính ḿnh khi nghĩ rằng ḿnh đă nắm
giữ sự thật và đă nên công chính ? Những người này rất khó có thể nhận ra Thiên
Chúa-T́nh Yêu.
Làm hơn là nói
Qua dụ ngôn, Đức Giêsu muốn cho người ta hiểu rằng những người
vốn bị coi là tội lỗi chưa hẳn là đă xấu và bị kết án, và những người được coi
là đạo đức chưa hẳn là đáng khen ngợi. Những hoàn cảnh này chưa phải là yếu tố
để kết án hay khen thưởng, bởi v́ Thiên Chúa không chỉ xét đoán dựa trên những
nhăn hiệu người ta thường gán cho ḿnh hay cho người khác. Người nh́n thấu điều
bên trong, vượt khỏi những biểu hiện bên ngoài và cách đánh giá của con người
không giống như cách đánh giá của Thiên Chúa.
Người ta sẽ dễ dàng kiểm chứng giáo huấn của Đức Giêsu khi nhắc
lại những đoạn văn Tin Mừng khác. Chẳng hạn dụ ngôn về những người thợ làm vườn
nho được gọi vào giờ thứ mười một, dụ ngôn về người con hoang đàng, câu chuyện
về người phụ nữ Sa-ma-ri, người trộm lành, Ma-ri-a Mác-đa-la ... Tất cả những
người này đă có thái độ rộng mở trước sứ điệp của Đức Giêsu. Chính hoàn cảnh bất
hạnh tuy không đáng khen, đă giúp họ đạt được những sự giàu có mới lạ. Chính đời
sống khốn khỗ đă giúp họ nhận ra sự thiệt tḥi, sự mất mát của ḿnh và họ muốn
chuộc lại. Nhờ thái độ chân thành, họ đă khám phá ra t́nh yêu và họ gắn bó với
t́nh yêu, và măi măi họ sẽ không mất t́nh yêu.
Trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thái độ vâng
phục phải được diễn tả bằng hành động, chứ không phải chỉ là thưa "vâng" hay
"a-men". "Làm theo ư muốn của Cha" có ư nghĩa cụ thể là hối hận v́ sự từ chối
của ḿnh và sau đó dấn thân hoạt động cho Nước Thiên Chúa. Như vậy, thái độ vâng
phục đích thực không phải là tự măn, không dậm chân tại chôỵ, ở yên trong trạng
thái tốt lành theo chủ quan của ḿnh.
Do đó, dụ ngôn chống lại thái độ cứng ḷng trong tâm hổn, sự
kiêu hănh tôn giáo, sự an b́nh giả tạo. Con người phải luôn hoán cải và để cho
người ta hoán cải không ngừng. Bởi v́ từ một thái độ sai lạc, người ta sẽ lạc
vào đường xấu, cho dù bên ngoài xem ra tốt đẹp.
Dụ ngôn ca ngợi tinh thần hối cải, chứ không phải thái độ từ
chối ban đầu. Dụ ngôn khiển trách thái độ hoán cải giả tạo và thái độ bất măn
ban đầu. Khi con người đi từ thái độ chấp nhận đến từ chối, th́ đó là thái độ
đáng thương hại. V́ thực ra, phải đi từ từ chối đến chấp nhận mới hợp lư. Con
người mà luôn luôn liều lĩnh chối bỏ Thiên Chúa, cũng sẽ phải tỏ ra luôn sẵn
sàng hối cải cách trung thực nhất (x. R.Gutzwiller,
Suy niệm Tin mừng Mát-thêu, tập 2 ,trang 142).
Dĩ nhiên, nếu việc chấp nhận bằng lời nói được đi kèm với việc
làm th́ đó điều lư tưởng. Tuy vậy, vẫn phải nh́n nhận việc làm có giá trị hơn
lời nói. Cũng cần hiểu rằng việc chấp nhận không chỉ cần thiết vào lúc đầu,
nhưng phải là một thái độ thường xuyên. Hoán cải là một tinh thần đặc biệt của
Ki-tô giáo, ngừng hoán cải th́ việc chấp nhận trở thành dối trá. Không dám nh́n
nhận những thiếu sót của ḿnh để rổi thay đỗi và tiến lên phía trước, chính là
ngưng lại trên đường.
Loại bỏ tính thụ động
Dụ ngôn về hai người con phản ánh thực trạng của con người mọi
thời. Đức Giêsu không chỉ nói về những giới chức lănh đạo đương thời, nhưng c̣n
nói về chúng ta nữa.
Đă nhiều lần chúng ta nói : "Vâng, lạy Chúa", nhưng rổi vẫn
không nhúc nhích. Chúng ta vẫn cứ an tâm với những thói quen, những nguyên tắc
của ḿnh. Bởi thế, khi không muốn kiểm điểm lại đời ḿnh theo cách nh́n của
Thiên Chúa, chúng ta đă bỏ mất cơ may để Người hoán cải trái tim chai đá của
chúng ta thành trái tim bằng thịt.
Chúng ta cảm thấy quá an toàn, có vẻ như tự măn và không c̣n cảm
thấy bị đụng chạm ǵ trước câu nói của Đức Giêsu : "những người thhu thuế, những
cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy". Trong thực tế, không một ai
trong chúng ta dám đánh cuộc với những người này khi mà họ chẳng có một chút cơ
may có được những dấu chỉ về t́nh yêu của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, thế giới của chúng ta không hề thiếu những người
nghèo, những người bé mọn. Họ là những ngôn sứ của thời đại, tựa như vô số lời
đáp trả trước tiếng nói của Thiên Chúa.
Trở ngại đích thực và lớn lao nhất là tính thụ động. Tiếng
"Vâng" của chúng ta sẽ là sự khiêu khích, sự khinh bỉ với Đấng Phục Sinh, nếu
chúng ta cứ nghĩ rằng ḿnh đang đi đúng đường, cứ theo những bậc thang giá trị
của ḿnh, cứ dựa vào những nguyên tắc của con người.
V́ vậy, không bao giờ là quá trễ khi để cho Thiên Chúa hoán cải
chúng ta. Mỗi người cần nhớ lại bài Tin Mừng tuần trước : vào làm việc trong
vườn nho ở bất cứ giờ nào, điều ấy không quan trọng, nhưng nhất thiết phải đi
vào vườn nho.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
TỰ do đích thỰc
Mt 21,28-32
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Là một nhà giáo dục tài giỏi, Chúa Giêsu thường đặt những câu
hỏi chất vấn trước, hơn là đưa ra ngay những lời quả quyết, nhằm khơi gợi cho
người ta suy tư. Chúa hỏi thính giả đang nghe Ngài : “các ông nghĩ sao ?”, rồi
Chúa kể một dụ ngôn về hai thái độ của hai đứa con để ám chỉ về hai nhóm người.
Đứa con thứ nhất trả lời “không”, nhưng sau lại làm. Đó là h́nh ảnh nhóm người
bị khinh dể, miệt thị, kết án, là những người thu thuế và những người đàng điếm.
Họ không nói mà lại làm, tức là trước đó họ không giữ luật, nhưng nay nghe lời
Chúa giảng, họ đă sám hối và thay đổi đời sống. Đứa con thứ hai trả lời “vâng”,
nhưng sau lại không làm. Đó là h́nh ảnh nhóm người lănh đạo dân chúng thời đó,
là các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu. Họ nói mà không làm, tức là họ tự cho
ḿnh là giữ luật, nhưng lại không chấp nhận Chúa, không nghe lời Chúa giảng dạy,
không ăn năn hối cải.
Cả hai nhóm người trên đều đă sử dụng sự tự do của ḿnh để chọn
lựa cách sống cho cuộc đời ḿnh. V́ thế, bài Tin Mừng hôm nay nêu ra một điều
rất đáng chú ư và cần t́m hiểu, đó là sự tự do của con người. Chúng ta đều biết
: sự tự do đă được xác định, đă được tuyên xưng, đă được ca tụng như một trong
những giá trị cơ bản nhất trong cuộc sống của con người. Một nhà ai quốc Hy Lạp,
khi bị tù đày đă viết như sau : “Khôn ngoan là một điều tốt, nhưng nếu không có
tự do th́ khôn ngoan cũng trở thành vô ích. Lư lẽ là điều tốt, nhưng nếu không
có tự do th́ lư lẽ cũng trở thành vô ích. Có tất cả mọi thứ mà không có tự do
th́ kể là không có ǵ cả”.
Tự
do là ǵ ? Tự do là thế nào ? Đâu là tự do đích thực? Có phải tự do là được sống
theo sở thích, được hành động theo ư muốn của ḿnh ? Hay theo kiểu nói đơn giản
: tự do là muốn làm ǵ th́ làm ? Có đúng không? Đúng, nhưng chưa đủ. Tự do là
muốn làm ǵ th́ làm, nhưng c̣n phải thêm điều này nữa, là làm như luật pháp cho
phép. Bởi v́ nếu ai cũng hành động và sống theo sở thích của ḿnh, bất chấp luật
pháp, th́ xă hội sẽ rối loạn và không c̣n tự do nữa.
Như
vậy, tự do của con người không phải là một thứ tự do tuyệt đối, mà là một tự do
có điều kiện. Tự do của con người cũng giới hạn như chính con người. Ư thức được
những giới hạn ấy, ư thức được sự hiện diện của những người chung quanh, đó là
bước đầu tiên trong việc hướng đến tự do đích thực. Khuôn vàng thước ngọc để
sống tự do đích thực là lời khuyên của Chúa Giêsu : “Điều ǵ các ngươi không
muốn người khác làm cho ḿnh th́ các người cũng đừng làm cho người khác”. Lời
Chúa Giêsu là một khẳng định về tính cách giới hạn tự do của con người, đồng
thời cũng nói lên tính cách tích cực của tự do của con người. Con người chỉ thực
sự có tự do khi con người biết ra khỏi chính ḿnh để đến với người khác. Khắc
phục những đam mê và nô lệ trong con người của ḿnh để sống cho người khác, đó
là cung cách đích thực của một người có tự do.
Nhà
thần học nổi tiếng của Tin Lành là ông Pô-thét Bôn-voi-es-tô đă viết : “Con
người tự do nhất là con người có thể làm chủ, không phải đối với vũ trụ, nhưng
là làm chủ được những chọn lựa của ḿnh”. Quả thực, nói đến tự do là nói đến khả
năng chọn lựa. Chọn lựa th́ có thể chọn đúng, có thể chọn sai. Sai, lại có nhiều
thứ sai khác nhau, có thứ sai ít, có thứ sai nhiều, có thứ sai người ta có thể
làm lại được, có thứ sai một lần là măi măi mang niềm tủi hận. Đi lộn một khúc
đường th́ mất thời giờ đi lại, nhưng đi lộn lư tưởng cuộc sống là mất cả cuộc
đời. Mua lầm một cái áo th́ có thể mua cái khác, cưới lầm một t́nh yêu th́ vấn
đề lại khác rồi. Nhưng cái sai lầm lớn nhất là dấn thân vào những cái xấu mà cố
t́nh, cố chấp không nhận ḿnh sai lầm và không chịu cải sửa. Đó là thảm cảnh của
tự do trong vấn đề chọn lựa.
V́
thế, mỗi người chúng ta phải tự quyết định lấy. Mỗi người hăy cố gắng trở nên
ngày hôm nay điều chúng ta muốn cho ngày mai. Chúng ta phải biết can đảm chống
lại những khuynh hướng xấu, phải dứt khoát với những cám dỗ, những cái xấu.
Những lầm lỗi trong cuộc sống là điều không tránh khỏi : nhân vô thập toàn.
Nhưng điều quan trọng là biết dừng lại, biết hối hận và quyết tâm sửa đổi. Chúng
ta hăy nhớ : biết chấp nhận những giới hạn và những lầm lỗi là cung cách của một
người tự do đích thực.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
HỐi
HẬn Nên LẠi Đi
Manna
X
LỜi Chúa:
Mt 21, 28-32
Một hôm, Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân
rằng: 28 "Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến
nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hăy đi làm vườn nho". 29
Nó đáp: "Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30
Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây!"
nhưng rồi lại không đi. 31 Trong hai người con đó, ai đă thi hành ư
muốn của người cha?" Họ trả lời: "Người thứ nhất". Đức Giêsu nói với họ: "Tôi
bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa
trước các ông. 32 V́ ông Gioan đă đến chỉ đường công chính cho các
ông, mà các ông không tin ông ấy; c̣n những người thu thuế và những cô gái điếm
lại tin. Phần các ông, khi đă thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà
tin ông ấy".
X
Suy NiỆm
"Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông." Lời
nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư,
pharisêu, những người đáng kính v́ đạo đức và học thức, những người đáng trọng
v́ chức vụ. Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc
đáng kính như vậy?
Đức Giêsu đă soi sáng trước bằng một dụ ngôn. Người cha sai hai
đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa
con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi. Con thứ tượng trưng cho các nhà lănh đạo
Do Thái Giáo. Họ tuyên bố ḿnh sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính
sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự măn và khép kín đến nỗi không thể tin vào
Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.
Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xă hội
và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi
đă làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc,
họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người
khác.
Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không
tin vào Đức Giêsu. Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống. Niềm tin thực sự
luôn chuyển thành hành động. "Chúng tôi phải làm ǵ, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để
được gọi là làm việc của Thiên Chúa ?" "Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng
Ngài sai đến" Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29). Tin là một việc làm,
một dấn thân nghiêm túc. Niềm tin vào Đức Giêsu đ̣i hỏi một sự hoán cải và từ
bỏ. Giới lănh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền
lợi,
sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.
Kitô giáo là tôn giáo của ḷng tin. Ḷng tin bên trong phải được
biểu lộ ra bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).
Ḷng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng
bằng cuộc sống: "Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được
vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ư Cha Thầy" (Mt 7,21). Tôi phải tránh lối giữ đạo
h́nh thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một
khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.
X
GỢi Ư Chia SẺ
·
Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng
chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng gía thế nào về việc sống Lời Chúa của
bạn trong đời thường đầy bon chen?
·
Bạn nghĩ ǵ về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin
hiến thân xác anh cho y học ? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ
thể không ?
X
CẦu NguyỆn
Lạy
Chúa Giêsu,
sám
hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận ḿnh
lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với
các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa. Chúa đă muốn nên bạn đồng hành với phận
người mỏng ḍn yếu đuối chúng con.
Xin
cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của ḿnh, tỉnh
táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối ḿnh. Ước ǵ Chúa ban
cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những
cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh
phúc v́ được tự do và được yêu mến.
Manna
Ăn
Năn ThỐng HỐi
(Ez 18,25-28; Ph 2,1-11; Mt 21,28-32)
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
I. Phúc Âm:
Mt 21, 28-32
"Nó hối hận và đi làm. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào
nước Thiên Chúa trước các ông".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lăo trong
dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ
nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hăy đi làm vườn nho cho cha!" Nó thưa lại
rằng: "Con không đi". Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ
hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi". Nhưng nó
lại không đi. Ai trong hai người con đă làm theo ư cha ḿnh?" Họ đáp: "Người con
thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái
điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. V́ Gioan đă đến với các ông trong
đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái
điếm đă tin ngài. C̣n các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối
hận mà tin ngài".
II. Suy NiỆm:
Ai là người con thứ nhất theo bài Tin Mừng hôm nay? Và ai là
người con thứ hai? Phải chăng ở đây chỉ có ư nói đến các Biệt phái và Luật sĩ ở
thời Chúa Yêsu? Hay là Lời Chúa vẫn c̣n có giá trị cho chúng ta đang sống ở thời
này? Để giúp suy nghĩ đúng về các lời trong bài Tin Mừng này, chúng ta theo
Phụng vụ sẽ đọc lại cả hai bài Kinh Thánh kia, là bài sách Êzêkiel và bài thư
Phaolô.
A. Mọi Người Đều Phải Trở Lại
Thoạt đầu, chúng ta có thể nghĩ bài sách Êzêkiel rất đơn sơ: kẻ
công chính mà bỏ đường công chính để phạm tội cũng sẽ phải chết, c̣n kẻ ác nhân
biết bỏ điều ác đă làm để thi hành công chính th́ sẽ được sống. Chân lư ấy không
có ǵ khó hiểu. Đó là chuyện thường t́nh. Nhưng được viết trong Kinh Thánh và
trở nên những lời Kinh Thánh, những câu khẳng định kia không c̣n đơn giản như
người ta có thể nghĩ.
Trước hết, trên khắp thửa đất Israel bấy giờ người ta vẫn bô bô
câu cách ngôn này: "Cha ăn nho xanh, con sẽ ghê răng", nghĩa là tội lỗi của cha
mẹ sẽ để hậu quả lại cho con cái. Và trong xă hội thời xưa, nhiều khi người ta
phạt tội cha cho tới đời con và đời cháu. Không biết c̣n có xă hội loài người
nào hiện nay cư xử như thế nữa không? Dù sao sự kiện ấy cũng cho chúng ta thấy
rằng ở thời Êzêkiel không dễ ǵ có thể đưa ra một châm ngôn khác để quyết rằng
mạng nào có tội mạng ấy phải chết, và ai nấy đều có trách nhiệm về hành động của
ḿnh. Nói đúng ra, bấy giờ người ta để ư đến trách nhiệm của tập thể quá đến nỗi
hầu như không c̣n nói đến trách nhiệm của cá nhân.
Nhất là nơi dân Dothái. Ư thức tập thể ngay từ đầu đă quá mạnh.
Người dân không thấy rơ trách nhiệm của ḿnh. Ngay cả khi các ngôn sứ kêu gọi ăn
năn thống hối, người ta dường như cũng cứ chờ đợi cả xă hội cải tạo đời sống chứ
từng cá nhân cảm thấy bất lực trước vận mạng của dân tộc ḿnh. Nhưng với những
lời như bài nói hôm nay, ông kêu gọi mọi người phải nỗ lực. Người đang công
chính phải cố gắng giữ vững đường lối và tiếp tục thi hành công chính. Kẻ gian
ác hăy tỉnh ngộ, canh tân đổi mới đời sống để khỏi bị án phạt. Đó là điều ông
nhắm, là giáo huấn lúc này của ông v́ ông thấy nếu mọi người không ư thức trách
nhiệm của ḿnh, th́ làm sao có thể cầm giữ lại được con đường sa đọa mà Dân Chúa
đang đi vào.
Như vậy bảo rằng ông rao giảng một giáo lư mới, khác hẳn truyền
thống xưa nay, thiết tưởng cũng không đúng. Ông khuyến khích người ta ư thức
phần trách nhiệm cá nhân của ḿnh để mọi người nỗ lực sống thánh thiện hơn chứ
không phải ông phủ nhận hoàn toàn trách nhiệm giữa loài người với nhau. Sống
trong xă hội mà mọi người đang có ư thức mạnh về điều mà người ta thường nói:
đồng hội đồng thuyền, Êzêkiel nói mạnh đến trách nhiệm cá nhân và tự do của mỗi
người để mọi người đều cố gắng hầu cứu văn "hội" và "thuyền" đang chở ḿnh đi
trong gịng lịch sử.
Sở dĩ chúng ta cần nói như vậy để tránh xa cảm giác cho rằng vấn
đề tôn giáo là chuyện cá nhân; đạo đức là vấn đề của mỗi người, việc lên thiên
đàng hay xuống hỏa ngục chỉ tùy thiện chí của mỗi người. Không, ngay từ đầu
Thiên Chúa đă sáng tạo một nhân loại liên đới mật thiết với nhau, cả trong sự
tội cũng như trong ơn cứu độ. Một Ađam đă sa ngă khiến hệ lụy c̣n đè nặng trên
con cháu; nhưng một Ađam Mới đă đến mở đường cứu độ cho hết mọi con người. Loài
người liên đới mật thiết với nhau, nhưng trong sự liên đới này mỗi người lại có
tự do tuyệt đối và v́ thế có trách nhiệm cũng tuyệt đối luôn. Ở đây không thể
nào đi sâu vào giải thích vấn đề nhiệm mầu này. Nhưng cần phải nêu lên để chúng
ta hiểu rơ giáo lư của Lời Chúa hôm nay. Qua miệng Êzêkiel, Người kêu gọi mọi
hạng người phải nỗ lực sống thánh thiện. Kẻ công chính hăy cố gắng tiếp tục thi
hành công chính, kẻ gian ác phải mau từ bỏ tội lỗi và trở về đường ngay.
Và đó là đường lối của Chúa. Người muốn cứu độ mọi người. Người
muốn con người được sống và sống dồi dào. Người không muốn kẻ công chính hư đi
và chẳng muốn kẻ tội lỗi bị luận phạt. Nơi Người chỉ có t́nh thương. Chỉ muốn
hạnh phúc cho hết mọi người. C̣n thật sự con người sẽ được hạnh phúc hay không,
là tùy ở chính họ có muốn hay không muốn được hạnh phúc, v́ làm sao có thể ép
buộc ai hạnh phúc khi họ không muốn? Tuy nhiên v́ bản chất tốt lành của Người,
v́ t́nh yêu bao la của Người, Thiên Chúa luôn đặt hạnh phúc ở tầm tay mọi người.
Kẻ công chính hăy tiếp tục thi hành công chính để khỏi mất hạnh phúc và kẻ tội
lỗi hăy thật ḷng trở lại để được hạnh phúc.
Thế nên, nếu bảo Êzêkiel là ngôn sứ về trách nhiệm cá nhân, th́
cũng đừng quên trước hết phải nói ông là tiên tri về t́nh yêu đằm thắm của Thiên
Chúa (xem ch. 16). Chính t́nh yêu sâu xa lênh láng này hôm nay dùng miệng
Êzêkiel để kêu gọi mọi hạng người trong Dân Chúa nỗ lực để được hạnh phúc. Lời
ấy thiết tưởng không bao giờ không thức thời. Và khi chúng ta đă ư thức như vậy,
việc t́m hiểu bải Tin Mừng hôm nay sẽ có giá trị thiết thực cho hết mọi người
chúng ta.
B. Trở Lại Là Tin Vào Chúa Yêsu
Thật vậy, nếu không ư tứ chúng ta chỉ đọc bài Tin Mừng trong
lịch sử mà thôi. Chúng ta thấy Chúa Yêsu đang nói với các Thượng tế và hàng niên
trưởng của dân Dothái lúc bấy giờ. Người đưa ra một thí dụ về người con thứ nhất
và người con thứ hai để trách họ không biết hối hận về thái độ của họ đối với
Yoan Tẩy giả và theo đó đối với Người.
Để hiểu rơ chúng ta hăy xây dựng lại bối cảnh của bài Tin Mừng
như sau: Hôm ấy, các Thượng tế và Niên trưởng của Dân đến chất vấn Đức Yêsu:
"Quyền đâu mà ông làm các điều ấy?". Họ có ư nói đến việc Chúa xua đuổi phường
con buôn ra khỏi đền thờ. Đáp lại, Người cũng chất vấn họ một câu: "Thanh tẩy
của Yoan từ đâu đến?". Trả lời được câu hỏi này, tức khắc không cần trả lời câu
trên nữa, v́ nếu tin Yoan cũng sẽ tin Người, bởi lẽ Yoan đă làm chứng về Người.
Các Thượng tế và Niên trưởng lúng túng. Họ không dám trả lời. V́
nếu nói tin Yoan, họ phải tin Người; c̣n nếu bảo không, họ sợ dân chúng phản đối
v́ ai ai cũng tin Yoan là sứ giả của Thiên Chúa. Trước thái độ không dứt khoát
như thế, Chúa Yêsu đă hành động, như bài Tin Mừng hôm nay kể.
Người lấy thí dụ về hai người con để ám chỉ. Ḱa hạng thu thuế
và đàng điếm trước kia không giữ Luật pháp nay nghe lời Yoan, họ đang trở lại
hối hận tội lỗi của ḿnh. C̣n các ông, Thượng tế và Niên trưởng, cứ bảo ḿnh giữ
Luật Chúa thế mà chẳng ăn năn thống hối ǵ theo lời rao giảng của Yoan, cho dù
đă và đang thấy bao nhiêu người đang trở lại. Ai là người con thứ nhất khó bảo
và ai là người con thứ hai? Người ta cứ tưởng người con thứ nhất khó bảo, c̣n
đứa con thứ hai thường được thương hơn nên dễ vâng lời hơn. Nhưng vâng lời đích
thực không phải ở ngoài miệng, mà ở việc làm. Hạng thu thuế và đàng điếm đang
đến với Yoan để xin rửa: họ làm sự công chính. C̣n nhiều kẻ vỗ ngực tự xưng là
giữ Luật pháp th́ lại không làm ǵ cả!
Và cũng đừng tưởng họ không làm ǵ. Hăy nghe Chúa Yêsu kể tiếp
ví dụ về bọn tá điền. Khi chủ vườn nho sai người đến hỏi huê lợi, chúng đă lần
lượt bắt giết tất cả và cuối cùng đă giết cả người con của chủ vườn sai đến nữa.
Người báo trước, các Thượng tế và Niên trưởng cũng sẽ xử với Người như vậy.
Lời Người có làm rung động ḷng họ không? Dù sao hôm nay Người
cũng muốn nói với họ: nếu quả thật họ là người công chính, họ hăy thi hành công
chính đi. Này ḱa tội nhân đang thống hối ăn năn để đi vào Nước Trời, họ cũng
hăy tin vào Con Thiên Chúa đă được sai đến thu hoạch hoa quả đạo đức trong đời
sống của mọi người.
Chắc chắn chúng ta không giống họ. Chúng ta đă tin Chúa Yêsu
Kitô. Nhưng đó có phải là đức tin có việc làm hay không? V́ tin mà không làm th́
có khác nào người con thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng làm ǵ?
C. Và Hăy Lo Cho Được Đồng Tâm Ư Hợp
Mở đầu bài thư hôm nay, thánh Phaolô có giọng long trọng khác
thường. Điều người sắp nói chắc phải quan hệ. Nhưng cũng không phải là điều
buồn. Ngược lại nó sẽ làm cho nỗi vui mừng của người nên trọn. Tuy nhiên chúng
ta cũng phải biết, đối với một Tông đồ như thánh Phaolô, cái ǵ có thể làm cho
người vui mừng và rất vui mừng, nếu nó không làm cho giáo đoàn của người tốt đẹp
hơn? Phải nói rằng chỉ có sự thăng tiến và hạnh phúc của giáo đoàn mới làm cho
tâm hồn người được thỏa măn. Nhất là đối với một giáo đoàn như giáo đoàn ở
Philip. Thánh Phaolô rất cưng giáo đoàn này. Và họ cũng rất chung thủy, thắm
thiết với người. Thế nên điều làm cho thánh Tông đồ vui mừng hoàn toàn đối với
giáo đoàn này, chính là điều giáo đoàn này cần phải làm cho họ được nên trọn
lành và công chính hơn. Rồi đây xét cho cùng chúng ta sẽ thấy đó cũng là điều
cần thiết cho chúng ta hơn cả.
Vậy sau khi mở đầu bằng những lời rất thắm thiết, thánh Phaolô
khuyên bảo giáo đoàn Philip: Hăy lo cho được đồng tâm ư hợp với nhau! Phải chăng
v́ họ đang chia rẽ lục đục? Dường như không. V́ nếu có chắc chắn thánh Phaolô đă
kể ra. Đàng này chúng ta chỉ thấy người nói đến những điều rất thường như đừng
làm v́ ganh tị, v́ hư danh... đừng chỉ dán mắt vào những điều sở đắc nơi ḿnh,
song cả vào những điều sở đắc của người khác nữa. Không, thánh Tông đồ khuyên
nhủ sự hiệp nhất không phải v́ anh em có những cái tiêu cực to lớn nào... nhưng
có thể nói, v́ đă tin vào Đức Yêsu Kitô, th́ anh em "hăy có nơi ḿnh tâm tư như
đă có ở nơi Người". V́ chúng ta đă đi theo Chúa Yêsu th́ chúng ta phải bắt chước
Người và sống như Người.
Thế mà một bản thánh ca rất quen thuộc ở thời bấy giờ đă mô tả
Đức Yêsu Kitô như đoạn tiếp theo của bài thư hôm nay. Thánh Phaolô có lẽ đă chép
lại bản ấy và gửi cho giáo đoàn Philip. Cũng có thể bấy giờ người đang ở trong
tù, không có điều kiện để viết nhiều, người đă bảo một ai ở ngoài chép lại, đính
vào những lời mở đầu tâm huyết trên đây. Bản thánh ca ấy ngày nay phụng vụ c̣n
hát một cách đặc biệt trong tuần lễ thánh, để mọi người thấm thía chân dung của
Chúa Cứu thế:
"Ngài, phận là phận một Vị Thiên Chúa...
song Ngài đă hủy ḿnh ra không,
lĩnh lấy thân phận tôi đ̣i...
Ngài đă hạ ḿnh thấp hèn hơn nữa
trở thành vâng phục cho đến chết
và chết trên thập giá.
Bởi vậy Thiên Chúa đă siêu tôn Ngài
và ban cho Ngài Danh hiệu...
hầu mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng:
Yêsu Kitô Là Chúa"
Chúng ta phải khâm phục tài đức của người xưa. Chúa Yêsu Kitô mới tử nạn-phục
sinh có mấy chục năm, mà thần học của Hội Thánh đă phát huy đầy đủ trong bộ áo
văn chương nghệ thuật và thi vị như thế! Ngày nay người ta khó viết hơn được như
vậy. Mọi vẻ đẹp của Đức Yêsu Kitô đă được gói ghém trong mấy câu thơ này. Thiên
tính của Người ngang hàng với Thiên tính nơi Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên Người đă
hủy ḿnh ra không khi mặc lấy thân phận con người là tôi đ̣i sánh với Thiên Chúa.
Và Người đă đồng hóa, giống hẳn người ta. Rồi hơn thế nữa, Người đă hạ ḿnh thấp
hèn, trở thành vâng phục, không phải vâng phục bôi bác như con cái Israel nói
Luật mà không làm Luật, nhưng vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá.
Đó
là những phận vụ công chính mà Đức Yêsu Kitô đă làm. Người để gương lại cho
chúng ta. Thánh Phaolô khuyên người dân Philip hăy có những tâm tư như thế để
đừng làm ǵ v́ ganh tị, v́ hư danh; nhưng thật ḷng khiêm nhường, coi kẻ khác
trổi trang hơn ḿnh, hầu có thể đồng tâm ư hợp, làm nên cộng đoàn bác ái là bản
chất của Hội Thánh và là Nhiệm Thể của Đức Yêsu Kitô.
Tuy
nhiên nơi Người không phải chỉ có mầu nhiệm vâng phục, song sau đó, đáp lại c̣n
có hành động của Thiên Chúa. Và ở đây bản thánh ca đă mượn lại nghi thức phong
vương ngày xưa nơi các triều đ́nh để gợi lên những ǵ Thiên Chúa đă làm cho Đức
Yêsu Kitô.
Trước hết có nghi lễ giới thiệu: Thiên Chúa đă siêu tôn Ngài; rồi có nghi lễ
phong tước: Thiên Chúa ban cho Ngài Danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu; và sau
cùng có sự hoan hô, chấp nhận, tùng phục của hết mọi người: nên mọi gối đều phải
quỳ xuống bái lạy và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Yêsu Kitô là Chúa.
Chúng ta sung sướng v́ bản thánh ca này. Chúng ta hứa sẽ thuộc, sẽ hát để diễn
tả đầy đủ mọi tâm tư đối với Chúa Yêsu. Nhưng thánh Phaolô bảo chúng ta phải có
những tâm tư ấy ở nơi ḿnh để chúng ta đồng tâm ư hợp-điều này tất nhiên sẽ đến-;
nhưng nhất là để chúng ta trở nên tốt hơn. Chúng ta sẽ đáp ứng lời kêu gọi của
Thiên Chúa qua miệng Êzêkiel khi người tuyên bố ai ai cũng phải nỗ lực tiến bộ
hơn về mặt thánh thiện. Và chúng ta sẽ vâng lời chính Đức Yêsu theo như lời
Người nói trong bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta phải đón nhận Người.
Chúng ta sẽ đón nhận Người khi rước lễ. Nhưng để việc đón nhận này không phải
chỉ là một cử chỉ bên ngoài nhưng thật sự là ước muốn chân thật, chúng ta hăy
mang vào trong ḿnh những tâm tư của Người mà thánh Phaolô đă dùng một bản thánh
ca để gợi lên. Có như vậy việc suy niệm Thánh Kinh và việc tham dự thánh lễ hôm
nay mới chân thực; chúng ta mới khá hơn và đời sống cộng đoàn mới có khả năng
tiến bộ. Chúng ta cố gắng làm như vậy!
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
|