Chủ nhật 28 Thường niên

  Mục lục

 

CN XXVIII Thường niên A

Mt. 22, 1 - 14

12-10-2008

CN XXVIII Thường niên           Lm. PX Vũ Phan Long, ofm                 02

CN XXVIII Thường niên         Lm Carolô Hồ Bặc Xái                          13

CN XXVIII Thường niên         Lm  Domergue, SJ                               19

CN XXVIII Thường niên         Lm  Augustine, SJ                               22

CN XXVIII Thường niên         Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR       28-31

CN XXVIII Thường niên         Lm Giuse Đinh Lập Liễm                          34

CN XXVIII Thường niên         Lm Trần Thanh Sơn                             43

CN XXVIII Thường niên         Lm Bênadô Nguyễn Tiến Huân 47

CN XXVIII Thường niên         Rev. Gioan Trần Khả                            49

CN XXVIII Thường niên         Giêrônimô  Nguyễn Văn Nội                     53

CN XXVIII Thường niên         Lm Louis Hữu Độ, CMC                       57

CN XXVIII Thường niên         Lm  Minh Vận, CMC                             59

CN XXVIII Thường niên         Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb          62

CN XXVIII Thường niên         John Nguyễn                                         65

CN XXVIII Thường niên         Lm. An Phong, OP                               70

CN XXVIII Thường niên         Lm Giuse Đỗ Vân Lực, OP                72-76

CN XXVIII Thường niên         Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP           80

CN XXVIII Thường niên         Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP    85

CN XXVIII Thường niên         Manna                                                  89

CN XXVIII Thường niên         Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm       92

CN XXVIII Thường niên         Gp. Vĩnh Long                                                  99

Nền thần học Paulinienne     Lm. Nguyễn Hữu Thy                           109

 

 

DỤ ngôn tiỆc cưỚi hoàng gia

Mátthêu 22,1-14

Cũng như dân Do-thái đă bị loại bởi v́ họ đă tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đă đón nhận lời mời.

Lm PX. Vũ Phan Long, ofm

 

I. NgỮ cẢnh

Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho (21,33-46) và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang một sứ điệp rất giống nhau. Bằng các dụ ngôn này, với một lời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc, mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào, nhưng phải thấy rơ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân cho kịp thời.

 

Thật ra các dụ ngôn và các lời khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lănh đạo Do-thái giáo, nhưng cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Người ngỏ với chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới. Không một ai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại lượng ước muốn rằng lời mời của Ngài được đón nhận.

 

 

II. BÔ cỤc

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

 

1) Mở (22,1);

2) Dụ ngôn Tiệc cưới (22,2-[6-7]10);

3) Dụ ngôn Áo cưới (22,11-13);

4) Kết luận (22,14).

 

III. Vài điỂm chú giẢi

 

- mở tiệc cưới cho con ḿnh (1): H́nh ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước (Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Người.

 

- nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô), là một động từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả một quyết định rơ ràng.

 

- Vậy các ngươi đi ra các ngả đường (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hăy đi)  oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như một mệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”)

 

- bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi, một khi đă được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa ḿnh khi đă vào trong Vương Quốc hoặc trong Họi Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối, sẽ bị loại trừ  ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Họi Thánh). Các câu 11-14 hiểu theo nghĩa thứ hai này.

 

- quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nh́n xem; chiêm ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào một lúc nào đó để chào cách quan khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Họi Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do-thái), nay được đưa vào đây để sửa chữa một lối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Họi Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Họi Thánh của Đức Vua! Đă nhận ơn, th́ phải sống theo chiều hướng của ơn đă nhận.

 

- không có y phục lễ cưới (12): “Y phục lễ cưới” này hẳn cũng là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái của Vương Quốc. Đây là “sự công chính” thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.

 

- kẻ được gọi th́ nhiều, mà người được chọn th́ ít (14): Ngôn ngữ Híp-ri không có những h́nh thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh (comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh th́ mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt 22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…

 

IV. Ư nghĩa cỦa bẢn văn

 

*  Mở (1)

Dụ ngôn này được ngỏ với những thính giả đă được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45), những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô. Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở đây là một vị vua. Ông chủ nhà sai đầy tờ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi; đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường hợp, các tôi tớ đều thất bại v́ những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả hai trường hợp, có liên quan đến một “người con [trai]”. Những điểm song song đó cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến một số nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đă tự gọi ḿnh là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. C̣n những người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.

 

* Dụ ngôn Tiệc cưới (2-[6-7]10)

Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đ̣i hỏi về công b́nh; ở đây là một lời mời, một vinh dự diễn tả cho một ai đó. Một bên là ông chủ đ̣i hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối đa nmgười ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, v́ ở đây không c̣n chuyện vi phạm một quyền, nhưng là một xúc phạm nặng nề đến danh dự. Đă thế, thái độ thiếu quan tâm c̣n trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu v́ sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm ǵ bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không c̣n phải là một đe dọa, nhưng là một hành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia sang dụ ngôn này, có một sự tiệm tiến.

 

Những “người đă được mời” (keklêmenous) là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu, những người đang sống trong những tương quan thân t́nh với nhà vua. Việc nhà vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách  (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của ḷng tốt của nhà vua, nhưng đă không được đáp lại. Đúng ra, nhà vua chỉ nhận được một sự từ khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3); các động lực thâm sâu là họ có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Thế là từ tư cách những người đầu tiên được ưu đăi, người Do-thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c.  8) không phải v́ họ có những thiếu sót  hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ từ khước.

 

Đức vua đă huy động quân lính đi “tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Tại sao sự việc lại trở nên gia trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là một vài người trong số khách được mời thôi. Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này, cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối câu chuyện cho hợp lư, th́ phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các thắc mắc này khiến ta phải nh́n nhận rằng cc. 6-7 là một câu lạc lơng.

 

Rất có thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đă xảy ra vào năm 70. Chỉ điều này mới giải thích được v́ sao tác giả gán một tầm quan trọng đặc biệt cho chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân không phải chỉ là một vài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả các thợ làm vườn nho đă giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như thế ở đây Mt không chỉ làm chứng trung thành về các lời của Đức Giêsu đă được truyền đạt cho ngài, nhưng c̣n cung cấp cho chúng ta cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi của Họi Thánh. Hai phương diện này được kêt nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được Họi Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.

 

Các đầy tớ có nhiệm vụ ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả những ai họ gặp trên đường vào pḥng tiệc, không cần tên tuổi, màu da. Do đó pḥng tiệc hẳng mấy chốc đă đầy một khối người đa tạp. Sự đa tạp này không do khác nhau về y phục, về địa vị xă hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là một sự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt (c. 10). Chúng ta chỉ hiểu được t́nh trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ tới. Lời mời đă được ngỏ với dân Ít-ra-en, nhưng họ đă không muốn đón nhận; thế là lời mời được gửi đến một dân mới, Dân ngoại. Đây không c̣n phải là một dân gồm những người trong sạch và các thánh, mà là một xă hội đa tạp gồm những người xấu và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Họi Thánh, như cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, pḥng tiệc cũng đă đầy v́ mọi người được tự do đi vào. Nhưng sẽ có một cuộc biện phân quyết định: lời mời không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên phải có một cuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu của phần thứ hai của bài dụ ngôn.

 

* Dụ ngôn Áo cưới (11-13)

Đến đây khung cảnh vẫn là bữc tiệc, nhưng sự chú ư lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không c̣n phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đăi một bữa tiệc linh đ́nh nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo cưới (và tất cả những người khác th́ lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề một cái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đă được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi v́ dụ ngôn đă ghi trước đó là trong pḥng có kẻ xấu người tốt. Rơ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu. Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm”, nơi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng”, tức là người ấy bị tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đă không hề quan tâm đến vinh dự đă nhận; họ đă đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân trọng, không biết ơn.  

 

Bữa tiệc là h́nh ảnh Nước thiên sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đă yêu cầu các môn đệ phải có một “sự công chính dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các tương quan với Thiên Chúa. 

 

Nhận được lời mời không đương nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi th́ nhiều, điều này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt b́. Nhưng khả năng đi vào không có nghĩa là một bảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Họi Thánh không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không cơ sở là ḿnh có ơn cứu độ.

 

 

* Kết luận (14)

Câu kết luận “V́ kẻ được gọi th́ nhiều, mà người được chọn th́ ít” thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được chọn” đây là những người được nhận một ơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào ḷng từ bi thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, c̣n đa số chỉ nhạn được một ơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do-thái thời Người mà thôi: tất cả đều được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đă từ khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.

 

Cả hai cách giải thích này đều có phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người khách bất xứng đă bị quăng ra ngoài bởi v́ đă lén đi vào một nhóm nhỏ gồm những người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rơ là người ấy bị loại bởi v́ thiếu điều tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không thỏa đáng. Bởi v́ người khách bị loại đă đi vào với nhóm thứ hai, nên người này là một người ngoại chứ không phải là một người Do-thái; thế nhưng lại chính vào lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị loại trừ; làm sao có thể nói đến một số “ít” (nhỏ) những người được chọn?

 

Do đó, giải pháp đơn giản nhất nằm ở b́nh diện ngữ học: đây là hai công thức so sánh theo ngôn ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi th́ nhiều [hơn], nhưng những người được chọn th́ ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi th́ rất đông, nhưng rồi có những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi, nhưng những người được chọn th́ ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ư mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc 13.22-24 trong chiều hướng này).

 

KẾt luẬn

Tầm nh́n của bản văn có thay đổi: Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đă trở thành một minh họa đời sống của Họi Thánh. Đă là những người được thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa, người Do-thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, từ phía Đức Giêsu  cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế hoạch của Chúa quan pḥng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, th́ Họi Thánh đă quy tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Họi Thánh cũng như các khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề v́ bất cứ khi nào vị thẩm phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi pḥng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân Do-thái đă bị loại bởi v́ họ đă tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đă đón nhận lời mời.

 

Tuy nhiên, chính chúng ta phải thấy ḿnh được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Người. 

 

V. GỢi ư suy niỆm

 

1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là một đề nghị không quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta có một tự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà c̣n xác định được các hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối, Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải chịu một kết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ bị loại trừ (22,8).

 

2. Chúng ta có thể chọn lựa tự do, nhưng chúng ta không c̣n tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của chúng ta, bởi v́ chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta với tiếng không này. Cần phải ư thức như thế để không xử sự cách phi lư, khi không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.

 

3. Bữa tiệc không chứa những yếu tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính h́nh ảnh vẫn có thể gợi ra những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong  Họi Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là “những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật t́nh trạng thánh thiện và ân sủng mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.

 

4. Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đă được mặc một áo trắng, và vị chủ lễ đă chúc chúng ta giữ cho nó được  tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đă làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến tŕnh diện trước ṭa của ḷng từ bi thương xót, đo là bí tích ḥa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của t́nh thân mật đă t́m lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng ḿnh đă “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải v́ ta đang “ở trong” mà ta đă được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đă từ khước. Cho dù có ở trong Họi Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng-không.

 

 

Lm PX. Vũ Phan Long, ofm

 

 

Chúa mỜi chúng ta dỰ tiỆc NưỚc TrỜi

Mt 22,4

Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

I. DẪn vào Thánh lỄ

Anh chị em thân mến

Có nhiều niềm hạnh phúc chúng ta đang hưởng mà không ư thức, chẳng hạn hạnh phúc được làm con Chúa, hạnh phúc được ở trong Giáo Hội, hạnh phúc mỗi tuần được dự tiệc của Chúa.


Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta ư thức những hạnh phúc ấy; và chúng ta cũng xin Ngài dạy chúng ta biết sống thế nào để xứng đáng với tấm ḷng của Chúa.

 

II. GỢi ư sám hỐi

·        Tuy vẫn biết hạnh phúc Nước Trời là quư báu nhất, nhưng rất nhiều khi chúng ta coi trọng những giá trị vật chất hơn. Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa.

·        Dù đang ở trong Nước Chúa và làm công dân Nước Chúa, nhưng cách sống của chúng ta chưa xứng đáng.

 

III. LỜi Chúa

1. Bài đọc I (Is 25,6-9)

Bữa tiệc mà ngôn sứ Isaia mô tả có những nét đáng chú ư sau đây:

·        Người thết đăi là "Chúa các đạo binh"

·        Khách được mời dự là tất cả các dân

·        Nơi dọn tiệc là "trên núi này", tức là núi Sion.

Trong bữa tiệc đó, người dự không chỉ được thưởng thức những thức ăn ngon, mà c̣n được cất khỏi mọi buồn sầu, tủi hổ, tang chế.

Đó chính là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.

 

2. Đáp ca (Tv 22)

Tv 22 này rất quen thuộc đối với mọi tín hữu: Thiên Chúa là một mục tử chăm sóc đoàn chiên hết sức chu đáo: lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi, và c̣n bảo vệ để chiên có thể "ăn tiệc" thoải mái ngay trước mặt quân thù.

 

3. Bài đọc II (Pl 4,12-14.19-20) Chủ đề phụ

Trong thời gian Phaolô bị cầm tù, tín hữu Philipphê đă rộng răi giúp đỡ ông. Trong lá thư cám ơn gởi cho họ, Phaolô nói 2 ư:

Thực ra ông cũng không cần những giúp đỡ vật chất ấy, v́ một mặt ông đă quen thích nghi với mọi hoàn cảnh, và mặt khác ông c̣n được Chúa trợ giúp, cho nên "Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi".

Tuy nhiên việc tín hữu Philipphê trợ giúp vật chất cho ông là một điều rất quư. Phaolô xin Thiên Chúa đền đáp lại xứng đáng cho họ.

 

4. Tin Mừng (Mt 22,1-14)

Ư nghĩa của dụ ngôn bữa tiệc: Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đă từ chối v́ chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

 

 

 

IV. GỢi ư giẢng

1. Điều trước mắt che khuất điều ở xa

Hạnh phúc Nước Trời, hay--nói cho dễ hiểu--hạnh phúc thiên đàng là thứ hạnh phúc trọn vẹn nhất, vững bền nhất, hơn tất cả mọi thứ hạnh phúc ở trần gian. Ai cũng biết thế.

Tuy nhiên, loài người chúng ta có một cái tật, là bị những cái trước mắt che khuất nên không nh́n thấy cái ở xa, giống như tật cận thị.

 

Cái trước mắt mà chúng ta thấy hằng ngày là hạnh phúc mà trần gian mang lại qua việc làm ăn, buôn bán. Nói cách khác, trước mắt phải lo làm ăn để có một cuộc sống bảo đảm về vật chất; thiên đàng th́ c̣n xa, sau này từ từ lo.

Suy nghĩ như thế có phần đúng, v́ ta phải sống thực tế với hiện tại. Nhưng cũng có phần sai khi chỉ biết hiện tại mà không hề nghĩ tới tương lai.

 

Điều sai lớn nhất mà bài Tin Mừng này vạch ra là chẳng những ưu tiên lo cho hiện tại, mà c̣n "không đếm xỉa ǵ" đến bữa tiệc Nước Trời, thậm chí c̣n nhục mạ và hành hạ những sứ giả mà Thiên Chúa sai đến mời ta dự tiệc của Ngài.

 

Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta một số điều để suy nghĩ: Chúa không hề trách v́ chúng ta lo cho cuộc sống vật chất. Nhưng lo đến nỗi quên hẳn cuộc sống mai sau th́ sẽ đáng trách. "Tiên vàn chúng con hăy t́m Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, mọi sự khác Ngài sẽ lo cho chúng con".

 

V́ chúng ta dễ quên hạnh phúc mai sau, nên nhiều lần và nhiều cách Thiên Chúa sai người này người nọ đến nhắc nhở chúng ta. Chúng ta có khó chịu với những người ấy, xua đuổi họ, nhục mạ họ và ngược đăi họ không?

 

2. Tại sao họ đă chối từ?

Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Mát thêu ghi lại hai lư do: "người th́ đi thăm trại, người th́ đi buôn bán". Thánh Luca th́ ghi rơ hơn, tới 3 lư do: "Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: Tôi mới tậu 5 cặp ḅ, tôi đi thử đây; người khác nói: Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được" (Lc 14,18-19)

 

3 lư do trong Luca có thể gom thành 2 loại là làm ăn (thăm đất và thử ḅ) và thụ hưởng (cưới vợ). Thực ra hai điều ấy không cấp bách đến nỗi phải lập tức làm ngay để đành từ chối lời mời ưu ái của nhà vua. Tuy nhiên, đó là hai nguyên do khiến nhiều người chối từ lời mời của Thiên Chúa. Ta có thể rút ra hai khuyến cáo:

Quá mê làm ăn có thể kéo ta xa Chúa.

Quá lo thụ hưởng cũng có thể kéo ta xa Chúa.

 

3. Những ông chủ trại, những thương gia và những kẻ ngoài đường

Chúng ta hăy lưu ư rằng hai hạng người từ chối dự tiệc cưới là những ông chủ trại và những thương gia. Họ không đến v́ c̣n phải lo đi thăm trại và đi buôn bán. C̣n những người mau mắn đến dự tiệc là những kẻ ở các ngă đường. Họ nghèo, họ đang đói cho nên được mời ăn tiệc là đến ngay.

 

Người no đủ không thích ăn tiệc bằng người đói khát.

Bởi thế, Đức Giêsu đă nói rất chí lư: "Khốn cho các ngươi là những kẻ no đủ... Phúc cho chúng con là những người đói khát".

4. Y phục tiệc cưới

Phần cuối dụ ngôn này làm người đọc thắc mắc và khó chịu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới th́ làm sao có sẵn áo lễ mà mặc. Thế mà ông vua lại bắt một người không có áo lễ tống giam vào ngục.

 

Nên nhớ đây là một dụ ngôn, nghĩa là các chi tiết ám chỉ đến một ư nghĩa nào đó. Nếu bữa tiệc cưới là h́nh ảnh của Nước Trời, th́ chiếc áo cưới tượng trưng cho nếp sống phù hợp với Nước Trời. Tự nhiên được mời vào Nước Trời đă là một hồng phúc, cho nên để đáp lại th́ phải có một nếp sống phù hợp với Nước Trời.

 

Chiếc áo tượng trưng cho cách sống. Chúng ta hăy suy nghĩ về chiếc áo / cách sống hiện tại của chúng ta: Nó có tốt hơn, đẹp hơn chiếc áo / cách sống của những người không được ở trong pḥng tiệc không?

 

Chiếc áo tốt đẹp nhất của người dự tiệc Thiên Chúa chính là sống như Đức Kitô, như lời Thánh Phaolô nói: "Anh em hăy mặc lấy con người mới" (Ep 4,24), "Hăy mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27)

 

5. Chuyện minh họa: Viện Cớ

Chúng ta có rất nhiều cớ để không làm điều ḿnh phải làm, và nhiều cớ để làm điều lẽ ra không nên làm.

 

Ngày xưa có một anh thợ may rất khéo. Bao nhiêu áo đẹp của mọi người trong thành đều do anh may. Tuy nhiên bản thân anh th́ chỉ có mỗi một chiếc áo rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của thành phố. Có người thấy thế hỏi anh:

-         Sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho anh được một chiếc áo lành lặn.

-         V́ tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may áo cho ḿnh.

-         Vậy anh hăy cầm lấy 20 đồng tiền này và may cho anh một chiếc áo, kể như tôi mướn anh may cho tôi vậy.

 

Anh thợ may cầm tiền về nhà. Đến buổi tiệc tiếp theo, anh lại đến với chiếc áo rách cũ. Người bạn hỏi:

-         Sao anh không may áo cho anh?

-         Chiếc áo cho chính bản thân tôi mà giá chỉ có 20 đồng th́ quá rẻ, nên tôi không may!

Người bạn chẳng nói ǵ nữa, bởi v́ có nói ǵ nữa th́ anh thợ may cũng sẽ t́m được một cớ khác thôi.

 

V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi

CT: Anh chị em thân mến

Thiên Chúa mời gọi, ban phát t́nh thương và ân sủng một cách vô giới hạn cho tất cả mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.

 

1. Chúa Giêsu đă dùng bí tích Thánh tẩy mà quy tụ chúng ta vào trong Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần hiệp nhất đến trong Hội Thánh / để Người loại trừ mọi bất ḥa / ghen ghét và chia rẽ giữa những người có cùng một niềm tin.

 

2. Chúa Giêsu là vua đem lại ḥa b́nh / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm móng chiến tranh / và cho muôn dân được an cư lạc nghiệp.

3. Đời sống thường ngày đem lại cho con người hạnh phúc th́ ít / mà phiền muộn đau khổ lại nhiều / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần / là nguồn an ủi kỳ diệu đến trần gian / đề Người lau sạch nước mắt cho những ai đang khổ sầu.

 

4. Ngày phán xét chung / Chúa chỉ căn cứ vào một tiêu chuẩn duy nhất / để thưởng công hay luận tội người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sống trọn vẹn niềm tin đă lănh nhận / đặc biệt là biết chân thành yêu thương hết thảy mọi người.

 

CT: Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp chúng con sống trọn vẹn ơn gọi kitô hữu, nhờ đó chúng con có thể mạnh dạn nói như Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galát: "Tôi sống, nhưng không c̣n phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi". Chúng con cầu xin…

Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

 

 

MỘt tiỆc cưỚi

Domergue, SJ

 

Chúng ta nên ghi nhận ngay rằng Nước Thiên Chúa, quyền bính của Thiên Chúa trên mọi sự, được giới thiệu như một lễ mừng. Ngưng công việc để sống trong niềm vui. Người ta nghĩ đến lễ cưới của Con Chiên trong Khải huyền 21. Lễ cưới của Thiên Chúa với nhân loại để chúng ta chỉ c̣n là một thịt với Người. Trong bài dụ ngôn của chúng ta, chúng ta chỉ là những khách được mời, nhưng lại có những bản văn khác nói với chúng ta rằng chính chúng ta chỉ là một với Người Con. Dù sao, đây chúng ta được mời đến dự một bữa tiệc.

Chúng ta biết tầm quan trọng của lương thực trong Kinh Thánh. Đề tài được đề cập đến ngay từ chương đầu tiên của sách Sáng thế, ở câu 29. Và điều đó được tiếp tục : ở chương 2, chúng ta đọc thấy rằng người nào ăn quả của cây bị cấm để trải nghiệm sự dữ sẽ phải chết. Ở đầu mút kia của Kinh Thánh, các sự việc bị đảo lộn : đây lại có một cây mới, tại đó có treo yết quang cảnh của sự dữ của chúng ta, của sự điên rồ đưa đến cái chết của chúng ta, và mạc khải về sự thiện tuyệt đối, về t́nh yêu đă đưa Chúa Con đến chỗ hiến tặng mạng sống để cho chúng ta được sống. Khi đó, ngược lại với Sáng thế 2, người nào ăn quả của cây đó sẽ được sống, kẻ nào từ chối ăn quả sẽ phải chết (đọc lại Gioan 6). Chúng ta đành phải bỏ việc lấy ra tất cả các bản văn Kinh Thánh nêu bật chủ đề lương thực, bữa ăn, như Manna, bàn tiệc được dọn sẵn trong hoang địa đói và khát (Thánh vịnh 78,29). Chúng ta chỉ cần ghi nhớ rằng thập giá là giường tân hôn của Người Con với nhân loại và bữa tiệc trở thành Thánh Thể, nghĩa là Lễ Tế Tạ Ơn.


CÁc khÁch ĐưỢc mỜi

Tôi vừa nói rằng chúng ta vừa là những khách được mời vừa là những chàng rể/cô dâu. Khi chúng ta nói "chàng rể/cô dâu", chúng ta nhấn mạnh trên sự kiện là Thiên Chúa, trong Ngừơi Con, đến nhận lấy xác thịt chúng ta làm xác thịt của Người ; khi chúng ta nói "những khách được mời", chúng ta nhấn mạnh rằng chuyện này không xảy ra được nếu không có sự đồng thuận của tự do chúng ta. Về phía chúng ta, phải có một sự chuyển dịch nhằm đáp lại "sự chuyển dịch" mà chính Thiên Chúa đă làm để đến gặp chúng ta. Tiếng "xin vâng" của chúng ta, là tiếng vọng của tiếng "xin vâng" của Mẹ Maria trong "bài tường thuật" về Truyền tin, là điều cần thiết.

Trong bài dụ ngôn của chúng ta, chúng ta được nghe nói rằng nhựng người được mời đầu tiên, những người mà Đức Vua đă chọn, đă khước từ. Chúng ta không được quên rằng, kể từ chương 21, Đức Giêsu lại ngỏ lời với các thượng tế của dân và người Pharisêu. Thế là những người được mời đă t́m cách tránh né. Thế vào chỗ của họ, bây giờ là những kẻ vô danh được chiêu mộ trong các phố phường và ruộng vườn. Bất cứ ai, bản văn nói rơ - kẻ xấu cũng như người tốt. Điều này có thể gây ngạc nhiên ! Thật ra, vấn đề không phải là tốt hay xấu : ai dám tự phụ là ḿnh tốt ? Vấn đề là đáp lại hoặc không đáp lại lời mời, một lời mời được gửi đến tất cả mọi người. Từ khước có nghĩa là khinh thường ân ban của Thiên Chúa. Ân ban chính ḿnh Người. Những người được mời đầu tiên không quan tâm đến tiệc cưới được đề nghị. Họ c̣n đi đến chỗ tàn sát những người đi chuyển lời mời. Đây là cảnh báo trước việc giết Người Con và những người sẽ loan báo Tin Mừng sau này.


Áo cưỚi

Lạ lùng chưa, Đức Giêsu ấy. Hẳn người ta đă có thể nghĩ rằng dụ ngôn chấm dứt với việc mời những kẻ không có một tư cách ǵ mà đến dự tiệc cưới. Thế mà đây, một chương mới lại được mở ra, nói về việc loại trừ người không mặc áo cưới ! Có những nhà chú giải đă nói đến "t́nh trạng ơn thánh", sự ngay thẳng luân lư, v.v. Tôi nghĩ rằng một lần nữa, chúng ta phải nhắc lại chủ đề y phục trong toàn bộ Kinh Thánh, dù phải sau đó phải bỏ đi hay tóm lại. Chủ đề này bắt đầu có sớm : ở Sáng thế 3, Kinh Thánh nói với chúng ta về nỗi xấu hổ của Ađam và Evà khi thấy ḿnh trần truồng. Sự trần truồng biểu tượng, dĩ nhiên : họ đă lên kế họach nên "giống như Thiên Chúa" (câu 5) để rồi bây giờ thấy ḿnh giống như con rắn (kẻ "xảo quyệt" ở câu 1 cũng có thể dịch là "trần truồng"). Trắng tay và vô phương tự vệ. Cuối cùng, chính Thiên Chúa sẽ mặc cho họ áo da thú : họ lại trở về với h́nh ảnh cái thú tính mà họ phải chế ngự. Ở cực kia của bài tường thuật Kinh Thánh, chúng ta sẽ gặp lại, trên thập giá, con người trần truồng, bị lột hết áo xống, và các đao phủ đă chia nhau y phục. Vậy sự trần truồng là bộ áo cưới mà Chúa Kitô mặc trên giường tân hôn với nhân lọai. Tôi nghĩ rằng chúng ta phải giải thích khởi đi từ h́nh ảnh con người bị loại khỏi bữa tiệc trong dụ ngôn. Chúng ta chỉ có thể đạt tới sự hợp nhất với Thiên Chúa nếu chấp nhận trắng tay, bị tước lột, không có một tư cách nào mà tự hào. Ân ban của Thiên Chúa chỉ có thể là hoàn toàn nhưng-không.

 

Domergue, SJ

 

Chúa NhẬt 28 Mùa ThưỜng Niên

 

Lm Augustine S.J.

Xin cho ư Cha thỂ hiỆn

Sơ Lêôni, 66 tuổi, vừa trở lại Canađa sau 36 năm truyền giáo tại nước Tuynidi (Bắc Phi). Thể theo nguyện vọng của Sơ, Bề trên đă cử Sơ về thành phố Quê-Bếc, nơi Sơ có thể đi lại thăm nom người chị cả đă 86 tuổi, sống độc thân trong một căn hộ nhỏ.


Gia đ́nh Sơ Lêôni được cả thảy 6 anh chị em. Ngoài người chị cả này và hai người anh là tu sĩ Ḍng Tên, Sơ c̣n hai người anh bại liệt, không thể tự lo liệu cho bản thân. Chính v́ thế mà chị cả của Sơ đă hy sinh không lập gia đ́nh riêng, nhưng chọn cuộc sống độc thân để phụng dưỡng cha mẹ già và chăm sóc hai người em tật nguyền cho đến lúc họ qua đời. Hơn nữa, người chị cả đă chọn con đường như thế để ba người em đi tu được yên tâm phục vụ Giáo Hội hơn. Sơ Lêôni nhớ lại năm 1960, khi Sơ vừa khấn trọn đời, th́ nhà ḍng sai đi truyền giáo ở Tuynidi. Một trong hai người anh linh mục của Sơ lúc đó cũng đang truyền giáo tại Đảo quốc Haiti. Cũng như một số người Ả Rập cực đoan theo Hồi giáo trong vùng, chính quyền Tuynidi chỉ cho phép các thừa sai ngoại quốc đến mở các công cuộc từ thiện, chứ không được trực tiếp truyền giảng Tin Mừng. Thế nên cộng đoàn của Sơ Lêôni đă đến sống tại một khu phố nghèo, mở một thư viện cộng đồng cho dân chúng đến đọc sách và những lớp học t́nh thương dạy chữ cho các trẻ em nghèo thất học. Dù phải vất vả học tiếng Ả Rập, lại không có được thiện cảm của chính quyền địa phương cũng như của các thành phần Hồi giáo quá khích, các sơ vẫn hết ḷng yêu mến người Tuynidi và phục vụ đất nước của họ. Vào năm 1991, khi Mỹ và Phương Tây mở cuộc chiến tranh Vùng Vịnh để trừng phạt Irắc đă xâm lăng một lân quốc nhỏ, các sứ quán Phương Tây tại các nước Ả Rập đă khuyên các kiều dân của họ tại các nước ấy nên đến tá túc tại các cơ quan ngoại giao để tránh bị bắt làm con tin hoặc bị sát hại (cắt cổ) bởi những phần tử cực đoan muốn trả đũa Phương Tây. Thế nhưng các Sơ vẫn chọn ở lại trong khu phố, sẵn sàng chết như đă sống hết ḿnh cho dân tộc Tuynidi. Ba mươi sáu năm trời trôi qua thật mau, thật đẹp, nhưng cũng không thiếu những cam go thử thách. Trở lại Canađa, Sơ Lêôni thật hạnh phúc v́ có được cơ hội gần gũi người chị cả quảng đại, trong những ngày tháng cuối đời của chị ấy.


Thế nhưng hạnh phúc đó đă chẳng kéo dài bao lâu. Một năm sau đó, Sơ Lêôni được cử vào ban cố vấn cho Mẹ Giám Tỉnh và phải thuyên chuyển về Nhà Giám Tỉnh cách xa đó 250 cây số. Một lần nữa, Sơ lại từ bỏ ư riêng, gác qua một bên lợi ích của người thân, hầu đáp lại tiếng Chúa mời gọi, thể hiện qua quyết định của Bề trên.


TiẾng Chúa đáng đưỢc tuân phỤc trên tẤt cẢ

Dụ ngôn tiệc cưới hôm nay bao gồm hai hồi rơ rệt. Hồi một nói đến việc Nhà Vua mời thực khách (c.1-10); hồi hai liên quan đến người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới (c.11-14).

Cùng mang một chủ đề với hai dụ ngôn "Hai người con" và "Tá điền sát nhân" của hai Chúa Nhật trước, hồi một của dụ ngôn "Tiệc cưới" ám chỉ trước tiên việc người Do Thái, dân Thiên Chúa tuyển chọn, đă từ khước lời mời gọi tham dự vào Nước Thiên Chúa (tiệc cưới), nên các dân ngoại đă đến thế chỗ họ trong bàn tiệc Nước Trời. Tuy nhiên thái độ từ khước của nhóm khách mời thứ nhất có thể cũng là thái độ của một số Kitô hữu ngày nay. Thật vậy, Chúa luôn mời gọi chúng ta tiến vào Nước của Người bằng một cuộc sống gắn bó hơn với Chúa, chan hoà hơn đối với tha nhân. Lời mời gọi của Chúa đôi lúc thúc bách, nhưng cũng có lúc thật nhẹ nhàng, đ̣i phải có một thái độ b́nh tâm mới nghe thấy được. Thế nhưng, dù nghe thấy, chúng ta không phải lúc nào cũng lẹ làng đáp lại. Chẳng hạn, có người thân đau yếu tôi phải đi thăm, nhưng chương tŕnh truyền h́nh tối nay hay quá...; có những công việc chung cần gánh vác, nhưng tôi chẳng dại ǵ nhúng tay vào v́ ai cũng tránh né như vậy; tôi phải bác ái hơn với người này người kia, nhưng ai mà chịu đựng nổi hạng người đó; tôi nên dành nhiều thời gian hơn để chăm lo việc đạo nghĩa và việc học cho con cái, nhưng đợt hàng này nhiều quá, lại có ăn, nên thôi cứ để lũ trẻ tự lo liệu v.v... Và như thế, chúng ta có thể kéo dài đến vô tận danh sách những việc lẽ ra tôi phải làm theo sự thúc đẩy của Chúa và của tiếng lương tâm nhưng tôi đă không làm.


Câu chuyện của Sơ Lêôni và gia đ́nh đă nêu cho chúng ta một gương sáng về việc tiếng Chúa mời gọi đáng được tuân phục trên tất cả mọi sự, trên cả những công việc xem ra là nghĩa vụ chính đáng mà ta phải đảm nhận (c.5: thăm trại; đi buôn...). Thật vậy, Sơ Lêôni lẽ ra có quyền chọn không đi tu để ở nhà giúp chị cả lo lắng cho bố mẹ và hai người anh đau yếu. Hai người anh linh mục của Sơ lẽ ra có thể ở lại trong đời thường, lập gia đ́nh để ḍng họ có người nối dơi. Sơ Lêôni đă có thể từ khước một cách chính đáng việc phải thuyên chuyển về Nhà Giám Tỉnh cho đến lúc người chị qua đời v.v... Thế nhưng Sơ và hai người anh đă đặt tiếng Chúa gọi lên trên tất cả, để hoàn toàn phục vụ Thánh Ư Chúa. Tiếng Chúa gọi đôi lúc bất ngờ, đi ngược lại những toan tính của con người. Nhưng nếu con người biết vâng theo, th́ sự vâng phục của họ sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tiếng gọi đó không nhất thiết phải là lời mời gọi sống đời dâng hiến; nhưng ở mỗi bậc sống, mỗi hoàn cảnh, Thiên Chúa đă kêu gọi mỗi người đến một t́nh trạng hoàn thiện hơn theo bậc sống của ḿnh. Chẳng hạn thánh Lê Văn Gẫm ắt cũng phải phiền ḷng khi phải rời chủng viện để về giúp đỡ bố mẹ già yếu. Thế nhưng nhờ sống theo ḷng mến Chúa đặt trong tim, mà thánh nhân đă trở nên một trợ tá đắc lực cho các thừa sai nước ngoài; lén lút đưa các ngài vượt biển từ Mă Lai vào Nam Kỳ, cũng như đưa các chủng sinh từ Nam Kỳ qua Mă Lai du học. Và cuối cùng, ngay trong bậc giáo dân, thánh nhân đă được phúc tử đạo trong lúc phục vụ Giáo Hội và trở nên một vị Thánh lớn trong số các vị tử đạo của Việt Nam.



 

TiẾng Chúa đáng đưỢc thỰc thi đẾn cùng

Hồi thứ hai của dụ ngôn (c.11-14) có thể khiến người đọc kinh ngạc về sự nghiêm khắc của nhà Vua khi ông cho tống cổ một thực khách không mặc y phục lễ cưới khỏi bàn tiệc. Thế nhưng chi tiết này của dụ ngôn chỉ nhằm nói lên rằng: chỉ chấp nhận lời mời dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa vẫn chưa đủ; nhưng c̣n phải khuôn ḿnh theo lối hành xử của các "công dân Nước Trời". Nói cách khác, "theo Đạo" thôi th́ chưa đủ, c̣n phải "sống Đạo", thực hành Lời Chúa cho đến kỳ cùng. "Chiếc aó lễ cưới phải khoác" trong dụ ngôn này chính là biểu tượng cho việc sống Đạo, cho việc thực thi tiếng Chúa mời gọi vang lên trong lương tâm mỗi người. Về điểm này, Đức Giêsu từng dạy rằng: "Không phải bất cứ ai nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21)


Đến đây, chúng ta rút ra bài học sau từ dụ ngôn Tiệc Cưới: hăy mau mắn đáp trả đến kỳ cùng lời mời của Thiên Chúa. Thế nhưng có những người sẽ thắc mắc tại sao lại phải dự tiệc. Nói cách khác, Tiệc cưới ở đây có ư nghĩa ǵ?


TiẾng Chúa mỜi gỌi mỌi ngưỜi đẾn vỚi ơn cỨu đỘ.

Thật ra h́nh ảnh "đại tiệc" đă được sử dụng nhiều lần trong Cựu Ước để ám chỉ sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Cách Ngôn 9,1-10) và ơn cứu độ cánh chung Thiên Chúa dành cho nhân loại (Isaia 25,6-12). Ngày đó, Chúa các đạo binh sẽ đăi muôn dân một bữa tiệc trên núi này: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon... Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân,... sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần,... sẽ lau khô ḍng lệ trên khuôn mặt mọi người... (Is 25,6-8). Cũng vậy, sách Cách Ngôn có viết: "Đức khôn ngoan xây cất nhà ḿnh, dựng trên bảy cây cột; hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ t́ ra đi... Hăy bước đi trên con đường hiểu biết và các con sẽ được sống."


Nếu mọi người hiểu được ư nghĩa trên đây của "tiệc cưới", ắt họ đă mau mắn đáp lại "Lời mời của Thiên Chúa" đến kỳ cùng, để được chung hưởng sự khôn ngoan và bàn tiệc cứu độ Người dọn sẵn cho mọi người. Đó chính là ơn mà chúng ta cần xin cho nhau hôm nay. Lạy Chúa, xin hăy phán, v́ tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có Lời ban sự sống đời đời. Amen.


MỘt sỐ câu hỎi gỢi ư

 

1.     Có người cho rằng ơn gọi dâng hiến (như Sơ Lêôni và hai người anh linh mục của Sơ) th́ cao trọng hơn ơn gọi giáo dân v́ ơn gọi đó đ̣i buộc nhiều hơn. Bạn nghĩ sao?

2.     Trong hoàn cảnh hiện tại của tôi, Chúa mời gọi tôi cụ thể điều ǵ, để cải thiện đời sống thiêng liêng của tôi, cũng như đời sống trong gia đ́nh, trong môi trường làm việc, trong giáo xứ, và trong việc công ích xă hội?

 

 

 

Lm Augustine S.J.

 

 

 

 

 

TIỆC CƯỚI VÀ CHIẾC ÁO CƯỚI

Mt 22,1-14

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Sống ở đời không nhiều th́ ít chúng ta cũng được mời đi tham dự một lễ cưới, một tiệc cưới nào đó. Và đó là những sinh hoạt đời thường trong cuộc sống hàng ngày. Hôm nay, Chúa nhật 28 thường niên, năm A, các bài đọc và đặc biệt đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu tŕnh bầy dụ ngôn một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Nếu đám cưới như mọi đám cưới chúng ta  thường thấy trong xă hội, trong thôn làng chúng ta đang sống th́ chẳng cần nói làm ǵ. Đàng này, tiệc cưới ông vua tổ chức xem ra khác thường, từ những vị khách mời, đến cách tham dự, nhất là cách xử sự của vua, cho chúng ta thấy có điều ǵ không b́nh thường, và đó là điều chúng ta phải lưu tâm và đó là điều Chúa Giêsu muốn dạy.

 

MỘT TIỆC CƯỚI KHÁC THƯỜNG :

Chúng ta đă nhiều lần tham dự các tiệc cưới, những lễ nghi cưới hỏi vv…Thực tế, không có một tiệc cưới nào lại khác lạ như tiệc cưới mà dụ ngôn hôm nay tŕnh bày. Đây không phải là tiệc cưới b́nh thường như những tiệc cưới khác. Nhưng, nói đúng hơn, tiệc cưới này là tiệc cưới nước trời. Ông chủ là Thiên Chúa, Đấng đă đứng ra mở tiệc để khoản đại nhân loại, khoản đại mọi người. Thiên Chúa mời gọi mọi người, Người không loại trừ bất cứ ai, miễn là khi vào dự tiệc cưới, họ phải mặc áo cưới. Thiên Chúa dọn sẵn bữa tiệc cưới linh đ́nh, vui nhộn, vinh quang. Không có một tiệc cưới nào ở trần gian lại có thể so sánh với bữa tiệc nước trời do Ngài khoản đăi. Thiên Chúa mời gọi con người tham dự tiệc cưới qua miệng các ngôn sứ và đặc biệt qua Chúa Giêsu. Thiên Chúa mời gọi nhân loại, con người và mỗi người chúng ta sửa soạn bộ áo cưới bằng những công việc bác ái, kính Chúa yêu tha nhân. Áo cưới cũng c̣n có nghĩa là sự hoán cải, thống hối và trở về của con người đối với Chúa. Đó là sự sám hối chân thật.

 

CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI :

Rơ ràng tiệc cưới Thiên Chúa khoản đăi mọi người và Thiên Chúa không loại trừ bất kỳ ai cả. Nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta đă có nhiều đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa qua trung gian Con Một yêu dấu của Ngài là Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúng ta là Kitô hữu đến dự tiệc không chỉ với tư cách khách được mời nhưng đúng hơn chúng ta là người trong gia đ́nh Giáo Hội. Chúng ta mỗi ngày đă được tham dự vào bữa tiệc cưới ấy qua Bí tích Thánh Thể, nguồn lương thực nuôi sống linh hồn và thể xác đợi ngày cánh chung trong tiệc cưới nước trời. Thiên Chúa sai Con Một của Ngài tới trần gian để mang ơn cứu độ và ơn cứu độ không dành riêng cho một dân tộc nào, một cá nhân nào mà ơn cứu độ có tính phổ quát, bao gồm tất cả mọi người : tất cả mọi người sinh ra đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ, nhất là những người yếu hèn, tội lỗi. Điều này diễn tả sáng kiến do ḷng thương xót, nhân từ của Thiên Chúa.

 

NHÂN LOẠI.MỖI NGƯỜI PHẢI ĐÁP TRẢ THẾ NÀO ?:

Ơn cứu độ Thiên Chúa mang đến hoàn toàn nhưng không. Người Do Thái đă vịn nhiều lư do để từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đối với nhân loại, đối với mỗi người chúng ta, chúng ta phải đáp trả lời mời gọi này của Thiên Chúa như thế nào ? Hay chúng ta vẫn như người thanh niên giầu có trong Tin Mừng vẫn c̣n thích dính bén tiền của, vật chất, danh vọng mà quên đi lời mời gọi của Chúa Giêsu. Do đó, muốn vào tham dự tiệc cưới nước trời, chúng ta phải mặc áo cưới nghĩa là có ơn thánh để vượt thắng những cản trở và trang sức cho tâm hồn.Ơn thánh là việc thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, làm những điều lành, bác ái, hy sinh. Thiên Chúa đầy t́nh thương, ḷng của Ngài đầy xót thương và giầu tha thứ. Chúng ta phải đáp lại t́nh thương của Ngài th́ mới xứng đáng tham dự vào bữa tiệc t́nh thương của Ngài. Chúng ta là Kitô hữu sống trong Giáo Hội của Chúa, được làm con của Chúa và Giáo Hội qua Bí tích thanh tẩy. Điều đó vẫn chưa đủ cho chúng ta được cứu rỗi, nhưng chúng ta c̣n là người được chọn. Bởi v́ Chúa gọi th́ nhiều mà chọn th́ ít. Chúng ta luôn được đề cao tỉnh thức, sám hối và làm những việc bác ái, đồng thời sống bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi.

 

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ :

Thiên Chúa mời gọi con người vào dự tiệc nước trời. Tuy nhiên, đời sống con người là một cuộc chiến đấu không ngừng. Cuộc hành tŕnh tiến về nước trời đ̣i phải phấn đấu, hy sinh. Con đường dẫn tới bàn tiệc nước trời là con đường hẹp, đường thập giá . Do đó, Kitô hữu phải là người luôn ư thức vai tṛ, nghĩa vụ của ḿnh đối với Thiên Chúa và tha nhân. Sống trong Giáo Hội chưa đủ để con người được ơn cứu rỗi, nhưng nó c̣n đ̣i hỏi mỗi Kitô hữu phải nhất quyết đẩy lùi tội lỗi, đẩy xa nhưng dính bén của vật chất, danh vọng và dục vọng, sống bền đỗ tới cùng mới nhận được phần thưởng xứng đáng là thấy mặt Chúa và được cuộc sống vĩnh viễn trên nước trời.

 

GỢI Ư ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tiệc cưới trong bài Tin Mừng hôm nay ám chỉ ǵ ?

2.Tại sao người Do thái lại chối từ ơn cứu độ ?

3.Ơn cứu độ có tính ǵ ?

4.Những ai được mời gọi vào dự tiệc cưới nước trời ?

5.Muốn dự tiệc cưới nước trời chúng ta phải làm ǵ ?

 

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

 

 

 

 

CHIẾC ÁO TRONG TIỆC CƯỚI

Mt 22,1-14


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Đức Giêsu Kitô thiết lập Đạo t́nh thương của Ngài nơi trần thế. Đạo của Chúa Giêsu không phải là một thứ Đạo lơ lửng, xa thực tế, xa con người. Đạo của Chúa là một Đạo rất người, rất thực tế. Chúa Giêsu không bao giờ nói một điều ǵ mà không làm. Lời nói của Ngài luôn đi đôi với việc làm. Chúa luôn muốn cho Đạo của Ngài xây dựng, thiết lập phải trở nên một Đạo gần gũi con người, một Đạo lan tỏa t́nh yêu thương cho mọi người.Tuy nhiên, Đạo Do Thái vào thời của Chúa Giêsu đă trở nên tha hóa và biến chất trầm trọng nơi hàng ngũ lănh đạo tôn giáo. Các thượng tế, kỳ mục, các người có chức có quyền trong hàng ngũ lănh đạo đă làm cho Đạo giáo trở thành một thứ tôn giáo vụ h́nh thức và bề ngoài chỉ mang nhăn hiệu tôn giáo mà thôi. Chúa Giêsu đă lên án gắt gao hàng lănh đạo tôn giáo lúc đó. Ngài đă lên án thái độ của bọn kư lục, biệt phái và Pharisiêu, Ngài nói: " Những bọn người đó ngồi trên ṭa Maisen? Đừng bắt chước việc làm của họ, v́ họ nói mà không làm" (Mt 23,2-3 ). Với một tâm địa độc ác, giả dối, họ không có con tim và tấm ḷng rộng mở để đón nhận sự thật và chân lư. Họ giống như các khách được chủ mời đă nân ná dùng hết lư do này đến lư do khác rất tầm thường để khước từ dự tiệc cưới.


VẪN LÀ TIỆC CƯỚI

Chủ đề tiệc cưới thường được Kinh Thánh dùng tới để biểu trưng cho giao ước giữa Thiên Chúa với dân của ngài ( x.Is. 61,4-5; Os 2 ). Ở Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gián tiếp chiếm cho ḿnh địa vị Thiên Tử. Tiệc cưới của Vua Cha mở ra để khoản đăi khách mời khi con của ḿnh đi vào hôn nhân. Tiệc cưới ở đây ám chỉ tiệc của con Vua, nên khách mời gồm đủ thành phần mà những thành phần này phải là những người được tuyển chọn. Trước là các sứ giả, tức các ngôn sứ, sau này là các môn đệ của Chúa, những khách mời tiếp theo là dân Do Thái Chúa chọn để thừa hưởng gia nghiệp cao quí của Chúa và được thừa hưởng ơn cứu rỗi đầu tiên.Tất cả khách mời đều không muốn tới dự dù rằng họ quá biết tầm quan trọng của tiệc cưới con trai của vua. Dân Do Thái cũng vậy chẳng phải họ không biết ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa đă hứa ban cho dân, chính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ mà các tổ phụ và các ngôn sứ đă tiên báo, nhưng do tính kiêu ngạo, ḷng ích kỷ và những dục vọng thấp hèn đă thúc đẩy dân Do Thái chối từ t́nh thương vô biên của Chúa. Do đó họ có cái nh́n thiên lệch, lạc lối, nên họ đă tránh né giờ cứu độ của Thiên Chúa và luôn chống đối Ngài, đúc và thờ ḅ vàng. Thái độ của dân Do Thái ví như những khách được Vua mời mà từ khước dự tiệc cưới con trai của vua, v́ thế họ đă bị Chúa trừng trị thích đáng. Tiệc đă được dọn sẵn, khách lấy mọi lư do rất tầm thường để khước từ lời mời gọi vào dự tiệc, nên các đầy tớ được lệnh của chủ sai đi ra các nẻo đường để thu nạp các người "tốt và xấu": dân ngoại giáo và những người tội lỗi. Ơn cứu độ thuộc về mọi người chứ không dành riêng cho một người nào, một dân tộc nào hay một lớp người nào được ưu đăi.Tất cả đều do ḷng nhân từ thương xót của Chúa.Tuy ơn cứu độ do ḷng yêu thương,tha thứ của chúa,nhưng nó vẫn đ̣i hỏi điều kiện.


VẪN Đ̉I HỎI CÓ SỰ HOÁN CẢI, ĂN NĂN, CẢI TÀ QUI CHÁNH VÀ BÁM CHẶT VÀO CHÚA:

Chúa yêu thương con người, tha thứ cho con người. Nhưng, không phải v́ thế mà con người không có thái độ quay trở về với Chúa, ăn năn, sám hối và tin tuyệt đối vào Chúa. Tiệc cưới dọn sẵn, thái độ của khách mời luôn luôn phải tỏ ra nghiêm túc. Vào tiệc cưới, khách được mời phải ăn mặc xứng đáng, chứ không được ăn mặc cẩu thả, bầy hầy v́ như thế sẽ trở thành vô lễ và ngạo mạn với chủ, với đám tiệc. Tin Mừng chấp nhận dấu hiệu của áo cưới. Áo cưới sạch sẽ, đàng hoàng không những chứng tỏ khách được mời tôn trọng, lễ phép với chủ tiệc, nhưng nó c̣n minh chứng thái độ tâm linh của con người được mời tham dự vào tiệc nước trời, tiệc cứu thoát của Thiên Chúa. Áo cưới trước tiên là áo khiêm nhường, người được mời chấp nhận đi dự tiệc, chứ không phải đi chiếm hữu đám tiệc. Sau quyền nhận vào nước trời là quyền của Thiên Chúa. "Thiên Chúa sẽ thỏa măn mọi nhu cầu của anh em" (Bài đọc 2 ). Áo cưới chính Đức Kitô đă trao cho chúng ta:" Đây là Thiên Chúa chúng ta, nơi Ngài chúng ta hy vọng,Ngài đă cứu độ chúng ta" ( Bài đọc I ). Thánh Phaolô v́ thế nói với nhân loại, nói với ta: "mặc lấy Đức Kitô" ( Gal. 3,27; Eph.4,24 ). Muốn vào tiệc cưới, muốn đạt nước trời, con người phải có thái độ ăn năn, thống hối như Phêrô, như các tông đồ khác. Thái độ tuyệt vọng như Yuđa là thái độ từ khước ơn cứu độ, từ khước nước trời. Phải bám chặt vào Chúa nghĩa là mặc chiếc áo cưới mới tinh sạch, vẹn tuyền khi bước vào bàn tiệc nước trời đă khai mở, đă bắt đầu. "Những kẻ được gọi th́ nhiều, c̣n những kẻ được chọn th́ ít" không phải là câu nói bi quan. Bàn tiệc vẫn đông vui, vẫn hào phóng như chủ đă định trước. Người Kitô hữu được mời gọi vào tiệc cưới qua chiếc áo tinh tuyền ngày lănh nhận bí tích rửa tội, liệu có sẵn sàng đáp trả lại t́nh thương hải hà của Chúa hay đă vô ơn làm cho chiếc áo cưới trở thành hoen ố, không xứng đáng vào dự tiệc cưới đă dọn sẵn và cuối cùng bị đuổi ra ngoài bàn tiệc v́ chủ tiệc phát hiện khách được mời không mặc áo cưới xứng đáng để vào dự tiệc nước trời.

Tiệc Thánh Thể là lời mời gọi khẩn thiết để người Kitô hữu kết hiệp với Chúa và được Chúa chúc lành. Khiêm nhượng, hạ ḿnh, chấp nhận con người đầy khiếm khuyết tội lỗi để xin Chúa thương thứ tha. Đó là thái độ sẵn sàng nhất để áo quần tề chỉnh, sạch sẽ để mau mắn đi vào bàn tiệc, đi vào nước trời.

 

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

 

 

TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

 

I. T̀M HIỂU DỤ NGÔN.

 

1. Phong tục tổ chức tiệc cưới.

            a) Mời thành hai giai đoạn.

          Những công việc diễn tiến trong dụ ngôn này hoàn toàn phù hợp với phong tục b́nh thường của dân Do thái.  Đối với những bữa tiệc cưới, khi thiệp mời được gửi đi th́ thời giờ không được xác định rơ, và khi mọi việc đă xong đâu vào đấy th́ những người giúp việc mới ra đi mời lần cuối cùng xin quan khách đến dự.  Như vậy, vị vua trong câu truyện này đă gửi thiệp mời dân lâu rồi, nhưng đến khi mọi việc sẵn sàng th́ lời mời cuối cùng mới gửi đến và đă bị người ta từ chối.

 

Truyện : tiệc cưới hoàng tử

Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ư tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết : công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philippe, người Hy lạp.  Cuộc t́nh duyên này quan trọng, bởi v́ công chúa Elizabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha v́ không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái nhĩ lan, mà c̣n đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn độ, Canada, Úc, Tân tây lan... Ai cũng ṭ ṃ theo dơi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20.11.1947 tại tu viện cổ kính Westminter, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh.  Người ta không những theo dơi những nhân vật chính là cô dâu chú rể mà c̣n chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà qúi tộc đến những nhà tỉ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó.

(Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng năm A, tr 215)

 

b) Khách được mời tham dự.

Theo phong tục của nhiều dân tộc xưa, tiệc cưới hoàng tử chẳng những các đại thần được ưu tiên mời, mà c̣n tất cả thần dân đều được hưởng lộc của nhà vua. Tiệc cưới hoàng tử Nước Trời chẳng những ưu tiên cho dân tộc Do thái, mà c̣n cho toàn thể muôn dân, v́ toàn thể nhân loại  đều là thần dân của Ngài. Như tiên tri Isaia đă loan báo :”Chúa Tể trời đất sẽ thiết tiệc đăi muôn dân”.

 

2. Ư nghĩa dụ ngôn.

a) Đối với người Do thái.

Đây là lời tố cáo người Do thái. Quan khách đă được mời nhưng đến giờ lại từ chối không đến. Họ tiêu biểu cho người Do thái. Từ xưa họ đă được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài, nhưng khi Con Chúa Trời xuống thế gian, và họ được mời gọi theo Ngài, tin nhận Ngài th́ họ lại khinh dể, đă từ chối lời mời đó.  Rốt cuộc lời mời của Thiên Chúa đến trực tiếp với những tội nhân và người ngoại bang, là những kẻ không bao giờ kỳ vọng được mời vào Nước Trời.

 

C̣n một chi tiết nữa là vua thịnh nộ với kẻ từ chối, lại c̣n sỉ nhục và giết các đầy tớ của vua, sai quân đi diệt những kẻ không nhận lời mời và đốt thành của chúng.  Chi tiết này dường như không ăn nhập với việc mời dự tiệc cưới.  Nhưng chúng ta nhớ lại, khi Matthêu viết sách Phúc âm của ông vào giữa năm 80-90 SC, những ǵ đă xẩy ra trong thời gian giữa lúc Chúa Giêsu sống và lúc viết sách Phúc âm ? Câu trả lời là : kinh thành Giêsrusalem bị quân Rôma phá hủy khoảng năm 70 SC. Giêrusalem thực sự bị tàn phá, không c̣n ḥn đá nào chồng trên ḥn đá nào, đền thờ bị cướp phá và bị đốt, tại hoạ này đă đến cho những kẻ không nh́n nhận Con Thiên Chúa khi Ngài đến trong thế gian.

 

b) Đối với mọi thời đại.

Lời mời gọi trong dụ ngôn này là lời mời gọi của Thiên Chúa đối với mọi người chúng ta. Được mời gọi vào dự tiệc cưới, tiệc cưới Con Thiên Chúa, là một vinh dự lớn lao, lại không phải mất tiền.  Khi Kitô hữu được mời là được mời đến để vui vẻ, và chúng ta sẽ mất niềm vui nếu chúng ta không nhận lời mời.

 

Nhưng nhiều khi chúng ta lại từ chối lời mời gọi của Chúa v́ những lư do chẳng ra cái ǵ như đi thăm ruộng, đi buôn bán... Người ta dễ bận rộn với điều tạm bợ và quên những điều liên quan tới đời đời.  Quá bận tâm với những điều mắt thấy được th́ dễ quên với những điều mắt không thấy được.  Quá chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian, th́ khó nghe được tiếng gọi êm dịu của Chúa Giêsu.

 

Lời mời gọi của Chúa dành cho ta là lời mời gọi của ân sủng. Những kẻ được qui tụ là những nẻo đường không có quyền đ̣i hỏi ǵ nơi nhà vua cả. Họ không bao giờ có thể ngờ rằng ḿnh sẽ được dự tiệc cưới và càng không xứng đáng để dự tiệc đó. Những việc xẩy đến với họ không bởi điều ǵ khác hơn là ḷng quảng đại của nhà vua mở rộng đôi tay đón tiếp họ. Bởi ân sủng, lời mời được ban ra, và bởi ân sủng mà người ta được nhóm lại.

 

3. Dụ ngôn chiếc áo cưới.

Chúng ta có thể coi chiếc áo cưới là phần nối tiếp của dụ ngôn khách mời dự tiệc, hoặc coi như là một dụ ngôn riêng. Tuy coi như dụ ngôn riêng nhưng cũng là câu chuyện nối tiếp và giải rộng ư nghĩa câu truyện trước, trong câu truyện ở đây có một thực khách đến dự tiệc của nhà vua, nhưng không chịu mặc lễ phục.

 

Thuần phong mỹ tục coi lễ cưới là ngày lễ trọng đại của gia đ́nh, tất nhiên có nghi thức long trọng với những trang phục đẹp đẽ chỉnh tề.  Những hạng người bê bối thô lỗ tục tằn, vô lễ, vô kỷ luật đều bị loại bỏ v́ nó bôi nhọ nếp sống văn hóa trong sáng và đạo đức.

 

Nếu ai nhận  chiếc áo cưới gắn liền với dụ ngôn trên th́ thắc mắc : ra đường mời vào, ở giữa ngă ba đường cái làm ǵ có áo cưới ? Trả lời cho thắc mắc đó, ta để ư : người đó không chữa tội ǵ cả, là dấu anh ta có lỗi, không cần biết nguyên do. Theo thói quen, thời xưa khách qua cửa đă có người trao áo cho, không biết người Do thái có thói quen nào ? Có áo mà không mặc là lỗi tại ḿnh v́ thế nên không mở miệng chữa tội được câu nào.

 

Muốn vào dự tiệc cưới th́ tối thiểu phải có y phục lễ cưới. Theo thánh Matthêu, muốn vào dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa th́ mỗi người phải nhận thức rằng Giáo hội càng ngày càng đông, nhưng Giáo hội không phải là quán cơm b́nh dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương kẻ có tội và Giáo hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh, nhưng dù sao, muốn vào Giáo hội, Chúa cũng đ̣i hỏi có sự ước muốn trở lại chân thật, một “chiếc áo trắng rửa tội”, một sự ao ước “mặc lấy Chúa Kitô”.

 

Theo ư kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. C̣n theo ư kiến của các nhà chú giải Thánh kinh hiện đại, th́ chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.

 

II. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.

 

1. Dấn thân gia nhập vào Hội thánh.

Thiên Chúa mời gọi ta : Ngài muốn có những người tham dự tiệc cưới đó. Ngài có sáng kiến trước. Lời mời gọi đó được chuyển đến ta qua các vị sứ giả của Chúa, nhất là Chúa Kitô.  Chúa Kitô đến trên trần gian để mời gọi ta và sửa soạn cho ta có bộ áo cưới, tức là cứu rỗi ta. Việc sửa soạn áo cưới được cụ thể hóa bằng việc mến Chúa yêu người, tức là đời sống đức tin nhờ ơn thánh.

 

Nhân loại chúng ta đáp lại lời mời gọi qua trung gian là Chúa Kitô và Giáo hội.  Chúng ta đến dự tiệc cưới không phải với tính cách là “khách” mà thôi, nhưng c̣n với tư cách là con cái trong gia đ́nh, nhờ đó sự vui vẻ thân mật càng tăng thêm.  Hiện thời bữa  tiệc đó đă bắt đầu nhờ Chúa Kitô v́ ta đă có ơn thánh và hằng ngày tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể chờ ngày Chúa lại đến.

         

Tuy chấp nhận lời mời gọi của Chúa đâu phải là sự dấn thân mang tính chất nhất thời. Đó là một tiến tŕnh đ̣i hỏi phải liên tục dấn thân và thích ứng bởi v́ cuộc sống thường nhật rất dễ khiến chúng ta sao lăng và bỏ quên mất sự sống đời đời, bởi v́ thức ăn tầm thường của cuộc đời này dễ nhét đầy bụng chúng ta và làm cho chúng ta quên đi bữa tiệc vĩnh cửu.

 

Chấp nhận lời mời của Chúa không chỉ là vấn đề gật đầu một lần rồi sau đó quên tuốt đi, và việc này giống như câu nói “Tôi đồng ư” trong hôn nhân. Câu “tôi đồng ư” này đâu phải là điểm kết cho một tiến tŕnh mà chính là điểm khởi đầu. Nhận lời Chúa cũng giống như tốt nghiệp đại học bởi v́ sự tốt nghiệp không phải là điểm kết thúc cho công cuộc học vấn mà chỉ là bệ phóng cho sự học hỏi tiến xa hơn mà thôi.

 

2. Dự tiệc Thánh Thể hằng ngày.

Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta tham dự bữa tiệc của Nước Trời. Trong Thánh kinh, nhiều bữa được nhắc đến : như bữa ăn tổ phụ Abraham khoản đăi ba người khách lạ dưới lều vải (St 18,1-8), như bữa tiệc người cha già mừng người con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Chúa Giêsu  đă đi dự đám cưới ở làng Cana (Ga 2,1-10), Ngài cũng dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14), cho dân chúng được ăn no tự 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tất cả để báo hiệu bữa tiệc Thánh Thể.

 

Th́, hôm nay, tiên tri Isaia ví Nước Trời như một bữa tiệc mà Chúa khoản đăi mọi dân tộc, nhất là những ai đói khát tự do, công chính. Chúng ta cũng hăy sốt sắng tham dự vào bữa tiệc thánh là Lời Chúa và Thánh Thể, hăy “hân hoan v́ Chúa khoản đăi và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.

 

3. Y phục xứng kỳ đức.

Tục ngữ Pháp có câu :”La soutane ne fait pas un moine” : chiếc áo ḍng không làm nên ông thầy tu.  Câu tục ngữ ấy có ư nói rằng  muốn trở thành một tu sĩ thực thụ  th́ cần phải có đời sống xứng đáng với bậc tu của ḿnh. Người  ta quí trọng tu sĩ là do đời sống thánh thiện của họ chứ không phải do cái áo của họ. Cho nên quần áo th́ phải đi đôi với đức độ, nghĩa là phải có cả bề trong lẫn bề ngoài.

 

Cung cách một người thể hiện tinh thần của người đó.  Khi đến thăm một người bạn, ta sẽ không mặc bộ đồ làm vườn mà đến. Chúng ta biết rơ rằng quần áo không thành vấn đề đối với bạn chúng ta, cũng không phải chúng ta muốn tŕnh diễn, nhưng v́ vấn đề phải tôn trọng nên chúng ta đến nhà bạn  một cách gọn gàng và chỉnh tề. Chuẩn bị trước như thế là chúng ta bầy tỏ cảm t́nh và sự tôn trọng của ḿnh đối với bạn.

 

Đối với nhà của Chúa cũng vậy, ví dụ này không quan hệ ǵ đến việc ăn mặc của chúng ta khi đến nhà thờ để tŕnh diễn, nhưng cần có trang phục cho linh hồn, tấm ḷng và tâm trí của chúng ta.  Đó là sự khao khát, trông đợi, ḷng khiêm nhường và thống hối, đức tin và sự tôn kính. Đây là bộ áo lễ nếu không mặc vào th́ sẽ không dám đến gần Chúa. Điều thường xẩy ra là chúng ta hay đến nhà Chúa mà không sửa soạn chút nào. Nếu mỗi người chúng ta đều sửa soạn trước khi đến nhà thờ bằng lời cầu nguyện ngắn, suy nghĩ và tự kiểm điểm bản thân th́ sự thờ phượng mới đúng là sự thờ phượng thật.  Một sự thờ phượng đem lại nhiều tốt lành cho tâm hồn mỗi người, cho Hội thánh và cho thế giới.

 

Chúng ta đă nhận lời mời của Chúa mà vào dự tiệc Nước Trời. Đây là một vinh dự lớn lao Chúa dành cho ta. Nhưng vinh dự ấy đ̣i chúng ta phải vươn lên bằng một đời sống lành thánh, một đời sống kết hợp với Chúa, để có thể nói như thánh Phaolô :”Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ ḿnh không để cho vật dục hay của cải trần gian lôi kéo xuống giống như con vật, ngược lại phải vươn lên làm con cái ánh sáng để xứng đáng là công dân Nước Trời.

 

Truyện : đại bàng con

Chuyện kể rằng : Có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bàng. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.

 

Một ngày kia, đang bưới móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bàng con bỗng thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không trung thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ :

      - Mẹ ơi, sao ḿnh không bay như chim kia trên trời ?

      - Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được !

      - Thế chúng ta là ai ?

      - Chúng ta là gà rừng !

Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bàng mẹ bay lượn trên đầu gọi :

-   Bay lên con ơi, bay lên đại bàng con của mẹ. Thế giới  của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này ! Bay lên đi con.

Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo :

-    Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.

Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bàng kia cứ bảo ta là đại bàng con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có khó khăn ǵ, có lẽ chưa quen thôi. Nào hăy thử lần nữa xem. Thế là cậu đại bàng đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên măi.Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nh́n thế giới từ trên cao, ḷng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn(Thiên Phúc, Như Thầy đă yêu, năm A, tr 145-146)

 

Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển chọn, làm con cái của Người. Họ là những con đại bàng, luôn ngước mắt nh́n cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Họ luôn sống trong tâm t́nh của thánh Augustinô :”Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.

Đừng bao giờ nghĩ ḿnh là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân.  Chúng ta hăy vươn ḿnh lên, vươn lên măi cho tới trời cao, nơi quê hương thật của chúng ta ở đó. Chúng ta hăy thực hiện lời thánh Phaolô đă dạy :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng ḷng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”(Pl 3,20-21).

Lm Giuse Đinh lập Liễm

 

 

 

 

MỘT TIN MỪNG CHO MUÔN DÂN

Lm Trần Thanh Sơn

1. TỪ MỘT LỜI HỨA :

Một Tin mừng cho muôn dân. Điều này đă được ngôn sứ Isaia báo trước cách đó hơn 600 năm. Lúc bấy giờ, dân Do Thái đang phải lưu đày tại đế quốc Babilon. Đất nước bị mất vào tay dân ngoại, đền thờ bị tàn phá, dân Chúa tưởng chừng như không c̣n ǵ để hy vọng. Niềm tin vào Giavê Thiên Chúa bị lung lay. Họ không biết Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban Đấng Messia như thế nào. Nhưng chính giữa cảnh lưu đày đau thương đó, ngôn sứ Isaia đă loan báo một tin vui, đem lại niềm hy vọng lớn lao cho họ: “Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời, Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người” (Is 25, 7-8). Không chỉ giải thoát dân Do Thái trở về, đem lại tự do cho họ, nhưng Thiên Chúa c̣n làm cho họ trở nên một dân lớn, và muôn dân trên khắp thế giới sẽ nhận biết Ngài là Thiên Chúa. Lúc đó, “Chúa các đạo binh sẽ thết đăi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt th́ béo, rượu th́ ngon” (Is 25, 6).


Như thế, Giavê Thiên Chúa không c̣n là Thiên Chúa của một dân tộc Do Thái, nhưng là Chúa của muôn dân; và thực khách trong bữa tiệc của Ngài không chỉ là dân Israel, nhưng là toàn thể các dân tộc. Mọi dân tộc sẽ được hưởng sự chăm sóc, yêu thương của Ngài như cảm nghiệm của thánh vương Đavít trong bài đáp ca: “Chúa chăn dắt tôi, nên tôi không thiếu ǵ; Người cho tôi nằm trong đồng cỏ xanh tươi. Người đưa tôi nghỉ ngơi nơi bờ suối nước; Chúa dọn bàn tiệc đăi tôi trước mắt quân thù tôi” (Tv 22, 1-2. 5a).


Dù vậy, đây cũng chỉ mới là một lời loan báo, một lời hứa. Năm 587, dân Do Thái đă được hồi hương. Thế nhưng, từ nơi lưu đày trở về họ vẫn tiếp tục bị các đế quốc Ba Tư, rồi Hy Lạp, và La Mă đô hộ. Do đó, dân Israel vẫn tiếp tục chờ mong bữa tiệc thịnh soạn mà ngôn sứ Isaia đă loan báo.


2. GIÁO HỘI, LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN :

Với sự xuất hiện của Đức Giêsu, lời hứa của ngôn sứ Isaia đă được thực hiện. Chính Ngài là Đấng qui tụ muôn dân để thết đăi họ một bữa tiệc. Điều này được Đức Giêsu diễn tả qua dụ ngôn tiệc cưới trong bài Tin mừng hôm nay. Thực khách của bữa tiệc này, trước hết là dân Do Thái, một dân tộc đă được tuyển chọn. Thế nhưng họ đă từ chối. Tin mừng ghi lại thái độ của họ như sau: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đă được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến”. Thậm chí, họ c̣n “không đếm xỉa ǵ và bỏ đi”. Dân tộc Do Thái, một dân đă được vinh dự mời đến dự tiệc cưới của một vị hoàng tử, có tên gọi là Giêsu, nhưng họ đă không nhận ra hồng ân này. Họ đang c̣n bận rộn với những công việc thường ngày của họ: “Người th́ đi thăm trại, người th́ đi buôn bán”. Họ đă từ chối Người hảo ư của nhà vua. Thậm chí, họ c̣n “bắt các đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”. Họ đă phải trả giá đắt cho hành vi vô ơn, bội nghĩa của ḿnh, nhà vua đă “sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó”. Đúng là “rượu mừng không uống, lại muốn uống rượu phạt”.


Dân được chọn đă từ chối mà tiệc cưới th́ không thể không có thực khách, nhà vua đă nói với các đầy tớ: “Các ngươi hăy ra các ngă đường, gặp bất cứ ai, th́ mời vào dự tiệc cưới”. Như thế, thực khách của bữa tiệc này đă không c̣n bị giới hạn. Tất cả mọi người đều được mời vào để dự bữa tiệc đă được đă được dọn sẵn. Và “pḥng cưới chật ních khách dự tiệc”. Một dân mới được thiết lập để thay cho dân cũ. Dân mới này chính là Giáo Hội. Giáo Hội là dân mới được Đức Giêsu thiết lập để thay thế cho dân cũ đă từ chối Ngài. Mọi người đều được mời gọi vào Giáo Hội “bất luận tốt xấu” để tham dự tiệc cưới của Con Chiên tinh tuyền là Đức Kitô (x. Kh 19, 7-9) nơi bàn tiệc Thánh Thể.


Tuy nhiên, để thực sự xứng đáng với bữa tiệc này, mỗi người cần có “y phục lễ cưới”.


3. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THAM DỰ TIỆC CƯỚI :

Y phục lễ cưới” chính là điều kiện duy nhất cho người tham dự bữa tiệc vui này, bất kể đó là nam hay nữ, giàu hay nghèo, bất kể màu da, ngôn ngữ, sắc tộc hay tuổi tác. Tất cả nếu muốn tham dự bàn tiệc này cần có “y phục lễ cưới”. Khi cho gọi tất cả đủ mọi hạng người vào dự tiệc cưới, nhà vua không đặt ra cho họ một điều kiện nào ngoài “y phục lễ cưới”.


Chiếc áo cưới này phải chăng là một đời sống công chính trong Đức Kitô. Mỗi người được mời gọi vào Giáo Hội nhờ phép Rửa, không đương nhiên là được cứu độ. Vào ngày lănh nhận phép Rửa, chắc hẳn quư ông bà anh chị em c̣n nhớ lời căn dặn của thừa tác viên: “Con hăy nhận lấy chiếc áo trắng này và hăy mang lấy và ǵn giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Như thế, muốn xứng đáng là một thực khách trong bữa tiệc của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta phải mặc lấy Đức Kitô, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô, chúng ta phải “mặc lấy con người mới” (x. Ep 4, 24; Cl 3, 10). Giữ chiếc áo trắng ngày Rửa Tội cho thật tinh tuyền cho đến măn đời, quả thật là điều khó, nếu không muốn nói là vượt quá khả năng tự nhiên của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta biết trông cậy vào Thiên Chúa th́ lại là chuyện khác, thánh Phaolô xác tín: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.


Mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần, chúng ta được mời đến dự bàn tiệc của Thiên Chúa, bàn tiệc Thánh Thể. Thế nhưng chúng ta đă đáp lại lời mời này của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có cảm thấy niềm vui và vinh dự khi được đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể không? Hay là chúng ta cũng như những người Do Thái vẫn dửng dưng với lời mời gọi này. Chúng ta nghĩ rằng rước lễ cũng được mà không rước cũng chẳng sao. Số phận của những người từ chối hôm nay là một lời nhắc nhở cho từng người chúng ta. Mặt khác, để có thể rước lễ một cách xứng đáng, mỗi người chúng ta cũng cần có “y phục lễ cưới”, nghĩa là giữ tâm hồn sạch khỏi mọi tội trọng và dọn ḿnh chu đáo.


Lắng nghe lời Chúa hôm nay, ước ǵ mỗi người chúng ta mau chóng đáp lời mời đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Đồng thời cũng mặc lấy áo cưới là tâm hồn sạch tội. Nhờ đó, chúng ta sẽ hưởng được niềm vui sung măn trong bữa tiệc của Thiên Chúa. Amen.

 

 

 

Lm Trần Thanh Sơn

 

 

 

 

 

GỌi Th́ NhiỀu Mà ChỌn Th́ Ít

Is 25,6-10a; Pl 4, 12-14,19-20; Mt 22,1-14


Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân

Quan niệm “Tiệc cánh chung” là một quan niệm rất phổ thông trong đạo Do Thái. V́ thế ví dụ “Đức Vua làm tiệc cưới” mà Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng gợi lại tư tưởng bữa “Tiệc cánh chung” mà Tiên tri Isaia đá nói tới: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thiết đăi tất cả các dân trên núi nầy một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt th́ béo, rượu th́ ngon” (Is 25,6- Bài đọc 1)


Đức Vua đây, tức là Thiên Chúa, đă nhờ “Hoàng tử” của ḿnh là Chúa Giêsu Kitô dọn tiệc Nước Trời. Khách được mời chính thức và trước hết là dân Do Thái. “Nhưng họ không thèm đếm xỉa và bỏ đi... Thậm chí có kẻ c̣n bắt đầy tớ Vua (là các Tiên tri và cả chính Con của Người là Chúa Giêsu, sứ giả cuối cùng (Mt 21, 35-39) mà nhục mạ và giết đi” (Mt 22, 5-6)


V́ thế Thiên Chúa là Vua bèn “thịnh nộ và phái quân binh đi tru diệt bọn sát nhân đó và thiêu hủy thành phố của chúng” (Mt 22,7). Sau đó Đức Vua Thiên Chúa phán: “Tiệc đă sẵn sàng nhưng những khách được mời đă không đáng dự”. (Mt 22,8) và ngài truyền cho đi mời “mọi người gặp được, bất luận tốt xấu”. (c 9).


Theo thánh Luca, họ gồm cả những kẻ ăn mày, tàn tật, đui mù, què quặt (Lc 14, 21). Đúng như lời Chúa nói: “ Ta bảo các ngươi: nhiều kẻ từ đông sang tây sẽ đến và dự tiệc Nước Trời, c̣n chính con cái trong nhà lại bị loại ra” (Mt 8,11).



Nước Thiên Chúa, ơn Cứu Độ, vậy là từ nay thuộc về mọi dân tộc: “Bởi các người (Do thái) đă khước từ những lời của Thiên Chúa nên chúng tôi quay sang người ngoại” (TĐCV 14,46). Và “Bởi họ (Do thái) đă sa ngă, nên ơn Cứu Độ đă về phần dân ngoại” (Rm 11,11). Lại nữa, Nước Thiên Chúa ở trần gian với tự do chọn lựa lành dữ nên gồm có người lành lẫn kẻ ác, - như ruộng lúa có cỏ lùng, mẻ lưới đầy cá tốt lẫn cá xấu (Mt 13, 36-47).


Nhưng khi ngày Tận thế đến sẽ có sự phân biệt và chọn lọc (Mt 13,41-49): người lành người tốt th́ được thưởng, c̣n kẻ dữ người xấu th́ bị phạt. Cũng vậy, kẻ dự tiệc mà mặc y phục lễ cưới, là ơn Chúa đă sắm sẵn, th́ sẽ được chọn, c̣n kẻ “không mặc y phục lễ cưới” th́ sẽ bị “đuổi ra bên ngoài ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng” (Mt 22, 11-12).


Tục lệ Do Thái : ai vào ăn tiệc cưới cũng phải mặc y phục chủ đă may và treo sẵn ở cửa vào. Ai không mặc là lỗi luật, là khinh chủ. Ví thế “Anh ta câm miệng không nói được ǵ để tự bào chữa” (Mt 22,12).


Nhờ t́nh thương của Chúa, chúng ta đă được Thiên Chúa mời tham dự Tiệc cưới Nước Trời. Đó là một vinh dự, một ơn huệ đặc biệt chúng ta phải cảm tạ Chúa và phải lo “mặc y phục” ơn Cứu độ và các việc lành phúc đức, kẻo lại bị loại ra v́ : “Kẻ được gọi th́ nhiều mà người được chọn th́ ít” đấy (Mt 22,14).


Lạy Chúa, tuần này con quyết tâm Suy niệm bài Phúc âm và xét xem con đă mặc “y phục lễ cưới” sẵn sàng để vào dự tiệc Nước Trời chưa?”

 

Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân

 

ÁO CƯỚI KITÔ HỮU

 

Rev. Gioan Trần Khả

 

Tiên tri Isaiah diễn tả, "Ngày ấy Chúa các đạo binh sẽ thiết đăi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc với thịt béo và rượu ngon. Sự chết, tang chế, khóc than, tủi hổ, đói rách sẽ không c̣n nữa." "Này đây Chúa chúng ta, Đấng chúng ta chờ đợi. Người sẽ cứu chúng ta." Thánh vịnh đáp ca cũng xướng lên "Chúa dọn bàn tiệc đăi tôi. . . Chúa xức dầu trên đầu tôi, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa." Cũng chính trong bối cảnh của bữa tiệc Nước Trời này, Chúa Giêsu đă dùng dụ ngôn Tiệc Cưới Hoàng Tử để giảng giải. Ngài nói, "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử." Bữa tiệc đă dọn sẵn, nhưng những người được mời đă khước từ hoặc viện lẽ này cớ kia để không đến. Có những người lại hành hung và giết cả người đi mời. V́ những người được mời đă không đến, cho nên nhà vua quyết định cho mời tất cả những người ở các ngả đường vào cho đầy pḥng tiệc. Khi nghe dụ ngôn này, các trưởng lăo và những người lănh đạo trong dân Do Thái rất bực tức; v́ họ biết rằng Chúa Giêsu đă có ư nói về họ. V́ họ không tiếp nhận Đức Kitô, có nghĩa là không nhận lời mời của Thiên Chúa; cho nên Nước trời bây giờ không c̣n là dành cho riêng họ, nhưng cho tất cả mọi người, mọi dân tộc; với một điều kiện: những người đáp lại lời mời gọi vào dự tiệc cưới đ̣i buộc phải mặc áo cưới.

 

TiỆc CưỚi

Chúa Giêsu không dùng thí dụ tiệc cưới của đôi nam nữ b́nh thường, nhưng Ngài đă dùng thí dụ tiệc cưới của hoàng tử, con vua. Người được mời dự tiệc cưới của hoàng tử phải là những khách quư, những người thân thích với Hoàng gia, những người có địa vị quan trọng. Được mời tham dự buổi tiệc như thế là một niềm hănh diện và vinh dự lớn lao. Tuy vậy, người được mời vẫn có quyền tự do nhận lời hay không nhận lời. Nhận lời hay từ chối tùy thuộc ở tâm t́nh của người được mời. Nếu họ coi trọng t́nh nghĩa với nhà vua và hoàng tử th́ họ sẽ nhận lời. Nếu t́nh nghĩa của họ với nhà vua và hoàng tử không quan trọng bằng những cái khác th́ họ sẽ kiếu từ. Chúa Giêsu nói rằng nhiều người đă kiếu từ không đi dự. Điều đó nói lên rằng họ đă không coi trọng t́nh nghĩa với nhà Vua và Hoàng Tử.

 

V́ số người được mời trước đă không đến. Pḥng tiệc c̣n trống cho nên nhà vua ra lệnh cho mời tất cả mọi người ở các ngă đường. Khi pḥng tiệc đă đầy người, nhà vua thấy một người đă không mặc áo cưới. Nhà vua hỏi, "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh không trả lời. Vua liền ra lệnh: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

 

MẶc Áo CưỚi

Có điều ǵ dường như không ổn. Chúng ta thấy cảm thương cho số phận người được mời từ ngă ba đường vào dự tiệc cưới để rồi bị loại ra v́ đă không mặc áo cưới. Làm sao mà họ biết trước là ḿnh sẽ đi ăn cưới để mà ăn mặc cho xứng hợp? Tại sao người ta đang đi ở ngoài đường bỗng dưng mời họ vào, rồi lại bắt lỗi để đuổi người ta ra? Chúa Giêsu không có ư nói đến bộ áo cưới của những người đi dự những đám cưới trần thế. Ngài dùng h́nh ảnh tiệc cưới của Hoàng Tử để nói lên tính cách quan trọng và đặc biệt có một không hai của bữa tiệc cưới đời đời trong nước trời. Đây là tiệc cưới giữa trời và đất, tiệc cưới của Con Thiên Chúa với nhân loại. Thiên Chúa muốn pḥng tiệc cưới được đầy kín. Mọi người đều có cơ hội để được vào dự tiệc cưới trong Nước Thiên Chúa. Nhưng để được tham dự chúng ta phải mặc áo cưới; có nghĩa là phải chấp nhận mặc vào ḿnh những đức tính và tinh thần của Đức Kitô.

 

Bộ áo cưới của Nước Trời mà Chúa Giêsu nói đến là tấm áo Rửa Tội của người Kitô hữu, được trang điểm bởi các bông hoa nhân đức của tinh thần Phúc Âm. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ, "Con đă trở nên tạo vật mới và đă mặc lấy Đức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hăy mang nó tinh tuyền măi cho đến cơi trường sinh." Là Kitô hữu có nghĩa là chúng ta luôn phải mặc tấm áo này ở nhà hay ngoài đường, hoặc nơi phố chợ. Để bất cứ khi nào và ở đâu, hay trong hoàn cảnh nào, nếu chúng ta được mời vào bàn tiệc đời đời với Con Thiên Chúa th́ chúng ta cũng sẵn sàng và đang ăn mặc xứng với tước vị Kitô hữu của ḿnh. Người nào không mang lấy tấm áo Rửa Tội trong Đức Ktiô th́ không thể vào dự tiệc trong nước trời. Như vậy có nghĩa là những ai chưa có áo Rửa Tội trong Đức Kitô th́ cần t́m để mua sắm mặc cho ḿnh tấm áo đó. C̣n những người đă lănh nhận tấm áo Rửa Tội trong Đức Kitô th́ phải tiếp tục mặc, giữ ǵn và trang điểm cho tấm áo ấy được lộng lẫy thêm lên bằng những nhân đức của Đức Kitô.

 

Vậy lúc này đây, bạn và tôi tấm áo Rửa Tội của chúng ta như thế nào? Lành lặn và mang rơ h́nh nét của Đức Kitô, hay đă bị phai mờ, hoen ố, nhàu nát và cũ kỹ? Chúng ta c̣n mặc trên ḿnh tấm áo Rửa Tội hay đă thay bằng tấm áo khác? Những tấm áo của tiền bạc? Của danh vọng? Của tội lỗi đam mê? Của ghen ghét? Của cờ bạc rượu chè? Hay của bất cứ cái ǵ khác không phải là Đức Kitô? Nếu Thiên Chúa đến và nh́n thấy chúng ta không mặc áo cưới và Ngài hỏi chúng ta, "Tại sao lại không mặc áo cưới?" Chúng ta sẽ thưa lại với Ngài như thế nào? Hay giống như người trong dụ ngôn, chúng ta cũng cúi đầu lặng thinh không nói ǵ cả?

 

Tinh ThẦn TiỆc CưỚi

Chấp nhận làm Kitô hữu tức là chấp nhận đi dự lễ cưới của Con Thiên Chúa. Là những người nhận lời mời đi dự tiệc cưới của Con Thiên Chúa, chúng ta không được có thái độ như một số người coi việc đi dự tiệc cưới là đi "trả nợ" "đi gọi là cho có" "Đi cho tṛn bổn phận."  "Đi để đáp lễ " Hằng ngày hằng tuần chúng ta quy tụ gặp gỡ nhau trong cộng đoàn Giáo Hội, chúng ta đọc kinh cầu nguyện, ca hát, xưng tội, rước lễ, cử hành phụng vụ là chúng ta đang tham dự vào bữa tiệc cưới của Nước Trời. Do đó chúng ta cần làm cho việc sống đạo của chúng ta mang sắc thái vui tươi của bữa tiệc cưới. Chúng ta sống đạo có nghĩa là chúng ta đi ăn tiệc cưới trong tinh thần vui tươi v́ ḷng quư mến Con Thiên Chúa; chứ không phải là chúng ta đi v́ bổn phận, hay là đi để trả nợ cho Thiên Chúa. Việc giữ đạo và sống đạo của chúng ta cần mang một sắc thái tích cực, vui tươi và phấn khởi.

 

Thêm vào đó, là Kitô hữu có nghĩa là chúng ta thuộc Hoàng gia. Chúng ta là con cái trong gia đ́nh Thiên Chúa. Đă thuộc hoàng gia, và là con cái của Thiên Chúa th́ đương nhiên chúng ta thuộc thành phần tham dự tiệc cưới, và đóng góp vào việc chuẩn bị cho tiệc cưới. Chúng ta cần phải có thái độ dấn thân không những chỉ đến dự tiệc; nhưng c̣n mau mắn vui vẻ tham gia vào việc trang hoàng pḥng tiệc, đón khách, tiếp chuyện, rót rượu, ca hát, nhảy múa. Có nghĩa là chúng ta dấn thân cộng tác làm cho pḥng tiệc trong nhà của Thiên Chúa được vui vẻ, náo nhiệt, và đông khách hơn bằng cách hăng say dấn thân hoạt động tông đồ. Tham gia các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành để hoạt động mở mang Nước Chúa. Chúng ta cần đóng vai là những gia nhân của Hoàng Gia đi ra các ngả đường mời gọi mọi người vào nhà của Thiên Chúa để dự tiệc cưới của Con Thiên Chúa. Pḥng tiệc cưới của Con Thiên Chúa vẫn c̣n nhiều bàn trống. Chúng ta cần phải tích cực đi mời để cho pḥng tiệc được đầy.

 

Rev. Gioan Trần Khả

 

 

SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

 

Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội.

 

1. NưỚc TrỜi trong sỨ vỤ cỦa ĐỨc Giê-su

Có lẽ trong giảng dạy của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cha ông tiền bối chúng ta đă nhấn mạnh quá nhiều đến Giáo Hội mà ít nhấn mạnh đến Nước Trời. Đó là do ảnh hưởng một nền thần học không lấy Đức Giê-su làm trung tâm điểm và coi nhẹ tính Cánh Chung của thời tiền Công Đồng Vatican II. C̣n nếu chúng ta coi trọng Thánh Kinh, th́ chúng ta không thể coi nhẹ khái niệm và thực tại Nước Trời.

 

Ngay trong Cựu Ước, không biết bao nhiêu lần từ Nước Chúa, Vương Quốc, Triều Đại của Thiên Chúa được lặp đi lặp lại. C̣n ngay trang đầu của Tân Ước, Gio-an Tiền hô và Đức Giê-su đă kêu gọi dân chúng: "Anh em hăy sám hối, v́ Nước Trời đă gần đến" ( Mt 3, 2 )

 

Chính Đức Giê-su đă được công bố sự vụ của ḿnh, một sứ vụ đă được I-sai-a báo trước: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, v́ Chúa đă xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đă sai tôi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa" ( Lc 4,18 - 19 ).

 

Nước Trời chính là sứ vụ của Đức Giê-su.

Sứ vụ của Đức Giê-su chẳng những là công bố Nước Trời mà c̣n là thiết lập Nước Trời nơi trần gian này. V́ thế chúng ta mới hiểu tại sao Ngài miệt mài, tha thiết với Nước Trời như vậy. Trong khi giảng dạy Ngài dùng hết dụ ngôn này đến dụ ngôn khác, hết thực tại này đến thực tại khác để giúp người ta hiểu về Nước Trời ( xem các dụ ngôn về Nước Trời ).

 

2. NưỚc TrỜi rỘng mỞ như tiỆc cưỚi cỦa hoàng tỬ

Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 28 hôm nay, Nước Trời được tŕnh bày bằng dụ ngôn tiệc cưới, một tiệc cưới hết sức đặc biệt: tiệc cưới của hoàng tử cưng của nhà vua. Vua cha không quản ngại tốn kém để tiệc cưới của hoàng tử được tổ chức một cách hết sức linh đ́nh, trọng thể. Khách mời là rất nhiều người và được mời từ rất lâu trước ngày cưới để họ có đủ thời gian thu xếp mọi việc để có mặt trong tiệc cưới. Cách kể chuyện của Đức Giê-su làm nổi bật thái độ của nhà vua: vua quan tâm nhất là việc các khách mời đến đông đủ để pḥng tiệc của ngài không c̣n một chỗ nào trống.

 

Chúng ta có cảm tưởng như đối với nhà vua, nỗi lo ngại lớn nhất và duy nhất là khách mời không đến đủ, là tiệc cưới bị ế. Chính v́ thế mà khi biết có những người từ chối lời mời của ngài, ngài liền sai gia nhân đầy tớ ra đầu đường xó chợ, kêu mời bất kể kẻ tốt người xấu đến dự tiệc. Có phải nhà vua sợ lỗ không ? Không, nhà vua không quan tâm tới chuyện lỗ lăi như các ông chủ tiệc cưới ngày nay và nhà vua đủ giàu có để không nhận quà biếu hay bao thư của khách mời. Và theo văn mạch của Thánh Kinh Tân Ước th́ chúng ta phải hiểu là "không đến dự tiệc cưới của hoàng tử là một mất mát, thiệt tḥi lớn đối với các khách mời !"

 

Nét nổi bật mà Tin Mừng muốn để lại trong tâm trí chúng ta là Nước Trời là Niềm Vui, là Tiệc Cưới, là Niềm Hoan Lạc. Nếu Giáo Hội là h́nh ảnh và là công cụ của Nước Trời th́ những người sống trong Giáo Hội cũng phải phản ánh một Niềm Vui tràn trề trong cuộc sống, một Nỗi Hân Hoan thánh thiện, thanh thoát trong tâm hồn và trên gương mặt !

 

Những khách mời đă không đến dự tiệc là những người không xứng đáng với tiệc cưới của hoàng tử v́ họ đă coi thường lời mời của Thiên Chúa. C̣n người khách nọ vào pḥng tiệc mà không có y phục lễ cưới cũng không xứng đáng với tiệc cưới của hoàng tử v́ anh ta không tuân giữ điều tối thiểu đă được qui định. Cả hai loại người trên đều bị Thiên Chúa chê trách và v́ thế mà họ bị trừng phạt.

 

3. NưỚc TrỜi là niỀm vinh dỰ và là trách nhiỆm cỦa mỖi ngưỜi chúng ta ngày nay

Mỗi người chúng ta đều là khách được mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử là Nước Trời: đó là vinh dự lớn lao của chúng ta. Chúng ta có biết trân trọng đáp lại lời mời của Thiên Chúa mà đến dự không? Bước vào pḥng tiệc th́ chúng ta phải tuân giữ những điều tối thiểu đă được qui định: đó là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta đă sống trong Giáo Hội và trong Nước Trời một thời gian dài rồi nhưng chúng ta có sống xứng đáng với tư cách khách vào pḥng tiệc không ?

 

Hơn nữa chúng ta c̣n có vinh dự và trách nhiệm là thân nhân, đầy tớ của nhà vua đổ ra các nẻo đường để mời gọi những người khác đến dự tiệc cưới của hoàng tử. Chúng ta có ra sức t́m kiếm gặp gỡ những người - càng nhiều càng tốt - chưa biết Chúa, chưa tin Chúa, chưa nhận Chúa làm Cha, làm Vua, để t́m cách nói với họ về tấm ḷng quảng đại yêu thương của Thiên Chúa, giới thiệu với họ thiện ư tốt lành và quyền năng của Người không ?

 

�Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đă ân cần nhắc nhở các Giám Mục Việt Nam về sứ vụ truyền giáo trong dịp các ngài đi Ad Limina: "Hăy ra khơi thả lưới". Truyền giáo là trách nhiệm của mọi Giáo Hội và mọi Ki-tô hữu. Nhưng với Giáo Hội và tín hữu Việt Nam, th́ mệnh lệnh ấy càng khẩn trương hơn với những động lực lơn lao sau đây:

·        Đạo Chúa đă được cha ông tổ tiên chúng ta đón nhận từ 300 đến 400 năm nay;

·        Giáo Hội Việt Nam có hàng trăm ngàn vị Tử Đạo, mà 117 vị trong số đó đă được phong thánh

·        Giáo Hội Việt Nam có rất nhiều ơn gọi Linh Mục, Tu Sĩ, và Tông Đồ Giáo Dân.

·        Người Việt Nam có ḷng đạo rất sâu sắc và mạnh mẽ, quí trọng các gía trị tôn giáo và tâm linh.

·        Người Công Giáo Việt Nam sống trong chế độ xă hội chủ nghĩa... có sức ép từ ngoài xă hội để sống và biểu lộ Đức Tin. Thế mà con số người Công Giáo vẫn c̣n quá khiêm tốn so với tỷ lệ dân số ! Và đời sống Đức Tin của đại đa số giáo dân vẫn chỉ dựa vào t́nh cảm và tập quán thói quen, chứ chưa được xây dựng trên sự hiểu biết và cảm nghiệm Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa, trên giáo huấn của Công Đồng Vatican II và Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo.

 

 

Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội.

 

 

Thiên Chúa: ĐẤng Ưu Tiên và TỐi HẬu

Mt 22,1-14

Lm Louis Hữu Độ, CMC


Người Ba Tư kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau:

Có một nhà hiền triết xuất hiện giữa phố chợ và nói sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai. Có một anh chăn chiên muốn hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông, anh cầm trong tay một con chim sẻ và đặt câu hỏi: “Thưa ngài, trong tay tôi có một con chim. Ngài là người thông thái giải đáp mọi vấn nạn, vậy xin hỏi ngài, con chim trong tay tôi c̣n sống hay chết”. Biết đây là cái bẫy, v́ nếu nói chim sống th́ tức khắc anh chăn chiên bóp nó chết trước khi mở bàn tay. Nếu nói chim chết th́ anh ta mở bàn tay cho chim bay đi. Trước sự chờ đợi của đám đông, nhà hiền triết từ tốn trả lời như sau: Con chim trong tay ngươi sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi cho nó sống th́ sống, nếu ngươi muốn nó chết th́ nó chết.

X

X      X

Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc, đó là niềm khao khát thâm sâu nhất của con người, nhưng chúng ta được hạnh phúc hay không là tùy ở chúng ta, giống như con chim sống hay chết là tùy ở anh chăn chiên Hạnh phúc đích thực của mỗi người chúng ta là Thiên Chúa, là Nước Trời. Phúc Âm viết Thiên Chúa mời gọi con người tới dự tiệc cưới. Tiệc cưới đó là h́nh ảnh Nước Trời, là nơi đem lại hạnh phúc viên măn và vĩnh cửu. Thế nhưng người ta không đáp lại, viện cớ đi thăm trại, viện cớ đi buôn bán. Đi thăm trại, đi buôn bán tự nó không phải là việc xấu, nhưng họ đă làm một việc khờ dại là chỉ chú ư đời này mà quên đi đời sau. Đi thăm trại, đi buôn bán tựu kỳ trung là lo làm giàu. Họ nghĩ lầm: giàu sang đem lại hạnh phúc. Nhưng cái nghịch lư lớn nhất của cuộc đời là khi con người t́m cách lấy đầy tâm hồn ḿnh bằng những của cải chóng qua th́ đó là lúc con người cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn.


Đừng lấy lư do tôi quá bận rội với công việc làm, với gia đ́nh mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn ḿnh. Bận rộn chỉ là tấm ảnh dựng nên để che đậy những lười biếng, những tiêu cực của ḿnh. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hăy hỏi tôi có muốn hay không? V́ ḷng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi bận rộn.


Thiên Chúa không phải là bông hoa để trang trí cuộc đời. Thiên Chúa là một Đấng tối cần không thể thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Hạnh phúc Nước Trời không phải là một con bài trong Casino, thua con bài này ta đánh con bài khác. Hạnh phúc Nước Trời là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng và can hệ v́ chỉ có một lần thôi: Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa th́ muôn đời tôi được, trái lại từ chối th́ tôi đánh mất đời đời.


Vậy th́ Thiên Chúa phải là Đấng ưu tiên và tối hậu trong cuộc đời chúng ta. Ngài phải ỡ trên mọi lư do bận rộn, trên mọi của cải đời này. Và hạnh phúc Nước Trời là một thứ suốt đời tôi chuyên tâm t́m kiếm..

 

Lm Louis  Hữu Độ, CMC

GỌI NHIỀU CHỌN ÍT

 

Lm. Minh Vận, CMC

Chúng ta c̣n nhớ trước đây không lâu, một đám cưới thật vĩ đại, linh đ́nh và sang trọng vào bậc nhất trong lịch sử của kỷ nguyên hiện đại. Đó là đám cưới của hoàng tử Charles Philip và cô giáo vườn trẻ Lady Diana tại Anh Quốc. Khắp thế giới cả mấy trăm triệu người chăm chú theo dơi những ngày dài nô nức chuẩn bị, với những lễ nghi cổ truyền, y phục hoàng triều lộng lẫy và sang trọng, những buổi yến tiệc tiếp tân triền miên; những cuộc ḥa tấu ca hát nhảy múa, những lời trầm trồ ca ngợi mối t́nh đằm thắm của đôi bạn trẻ Hoàng Tử Charles và Công Chúa Diana... Báo chương và các đài truyền h́nh, truyền thanh, các phóng viên thi đua nhau loan tin; Chính Phủ các quốc gia gởi điện văn chúc mừng, các quà tặng đắt giá xứng bậc vua chúa tới tấp bay đến.Tưởng như niềm vui hạnh phúc đó không bao giờ tàn. Nhưng rồi ai nấy cũng học được một bài học khôn ngoan và đắt giá về hạnh phúc mau qua chóng tàn nơi trần gian này!

 

I. NHỮNG THỰC KHÁCH DANH DỰ

Bài sách tiên tri Isaia và bài Tin Mừng theo Thánh Matheo chúng ta vừa nghe, đều cùng dùng một h́nh ảnh tiệc cưới, để mặc khải cho chúng ta hiểu một phần nào hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa sẽ ban cho những kẻ Người tuyển chọn. Khi đó không c̣n chết chóc, không c̣n tang chế, không c̣n than khóc, tủi hổ hoặc sầu đau nữa. Chỉ c̣n hân hoan, vui mừng, sướng vui, an b́nh và hạnh phúc, một hạnh phúc vĩnh cửu và trường tồn trong vinh quang bất diệt không hề tàn phai. Nhưng những ai được vinh dự thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đó?

Theo các nhà chú giải bài Tin Mừng hôm nay, th́ những thực khách vinh dự được Nhà Vua mời dự tiệc cưới của Hoàng Tử, tức là những người được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đó chính là những người Do Thái, Dân Riêng của Chúa nói chung và phái Pharisiêu nói riêng. Nhưng v́ họ quá tự măn kiêu căng, ham hố trần tục và bất trung với Chúa, nên chính tự họ đă loại ḿnh ra khỏi Vương Quốc Thiên Chúa là Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian và Hạnh Phúc vĩnh cửu trên Quê Trời.

 

II. ĐỂ ĐƯỢC THỪA HƯỞNG PHÚC VĨNH CỬU

Qua bài Tin Mừng, chúng ta thấy ḿnh được diễm phúc Chúa yêu thương mời gọi chúng ta vào dự yến tiệc của Chúa, sau khi những thực khách danh dự được mời trước không xứng đáng được nếm hưởng. Chính Chúa đă phán qua dụ ngôn: "Tiệc cưới đă dọn sẵn, nhưng những kẻ được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hăy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, th́ mời vào dự tiệc cưới".

 

Dân tộc được diễm phúc là Dân Riêng của Chúa đă từ chối Chúa, không tiếp nhận Chúa Cứu Thế và giáo lư của Người, nên đă bị loại ra ngoài không được gia nhập Giáo Hội Chúa và thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời, nên Chúa đă kêu gọi dân ngoại, thuộc bất cứ cấp bậc nào trong xă hội và qua mọi thời đại vào dự yến tiệc của Chúa, làm thành phần của Giáo Hội và thừa hưởng hạnh phúc Chúa đă sắm sẵn cho những kẻ Chúa yêu thương tuyển chọn.

 

III. ĐỂ SỐNG XỨNG ĐÁNG ƠN TUYỂN CHỌN

Là Kitô Hữu, những người được Chúa yêu thương tuyển chọn gia nhập Giáo Hội Chúa, với quyền thừa hưởng gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa, chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng với ơn cao cả đă lănh nhận?

 

Chúng ta cần phải trung thành với ơn Chúa tuyển chọn theo địa vị chức bậc của mỗi người, bằng cách tuân theo những giáo huấn của Chúa đă truyền dạy, theo gương Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại: "Trong mọi trường hợp và hết mọi cách" ngài chỉ biết chu toàn thánh ư Thiên Chúa và do đó, ngài đă dám tin tưởng và quả quyết chắc chắn rằng: "Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Phil 4:13).

 

Trái lại, nếu bất trung với ơn Chúa ban, chúng ta cũng sẽ bị loại ra ngoài đồng số phận với những thực khách danh dự được mời trước, nhưng lại kiêu căng tự phụ, không đáng nếm hưởng yến tiệc của Chúa, là chính Hạnh Phúc Chúa hứa ban cho các con cái Ngài đă yêu thương tuyển chọn, như lời Chúa đă quả quyết: "Những kẻ được gọi th́ nhiều, c̣n những kẻ được chọn th́ ít" (Mt 20:16).

 

KÊT LUẬN

Mẹ Maria là Đấng hằng trung tín với ơn Chúa. Vậy là con Mẹ, xin Mẹ chia sẻ ḷng trung tín của Mẹ cho chúng ta và tăng thêm sức mạnh, giúp chúng ta biết theo gương Mẹ, trung tín với ơn Chúa tuyển chọn tùy theo bậc sống và địa vị cuả mỗi người, để chúng ta đáng Chúa ban ơn trợ giúp sống xứng với ơn tuyển chọn làm con cái yêu dấu của Chúa và Giáo Hội, hầu đáng được hưởng Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban cho các con cái Chúa.

 

 

Lm. Minh Vận, CMC

 

 

 

 

 

ChiẾc áo cưỚi mang nhăn hiỆu Giêsu

Mt 22, 1-14


Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Với dụ ngôn “tiệc cưới”, Tin mừng hôm nay muốn khép lại những thắc mắc hay đúng hơn là những hạch hỏi sách nhiễu do các thượng tế và kỳ mục Dothái đưa ra nhằm “hạ bệ” Chúa Giêsu, nhưng đồng thời đó cũng là dụ ngôn- cách nào đó, Chúa Giêsu muốn gửi đến không chỉ cho giới thượng tế và kỳ mục, mà c̣n cho hết mọi thành phần dân Chúa với lời nhắn : Hăy duyệt xét lại lời mời tham dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa và không ngừng chuẩn bị cho ḿnh có được bộ y phục lễ cưới trong ngày trọng đại ấy.


Mở đầu dụ ngôn, Chúa Giêsu sánh ví Nước Trời như bữa tiệc cưới của hoàng tử diễn ra trong triều đ́nh. Tiệc cưới trong đám thường dân đă là việc trọng đại huống ǵ là tiệc cưới của bậc vua chúa trong triều. Tin hoàng tử kết hôn được loan đi cùng với đó là “thiệp hồng” báo tin ngày thành hôn của hoàng tử cũng được gửi đến tất cả các bậc vị vọng trong triều đ́nh cũng như các quan cận thần. Để tránh cho quan khách sự cố do lu bu nhiều chuyện mà quên việc đại sự, nhà vua c̣n cẩn thận sai đầy tớ đến từng nhà để mời họ tới. Những tưởng trước sự quư mến và hết mực tha thiết của vua, quư quan khách sẽ mau mắn đáp lại, thế nhưng họ tỏ ra ù lỳ, không chịu đến.


Trước sự khinh thường của các nhân vật hệ trọng, nhà vua không tỏ ra khó chịu, tức giận hay ngă ḷng. Trái lại, ông nhẫn nại sai những đầy tớ khác đến với họ một lần nữa và lần này thông điệp ông muốn gửi đến họ là lời mời cách khẩn thiết và rơ ràng : “Này cỗ bàn, ta đă dọn xong, ḅ tơ và thú béo đă hạ rồi, mọi sự đă sẵn. Mời quư vị đến tham dự tiệc cưới”. C̣n lời tha thiết nào hơn những lời mà nhà vua vừa gửi đến cho những nhân vật VIP này. Thế nhưng họ chẳng thèm đếm xỉa. Chưa hết, đă không đếm xỉa, khinh thường lời mời của nhà vua th́ thôi, đàng này họ lại bắt đầy tớ vua sỉ nhục và giết chết nữa chứ. Thật là tội tày đ́nh. Bởi thế việc vua nổi cơn thịnh nộ cũng là điều dễ hiểu.


Rơ ràng thái độ phạm thượng của đám người “ưu tuyển” này đă không v́ thế làm cho tiệc cưới nhà vua đang tổ chức cho hoàng tử vắng khách. Trái lại, từ khắp các ngả đường, đủ mọi thành phần chứ không c̣n thành phần ưu tuyển nữa, tất cả đều được mời vào tham dự tiệc cưới. Pḥng cưới chật ních khách. Thế nhưng trong bữa tiệc đó, chúng ta thấy có một người không mặc y phục lễ cưới bị nhà vua tra hỏi. Điều này xem ra vô lư v́ trước đó, nhà vua cho đầy tớ ra các ngả đường gặp ai bất luận tốt xấu đều mời vào cả, vậy tại sao vua lại tra vấn anh ta v́ anh ta không mặc y phục lễ cưới? Nếu để ư, chúng ta sẽ thấy dụ ngôn nói đến việc anh này “câm miệng không nói được ǵ” trước sự tra vấn của nhà vua. Tại sao như vậy? Chúng ta có thể lư giải thế này. Hẳn nhiên anh ta không nằm trong số bị ép vào dự tiệc, v́ nếu bị ép, anh ta đă lên tiếng khống chế rồi. Như thế anh là người được nhà vua mời trước, nhưng v́ lôi thôi, thiếu sự chuẩn bị nên đến giờ vào tiệc cưới, chiếc áo lẽ ra đă được chuẩn bị từ lâu nay lại không có.


Nếu bữa tiệc cưới được nhà vua thết đăi tượng trưng cho Nước Trời th́ y phục lễ cưới tượng trưng cho một lối sống chuẩn mực, phù hợp với công dân của nước ấy. Đành rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc, cách nào đó chúng ta cũng thấy được tính cách của người đó. Như thế, y phục lễ cưới mà dụ ngôn muốn nhắm đến là ǵ? Được Thiên Chúa mời gọi vào bàn tiệc nước Thiên Chúa là một hồng ân, nên cách nào đó, chiếc áo mà chúng ta cần phải có chính là một đời sống phù hợp với những yêu cầu đ̣i hỏi cơ bản mà Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện. Chiếc áo đó chính là đời sống của Đức Kytô như thánh Phaolô đă từng nhắc nhở các giáo đoàn của ngài. Qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta trở nên con người mới, nghĩa là con người được tái tạo trong Đức Kytô qua cái chết và phục sinh của Người. Chính v́ thế, thánh Phalô khuyên chúng ta v́ đă trở nên “con người mới”, nên chúng ta cần phải “mặc lấy Đức Kytô”, nghĩa là cần phải được biến đổi theo h́nh ảnh của Người (x. Gl 3, 27.28; Ep 4, 24). Như thế, chiếc áo mà chúng ta mặc cần phải được biểu lộ không chỉ nơi đời sống cá nhân của mỗi người mà c̣n phải tỏ hiện trước mặt cộng đồng nữa. Cho hay, mặc lấy Đức Kytô chính là mặc lấy sự công chính, mặc lấy sự thánh thiện và ngược lại, không mặc lấy Đức Kytô cũng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ không thể trả lời câu chất vấn như nhà vua đă đặt ra cho anh chàng dự tiệc không mặc y phục lễ cưới trong dụ ngôn hôm nay.


Tạ ơn Chúa v́ Kytô hữu- qua bí tích rửa tội, chúng ta được Thiên Chúa “gửi thiệp hồng báo tin” tham dự tiệc cưới Nước Trời. Chính v́ thế cuộc sống nơi trần thế là thời gian để chúng ta dệt nên “chiếc áo con người mới” và “chiếc áo mang nhăn hiệu Đức Kytô” được thêm công chính và thánh thiện. Có như thế, ngày vào bàn tiệc thiên quốc sẽ là ngày chúng ta hân hoan tiến bước, đồng bàn với Đức Vua, với Hoàng Tử Giêsu chứ không phải là ngày “câm miệng không nói được ǵ”, là ngày khốn cùng, bị đẩy vào nơi “khóc lóc và nghiến răng”.

 

 

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

 

Chúa NhẬt 28 ThưỜng Niên

 

John Nguyễn

 

1. Hai chỦ ư cỦa dỤ ngôn tiỆc cưỚi

Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có hai chủ ư:

·        Chủ ư thứ nhất tương tự như dụ ngôn những tá điền sát nhân Chúa Nhật tuần trước: ơn cứu độ hay nước Trời ưu tiên dành cho người Do Thái rồi mới tới dân ngoại, nhưng người Do Thái đă tỏ ra hờ hững hay bất xứng với sự ưu tiên ấy. V́ thế, sự ưu tiên ấy đă được trao cho các dân tộc khác.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, 1. Đức vua ám chỉ Thiên Chúa; 2. Tiệc cưới = Nước Trời; 3. Các đầy tớ đi mời dự tiệc = Các ngôn sứ, trong đó có Đức Giê-su; 4. Các quan khách ưu tiên được mời mà không thèm đến = Dân Do Thái; 5. Những người ở ngoài đường được mời dự tiệc = Dân ngoại, các dân tộc khác. Chủ ư này đă được khai triển trong bài Chia sẻ Chúa Nhật tuần trước (27 Thường Niên), nên bài này không bàn tới nữa.

 

·        Chủ ư thứ hai là: để vào Nước Trời, cần phải có một nỗ lực cá nhân để trở nên xứng đáng với Nước Trời, tức phải trở nên người công chính. Trong đó, y phục lễ cưới tượng trưng cho sự công chính, hay sự quang minh chính đại mà mọi người Ki-tô hữu cần phải có.


2. GiẢi thích dỤ ngôn

Đây là tiệc cưới mà nhà vua làm cho hoàng tử, nên chắc chắn được tổ chức rất sang trọng và trang nghiêm. Những người được nhà vua ưu tiên mời đă không đến, mặc dù đă được ngài khẩn khoản mời tới hai lần. Chẳng những họ không đến, mà c̣n có những người sỉ nhục và giết chết những đầy tớ mà nhà vua sai đi mời nữa. Họ đă phạm tội khi quân một cách nghiêm trọng. Những người này ám chỉ dân Do Thái nói chung, đặc biệt những thành phần ưu tú trong Do Thái giáo (hàng tư tế, lê-vi, ráp-bi, kinh sư, luật sĩ?). Họ đă được các ngôn sứ và Đức Giê-su ưu tiên rao giảng Nước Trời cho họ, nhưng chẳng những họ không thèm nghe để đón nhận Nước Trời, mà c̣n giết các ngôn sứ và cả Đức Giê-su nữa. V́ thế, để trừng phạt, dân Do Thái đă bị đế quốc Rô-ma xóa tên trên bản đồ vào năm 70 sau công nguyên.


Những người ở ngoài đường, đáng lẽ ở ngoài danh sách được mời dự tiệc, nay v́ các quan khách ưu tiên từ chối, nên họ được mời thay thế. V́ đây là tiệc cưới của nhà vua, nên theo phép lịch sự, những người được mời đều có bổn phận phải về nhà mặc quần áo cho tề chỉnh để đi dự tiệc. Vả lại, tại những tiệc cưới sang trọng như vậy, th́ theo phong tục Do Thái, chủ tiệc cũng sẵn sàng cung cấp những lễ phục phù hợp cho các khách dự tiệc. V́ thế, những ai không mặc lễ phục đám cưới đều phạm tội khi quân v́ đă xúc phạm đến nhà vua, và đáng chịu h́nh phạt.


3. Áp dỤng dỤ ngôn cho ngưỜi Ki-tô hỮu

Chúng ta không là người Do Thái, mà là người thuộc những dân tộc khác vốn bị người Do Thái coi là dân ngoại. V́ thế, trong dụ ngôn này, chúng ta thuộc thành phần những người ở ngoài đường được mời vào dự tiệc, tức được Thiên Chúa mời gọi tham dự mầu nhiệm Nước Trời. Chúng ta đă đáp lại lời mời gọi ấy qua bí tích rửa tội, v́ thế, chúng ta thuộc về Giáo Hội của Đức Giê-su, là dấu chỉ của Nước Trời. Chúng ta đang ở giai đoạn «đă bước vào bàn tiệc cưới nhưng chưa bắt đầu dự tiệc». Trước khi bữa tiệc bắt đầu, nhà vua c̣n phải vào pḥng tiệc và quan sát khách dự tiệc: ai không có y phục lễ cưới th́ bị loại ra ngoài. V́ thế, muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ, mà c̣n phải bận y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng sự công chính. Nếu không công chính, chắc chắn ta không phải là đối tượng của Nước Trời. Điều này cho thấy sự sai lầm của những người quan niệm rằng: chỉ cần là người Ki-tô hữu, hay chỉ cần được rửa tội là đă đủ để vào Nước Trời, mà không cần phải cố gắng sống cho xứng đáng với danh hiệu Ki-tô hữu.


Khi chọn y phục lễ cưới để ám chỉ sự công chính, rất có thể Đức Giê-su đă dựa vào những câu Kinh Thánh như: «Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang» (Is 61,10; xem thêm Da 3,3-5); Về sau sách Khải Huyền cũng dùng h́nh ảnh áo cưới để chỉ sự công chính, trong sạch: «Tại Xác-đê, ngươi có một ít người đă không làm nhơ bẩn áo ḿnh; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, v́ họ xứng đáng. Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người» (Kh 3,4-5)


4. SỰ công chính là ǵ?

Để hiểu về sự công chính, ta nên theo chỉ dẫn của Kinh Thánh, là cở sở đáng tin cậy nhất, hơn là theo quan niệm, sự hướng dẫn hay truyền thống của người đời.


Đức Giê-su đă cho ta 3 yếu tố căn bản của lề luật, tức 3 yếu tố căn bản của sự công chính: «Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lư, t́nh thương và sự chân thật» (Mt 23,23).

-         Công lư hay sự công bằng: là sự tôn trọng hay đ̣i hỏi những quyền lợi tinh thần hay vật chất mà cá nhân (hay tập thể) có quyền đ̣i hỏi cá nhân (hay tập thể) khác phải trả hay phải tôn trọng. Chẳng hạn đă là người được sinh ra trong xă hội ngày nay th́ đều có quyền tự do về thân thể, về tư hữu, về ngôn luận, v.v? mà mọi người khác kể cả chính quyền đều phải tôn trọng. Ai không tôn trọng là có lỗi, là sai trái, là vi phạm công lư hay công bằng. Công lư không chỉ bao hàm việc ḿnh phải tôn trọng công bằng đối với người khác, mà c̣n bao hàm việc ḿnh phải đ̣i hỏi người khác phải tôn trọng quyền lợi của của tha nhân và của tập thể. Im lặng để mặc kẻ ác vi phạm công lư một cách trầm trọng đối với tha nhân khi chính ḿnh có thể can thiệp, cũng là không tôn trọng công lư. Công lư hay công bằng là nền tảng của t́nh thương. T́nh thương hay ḷng nhân ái không xây dựng trên nền tảng công lư, th́ đó là t́nh thương giả tạo. Không ai có thể tự hào ḿnh thương yêu người khác khi chính ḿnh đang cố t́nh vi phạm sự công bằng đối với người ấy.

-         T́nh thương: Công chính hay thánh thiện Ki-tô giáo theo nghĩa chính xác nhất của danh từ là trở nên hoàn hảo giống Thiên Chúa. Mà yếu tính của Thiên Chúa là t́nh yêu: «Thiên Chúa là t́nh yêu» (1Ga 4,8.16). V́ thế, cốt yếu của sự công chính hay thánh thiện chính là t́nh yêu. Không có t́nh yêu, th́ dù có giữ luật hoàn chỉnh đến đâu cũng không phải là công chính hay thánh thiện: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, th́ cũng chẳng ích ǵ cho tôi» (1Cr 13,3). T́nh yêu là nhân đức cao trọng hơn cả (x. 1Cr 13,13). Có thể nói, người có t́nh yêu đích thực là người công chính hay thánh thiện. Càng yêu thương nhiều th́ càng công chính hay thánh thiện. T́nh yêu chính là nền tảng của công chính. Nhưng cần nhớ: nền tảng của t́nh yêu lại chính là công lư hay sự công bằng. Không thể có t́nh yêu đích thực khi không tôn trọng công lư hay công bằng.

-         Sự chân thật: là luôn luôn thành thật, không dối trá, gian xảo, không có ư lừa dối hay lường gạt người khác. Đây cũng là một đức tính căn bản của sự công chính. Một người có tính không thành thật không thể là một người công chính được, v́ điều ǵ gian dối đều xuất phát từ sự ác, đi ngược lại với công chính. Đức Giê-su nói: «Hễ "có" th́ phải nói "có", "không" th́ phải nói "không". Thêm thắt điều ǵ là do ác quỷ» (Mt 5,37).

Ngoài những đức tính mà Đức Giê-su đề ra như nền tảng của công chính, c̣n một số đức tính khác được đề cập đến trong Thánh Kinh như:

-         Đức Tin: «Dân ngoại (?) được nên công chính là nhờ đức tin» (Rm 9,30; x. 1,17; 5,1; 9,32; 10.6; Gl 3,11).

-         Đức khiêm nhường: Trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14), người thu thuế mặc dù tội lỗi nhưng có ḷng khiêm nhường nh́n nhận ḿnh tội lỗi, nên Đức Giê-su tuyên bố ông là người công chính: «Tôi nói cho các ông biết: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, th́ đă được nên công chính rồi; c̣n người Pha-ri-siêu th́ không» (Lc 14,18).

-         Tính quên ḿnh, vị tha, xả kỷ: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh mà theo» (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23).

Vậy, để vào Nước Trời, ngoài việc chịu phép rửa và gia nhập Giáo Hội, người Ki-tô hữu cần sống công chính, quang minh chính đại, xứng đáng với danh hiệu Ki-tô hữu, với phẩm giá cao quí của «con cái Thiên Chúa». T́nh thương chính là điều căn bản nhất của sự công chính.


CẦu nguyỆn

Lạy Cha, con đă đáp lại lời mời gọi của Cha để trở nên con cái Cha, đă chịu phép rửa và gia nhập Giáo Hội là dấu chỉ của Nước Trời. Nhưng quả thật, con vẫn chưa sống công chính xứng đáng với danh hiệu con cái Cha, hay với danh hiệu Ki-tô hữu. Con giống như những người dự tiệc cưới của hoàng tử mà không ăn mặc cho xứng đáng, đó chính là tội khi quân. Xin cho con ư thức được việc con mang danh hiệu con cái Cha mà lại không sống công chính xứng với danh hiệu ấy chính là một xúc phạm đến Cha. V́ «chó gầy hổ mặt chủ nhà», hay con cái làm điều xấu th́ hổ mặt cha mẹ.

 

John Nguyễn

 

 

LỜi MỜi GỌi Vô ĐiỀu KiỆn

Mt 22,1-14

Lm. An Phong,OP

 

Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của con trai Đức Vua. Nhưng các người được mời lại không chịu tới, v́ bận trăm ngàn công việc khác nhau. Đức Vua đă cho mời tất cả mọi người khác, bất luận tốt xấu. Trong số những người đến sau này, có một người "không mặc áo cưới".

 

Tiệc cưới là bàn tiệc Cứu Độ Thiên Chúa dọn cho mọi người. Những người được mời là dân Israen. Họ đă khước từ Thiên Chúa. Những người đến sau là tất cả những ai - kể cả chúng ta - tin vào Đức Giêsu. C̣n người không mặc áo cưới là người không có ḷng sám hối, không đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa (nếu có) khi đă bước vào Giáo hội.

 

Hẳn là không ít người hănh diện v́ ḿnh là "đạo gốc", "đạo ḍng" và dường như tự cấp cho ḿnh một "giấy thông hành bảo đảm vào Nước Trời". Nhưng liệu "một kitô-hữu hữu danh" có thay cho "một kitô-hữu chính danh" hay không ? Rất có thể một trong số chúng ta là người "không mặc áo cưới".

 

Thiên Chúa luôn là Đấng kêu gọi con người đến tham dự bàn tiệc Cứu Độ. Ngài là một người Cha hào phóng, rộng lượng, yêu thương con người hết ḿnh. Ngài muốn mọi người được cứu độ. "Cha yêu con bằng một t́nh yêu vô tận, miên trường" (Gr 31,3) và con người chỉ việc đáp lại t́nh thương đó, "các bạn phải yêu mến Thiên Chúa là Chúa bạn hết tâm hồn…" (Đnl 6,5). Một lời mời gọi vô điều kiện đ̣i một lời đáp trả vô điều kiện.

 

Đôi lúc chúng ta đi t́m hạnh phúc ngoài bàn tiệc Thiên Chúa. Chúng ta dành cho Thiên Chúa điều tối thiểu, và muốn ḿnh được tối đa bổng lộc. Chúng ta nghĩ rằng ḿnh c̣n nhiều việc phải lo, và những việc đó không can dự ǵ đến Thiên Chúa. Chúng ta quên mất rằng : "Không ai có thể làm tôi hai chủ, v́ hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ" (Mt 6,24).

Qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày, Thiên Chúa đang mời gọi và dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc cứu độ đời đời. Bàn tiệc Thánh Thể của Đức Kitô luôn sẵn sàng dành cho chúng ta; miễn là chúng ta "mặc áo cưới", tức là "sám hối và tin vào Tin mừng".

 

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đă mời con dự tiệc Ḿnh Máu Thánh Chúa; Nơi đây, Chúa cho con một t́nh yêu thương lớn lao, t́nh yêu của người "hy sinh mạng sống v́ bạn hữu". Xin Chúa cho con biết đón nhận hồng ân lớn lao đó, Để con vui mừng v́ được ơn Ngài Cứu Độ.

 

Lm. An Phong,OP


NIỀM VUI CỨU ĐỘ

Mt 22,1-14

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

 

Có ǵ vui bằng tiệc cưới ? Có ai dám chối từ niềm vui ấy ? Thế nhưng ai ngờ một cuộc từ chối tập thể đă diễn ra ngay trong một đám cưới Hoàng tử. Một bi kịch mở màn …

 

THIỆP MỜI

Câu truyện bắt đầu với tiệc cưới hoàng tử : "một vua kia mở tiệc cưới cho con ḿnh." (Mt 22:2) C̣n vinh dự nào hơn khi được nhà vua mời tham dự tiệc cưới đó ! Thực tế, các quan khách đều "không chịu đến" (Mt 22:3) hoặc "không thèm đếm xỉa tới" (Mt 22:5) lời mời của nhà vua. Bi kịch bắt đầu từ việc từ chối lời mời của nhà vua. Không những gởi lời mời trước, nhà vua c̣n sai các đầy tớ đến tận nơi trịnh trọng mời lại nhiều lần. Nhưng tất cả đă bị chối từ thẳng thừng, v́ ai nấy đều có bận tâm riêng về quyền lợi ḿnh. Niềm vui nhà vua không quan trọng bằng những quyền lợi đó. C̣n ǵ xỉ nhục hơn nữa ? !

 

Trước thái độ vô cùng bất nhă của các quan khách, nhà vua vẫn điềm tĩnh. Sau khi nhóm đầy tớ đầu tiên thất bại, "nhà vua lại sai những đầy tớ khác" (Mt 22:4) đi giải thích và nài nỉ : "Mọi sự đă sẵn. Mời quí vị đến dự tiệc cưới !" (Mt 22:4) Mặc dầu với đầy đủ quyền lực trong tay, ông đă không cho cơn giận bùng lên ngay. Nhưng chờ tới khi một số quan khách "bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết, ông mới thấy tất cả bộ mặt đầy nham hiểm." (Mt 22:6) Lạ thật ! Không ngờ quan khách lại trở thành kẻ thù. Phải có một thái độ kịp thời ngăn ngừa hậu hoạ. Lập tức, "nhà vua nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng." (Mt 22:7) Đúng là ác giả ác báo ! Cảnh máu đổ đầu rơi diễn ra khắp hang cùng ngơ hẻm. Phản ứng như thế có quá đáng không ? Thực tế chắc khó xảy ra. Tuy thế, có lẽ Tin Mừng Mathêu chỉ muốn diễn tả cảnh "Giêrusalem bị phá huỷ, cảnh phán xét Israel bạo loạn v́ đă từ chối đón nhận Đấng Thiên Sai." (NIB 1995:418)

 

Khác hẳn với thái độ thận trọng trước đây, nhà vua quyết định sai các đầy tớ "ra các ngả đường gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới, bất luận xấu tốt." (Mt 22:9.10) Một cảnh tượng ồn ào không thể tưởng tượng được ! Tiệc cưới trở thành một cơ hội cho mọi người chung vui với nhà vua. Thế nhưng, nhà vua muốn niềm vui ngày cưới phải trọn vẹn. Nhận lời mời và hiện diện trong tiệc cưới cũng chưa phải là thực sự chia vui với nhà vua. Cần phải có "y phục lễ cưới" (Mt 22:12) mới xứng đáng là thực khách triều đ́nh. Một người ngoài đường làm sao có thể chuẩn bị kỹ càng như thế ? Thế nhưng, ở đây "thực tế phải hi sinh cho ư nghĩa thần học. Thời kỳ Kitô giáo sơ khai, việc trở lại mang một cá tính mới, thường được diễn tả qua việc mặc áo mới; người ta dùng tiếng thay áo để diễn tả việc bỏ lối sống cũ mặc lấy cá tính mới của Kitô hữu (x. Rm 13:12-14; Gl 3:27; Ep 6:11; Cl 3:12; Lc 15:22; Kh 3:4; 6:11; 19:8). H́nh ảnh đó ngụ ư, con người phải có những hành động đích thực Kitô giáo, tương đương với 'hoa quả' trong h́nh ảnh dụ ngôn trước đó." (NIB 1995:418)

Mặc dù biết con người bất xứng, Thiên Chúa vẫn lên tiếng mời gọi "đến dự tiệc cưới của Con Chiên !" (Kh 19:9) Nhưng mấy người đă đáp lại tiếng mời gọi khẩn thiết của Người ? Mấy người nhập tiệc với đầy đủ "y phục lễ cưới" (Mt 22:12) ? Họ có đầy đủ thời giờ, nhưng lúc nào cũng quá bận rộn với chuyện bên đường. Họ là quan khách được Vua Cả Nước Trời thiết mời, nhưng vẫn một mực từ chối với đủ lư do. Nhưng nếu thật t́nh nhận lời, họ sẽ được "Thiên Chúa thoả măn mọi nhu cầu một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu" (Pl 4:19)

 

ĐƯỜNG VÀO HẠNH PHÚC

Sự giầu sang đó rơ nét nhất nơi cái đẹp thiên h́nh vạn trạng trong thiên nhiên và cuộc sống. Một chiếc áo cưới đẹp đem lại niềm vui cho toàn thể tiệc cưới. Cao hơn nữa, nơi vẻ đẹp Thiên Chúa đă muốn con người "khám phá ra con đường Phúc âm hoá và hiệp nhất" (Zenit 7.10.2002) nhân loại. Điều đó đă được chứng nghiệm nơi cuộc đời thánh nữ Bridget, một nhà thần bí Thuỵ Sĩ thế kỷ 14. Khi sống cuộc đời của một người vợ và một người mẹ, sau đó của một tu sĩ và nhà sáng lập ḍng, thánh Bridget (1303-1373) đă trở thành một mô h́nh hội nhập vào đời ḿnh đường lối thể hiện việc hiệp nhất qua cái đẹp." (Zenit 7.10.2002) Thánh nhân đă trở thành gương mẫu cho cuộc sống giáo dân và tận hiến. "Thánh Bridget khuyến khích mọi người 'tái khám phá vẻ đẹp Tin Mừng sống,' và mời gọi các cộng đồng Kitô hữu Âu châu lần bước theo những nét đẹp phát xuất từ Tin mừng, nét đẹp xây trên những giá trị nhân bản và Kitô giáo.'" (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002) Nét đẹp đó được thể hiện rơ nét nơi "thánh nữ Bridget, một chiếc cầu nối liền các Giaó hội Bắc Âu với Roma và giữa các Giáo hội Luther và Công giáo." (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002) Nét đẹp đó cũng thấy nơi cuộc đời thánh nữ Catarina Siena, "một người nhiệt t́nh bênh vực chân lư và quan tâm tới những vấn đề chính trị và công lư." (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002) Thế giới đang cần những nét đẹp như thế. Đúng hơn, để có thể kiến tạo hoà b́nh cho nhân loại, Giáo hội cần "tái khám phá mối liên hệ bền vững giữa vẻ đẹp và công lư mà Kitô giáo đă có thể tổng hợp ngay từ đầu." (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002)

 

Hoà b́nh cũng chỉ là một trong những khát vọng hạnh phúc. Chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới có thể thoả măn mọi khát vọng hạnh phúc sâu xa nhất của con người nơi Đức Giêsu Kitô. Thực vậy, chỉ "những mối phúc thật của Đức Giêsu giải thoát chúng ta khỏi quan niệm hạnh phúc tầm thường, đưa lại một chiều sâu đích thực, và vạch ra con đường riêng cho con người nh́n thấy mối liên kết giữa sự thiện tuyệt đối, sự thiện hiện thân - tức là Thiên Chúa - và hạnh phúc." (ĐHY Ratzinger : Zenit 8.10.2002) Từ chối Thiên Chúa tức là phủ nhận chính khát vọng hạnh phúc tiên khởi và cao cả nhất của con người. Hành vi luân lư không đủ đạt đến hạnh phúc đó. Chỉ có ḷng tin sâu xa và sự đáp trả hồng ân t́nh yêu Thiên Chúa mới giúp con người thực hiện được tất cả mọi ước vọng trên đời. Theo ĐHY Ratzinger, tất cả những cách đáp trả đó có thể t́m thấy nơi Cuốn Giáo Lư Công Giáo. Quả thực, "dựa vào Kinh Thánh và nguồn Truyền thống toàn cầu vô cùng phong phú, và được Công Đồng Vatican II gợi hứng, Cuốn Giáo Lư đó đă cho ta cái nh́n tuyệt vời và có hệ thống về toàn bộ Đức Tin Công Giáo, một vẻ đẹp làm nổi bật chân lư diễm lệ," (ĐHY Ratzinger : Zenit 8.10.2002) không đóng khung nhưng mở ra con đường "đối thoại vượt qua được những hận thù và bạo lực giữa các tôn giáo." (Diễn Đàn Truyền Thông Kitô giáo tại Jakarta : Zenit 8.10.2002) Chính v́ thế, các Giám mục Âu Châu xác tín rằng dân chúng "hôm nay tận cơ bản đang sẵn sàng lắng nghe Tin mừng." (Zenit 8.10.2002) Bởi vậy, Hội Nghị các Giám mục Âu châu xác tín về viễn tượng "Phúc âm hoá và truyền bá đức tin. Giáo hội không phải là một pháo đài bị bao vây. Đúng hơn, Giáo hội cam kết trở thành một động lực thúc đẩy việc truyền giáo và văn hoá hơn. Mỗi Kitô hữu được kêu gọi đóng vai chính trong sứ mạng đó, nhưng theo nghĩa này, các ơn gọi đặc biệt trong đời sống thánh hiến và linh mục có một vai tṛ bất khả thay thế. Số ơn gọi đó đang giảm sút trong một vài quốc gia Âu châu." (Zenit 8.10.2002) Thế giới đang thiếu vắng bước chân sứ giả đem Tin Mừng đến mời gọi mọi người đến nhập tiệc cưới Con Chiên.  

 

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

 

 

 

THIỆP HỒNG

 

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

Có lẽ đời người không bao giờ vui bằng ngày cưới. Người ta chuẩn bị rất lâu. Bao nhiêu bạn bè họ hàng không thể thiếu sót một người. Bởi thế thiệp hồng phải vẽ thật đẹp và gởi đúng nhân vật, đúng thời điểm. Tiệc cưới là dịp quy tụ lớn lao. Đời người chỉ đẹp một lần, nên người ta  không ngại tốn phí và trổ hết năng lực để làm vừa ḷng mọi người.

 

Nếu đám cưới thường c̣n mệt như thế, phải nói sao về tiệc cưới hoàng tử ?   Phải chuẩn bị tới mức nào cho một niềm vui lớn như vậy ?  Tuy nhiên trong tiệc cưới này có một cái ǵ không b́nh thường. Vấn đề vượt quá phạm vi một đám cưới. Nói đúng hơn, tiệc cưới đă trở thành một biểu tượng, một dụ ngôn nói lên tính cánh chung và phổ quát của Nước Trời.

 

MỘT LỜI MỜI GỌI

Như thường lệ, tiệc cưới này cũng gởi giấy mời tới các quan khách. Các quan khách nhà vua chắc chắn phải thuộc loại sang trọng lắm. Những vị đó phải được tuyển chọn đặc biệt. Bởi đấy nhà vua phải dọn bữa tiệc thịnh soạn, ê hề "ḅ tơ và thú béo" (Mt 22:4). Vua đă dồn hết tâm lực và tài lực để tổ chức tiệc cưới cho con ḿnh. Nhưng các quan khách không quan tâm tới biến cố lớn lao đó. Họ tỏ thái độ rất kỳ cục. Họ coi quyền lợi và đời sống thường ngày quan trọng hơn. "Kẻ th́ đi thăm trại, người th́ đi buôn" (Mt 22:5). Càng khó hiểu hơn khi họ "bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết" (Mt 22:6). Bạo lực đă có mặt ngay khi chưa mở tiệc.

 

Làm sao nhà vua c̣n tâm trí tổ chức tiệc cưới nữa ?  Nhà vua c̣n có một chút ảnh hưởng và quyền bính ǵ trên họ không ?  Có lẽ họ đă mượn dịp này để trả thù vua chăng ?  Nghĩ vậy nên nhà vua đă nổi giận. Tất cả đă sụp đổ.  Ḷng ưu ái đổi thành hận thù. Trong giây lát, nhà vua đă "sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng" (Mt 22:7). Aùc giả ác báo.   Nếu không ra tay có ngày họ sẽ nổi loạn, lật đổ triều đ́nh.

 

Tuy tức giận, nhưng nhà vua vẫn b́nh tĩnh phản ứng. Tiệc cưới chuyển hướng. Thay v́ dành riêng cho một nhóm người ưu tuyển, tiệc cưới mở rộng cho mọi người. Nhà vua ra lệnh cho các đầy tớ : "Các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới" (Mt 22:9). Cuối cùng "pḥng tiệc cưới đă đầy thực khách" (Mt 22:10). Thế mới biết pḥng tiệc rộng biết chừng nào và bữa tiệc phong phú tới đâu. Pḥng tiệc không c̣n thiếu một hạng người nào. Họ không nhận được giấy mời. Họ không có ǵ đặc biệt, bởi v́ sau khi nghe lệnh "đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại" (Mt 22:10).  Nếu các quan khách đáp lại lời mời của vua, thử hỏi bao giờ đám đông này mới vào nổi pḥng tiệc cưới này ?

 

Biến cố này cũng cho thấy tầm nh́n của vua đă mở rộng. Vua đă  di sát với thực tế, chứ không c̣n bị lệ thuộc vào địa vị, chức quyền, tiền bạc. Một mặt nhà vua rất nghiêm thẳng. Mặt khác ngài đầy ḷng xót thương, bao dung.    Mục đích vẫn đạt được, nhưng trong một chiều kích khác.

 

TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI

"Nhà vua ở đây chính là Thiên Chúa ; tiệc cưới là hạnh phúc thời Messia và hoàng tử chính là Đấng Messia đó" (The New Jerusalem Bible). Thiên Chúa đă chuẩn bị thật chu đáo. Người đă sai các đầy tớ là các tiên tri và các  tông đồ đạt giấy mời người Do thái đến tham dự lễ cưới Con Chiên. Nhưng cuối cùng tất cả giấy mời phải băi bỏ v́ thái độ kiêu hănh và đầy tự ái của dân riêng. Tuy thế Thiên Chúa không hủy bỏ chương tŕnh cứu độ. Người t́m mọi cách thực hiện niềm vui cực kỳ lớn lao cho tất cả mọi người, dù họ chưa bao giờ nhận được giấy mời. Vào pḥng cưới mà thực khách cứ tưởng ḿnh như đang đi trên mây.

 

Trong đám khách đông đảo đó, có biết bao người tội lỗi và dân ngoại. Dù chưa sẵn sàng, họ đều mặc áo cưới sang trọng, xứng với tiệc cưới hoàng tử.   Thế mà vẫn có người  bước vào tiệc cưới, lười biếng đến nỗi không khoác cho ḿnh một chiếc áo cưới treo sẵn ngoài hành lang cho mọi người. Bởi đó nhà vua nổi giận và có những biện pháp cứng rắn. Sang lănh vực thiêng liêng, ân sủng chính là chiếc áo cưới mỗi người tín hữu phải mặc khi vào dự tiệc cưới Con Chúa.

Khác hẳn người không mặc áo cưới, một nhân vật thu hút lạ lùng v́ nhan sắc tuyệt vời và áo cưới rực rỡ, một người không được nhắc tới trong dụ ngôn tiệc cưới, nhưng cực kỳ quan  trọng, đó là cô dâu. Tại sao đám cưới chỉ đề cập tới chú rể ?  Cô dâu chính là Hội Thánh mà tiên trưng là Đức Maria.  Mẹ là cô dâu tuyệt vời đă xuất hiện trong bộ áo cưới lộng lẫy. Chưa một cô dâu trần gian nào đẹp như Mẹ, v́ chính Thánh Linh đă chuẩn bị cho Mẹ ra mắt Chúa Thượng và toàn thể triều đ́nh. Toàn dân sẽ tràn ngập niềm vui khi chiêm ngắm cô dâu khả ái trong cung điện cực kỳ sang trọng như thế. Mẹ cực kỳ diễm lệ v́ đă tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.

 

Ḷng tin ấy mô h́nh sống động cho toàn thể Hội Thánh. Sống trong Hội Thánh không thể không biết tới bản chất "Công giáo" của Hội Thánh. C̣n sống theo năo trạng cục bộ, bè phái là chưa sắm cho ḿnh áo cưới để sẵn sàng dự tiệc cưới Con Chúa. Đặc tính Công giáo đ̣i đ̣i hỏi họ phải biết vượt lên trên ranh giới chủng tộc, màu da, văn hóa. Càng bị lệ thuộc vào những thực tại trần gian, nhất là vào cái tôi của ḿnh, càng cảm thấy lúng túng, thẹn thùng khi nhà vua bước vào pḥng cưới.

 

Ngay trong nhiều cộng đoàn tu tŕ cũng có những đầu óc hẹp ḥi như thế.   Ơn gọi và sứ mệnh Kitô luôn mang chiều kích phổ quát. Đánh mất chiều kích phổ quát đó, liệu ơn gọi c̣n được gọi là ơn gọi Kitô nữa không ?  Sứ mệnh có hoàn thành được không ?  Tại sao c̣n có những băn khoăn về ưu tiên này nọ cho những người cùng chủng tộc, văn hóa  với ḿnh ?

 

Đă đến lúc tiệc cưới không dành riêng cho một thứ thực khách nào. Ơn cứu độ không dành riêng cho một dân tộc nào. Cánh cửa pḥng cưới đă mở rộng.   Chắc chắn Thánh Linh đang may cho mỗi người chúng ta một chiếc áo cưới.   Nhưng chúng ta có muốn mặc để dự tiệc cưới hay không ? Ai cũng nhận được thiệp hồng, nhưng thử hỏi chúng ta có đáp lại lời mời gọi của nhà vua hay không ?

 

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

 

 

 

LỜi MỜi CỦa T́nh Thương

Mt 22,1-14

Lm.Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

 

Số phận của những người tôi tớ

Trong câu chuyện bài Tin Mừng tuần trước, những người tôi tớ của ông chủ đă không được đối xử như những vị sứ giả. Họ đă bị ngược đăi, bị hành hạ, thậm chí c̣n bị giết. Trong dụ ngôn về tiệc cưới hôm nay, số phận những người này cũng không khá hơn. Có thể nói rằng họ đă thất bại. Họ đến gặp những khách mời, nhưng chẳng ai nghe họ. Người ta đă xua đuỗi, hành hạ họ, mặc dù không giết chết. Những người sống sót này không làm được ǵ hơn là trở về báo cáo cho ông chủ về thái độ của các vị khách được mời.

 

Trong thực tế, nơi mà họ có thể chu toàn sứ mạng của ḿnh, nơi mà người ta đón nhận lời mời của họ, chính là đường phố, hay chính xác hơn là những ngă ba đường. Tại đây, các tôi tớ đă gặp những người qua đường, những người đi qua đi lại, những người chẳng có ruộng đổng, cũng chẳng bận việc buôn bán, và những người chẳng có nhà ở nhất định. Không cần biết họ là người xấu hay người tốt : điều quan trọng là họ đă nghe lời mời của các tôi tớ, những lời mời được gửi đến ở mọi nơi, mọi thời ...

H́nh ảnh những người tôi tớ bị trần gian hất hủi cũng giống như h́nh ảnh chính Người Con của Vua. Người con này là một người tôi tớ đúng nghĩa : chính Người đă bị đánh đ̣n, đă bị ngược đăi, đă bị giết chết do bàn tay của những người được Chúa Cha mời gọi ngay từ đầu để tham dự vào lễ hội sự sống. Chính Người là người qua đường đúng nghĩa, đă rong ruỗi trên khắp những nẻo đường của trần gian, của đời người và của những tâm hổn. Chính Người đă chịu đóng đinh vào cây thập giá như vào một ngă ba của cuộc đời. Mỗi người sẽ phải đi qua ngă ba ấy, nếu muốn tiến đến sự sống.

 

Số phận của những người tôi tớ, và của Người Tôi Tớ là số phận hẩm hiu, có thể nói như thế. Vậy mà có những người tự nhận là "tôi tớ", nhưng lại không dám chấp nhận số phận tôi tớ. Đó là những "tôi tơ" chỉ có trên danh xưng, c̣n trong thực tế lại là những ông chủ. Họ muốn sắp xếp một thứ phục vụ mà không dấn ḿnh vào sự liều lĩnh, không chấp nhận mọi điều kiện. Họ muốn mang danh nghĩa tôi tớ mà vẫn sống ung dung, an toàn, vẫn có một thứ đẳng cấp về quyền hành.

 

Những người này là tôi tớ, nhưng là để phục vụ cho bản thân ḿnh, cùng với những tiện nghi. Họ là tôi tớ, nhưng là phục vụ cho những ham muốn của ḿnh, những ham muốn dường như vô tận và núp dưới những danh nghĩa đầy tính cách đạo đức.

 

Vị trí duy nhất của người tôi tớ, đó là ngă ba đường, đó là thập giá. Chỉ khi nào chấp nhận thực tại này, họ mới thực sự là tôi tớ, theo gương Thầy ḿnh.

 

 

 

Gọi và chọn

"Kẻ được gọi th́ nhiều, mà người được chọn th́ ít" Dụ ngôn tiệc cưới đă được kết thúc như vậy.

 

Câu nói này vẫn thường được trưng dẫn để khuyến khích hay để làm cho người khác sợ mà mau mắn hối cải. Nếu Nước Trời có ít chỗ, th́ tại sao không vội vă, không hy sinh tất cả để có thể vào trong đó ?

 

Thật ra, trong Tin Mừng, Đức Giêsu đă nhiều lần nhắc lại tính khẩn cấp của lời mời gọi, và cần phải hy sinh, phải từ bỏ tất cả để đáp ứng. Nhưng ở đây, bản văn có ư nghĩa khác.

 

Trong bữa tiệc của Thiên Chúa, những người được tuyển chọn đang hiện diện không nhiều ; ngược lại, số những người được mời và đáp ứng lời mời th́ khá nhiều. Bởi v́ ngay từ ban đầu, những người được chọn, dân được tuyển chọn là Ít-ra-en. Nhưng dân này đă không đáp ứng lời mời, đă không đến dự tiệc cưới. Bấy giờ ông chủ tiệc mới sai tôi tớ đi mời tất cả những người ngoài đường phố -những người này, vào lúc ban đầu, có vẻ như xa lạ với cuộc lễ- và đám người này đă mau mắn đáp ứng.

 

Như vậy, bản văn Tin Mừng hôm nay không có ư thu hẹp lại, nhưng cho thấy chân trời do Đức Giêsu đem lại đă mở rộng thêm như thế nào, và mỗi ngày một rộng thêm đang khi sứ mạng nguyên thuỷ của Người có vẻ như thất bại rơ ràng. Sứ mạng ấy là quy tụ dân Người, biến họ trở thành ánh sáng chiếu soi mọi dân tộc. Ở đây có thể hiểu như một thứ chuyển dịch cho họ hiểu rằng, chương tŕnh của Thiên Chúa có thể được thực hiện theo một cách thức khác với điều họ hiểu lúc ban đầu. Đây cũng là điều thánh Mát-thêu muốn nhấn mạnh với các Ki-tô hữu thời sơ khai. Những người này cảm thấy bị thương tỗn khi họ phải từ bỏ những lợi ích vẫn có theo truyền thống xa xưa để chấp nhận lợi ích của dân ngoại.

 

Theo ư nghĩa của bài Tin Mừng này, họ không là những người phản bội lại ơn gọi của Ít-ra-en, nhưng họ thuộc vào số ít những người nghe được lời mời gọi và đă đáp ứng.

 

Dầu vậy, lời mời rộng răi này vẫn không làm giảm bớt điều ǵ trong các đ̣i hỏi của Đức Giêsu : những người được mời mà không mặc áo cưới, vẫn bị đuỗi ra khỏi pḥng tiệc. Tại sao vậy ?

 

Mặc dù lời mời vào Vương quốc của Thiên Chúa là lời mời nhưng không, nhưng chớ quên rằng Vương quốc ấy là của Vua. Thiên Chúa sẽ "khám xét" dân mới của Người cách kỹ lưỡng vô cùng. Họ được gọi vào Hội Thánh, nhưng không phải đương nhiên và tự động được cứu thoát vĩnh viễn. Được gọi vào Hội Thánh cách nhưng không, họ phải đáp ứng lại bằng ḷng tin (như tỗ phụ Áp-ra-ham) kèm theo những việc lành phúc đức (x. Hoàng M. Tuấn, "Đọc Tin Mừng thánh Mát-thêu", tập 2, trang 344-345).

 

Tất cả đều được mời

Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu, các tôi tớ "đi ra các nẻo đường, gặp ai bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại". Thật là lạ lùng ! Không hề có chuyện thu hẹp, giới hạn. Tất cả đều được mời, bất kể người đó là ai.

 

Có một số người nghĩ rằng việc gặp gỡ Đức Ki-tô đ̣i phải có sự thoả thuận trước, phải có những điều kiện đặc biệt, và một sự chấp nhận nào đó. Những người này tưởng rằng việc sám hối chỉ dành cho những người nào không có nhiều lỗi lầm, không có những đam mê nặng nề, hay những người có tính khí "dễ dàng", và những người mà quá khứ cũng như những khuynh hướng hiện tại không làm họ phải thẹn thùng xấu hỗ.

 

Cửa nhà Thiên Chúa luôn rộng mở. Cần phải loan báo cho mọi người biết điều này, nhất là những người nghĩ rằng ḿnh không xứng đáng với t́nh thân thiện của Đức Ki-tô.

Đoạn Tin Mừng này cũng gửi đến chúng ta, những người được mời ngay từ lúc ban đầu và không có giờ rảnh. Nếu chúng ta không nhận ra một cơ may mới đang được dành cho chúng ta, th́ chúng ta sẽ như thế nào ? Thật là sai lầm khi nghĩ rằng Thiên Chúa không kêu mời chúng ta nữa, sau khi đă nhiều lần ngỏ lời. Và bây giờ chúng ta cứ mặc kệ. Chỉ cần ghi nhớ điều đơn giản này : "gặp ai th́ mời hết vào tiệc cưới". Có thể chúng ta là người xấu và chúng ta có thể đưa ra nhiều lời xin lỗi rất hợp lư để không đáp lại lời mời. Coi chừng đó chỉ là những cớ giả tạo, và chúng ta chỉ có ư trốn tránh Thiên Chúa !

 

Nếu thực sự chúng ta là người xấu, chỉ cần chúng ta thú nhận và xin tha thứ, chỉ cần chúng ta gia nhập vào đám đông khốn khỗ được mời đến dự tiệc. Ông chủ tiệc sẽ rất vui mừng khi thấy chúng ta đến dự tiệc -không phải với thái độ kiêu hănh- cùng với những người nghèo khỗ, những người được gom lại từ khắp mọi nẻo đường.

 

V́ thế, cần phải hối cải, cần phải thú nhận rằng chúng ta đă không đủ bao dung, không có thái độ sẵn sàng, không yêu mến đủ ; chúng ta đă đánh lừa lương tâm của ḿnh và đă ngủ quên. Tuy nhiên, không chỉ hối cải mà thôi, c̣n phải hành động nữa. Và để hành động, đừng đợi đến khi có những thích thú hay ít bị cuộc sống lôi kéo. Kinh nghiệm về Thiên Chúa không loại trừ sự vất vả, nỗi khó nhọc, bệnh tật hay buổn phiền.

Không một khó khăn nào -vật chất hay tinh thần- có thể ngăn cản chúng ta một khi chúng ta đă biết được tầm mức của chúng. Có thể chúng ta cảm thấy không có thời giờ, nhưng một khi chấp nhận lời mời, chúng ta sẽ t́m được thời giờ. Người ta sẽ luôn t́m thấy thời giờ để thực hiện điều ḿnh yêu mến, và thay v́ phải chịu đựng, tất cả mọi sự đều trở nên sinh động và thân thiết nhờ ḷng yêu mến này.

Điều quan trọng là nói lên lời ưng thuận và t́m cách dập tắt những tiếng nói ngăn cản nhận ra lời kêu mời của Thiên Chúa. Nếu chúng ta nhận ra lời mời, lời mời đầy tha thiết, chúng ta sẽ khám phá ra cách đáp trả.

 

Lm.Giuse Nguyễn Cao Luật, OP



 

TiỆc cưỚi - áo cưỚi

Mt 22,1-10

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

 

Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu đă từng đi dự tiệc tại Ca-na, tại nhà La-da-rô, tại nhà của một nhóm Pha-ri-sêu, tại nhà Mát-thêu và Gia-kêu… từ đó, Chúa rút ra một chân lư là “phúc cho ai được mời tới dự tiệc”. Đây chỉ là một câu nói ám chỉ, có nghĩa là hạnh phúc cho những người được chọn vào nước trời, bởi v́ bữa tiệc là h́nh ảnh Chúa Giêsu dùng để nói về nước trời. Vậy, những ai muốn được dự hạnh phúc ấy th́ phải làm sao ? Chúa Giêsu đă đưa ra những dụ ngôn khác nhau để nhắc nhở người ta phải tỉnh thức, phải sẵn sàng, phải đúng giờ… hôm nay, bài Tin Mừng lại kể cho chúng ta một dụ ngôn nữa, đúng ra là hai dụ ngôn: dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn áo cưới, dạy chúng ta phải sẵn sàng hi sinh tất cả mọi lo lắng cá nhân, dù là cần thiết đi nữa. Hay nói khác đi, Chúa dạy chúng ta phải biết chọn lựa cho đúng.

Bài Tin Mừng kể một lễ cưới long trọng được tổ chức do một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Câu chuyện tiệc cưới này có cái ǵ khác thường, từ thực khách cho đến những sự tham dự, và nhất là cách xử sự của chủ tiệc, cho chúng ta thấy có điều ǵ không b́nh thường, và đó chính là điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Trong thực tế, có lẽ chẳng có tiệc cưới nào diễn ra như thế. Đúng, đây không phải là một tiệc cưới b́nh thường, mà là tiệc cưới nước trời : đức vua mở tiệc cưới là Thiên Chúa. Hoàng tử của nhà vua là Chúa Giêsu. Các đầy tớ được sai đi mời khách là các ngôn sứ. Khách được mời lần đầu là dân Do Thái. Họ đă từ khước lời mời của Thiên Chúa và giết hại các ngôn sứ, thậm chí họ c̣n giết luôn cả hoàng tử Giêsu. Những người được mời kế tiếp là dân chúng ở khắp hang cùng ngơ hẻm, tức là mọi người, bất kỳ ở đâu, cũng được mời gọi vào nước Chúa.

 

Đúng thế, Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Ngài yêu thương mọi người, không phân biệt ai. Ngài mời gọi mọi người, bất kể tốt xấu. Ngài không loại bỏ ai bao giờ, nhưng đáp lại hay từ chối là do mỗi người, Qua h́nh ảnh những người được mời dự tiệc, chúng ta thấy có những người đă từ chối với những lư do khác nhau. Tin Mừng Lu-ca cho biết : người th́ nói mới tậu ruộng cần phải đi xem, người th́ nói mới tậu được năm đôi ḅ cần phải đi thử, người th́ lấy lư do mới cưới xin để từ chối. Đây không phải là những lư do cần thiết và cấp bách. Nhưng khi người ta đă không muốn, không thích, th́ người ta luôn t́m được những lư do để từ chối, để bào chữa, chống đỡ cho ḿnh, dù cách chống đỡ đó vô duyên mấy cũng cứ được, cũng cứ an tâm b́nh chân như vại. Thực vậy, đi xem ruộng, đi thử ḅ th́ thiếu ǵ lúc, có thể để sang ngày khác, ngày mai ngày mốt cũng được, chẳng muộn ǵ, cần ǵ phải vội vàng như thế, cả việc mới cưới xin cũng vậy. Nói chung, những người trên đều từ chối khéo ơn huệ của nhà vua chỉ v́ coi ḿnh trên người khác. Tất cả đều lấy ḿnh làm căn bản. Tất cả mọi chuyện đều lấy của cải làm mối lo và giải quyết mọi chuyện theo đó. Như vậy, dụ ngôn này dạy chúng ta bài học : phải biết lựa chọn cho đúng.

 

Một điều nữa chúng ta cần t́m hiểu, đó là h́nh ảnh chiếc áo cưới. Khi đọc dụ ngôn này, có người thắc mắc : “Nhà vua có cư xử bất công không khi phạt một người khách v́ được mời cách bất ngờ nên đă không mặc áo cưới ? ở ngă ba đường th́ làm sao có áo cưới để mặc ?”. Thực ra, đây là hai dụ ngôn riêng biệt, nhưng thánh Mát-thêu đă nối kết lại với nhau. Nếu tách riêng ra th́ không có chi thắc mắc về vấn đề áo cưới, v́ đă có sự chuẩn bị trước ở nhà. Nhưng cả trong trường hợp kể trong Tin Mừng Mát-thêu, người không mặc áo cưới bị phạt th́ cũng không có ǵ là bất công. V́ tại sao bao nhiêu người khác cũng được mời bất ngờ mà vẫn mặc áo cưới ? (có lẽ khách đến dự tiệc đều được phát cho áo cưới chăng ?). Đàng khác, khi bị hạch hỏi người này đă không nói được lời nào để chữa tội. Dù sao dây cũng chỉ là câu chuyện dụ ngôn, nhằm tŕnh bày bài học ngụ ư hơn là chú trọng về khía cạnh xác thực. Điều tác giả dụ ngôn muốn nói là người không mặc áo cưới chính là kẻ xấu không chịu hồi tâm sửa ḿnh. Chính v́ thế mà y đă bị kết án.

 

Bài học cho chúng ta, cuộc đời chúng ta, chúng ta tự quyết định lấy. Chúng ta phải biết can đảm chống lại những khuynh hướng xấu, phải dứt khoát với những cám dỗ, những cái xấu. Những lầm lỗi trong cuộc sống là điều không tránh khỏi : nhân vô thập toàn. Nhưng điều quan trọng là biết nh́n nhận ḿnh sai, biết dừng lại, biết hối hận và quyết tâm sửa đổi. Chúa luôn kêu gọi chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, cụ thể như lời Chúa hôm nay, chúng ta có nghe không ? Có đáp lại không ?

 

Theo tâm lư thông thường, ai cũng sợ phải chờ đợi, ít hay nhiều, sự chờ đợi nào cũng là một cực h́nh. Nhưng cũng thật mâu thuẫn, khi chính chúng ta lại biến cuộc đời ḿnh thành một thứ đợi chờ : cả tuần lễ, chúng ta chờ đến Chúa Nhật để được nghỉ ngơi. Chúa Nhật đến, chúng ta lại chờ Chúa Nhật khác. Tháng này đến, lại chờ tháng khác. Năm này đến, lại chờ năm khác. Lên xe mong đến nơi, đến nơi lại mong về. Đi dự lễ, dù lễ chưa xong, lại có người muốn vội đứng lên để ra về. Họ làm như thể chỉ đến nhà thờ để mong cho đến giây phút tan lễ. Cứ thế, chúng ta khiến cuộc đời chúng ta là một chuỗi những dự phóng và không bao giờ thực hiện, đang khi tiếng mời gọi của Chúa với chúng ta chính là “ở đây và lúc này”. Hăy nắm bắt giây phút hiện tại trong tin tưởng và phó thác, cũng như trong niềm vui của Tin Mừng.

 

Hôm nay, Chúa đang gọi tôi, đừng khất lần vào dịp khác, đừng chờ đợi đến một cơ hội tốt hơn, một hoàn cảnh thuận lợi hơn. Hăy tiến vào tiệc cưới mà tận hưởng những ǵ chúng ta đang có và đang sống. Hăy sống cho thật tṛn đầy những giây phút của ngày hôm nay. Những ǵ có thể làm hôm nay, chúng ta không nên để đến ngày mai, có một bậc thầy đă nói : “Cái ngày nguy hiểm nhất trong đời một người là khi người đó học được chữ ‘ngày mai’”. V́ biết có ngày mai nên chúng ta mới tŕ hoăn công việc đáng phải làm trong ngày hôm nay. Dĩ nhiên có những việc chúng ta có thể để đến ngày mai, nhưng có những việc chúng ta không bao giờ nên để ngày mai, nhất là việc sám hối, cải thiện đời sống. Bởi v́ chúng ta không biết chắc được có ngày mai cho chúng ta hay không ?

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Không MẶc Y PhỤc LỄ CưỚi

Manna

X LỜi Chúa: Mt 22, 1-14

1 Một hôm, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thuợng tế và kỳ mục trong dân rằng: 2 Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con ḿnh. 3 Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đă được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. 4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hăy thưa với quan khách đă được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đă dọn xong, ḅ tơ và thú béo đă hạ rồi, mọi sự đă sẵn. Mời quư vị đến dự tiệc cưới!" 5 Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ th́ đi thăm trại, người th́ đi buôn, 6 c̣n những kẻ khác lại bắt các đây tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. 7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng. 8 Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đă sẵn sàng rồi, mà những kẻ đă được mời lại không xứng đáng. 9 Vậy các ngươi đi ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới". 10 Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên pḥng tiệc cưới đă đầy thực khách.

 

11 "Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12 mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được ǵ. 13 Bấy giờ, nhà vua bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! 14 V́ kẻ được gọi th́ nhiều, mà người được chọn th́ ít".

X Suy NiỆm

"Thiên Chúa chúng ta chỉ toàn đưa ra những cấm đoán", một bạn trẻ đă bực bội nói như vậy khi anh nhớ lại nền giáo dục ḿnh phải chịu. Thật ra Thiên Chúa không phải là người khắt khe. Ngài mời chúng ta đến dự tiệc vui, tiệc cưới. Ngài thích chia sẻ niềm vui và sự sống cho con người. Ngài cần con người đáp lại lời mời đó, để sự hiệp thông giữa đôi bên được trọn vẹn.

 

Có ai nếm được nỗi chờ mong của Thiên Chúa không khi khách mời không chịu đến? Có ai nếm được nỗi đau của Thiên Chúa không khi con người hờ hững trước bữa tiệc
mà Ngài đă đặt vào đó cả ḷng ḿnh? Tôi có trăm ngàn lư do để từ chối lời mời: Chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện gia đ́nh, bè bạn, chuyện giải trí, chuyện lo cho sự nghiệp tương lai...


Tôi có nhiều thứ ưu tiên khác nên việc đến gặp gỡ Thiên Chúa bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Biết bao lần chúng ta lỡ hẹn với Ngài, từ chối niềm vui và sự sống đích thực để chạy theo những cái bóng. Nhưng Thiên Chúa vẫn cứ sai người đi mời. Bàn tiệc lúc nào cũng sẵn sàng. Vấn đề là tôi có đến không, tôi có đặt Chúa lên trên những bận tâm về ḿnh không?

 

Dân tộc Do Thái chính thức được mời dự tiệc. Thiên Chúa đă sai đến với dân Ngài yêu mến những ngôn sứ và những nhà rao giảng Tin Mừng. Nhưng họ đă khước từ và một số bị giết đi. Bữa tiệc linh đ́nh vốn dành cho khách quư nay trở thành bữa tiệc cho mọi người mà các đầy tớ t́nh cờ gặp ngoài đường phố. "Từ phương đông, phương tây, nhiều người sẽ dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp..."

Chúng ta là dân ngoại, được mời vào pḥng tiệc, được gia nhập Hội Thánh qua phép Rửa. Có người đă vào pḥng tiệc mà vẫn bị mời ra, v́ không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời v́ họ đánh mất tấm áo trắng ngày Rửa tội. Chúng ta phải coi chừng kẻo lại rơi vào sự tự măn như người Do Thái. Được làm con cái Chúa, được sống trong Hội Thánh đó không phải chỉ là những ơn để nhận, mà c̣n là ơn để sống. Mặc y phục lễ cưới là thực sự đổi đời, là cho thấy ḿnh coi trọng bữa tiệc của Chúa. Chúng ta phải thường xuyên tự hỏi ḿnh có mặc y phục lễ cưới không?

 

X GỢi Ư Chia SẺ

·        Thiên Chúa mời chúng ta chung hưởng hạnh phúc với Ngài, nhưng chúng ta luôn có lư do để từ chối lời mời đó. Bạn nghĩ ǵ về chỗ đứng của Chúa trong đời bạn?

·        Có những Kitô hữu bị loại khỏi Nước Trời và sa hoả ngục. Bạn tin có hỏa ngục không? Bạn có sợ hỏa ngục không?

X CẦu NguyỆn

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một ḿnh Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự v́ Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

 

Ước ǵ con biết hăm ḿnh và sống trong Chúa. Ước ǵ con biết nhận từ Chúa tất cả những ǵ xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn. Xin đừng để điều ǵ quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hăy nh́n con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hăy gọi con, để con được thấy Chúa.Và để con hưởng nhan Chúa đời đời.  Amen.

Thánh Âu-Tinh

 

Manna

 

HỘi Thánh C̣n ChỜ ĐưỢc Hoàn TẤt

(Ys 25,6-10a; Ph 4,12-14.19-20; Mt 22,1-14 hoặc 22,1-10)

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

 

I. Phúc Âm: Mt 22, 1-10 {hoặc 1-14}

"Các ngươi gặp bất cứ ai, th́ hăy mời vào dự tiệc cưới".

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lăo trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đă được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hăy nói cùng những người đă được mời rằng: Này ta đă dọn tiệc sẵn rồi, đă hạ ḅ và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đă sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Những người ấy đă không đếm xỉa ǵ và bỏ đi: người th́ đi thăm trại, người th́ đi buôn bán; những người khác th́ bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đă dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đă được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hăy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, th́ mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và pḥng cưới chật ních khách dự tiệc.

 

{Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! V́ những kẻ được gọi th́ nhiều, c̣n những kẻ được chọn th́ ít".}

 

 II. Suy NiỆm:

Nghe đọc xong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người trong chúng ta đă bắt đầu nghĩ đến thân phận của ḿnh: giờ đây trong thánh lễ chúng ta không được mời đến dự tiệc của Vua trời đất hay sao? Chúng ta quen gọi Thánh Thể là một bàn tiệc; nên chúng ta có thể không những hiểu bài Tin Mừng hôm nay mà cả bài sách Isaia nữa về Thánh Thể. Và chúng ta có thể dựa vào những bài Kinh Thánh ấy để nói đến vinh dự và nhiệm vụ của chúng ta trong giờ cử hành thánh lễ này.

 

Nhưng cả Isaia, cả thánh Matthêô đă có một cái nh́n rộng hơn. Trực tiếp, các bài Kinh Thánh kia đă không muốn nói về Thánh Thể nhưng Hội Thánh. Và hôm nay chúng ta có thể dựa vào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe để hiểu hơn về ơn gọi và nhiệm vụ của chúng ta ở trong Giáo hội và giáo xứ.

 

A. Isaia Đă Tiên Báo Thời Đại Chúng Ta

Thời ấy, Isaia đang sống trong một hoàn cảnh thật đen tối. Chưa bao giờ Dân Chúa cảm thấy tuyệt vọng hơn. Không c̣n quê hương, không c̣n đền thờ, không c̣n nghi lễ. Cảnh lưu đày đă kéo dài nhiều chục năm. Người ta không c̣n nghĩ đến Yêrusalem nữa. Và có nghĩ đến, cũng chỉ c̣n là để than khóc, xót thương. Theo suy nghĩ của loài người, Chúa đă bỏ rơi dân rồi.

 

Nhưng chính ở cảnh tiêu điều vô vọng ấy mà Lời Chúa nói với Isaia, thức tỉnh ḷng tin của ông và nhờ ông đến phấn chấn Dân lưu đày. Chúa các đạo binh phán thế này: Người sẽ tập họp đoàn dân tản mác của Người lại nơi núi thánh. Và như thói quen sau những ngày đại thắng, Người sẽ thết dân một bữa tiệc linh đ́nh. Không những thức ăn sẽ dồi dào, mà rượu quư cũng sẽ dư dật. Không phải chỉ có một dân bé nhỏ trước đây được phục sinh và mời đến; nhưng toàn thể các dân thiên hạ đều tuôn lại. Sion trở thành đỉnh cao của các dân tộc v́ bàn tay Thiên Chúa đă đặt trên Núi ấy và ơn cứu độ của Người sẽ từ đó chảy xuống đến muôn dân.

 

Tự sức ḿnh, Isaia không thể nói được những lời như vậy. Không có cơ sở nào cho phép ông nghĩ được những điều như thế. Chính Thần khí Chúa đă ở trong ông. Và chính Chúa đă đặt Lời của Người vào miệng ông. Ông đă nói nhân Danh Chúa. Ông đă thi hành sứ mạng tiên tri... Ông tuyên bố kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Người sẽ dùng một số người nhỏ bé trong thiên hạ để làm ra gia đ́nh nhân loại được cứu rỗi. Người thi ân cho những con người tuyệt vọng để họ trở nên nguồn cứu độ cho mọi dân.

 

Lời sấm của Isaia đă bắt đầu được thực hiện khi Chúa cứu dân lưu lạc trở về. Nó được thực hiện thật sự với thời Đấng Thiên Sai, khi Chúa Cứu thế thiết lập Hội Thánh tràn lan khắp các dân tộc. Nhưng nó chỉ thực hiện hoàn toàn vào thời cánh chung, lúc Đức Kitô trở lại đưa tất cả nhân loại và vũ trụ được cứu rỗi vào Trời Mới và Đất Mới. Và như vậy lời tiên tri Isaia đang thực hiện nơi chúng ta.

 

Chúng ta hăy dâng lên Chúa lời hân hoan cảm tạ. Người thương gọi chúng ta vào Hội Thánh. Người cho chúng ta được ở trong Nước của Con yêu dấu Người. Hằng ngày Người lại bày tiệc trên Núi Thánh để chúng ta chứng kiến t́nh Người phong phú. Và chưa hết, Người sẽ đưa Hội Thánh chúng ta đi vào Trời Mới và Đất Mới. Khi ấy lời sách Isaia mới hoàn toàn thực hiện. V́ khi ấy, Chúa mới cất hẳn tấm khăn đang bao trùm muôn dân, tấm khăn đă khiến muôn nước đi trong tối tăm lầm lạc, tấm khăn chít trên đầu của bao thế hệ loài người đau khổ, tấm khăn của tử thần trùm trên mạng sống con người. Người xua đuổi hẳn tà thần. Người lau sạch mọi gịng nước mắt. Người hủy bỏ toàn thể hệ thống đau khổ.

 

Hiện nay, Người đă khởi sự làm những điều ấy rồi. Tử thần không làm ǵ được thân xác Đức Kitô và Đức Mẹ nữa. Đau khổ cũng đă được bớt đi nhiều lắm ở trên mặt đất này. Và ở trong Hội Thánh, được ánh sáng đức tin soi dẫn, người ta không c̣n phải ṃ mẫm đi trong tối tăm lầm lạc. Chúng ta hăy tạ ơn Chúa Kitô đă khai sinh cho chúng ta một lịch sử mới. Chúng ta tin tưởng trông đợi ngày Chúa trở lại, để những lời sách Isaia bấy giờ đă khởi sự, sẽ được hoàn tất trong hạnh phúc bất diệt.

 

Nhưng đó mới chỉ là một bài học của Lời Chúa hôm nay. Với bài Tin Mừng theo thánh Mátthêô, phụng vụ của Hội Thánh c̣n muốn chúng ta hiểu bài sách Isaia một cách cụ thể hơn nữa. Chúng ta sẽ thấy Chúa Cứu thế tổ chức bàn tiệc cánh chung của Isaia thế nào? Và chúng ta sẽ được Hội Thánh nhắn nhủ làm sao khi được dự bàn tiệc ấy?

 

B. Chúa Cứu Thế Thực Hiện Lời Tiên Tri

Dân lưu đày đă được trở về quê hương. Nhưng rơ ràng lời sấm của Isaia chưa được thực hiện hoàn toàn. Người ta không thấy các dân tuôn về Sion. Và ở đây cũng không có những ngày hội như nhà tiên tri đă loan báo. Ngược lại bầu trời Yêrusalem lại bắt đầu đen tối. Hết Hylạp lại đến Lamă thay nhau cai trị Dân Chúa. Isaia đă nói dối sao? Không, lời của ông phải nghĩ về thời Đấng Thiên sai, mà chúng ta biết là chính Đức Yêsu Kitô.

 

Vậy, Người đă thực hiện lời sách Isaia thế nào? Theo bài Tin Mừng Matthêô hôm nay, quả thật Thiên Chúa đă mở tiệc khoản đăi mọi dân tộc khi ban ơn cứu độ cho loài người. Bắt đầu Người đă mời dân Dothái đến dự. Người sai các tiên tri của Người đến mời họ. Nhưng họ không đến. Người lại sai một lớp tiên tri nữa đến mời, với những lời nhắn nhủ rơ rệt rằng: tiệc đă sẵn, thức ăn đă la liệt, tức là ơn cứu độ đă hoàn thành. Người có ư nói đến công cuộc cứu thế của Đức Kitô đă làm xong trên thập giá. Và như vậy chúng ta phải hiểu lớp tiên tri thứ hai được sai đi đây chính là các Tông đồ của Đạo Mới, đang khi lớp đi trước là các Tiên tri của Đạo Cũ. Nhưng như họ đă không nghe Môsê và các tiên tri, th́ bây giờ người Dothái cũng từ chối lời mời của các Tông đồ mới. Họ viện những lư do thông thường của những kẻ quen sống ích kỷ, không biết tạm hoăn những công việc riêng để đến chia sẻ niềm vui "cả đời mới có một lần" của một gia đ́nh có tiệc cưới. Họ được dịp để hân hoan mà họ không muốn. Hơn nữa họ c̣n đập đánh và giết chết nhiều sứ giả Tin Mừng của Đức Kitô. Và điều này có ư nói rằng: người Dothái đă bắt bớ giết hại nhiều Tông đồ của Hội Thánh. Họ tệ hơn cả cha ông họ. Thế nên Thiên Chúa đă phải thịnh nộ. Người đă sai quân xâm lăng tới, giày xéo thành tŕ của họ vào năm 70. Chắc chắn thánh Matthêô đă muốn ám chỉ biến cố này khi viết những lời trên. Và rơ ràng người muốn khẳng định rằng: Phúc âm từ nay sẽ được đem đến rao giảng cho các dân ngoại, khi người viết tiếp: các tông đồ đă được sai đi các ngă đường để gặp ai th́ mời vào dự tiệc cưới.

 

Do đó, qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêô đă muốn phác họa một cách vắn tắt lịch sử ơn cứu độ loài người. Người muốn nói đến việc thành lập Nước Trời do Chúa Cứu thế. Đó chẳng khác ǵ một bàn tiệc linh đ́nh mà Isaia đă tiên báo. Chúa bắt đầu mời dân Dothái đến dự. Họ đă từ chối nghe lời Môsê và các tiên tri. Chúa sai Con của Người đến hoàn thành sứ mạng cứu thế và dạy các Tông đồ đi loan báo cho người Dothái. Không những họ lại từ chối, mà c̣n bắt bớ các Tông đồ. Chúa buộc ḷng phải phạt họ và sai các Tông đồ đến với các dân ngoại. Hết mọi dân đều được đưa vào Hội Thánh; và như vậy, lời tiên tri Isaia đă thực sự được thực hiện.

 

Nói đúng ra, đây mới chỉ là khởi sự. Đọc tiếp bài Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy thánh Matthêô cũng muốn nói xa hơn, và nhất là trực tiếp hơn đối với chúng ta.

 

C. Hội Thánh C̣n Chờ Được Hoàn Tất

Thật vậy, Hội Thánh hiện nay tuy gồm hết mọi dân tộc nhưng hăy c̣n pha trộn người tốt và người xấu. Ít ra trong Giáo hội tại thế, có rất nhiều bộ mặt trước đây là những con người tội lỗi. Hằng ngày mọi người đều được mời dự Tiệc Thánh và chia sẻ niềm hân hoan của ơn cứu độ. Tuy nhiên người ta không được quên Ngày Chúa sẽ trở lại. Người sẽ thấy chúng ta thế nào? Bây giờ chúng ta có mang áo dự tiệc không, tức là chúng ta có đời sống công chính và các việc lành phúc đức không? Nhiều tác giả vẫn quen dùng h́nh ảnh "áo cưới" để nói đến những công việc này. Và ở đây thánh Matthêô muốn chúng ta nghĩ về ngày chung thẩm, ngày Chúa Kitô trở lại. Có như vậy, chúng ta mới hết thắc mắc v́ sao đă cho người ra các đầu đường gặp ai th́ mời vào dự tiệc mà sau đó lại đ̣i người ta phải có áo cưới. Là v́ giữa thời gian được mời vào Hội Thánh và ngày chung thẩm, người ta ai cũng có thời giờ và bổn phận trang trí đời sống của ḿnh bằng sự công chính và các việc lành phúc đức. Và chúng ta có thể nói, sống trong Hội Thánh không phải chỉ là dự tiệc các Bí tích mà c̣n phải nỗ lực sống thánh thiện và phục vụ bác ái. Chỉ có như vậy, ngày chung thẩm mới được lau sạch nước mắt; bằng không, sẽ phải khóc lóc nghiến răng như lời các tác giả đạo đức hay diễn tả về các cực h́nh ở đời sau.

 

D. Giáo Dân Philip Làm Gương Cho Chúng Ta

Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cho chúng ta biết giáo đoàn Philip cố gắng sống theo ơn gọi. Từ ngày được mời vào Hội Thánh, tín hữu ở đây luôn nỗ lực làm việc lành, như để sắm áo cưới cho ngày chung thẩm. Gặp lúc thấy Phaolô bị giam giữ v́ đạo Chúa, họ mau mắn và rộng răi gửi đồ và tiếp tế cho người. Người viết thư cám ơn, không phải để họ gửi thêm v́ thực ra, bản thân người vẫn biết cách sống thích nghi với hoàn cảnh và bất cứ khi nào người vẫn lấy ơn Chúa làm đủ. Nhưng đây là dịp để họ biết sống quảng đại và thực thi bác ái, phù hợp với ơn gọi Kitô hữu. Thánh Phaolô thấy họ đă làm, th́ người nói lên lư do sâu xa để khi làm việc bác ái, họ biết ḿnh đang sống đẹp ḷng Chúa, Đấng sẽ ban cho họ chan chứa ơn lành trong Đức Yêsu Kitô.

 

Dĩ nhiên phụng vụ của Giáo hội hôm nay cũng muốn dùng chính những lời của thánh Phaolô để khuyên nhủ chúng ta một cách cụ thể. Chúng ta đă thấy qua bài sách của tiên tri Isaia, Chúa hứa đưa chúng ta vào bàn tiệc Nước Trời. Người đă khởi sự làm việc ấy khi đưa chúng ta vào Hội Thánh. Tuy nhiên muốn duy tŕ và phát triển ơn cứu độ hiện nay ở nơi ḿnh, chúng ta phải sống thánh thiện và bác ái. V́ nếu những người trước đây được mời dự tiệc mà đă không đến và bị phạt, là v́ họ sống ích kỷ, không biết nghĩ đến người khác, th́ chúng ta chỉ có thể được ở trong bàn tiệc cánh chung nếu chúng ta biết săn sóc các nhu cầu của tha nhân.

Thánh lễ này cho chúng ta được dự tiệc Bí tích nhưng là để đi đến bàn tiệc trên trời. Giữa hai bàn tiệc dưới đất và trên trời, chúng ta phải theo gương Chúa xả thân cho ta mà đi vào đời sống để săn sóc và chia sẻ nếp sống vui buồn của đồng bào. Công việc này chúng ta sẽ được lôi cuốn để làm, mặc dù gặp nhiều trở ngại, khi chúng ta đă thật ḷng mộ mến thái độ của Chúa trong việc xả thân cho chúng ta. Vậy chúng ta hăy sốt sắng dự lễ, để dễ sống nhiệt t́nh hơn với mọi người hầu được đi vào bàn tiệc cánh chung.

 

 

Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

 

 

LỜI MỜI GỌI CỦA THIÊN CHÚA

Mt 22,1-14

Gp. Vĩnh Long

 

Thiên Chúa là vị Vua đầy quyền năng, Ngài có thể làm được mọi sự theo ư Ngài muốn. Tuy nhiên, Ngài đă ban sự tự do cho con người để con người chọn điều tốt, làm điều lành hầu xứng đáng với phần thưởng đời đời Chúa ban.

 

Khi được tự do chọn lựa, con người có thể có xu hướng chọn những cái thấy được trước mắt, coi trọng vật chất hơn những ơn thiêng liêng Chúa ban, không biết thờ phượng Chúa cho phải đạo. Dụ ngôn tiệc cưới này đă nhắc nhở chúng ta biết chọn lựa đúng đắn. Thực tế cho thấy có rất nhiều người từ chối lời mời của Chúa, họ phủ nhận Thiên Chúa những v́ măi lo việc vật chất phần đời mà bỏ quên Thiên Chúa. Những khách được mời trong dụ ngôn này đă không chịu đến, sai người đến nhắc cũng không đến, Vua lại sai nhiều người khác đến mời mọc, họ cũng không đến, lại c̣n đối xử tệ bạc với những đầy tớ của Vua ! Thật là quá lắm!

 

Ông chủ trong dụ ngôn thật là tốt bụng, ông kiên nhẫn với nhóm khách được mời, tạo cơ hội cho họ đến nhưng họ cứ khăng khăng từ chối : vua lại sai các đầy tớ khác… nhưng lần này họ c̣n ra mặt chống đối, đánh đứa này, giết đứa kia. Chúa Giêsu kể dụ ngôn này có ư ám chỉ đến những người Do thái, họ đă được các tiên tri kêu gọi, nhắc nhở, loan báo và chuẩn bị cho việc đón nhận Chúa Cứu Thế. Thế nhưng, khi Chúa Cứu Thế đến th́ họ lại từ chối và c̣n đối xử cách bất công nữa.… Nghe dụ ngôn chúng ta thấy bất b́nh với những người được chủ mời dự tiệc này, nhưng có khi nào chúng ta cũng giống như họ chăng! Tiệc của hoàng tử mà chúng ta lo là, không lo sửa soạn sẵn sàng mà lại lo t́m những thú vui giả trá chóng qua!

 

Thiên Chúa quá nhân từ khi đối xử với con người, Ngài có quyền nhưng cứ nhân từ, nhẫn nại, không ép buộc mà chỉ mời; c̣n con người lại không biết nghĩ đến Chúa, cứ một lo chuyện đời theo ư riêng. Sẽ có lúc Chúa phải xét xử công bằng với chúng ta. Ngài không để sự dữ hoành hành măi được. Lúc đó, không ai thoát khỏi kết quả ḿnh làm lúc c̣n trên dương thế. Tội của những kẻ chối từ lời mời gọi của Thiên Chúa trầm trọng lắm v́ đă không tin vào Đức Kitô, Đấng v́ họ mà đến trong thế gian. Chúng ta không chống đối Thiên Chúa nhưng chúng ta hay chối từ lời mời gọi của Chúa trong Giáo hội, không tuân giữ lời Chúa dạy trong Kinh thánh, chưa nghe theo lời khuyên của những người Chúa chọn, chúng ta có thể sẽ bị chúa trách cứ về điểm này.

 

Giáo hội trần thế hôm nay c̣n có người lành kẻ dữ lẫn lộn. Thiên Chúa kêu gọi tất cả hăy đến với Người, mặc lấy tâm t́nh xứng hợp để được vào Nước Trời. Những ai hoán cải và giữ lời Chúa dạy, làm việc lành th́ giống như người có mặc áo cưới, có tâm t́nh và diện mạo xứng hợp để vào dự tiệc cưới. Bao lâu chúng ta duy tŕ đời sống công chính, gia tăng những việc lành th́ chúng ta đang khoác cho ḿnh chiếc áo cưới sẵn sàng chờ Chúa gọi.

 

Bữa tiệc Thánh Thể vẫn được lặp lại hàng ngày trong Thánh lễ, ai muốn tham dự phải mặc áo ân sủng Chúa và sống theo Tin Mừng. Để đi vào Nước Trời, chúng ta phải giặt áo ḿnh trong máu Con Chiên, phải mặc lấy Chúa Kitô và thể hiện ra bên ngoài bằng đời sống tốt đẹp hơn, bác ái, quăng đại hơn…(x. Ep 4, 24).

 

Lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ Chúa đă kêu gọi con vào nhà chúa, con sẽ cố gắng đáp trả tiếng Chúa và dùng những khả năng Chúa ban để phục vụ cho Nước Chúa mau trị đến trong các tâm hồn.

 

 

TIỆC NƯỚC TRỜI

Mt 22,1-14

Gp. Vĩnh Long

 

Trong một đời người chắc chắc ai ai cũng có rất nhiều lần dự tiệc, nào là tiệc cưới, sinh nhật, bổn mạng... nhưng v́ t́nh nghĩa chúng ta cũng rất ít lần bỏ qua. Họa hoằn làm chúng ta mới bỏ qua một lần, nhưng lần đó chỉ là những trường hợp bất khả kháng chúng ta không thể nào đi được. Cho dù buổi tiệc đó có lớn đến đâu, nhân vật quan trọng như thế nào đi nưa th́ đó cũng cũng chỉ là buổi tiệc mau tàn, chóng qua. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta thấy một buổi tiệc vô giá, buổi tiệc quan trọng hơn gấp bội phần buổi tiệc của trần gian nay. Đó chính là buổi tiệc nước trời mà Thiên Chúa giống như vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nước Trời có nghĩa là gia đ́nh Thiên Chúa trên trần gian. Tiệc cưới là bàn đặt lương thực thiêng liêng. C̣n mỗi người chúng ta là đầy tớ của vua cao cả. Chúa Kitô là Con của Ngài. Cha trên trời sai chúng ta đi mời mọi người chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng do Giáo hội của Ngài khoản đăi.

 

Nhưng ai là người chúng ta có thể mời ? Thực tế là mọi người. Có nhiều người Công Giáo không bao giờ tham dự những ngày đại phúc, tĩnh tâm hay học hỏi về đạo. Những người công giáo lơ là về đạo ấy, chỉ cần một chút thúc giục để họ bắt đầu quay về với gia đ́nh của Thiên Chúa. Họ hăng say tham gia vào buổi tiệc mà chính Chúa đă dọn, đă mời gọi. Chính khi họ đi dự tiệc họ cũng có thể mời gọi người khác cùng đi

 

Hơn nữa chúng ta cũng cần nghĩ đến những người bạn chưa hề nghe, chưa hề biết, chưa hề cầm được tấm thiệp mời, đó chính là những người bạn khác niềm tin khác tôn giáo đang t́m kiếm của ăn thiêng liêng. Chúng ta có thể gặp những người khách này ở đâu ? Họ có thể là người láng giềng, bạn học, bạn công nhân cả đến những người thân thuộc. Họ có thể là người quen biết trong cuộc chơi, ở tiệm bán hàng, trên xe buưt, ở pḥng đợi bác sĩ, bạn đừng giới hạn sự mời đón vào những người gọi là đáng kính. Bạn hăy mời những người thấp kém, vô gia cư, tội lỗi. Như trong Tin Mừng hôm nay, ông vua truyền lệnh: “Hăy ra các ngả đường, mời bất cứ ai bất luận tốt xấu”.

 

Hăy mời họ thường xuyên tới dự thánh lễ, hay những dịp lễ dặc biệt lễ Giáng sinh, viếng máng cỏ, nghi lễ rửa tội, lễ cưới, lễ an táng hay là viếng nhà thờ trong tuần một vài lần...

 

Nếu có thể, bạn hăy nói trước với cha sở về những người khách ấy. Có lẽ Ngài mong được biết có sự hiện diện của họ, và có một vào người hứơng dẫn cho họ chung quanh nhà thờ. Điều này làm họ cảm thấy được cần đến và giúp sửa được ư niệm sai lầm là người công giáo chúng ta không muốn người ngoài đạo tham dự các lễ nghi.

 

Giả sử như họ từ chối lời bạn mời, th́ bạn cũng đă một trọn bổn phận của bạn, bổn phận của ḷng tin và bác ái. Bạn đang cổ động sự hiểu biết giữa những người có niềm tin khác nhau. Bạn đang tỏ ra rằng: đức tin của bạn có một ư nghĩa đối với bạn. Bạn lưu tamâ và ân cần mong muốn người khác chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng chúng ta tham dự trong chính giờ này.

 

Lạy Chúa, Chỉ có t́nh yêu mới đáp trả được t́nh yêu, chỉ có ḷng thành mới mới đáp trả được lời mời gọi thiết tha mà Thiên Chúa đă kêu gọi. Xin cho con biết nhân ra đâu là thánh Ư Chúa để con hăng say đáp trả bằng t́nh yêu và ḷng nhiệt thành. Amen

 

Gp. Vĩnh Long

 

 

 

 

 

 

 

SAN SẺ NIỀM VUI

Mt 22,1-14

 

Gp. Vĩnh Long

Anh chị em thân mến.

Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nh́n thấy hai trường hợp trái ngược nhau: Một đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần ăn riêng biệt. Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết v́ lư do ǵ mà nó không vui, nó không nh́n đến phần thức ăn của ḿnh. Người mẹ th́ nh́n con với vẻ ái ngại, bà năn nỉ con, nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn c̣n nguyên.

 

Một đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn c̣n nguyên trên bàn mà người chủ đă không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong chiếc lon và mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm vui của một người không cần đến.

 

Tôi chợt suy nghĩ: phần ăn là chất bổ dưỡng, là niềm vui cho một người, nhưng chính người đó không vui khi nhận thấy phần của ḿnh. Một người khác nhận được niềm vui không phải chuẩn bị cho ḿnh, nhưng lại được hưởng trọn vẹn. Nếu đứa trẻ cằm chiếc lon, không biết chuẩn bị những ǵ cần thiết để có thể mang phần ăn ra bên ngoài tận hưởng, th́ làm sao nó có thể hưởng trọn niềm vui được.

 

Trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho mọi người nh́n thấy viễn ảnh một tiệc cưới, những vị khách quư đă được mời, sau đó c̣n được nhắc lại. Nhưng những người đă được mời đó, không một ai được dự tiệc v́ có người không muốn tham dự, họ không c̣n nhớ đến lời mời gọi trước kia, họ chỉ sống cho ḿnh và chỉ biết có chính ḿnh. Có người không dự được v́ họ đă bị trừng phạt. Họ không muốn dự tiệc, là một việc không phải phép, nhưng họ c̣n hành hạ những người đến nhắc nhở cho họ về những ǵ họ đă hứa, nên họ bị trừng phạt. C̣n những người dự tiệc, là những người đang cần đến thức ăn và có sự chuẩn bị để đón nhận thức ăn một cách xứng đáng và không phung phí nó. Những người dự tiệc là những người không cần được báo trước, nhưng họ biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi với ḷng chân thành.

 

Mỗi người trong chúng ta được mời gọi sống làm người, chúng c̣n được mời gọi để sống trong hồng ân Chúa cách đặc biệt hơn qua việc chúng ta được lănh bí tích rửa tội. Đó là chúng ta được mời gọi để sống đời sống một người Công Giáo. Thiên Chúa c̣n mời gọi mỗi người sống trong môi trường sống của ḿnh, sống xứng đáng với địa vị trong xă hội, trong môi trường thực tế của công việc để sống theo thánh ư Chúa. Lời mời gọi đó chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở lại rất nhiều trong đời sống hằng ngày: kêu gọi chu toàn trách nhiệm, kêu gọi sống xứng đáng hơn, kêu gọi sửa đỗi đời sống. Nhiều lúc những lời đó làm cho chúng ta khó chịu, không muốn nghe. Có những lúc chúng ta phản ứng mạnh mẽ hơn v́ những lời đó làm cho chúng ta ái ngại. Những lời mời gọi và nhắc nhở đó, những lời làm cho chúng ta khó chịu đó là những lời kêu mời chúng ta đến dự bàn tiệc nước trời. Nhưng mỗi người đáp lại như thế nào? Cứ nh́n lại đời sống, nh́n lại những hành động đă qua, xem chúng ta đáp lại lời mời như thế nào?

 

Chúng ta hứa vào dự tiệc, nhưng nhiều lúc chúng măi bận rộn với những toan tính thiệt hơn hằng ngày, chúng ta mất quá nhiều thời gian với gia tài riêng tư của ḿnh: đó là sự ích kỷ, sự hẹp ḥi và cả những cố chấp trong con người của ḿnh, nên không c̣n nghe thấy ǵ ngoài bản thân ḿnh. Chúng ta chỉ c̣n biết tính toán thiệt hơn, cố làm sao mang cho ḿnh thật nhiều những ǵ ḿnh muốn, không cần biết đó là đúng hay sai, đồng thời cũng để ngoài tai những lời nhắc nhở chân thành. Như thế th́ làm sao chúng ta có thể ngồi vào bàn tiệc đă dọn sẵn và đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta giống như đứa bé, ngồi trước phần ăn nhưng không chịu dùng những ǵ của ḿnh.

 

Nếu chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày, cho dù những khó khăn vất vă, nhưng vẫn chấp nhận và can đảm vượt qua. Nếu chúng ta biết lắng nghe và nh́n lại chính ḿnh, để nhận ra những ǵ sai lỗi, để làm lại cho tốt. Nếu chúng ta lắng nghe tiếng Chúa qua những việc làm tốt đẹp, những cử chỉ yêu thương, những lời nói ủi an khi cần thiết; đó là chúng ta đang bước vào pḥng tiệc với chiếc áo cưới chuẩn bị sẳn sàng, và dự tiệc vui mừng với chủ.

 

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa kêu mời, để xứng đáng dự tiệc Nước Trời.

 

 

DỰ TIỆC MIỄN PHÍ

Mt 22, 1 – 14

Gp. Vĩnh Long

 

Một lần nọ, tôi nghe được mẫu đối thoại như sau:

-         Lúc này sao “giấy báo thuế” đến liền liền. Rầu hết sức!

-         Giấy báo thuế là ǵ?

-         Là thiệp mời đi đám đó.

-         Được nhiều người mời là niềm vinh dự chứ sao lại rầu.

-         Biết vậy rồi, nhưng đâu phải đến ăn không rồi về được. Phải có bao thơ chứ. Mày biết không trong ṿng một tháng mà có đến 5 cái thiệp mời. Hầu hết là những chỗ không thể bỏ được nên phải bấm bụng vay tiền để đi chứ làm sao có đủ!!!

 

Qua mẫu chuyện nhỏ trên đây, chúng ta thấy được mời dự tiệc là một niềm vinh dự. V́ niềm vinh dự ấy chúng ta phải chịu mất tiền và mất thời gian. Niềm vinh dự ấy lại tăng thêm cho chủ nhà khi những người được mời đi dự đầy đủ. Thế nhưng, thật là buồn cho chủ nhà khi tiệc đă dọn sẵn mà những người được mời chẳng thấy ai. Tâm trạng này phần nào phản ảnh tâm trạng của ông vua trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay.

 

Nhà vua sai đầy tớ đi tận nhà những người được mời và dặn: “Hăy thưa với quan khách đă được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đă dọn xong, ḅ tơ và thú béo đă hạ rồi, mọi sự đă sẵn. Mời quư vị đến dự tiệc cưới! " (Mt 22, 4)

 

Đáng buồn thay, những người được mời họ viện đủ lư do: “Kẻ th́ đi thăm trại, người th́ đi buôn, c̣n những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết” (Mt 22, 5b – 6). Họ đâu biết rằng làm như thế sẽ khiến nhà vua buồn như thế nào. Buồn ở đây không phải v́ họ không ông nhưng ông buồn v́ chính những người được mời này đă tự làm hại đến chính ḿnh. Họ đă từ chối niềm hạnh phúc nhà vua chuẩn bị sẵn cho. Chắc chắn nhà vua là người giàu sang nên chẳng cần bao thơ làm chi. Nhà vua dọn tiệc và mời họ đến dự miễn phí nhưng họ lại từ chối.

 

H́nh ảnh nhà vua này chính là Thiên Chúa của chúng ta. Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho chúng ta bữa tiệc Nước Trời và mỗi Thánh lễ cũng chính những bữa tiệc Thánh miễn phí. Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách hoàn toàn nhưng không. Thế nhưng, đáng buồn thay có nhiều người lại t́m đủ mọi lư do để từ chối. Họ quên rằng khi từ chối như vậy là họ đang tự làm hại chính ḿnh.

 

Hăy xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết nhanh chóng đáp lại lời mời gọi của Chúa đến hưởng hạnh phúc Nước Trời mà Người đă dọn sẵn cho chúng ta.

 

 

Gp. Vĩnh Long

 

 

 

 

 

 

BÀI ĐỌC THÊM

Giáo Lư vỀ ThÁnh Phaolô

Thánh Phaolô và nỀn ThẦn hỌc Paulinienne


Thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại, quả thực là một con người vĩ đại (mặc dù xét về mặt ngoại h́nh, có lẽ ngài là một người thấp bé, xem Cv 19,11). Thánh nhân là người vĩ đại trong lănh vực tinh thần. Bởi v́ ngài là:

Saolô bị quật ngă khỏi ngựa và đă trở thành Tông đồ Phaolô

 

·        Một người cuồng nhiệt trong việc đàn áp và bắt bớ các Kitô hữu tiên khởi;

·        Một nhà truyền giáo đầy ḷng say mê và nhiệt thành cho Tin Mừng Đức Kitô, bất kể mọi gian lao vất vả và nguy hiểm, trong khắp toàn thế giới Hy Lạp – Roma vào lúc bấy giờ: Từ Giê-ru-sa-lem qua Cô-rin-thô và A-then cho tới Roma.

·        Một người hăng hái và thành tâm t́m cách bắc nối một nhịp cầu giữa Ít-ra-en, Dân thánh của Cựu Ước, và các Cộng Đoàn Kitô hữu của Tân Ước.

·        Một người đă được Đức Kitô tuyển chọn bằng một cách thế đặc biệt: từ một kẻ thù hung dữ trở thành một người bạn tâm phúc.

·        Một tác giả của những lá Thư Mục Vụ nổi danh, chứa đựng những nội dung thần học vô cùng sâu sắc và uyên bác.

·        Một nhà thần học chân chính của Phúc Âm Đức Giêsu Kitô.

Nói tắt, thánh Phaolô là một may mắn, là một món quà to lớn của Thiên Chúa ban tặng cho:

·        các Cộng Đoàn Kitô hữu tiên khởi,

·        nhất là cho đức tin của họ vào Đức Kitô,

·        việc định hướng thần học của Kitô giáo thuở ban đầu,

·        những nền tảng cơ bản của Kitô giáo,

·        sự quân bằng đúng đắn giữa các tín hữu Do-thái, dân ngoại và các Kitô hữu,

·        sự quân bằng giữa đức tin và lư trí, giữa đời sống thiêng liêng đạo đức và tính cách hợp lư, giữa thần học và sự thực hành đức tin, cho tới sự hy sinh tử đạo cho niềm tin vững vàng bất biến vào Đức Kitô.

 

1) Chương tŕnh cứu rỗi của Thiên Chúa

Trọng tâm của các Thư Mục Vụ với nội dung thần học sâu sắc của thánh Phaolô là chính Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai của dân tuyển chọn Ít-ra-en và của toàn thể nhân loại. Thánh Phaolô tuy là người đồng thời với Đức Giêsu, nhưng thánh nhân lại không hề nghe hay nh́n thấy Đấng Cứu Thế. Thánh nhân chỉ hiểu biết và t́m gặp được đức tin vào Đức Giêsu Kitô qua các Cộng Đoàn Kitô hữu (xem Cv 9,19) và nhất là qua cuộc gặp gỡ hy hữu với chính Đức Giêsu Kitô (Cv 9,1-19; Gl 1,15tt). Biến cố Đức Giêsu Kitô đă bó buộc Saulô, (tên Do-thái của thánh Phaolô), người môn đệ thâm tín của Biệt Phái phải chỉnh đốn lại một cách tuyệt căn toàn bộ:

Tồng đồ Phaolô, nhà thần học uyên bác đầu tiên của Kitô giáo

 

 

·        đời sống của của ngài;

·        nền thần học của ngài;

·        đức tin truyền thống của ngài;

·        cách thức phát biểu về Thiên Chúa, về Thiên Chúa của Ít-ra-en và về Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.


Qua sự đau thương nhục nhă của thập giá và trong phép lạ Phục Sinh của Đấng đă bị giết chết như là sự phê chuẩn của Trời Cao đối với sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu Kitô, Phaolô đă nhận ra được sự can thiệp của bàn tay vô h́nh của Thiên Chúa, chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa dành cho tất mọi người, cho người Do-thái cũng như cho dân ngoại. Trong Thư Cô-rin-thô thứ nhất của ngài, thánh Phaolô đă tóm tắt sự hiểu biết mới mẻ của ngài về Đức Kitô trong một câu tuyên xưng đức tin mà các Kitô hữu gốc Do-thái cũng như các Kitô hữu gốc ngoại giáo đều có thể cùng đọc: «Đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu» (1Cr 8,6).


Qua đó, nền tảng cơ bản của thần học Paulinienne đă được nêu danh, đó là Mầu nhiệm về Thiên Chúa; Thiên Chúa là:

·        Đấng duy nhất,

·        là Cha,

·        là Tạo Hoá: Đấng đă dựng nên muôn vật, hữu h́nh và vô h́nh,

·        là cùng đích của con người và của vũ trụ.


Và trọng tâm của sự phát biểu như thế về Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa. Đây quả là một văn kiện lư thuyết tuyệt vời về đức tin Kitô giáo của nhà thần học Phaolô vốn được đào tạo trong Do-thái giáo (x. Pl 3,5): Đức tin một Thiên Chúa của Do-thái giáo đă được nối kết khăng khít với đức tin vào Đức Giêsu Kitô. Bởi v́ trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đă hành động với con người và cho con người trong công cuộc cứu rỗi của họ. Do đó, thánh Phaolô đă viết trong Thư gửi các tín hữu ở Roma: «Thiên Chúa đă minh chứng t́nh yêu của Người đối với chúng ta, là Đức Kitô đă chịu chết v́ chúng ta, ngay khi chúng ta c̣n là những người tội lỗi.» (5,8).


Một điểm đặc biệt nơi thánh Phaolô mà người người ta rất dễ dàng nhận ra là mỗi khi thánh nhân nói về Đức Giêsu Kitô th́ đồng thời ngài cũng nói về Thiên Chúa Cha, và nói về con người, về cuộc sống hiện tại của họ và trong một tương lai viên măn. Nói vắn tắt, Đức Giêsu Kitô trong thần học Paulinienne, trong thần học của thánh Phaolô, là điểm khởi đầu và là điểm chấm tận của tất cả những phát biểu về Thiên Chúa và về con người.


Nền thần học Paulinienne tóm tắt công tŕnh cứu độ của Đức Giêsu Kitô lại trong ư niệm «Phúc Âm»: Phúc Âm là Tin Mừng về hành động cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Na-da-rét. Do đó, đă hơn một lần thánh nhân đă nói về «Phúc Âm Thiên Chúa» (x. 1Tx 3,2). Thánh Phaolô đă tŕnh bày nội dung của Phúc Âm trong một câu tuyên xưng đức tin: «Đức Kitô đă chết v́ tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đă được mai táng, và ngày thứ ba đă chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đă hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai» (1 Cr 15,3tt).



Sự khổ nạn thập giá của Đức Giêsu đối với thánh Phaolô là trọng tâm của Phúc Âm. Một cách quả quyết hơn nữa, thánh nhân đă viết trong Thư gửi các tín hữu ở Cô-rin-thô là ngài – thay v́ những khảo lược hay nghiên cứu tuyệt vời về thần học – không muốn biết hay nói đến những ǵ khác «ngoài Đức Giêsu Kitô, và chính Đức Giêsu Kitô đă chịu đóng đinh vào thập giá» (1Cr 2,2). Vốn thuộc tầng lớp những người Do-thái trí thức, thánh Phaolô đă chấp nhận quan điểm cũ trong Kinh Thánh về việc của lễ đền tội (x. Lv 4,1-5) và nh́n nhận trong cái chết của Đức Giêsu trên thập giá như là một sự đền bù thoả đáng cho những tội lỗi của nhân loại đă xúc phạm đến Thiên Chúa (x. Rm 3,21-31). V́ thế, hành động này của Đức Giêsu nhân danh Thiên Chúa là Phúc Âm, là Tin Mừng, bởi v́ qua Đức Giêsu Kitô và qua cái chết của Người, Thiên Chúa đă tái lập lại t́nh trạng lành thánh cho toàn thể vũ trụ. Bởi v́ Thiên Chúa đă «biến Đấng chẳng hề biết tội là ǵ, thành hiện thân của tội lỗi v́ chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người» (2Cr 5,21).


Những từ quan trọng thuộc đức tin như «sự cứu rỗi», «sự hoà giải», «sự công chính hoá» đă bắt nguồn từ nền tảng vững chắc của hành động Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô nhận ra được rằng, trong biến cố Đức Giêsu nhập thể, chấp nhận đền bù tội lỗi con người, chấp nhận sự khi bỉ (x. Đnl 21,22tt), chấp nhận cái chết trên thập tự giá, để mang lại sự sống mới cho toàn thể nhân loại, là sự khôn ngoan của t́nh yêu Thiên Chúa đối với con người (x. 1Cr 2,7). Do đó, người ta hoàn toàn có lư khi gọi nền thần học của thánh Phaolô là một nền thần học phục sinh của thập giá Đức Giêsu Kitô.



 

2) Vận may mới cho cuộc sống của tất cả mọi người

Cái vận may khách quan mới mẻ này cho cuộc sống của tất cả mọi người đă được tái lập qua cái chết của Đức Giêsu Kitô, mỗi một người đều có thể lợi dụng nắm bắt cho chính ḿnh qua đức tin, chứ không qua bất cứ công sức riêng tư nào của con người về đạo đức hay tôn giáo (các việc làm của luật pháp), nhưng «chỉ qua đức tin vào Đức Giêsu Kitô» mà thôi (Rm 3,28). Bởi v́ đức tin khẳng định rằng t́nh yêu sáng tạo của Thiên Chúa luôn bao bọc và thánh hóa mỗi người, tương tự như chính Tổ Phụ Áp-ra-ham đă từng cảm nghiệm (x. Rm 4,19tt): Thiên Chúa «làm cho ai biết tin nhận Đức Giêsu Kitô được trở nên công chính» (Rm3,26). Như thế, Đức Giêsu Kitô là sự bảo đảm của Thiên Chúa rằng đức tin làm cho cuộc sống hôm nay được chắc chắn và ngày mai mở ra một tương lai thành quả. V́ thế, đức tin có nghĩa lả «được đứng vững trong Chúa» (1Tx 3,8).


Trong việc sống đức tin một cách cụ thể và trong việc thực hành đức tin trong cuộc sống hằng ngày của con người th́ t́nh trạng sống mới, mà Thiên Chúa đă sáng tạo qua Đức Giêsu Kitô, bắt đầu tác động từng bước một. Bởi vậy, thánh Phaolô đă gọi sự sự biến đổi cuộc sống như vậy là một «thụ tạo mới» (x. Gl 6,15). Đây là một thực tại được thực hiện một cách rơ ràng và mạnh mẽ nhất trong Bí tích Rửa Tội. Thật vậy, qua h́nh ảnh được d́m ḿnh trong nước - một hành động vừa có thể gây nên sự chết vừa có thể mang lại sự sống – người tân ṭng «được d́m vào trong sự chết qua nước thánh tẩy» (x. Rm 6,3), để được sống một cuộc đời sống mới «trong Đức Kitô», nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 12,11).

 



 

3) Cảm nghiệm đích thực về cộng đoàn Đức Kitô

Việc sống sự cảm nghiệm này «trong Đức Kitô» đối với thánh Phaolô là một điều vô giá, đến nỗi ngài đă sử dụng hơn 100 lần h́nh ảnh về sự tâm giao với Đức Kitô, để tŕnh bày cuộc sống kết hiệp mới mẻ của các Kitô hữu và với nhau. C̣n phương diện xă hội của cuộc sống «trong Đức Kitô», th́ theo thánh Phaolô, luôn được thể hiện một cách sâu xa và cụ thể qua sự tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu: «Không c̣n chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà. Nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô» (Gl 3,28).


Sau cùng, sự cảm nghiệm cá nhân cũng như đoàn thể này về cộng đoàn Đức Kitô đă được thánh Phaolô tŕnh bày một cách thâm thuư và trọn vẹn qua h́nh ảnh về Thân Ḿnh Đức Kitô: «Chúng ta đều đă chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể» (1Cr 12,13). Và tất cả mọi thành phần của Thân Thể này đều thuộc về một đầu là Đức Giêsu Kitô, tất cả đều phục vụ, giúp đỡ và bổ túc cho nhau bằng các đặc sủng (Charisme) khác nhau mà mỗi người đă được nhận lănh hầu để xây dựng và duy tŕ cộng đoàn (x. Rm 12,3-8).


Chắc chắn rằng h́nh ảnh về Thân Ḿnh Đức Kitô này là một h́nh ảnh chính xác và thân thương nhất cho từng cộng đoàn Kitô hữu, tức các Giáo Hội địa phương và cho tất cả các cộng đoàn cùng hợp nhất với nhau trong Đức Kitô, tức Giáo Hội hoàn vũ hay Giáo Hội phổ quát.


4) Vị Tông Đồ chung cho một Kitô giáo phổ quát

Những ai ngày nay c̣n thành tâm đọc các Thư Mục Vụ của thánh Phaolô, chắc hẳn những người đó sẽ bị nhà tổ chức đại tài và nhà thần học vĩ đại Phaolô chinh phục qua các tư tưởng thâm thuư và sấu sắc của ngài, nhất là qua đức tin và t́nh yêu kiên cường và nồng cháy của thánh nhân đối với Đức Kitô.


Thật vậy, do t́nh yêu mạnh mẽ của ngài đối với Đức Giêsu Kitô và do những thách đố cụ thể của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại, đă phát triển qua các Thư Mục Vụ gửi các cộng đoàn một nền thần học chân chính và cần thiết, một định hướng đức tin vững chắc và đúng đắn cho một Kitô giáo phổ quát, một Kitô giáo có sức mang lại một cuộc sống hoàn toàn được đổi mới cho một thế giới bị ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Hy-lạp vào lúc bấy giờ, và tiếp đến cho mọi dân tộc khác bên ngoài biên giới của đế quốc La-mă qua tất cả mọi nền văn hóa và mọi thời đại khác nhau măi cho tới thời đại toàn cầu hoá hôm nay của chúng ta.


(Kỷ niệm Năm Thánh Phaolô: 2008-2009) 

Lm Nguyễn Hữu Thy