Caùc baøi suy nieäm CHUÙA NHAÄT 33 THÖÔØNG NIEÂN - A

Lôøi Chuùa: Cn 31, 10-13.19-20.30-31; 1Tx 5, 1-6; Mt 25, 14-30

MUÏC LUÏC

 

 

1. Tôi tớ trung thành................................................ 2

2. Bạn có sợ Thiên Chúa không?.............................. 4

3. Nén bạc và những cố gắng................................... 6

4. Thiên Chúa chúng ta chịu trách nhiệm.................. 9

5. Hăy làm những ǵ Chúa muốn............................. 11

6. Nén bạc............................................................. 13

7. Nén bạc............................................................. 16

8. Nhận nhiều th́ bị đ̣i hỏi nhiều – JKN.................. 19

9. Hăy dùng thời gian để yêu thương–Lm Ng. hữu An... 24

10. Nhu cầu........................................................... 29

 

1. Tôi tớ trung thành.

 

Tất cả chúng ta đều là những người tôi tớ của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài đă trao gửi. Những nén bạc ấy chính là thân xác và linh hồn, thời gian và tài năng. Nói tóm lại, là tất cả những ǵ chúng ta đang có và đang quản lư.

 

Đúng thế, tất cả không phải là của riêng chúng ta, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài trao gửi và cho chúng ta vay mượn trong một thời gian nào đó, như lời thánh Phaolô đă diễn tả: Những sự anh em có, há chẳng phải là đă nhận lănh hay sao? Và nếu đă nhận lănh, th́ tại sao anh em lại tự phụ, như không cần nhận lănh.

 

Chính v́ thế, chúng ta không được toàn quyền sử dụng đă đành, mà c̣n phải chịu trách nhiệm vễ những nén bạc ấy. Chẳng hạn với thân xác, chúng ta không được ăn uống quá độ, chè chén say sưa có hại cho sức khỏe, cũng như không được hủy hoại thân xác ḿnh, hay tự ư đi t́m cái chết.

 

Với linh hồn, chúng ta phải cương quyết chiến đấu, đừng để cho sự sống ơn sủng mỗi ngày một tàn lụi. Chúng ta phải dứt khoát khử trừ tội lỗi và làm cho linh hồn ḿnh được hoàn thiện, nhờ Lời Chúa, nhờ các bí tích và nhờ những tâm t́nh cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa.

 

Tuy nhiên, điều quan trọng, đó là một ngày kia chúng ta sẽ phải tính sồ cuộc đời trước tôn nhan Chúa. Chúng  ta không biết sự việc này sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ kết thúc cuộc đời, để rồi chúng ta sẽ phải đối diện với lương tâm và với chính Thiên Chúa.

 

Thế nhưng, đó lại là một sự kện chắc chắn, như một câu danh ngôn đă diễn tả: Sự chết th́ chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Hay như chúng ta cũng thường nói: Đă là người th́ ai cũng phải chết.

 

Đó là qui luật chung của muôn đời. Và sau cái chết sẽ là cuộc phán xét. Đây là một cuộc phán xét thật công bằng và chính xác. Cuốn sổ cuộc đời chúng ta được mở rộng, trong đó mọi sự đều được ghi chép. Khi vị thẩm phán ngự ṭa, th́ mọi bí ẩn sẽ bị lộ ra, không tài nào che dấu  nổi.

 

Chính v́ thế, chúng ta phải quyết tâm làm phát triển và sinh lời cho những nén bạc Chúa đă trao gửi,  bằng cách thực hiện những hành động bác ái yêu thương, bởi v́ đó chính là những vị trạng sư âm thầm và không tên, nhưng sẽ bào chữa cho chúng ta trước ṭa án tối cao của Thiên Chúa.

 

Đồng thời, bằng cách trung thành với những công việc bổn phận của ḿnh, tùy theo vai tṛ, tùy theo đấng bậc, tùy theo chức vụ ḿnh nắm giữ trong cuộc sống.

 

Và sau cùng, bằng cách sử dụng thời giờ một cách đúng đắn, v́ thời giờ của chúng ta đă được cân đo đong đếm. Hăy sử dụng thế nào để đem lại lợi ích cho bản thân và cho người khác. Nếu chúng ta quản lư tốt, chắc chắn chúng ta sẽ không phải run sợ vào giây phút tính sổ cuộc đời. Trong giây phút trọng đại này, giây phút có tính cách ấn định số phận đời đời của chúng ta, mọi bạn hữu, dù thân t́nh đến đâu chăng nữa, cũng sẽ ĺa bỏ chúng ta, chỉ những việc lành phúc đứ mới đi theo chúng ta mà thôi.

 

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể lại rằng: Người kia phải ra trước ṭa Thiên Chúa trong ngày sau hết. Anh bạn thứ nhất thấy vậy vội vă bỏ chia tay với người ấy. Anh bạn thứ hai bước theo người ấy, nhưng đă khựng lại khi đứng trước khung cửa hẹp của cái chết. Trong khi đó anh bạn thứ đă cùng đi với  người ấy đến trước tôn nhan Chúa, tŕnh bày những lư chứng và cứu thoát người ấy khỏi án phạt đời đời.

 

Người bạn thứ nhất là tiền bạc vật chất. Người bạn thứ hai là cha mẹ và họ hàng thân thích. C̣n người bạn thứ ba, luôn trung thành và bào chữa cho chúng ta, đó chính là những hành động bác ái yêu thương.

 

Hăy làm cho những nén bạc Chúa đă trao gửi được sinh lời, nhờ đó giây phút chúng ta tính sổ cuộc đời với Chúa sẽ không phải là giây phút bẽ bàng và cay đắng, nhưng sẽ là giây phút mừng vui và hạnh phúc.

 

 

2. Bạn có sợ Thiên Chúa không?

 

Phải sợ Thiên Chúa nếu không phải là Thiên Chúa. Nhưng có sự sợ hăi tốt và có sự sợ hăi không tốt. Dụ ngôn ngày hôm nay là một bài học nói về hai nỗi sự hăi này. Điều cốt yếu nằm ở trong cuộc đối thoại giữa người chủ với người đầy tớ thứ ba, tức người tỏ ra sợ hăi.

- Thưa ông chủ, tôi biết ông chủ và tôi sợ ông. Tôi đă đem đi giấu dưới đất cái mà ông đă giao cho tôi.

- A! Ngươi biết ta sao?

 

Điều bi đát chính là việc người đầy tớ biết sai về ông chủ của ḿnh. Cho nên một số tín hữu nghĩ rằng Thiên Chúa là vị quan toà tỉ mỉ và khó tính mà nhất thiết người ta đừng gây sự với Ngài. Người đầy tớ xấu nghĩ tốt hơn cả là sinh sự với Ngài càng ít càng tốt và làm hết cách để tránh những phiền toái.

 

Đó là sự sợ hăi xấu. Nó vô hiệu hoá, nó làm cho ḿnh sống một cách tiêu cực: nếu tôi nói điều này, nếu tôi nói điều kia, điều ǵ sẽ xẩy đến cho tôi? Chúng ta ẩn ḿnh trong những điều chắc chắn: điều ǵ có tính cách bó buộc?

 

Nhưng chúng ta đă chẳng nhận lănh đức tin để sống tối đa hay sao? Sống hết sức tích cực. Chúng ta chẳng có Tin Mừng để thấm nhiễm Tin Mừng vào trong các tư tưởng, các hành vi của chúng ta và biết điều ǵ làm Thiên Chúa vui ḷng hay sao? Chúng ta chẳng có các bí tích để mạnh mẽ đương đầu với cuộc sống hay sao? Tất cả những điều đó đôi khi im ĺm như một kho tàng bị che giấu. Chúng ta không dám mạo hiểm, sự thực hiện các sáng kiến, những dấn thân có đôi chút tàn bạo. Nếu tôi mất đức tin vào đó th́ sao? Nếu tôi để cho nhà của tôi bị xâm nhập th́ sao? Nếu tôi không c̣n t́m ra th́ giờ để cầu nguyện th́ sao? Nếu tôi không có trong tay đủ tiền bạc th́ sao? Và nếu ông chủ xét đoán tôi th́ sao?

 

C̣n biết bao nhiêu chữ nếu nữa... Cẩn trọng là tốt, nhưng không thoải mái. Càng đưa ra những giả thiết như thế, điều mà chúng ta gọi là cẩn trọng chỉ c̣n là sự sợ hăi mà thôi. Như thế th́ cuộc sống Kitô hữu không nói ǵ về Chúa Kitô cả! Những người Kitô hữu ở trong một toà nhà, đi làm việc, đức tin của họ không lan truyền, không gây ngạc nhiên, không thu hút, th́ đức tin đó đóng kén trong sự chờ đợi đầy sợ hăi và tầm thường. Văn hào Soljenitsyne nói “Tất cả chúng ta bị mê hoặc chờ đợi điều ǵ đó đến riêng rẽ; không, không có ǵ đén riêng rẽ cả”.

 

Các thánh không chờ đợi, các ngài nhận biết Thiên Chúa, cá ngài biết yêu thương nhau, và cái nh́n vào Chúa biến các ngài thành những nhà hoạt động và táo bạo. Các thánh cũng sợ, nhưng đó là sự sợ hăi đáng ca ngợi! Sợ được yêu thương đến độ đó và không yêu thương cho đủ. Nỗi sợ của thánh Vincentê Phaolô: “Ngài  có thể làm ǵ hơn nữa? Người ta hỏi Ngài. –Nhiều hơn thế nữa”.

 

Nhiều hơn thế nữa. Đó là điều mà ông chủ chờ đợi nơi người đầy tớ sợ hăi, chứ không phải là điều tối thiểu! Chúng ta được trao ban một cuộc sống chứ không phải hai để sống Tin Mừng thực sự, để chứng tỏ rằng Thiên Chúa hiện hữu, rằng Ngài muốn chúng ta tin tưởng, hoạt động.

 

Ông chủ nói: “Khi trở về, tôi muốn thu lại tiền của tôi cùng với số tiền lời”. Vào cuối cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa sẽ nh́n xem điều ǵ đă phát sinh từ sự sáng tạo và t́nh yêu trong cuộc sống mà Ngài đă giao phó cho chúng ta. Nỗi sợ duy nhất của người Kitô hữu chính là không làm cho vốn liếng năm tháng của chúng ta sinh hoa kết quả cho đủ.

 

 

3. Nén bạc và những cố gắng

 

Hẳn rằng chúng ta đă hiểu được ư nghĩa dụ ngôn về những nén bạc: Ông chủ là Thiên Chúa, nén bạc là những tài năng Ngài đă trao ban. Lúc ông chủ trở về và tính sổ là lúc Thiên Chúa phán xét và chúng ta phải trả lẽ về những khả năng đă sử dụng. Trước tôn nhan Chúa, th́ giàu sang hay nghèo hèn, già cả hay trẻ thơ, tất cả đều không mấy quan trọng.  Điều cần thiết đó chính là sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa, chính là sự cố gắng của chúng ta để sử dụng và sinh lời từ những nén bạc Chúa đă trao gửi. Vậy sự cố gắng sẽ đem lại những hậu quả nào cho chúng ta?

 

Trước hết, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện vật chất. Thực vậy, như chúng ta thường nói:

 Kiến tha lâu cũng đầy tổ.

 Năng nhặt th́ chặt bị.

 Nước chảy đá ṃn.

 Có công mài sắt có ngày nên kim.

Những thành công trên đường đời chỉ dành cho những người biết cố gắng mà thôi. Một con chuột nhắt cứ cắn măi cắn ḥai cũng có ngày làm đứt sợi dây thừng. Từng nhát búa bổ dần cũng có ngày đốn gẫy cây cổ thụ. Từng giọt nước nhỏ dần cũng có ngày chọc thủng phiến đá.  Chính v́ thế, tương lai được hứa hẹn không phải cho những kẻ thông minh tài trí, nhưng cho những người biết hành động hơn, biết chăm chỉ hơn, biết cố gắng hơn, như tục ngữ đă nói:

Có làm th́ mới có ăn,

Không dưng ai dễ mang phần đến cho.

Tiếp đến, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện tinh thần. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy muốn trở nên một người tài giỏi th́ phải chăm chỉ học hành. Khi t́m hiểu về những thiên tài trong lịch sử, người ta đă ghi nhận chỉ có 5% là do khả năng trời ban cho, c̣n lại 95% là do sức cố gắng. Chính v́ thế, người Trung Hoa đă nói: Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lư. Viên ngọc mà không dũa không mài th́ không thể trở thành đồ trang sức quí giá. Con người cũng vậy, nếu không chịu khó học hành th́ không thể nào biết được lư lẽ mà cư xử. Thực vậy:

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,

Cũng thành vô dũng, cũng hoài ngọc đi.

Kinh nghiệm cũng cho thấy: thay đổi được một thói hư, xóa bỏ được một tật xấu là điều rất khó và đ̣i hỏi nhiều cố gắng. Một ông bố quyết định từ bỏ rượu chè bàng cách mỗi lần ngồi vào bàn cơm, ông ta đểu nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Cứ thế, cứ thế cho tới khi chiếc ly đầy nến và ông ta chừa bỏ được tật nghiện rượu của ḿnh.

 

Đời sống là một cuộc giao tranh khiến chúng ta phải cố gắng và chiến đấu không ngừng. Sống trong cuộc đời, chúng ta như người bơi ngược ḍng nước, nếu không cố gắng bơi, th́ sẽ bị ḍng nước cuốn trôi. Đứng trước những thói hư tật xấu, nếu chúng ta không cố gắng chống trả, th́ rồi chúng ta sẽ bị nhận ch́m trong tội lỗi lúc nào cũng chẳng hay.

 

Sau cùng, trong phạm vi thiêng liêng, mặc dù Chúa Giêsu đă cứu chuộc chúng ta, nhưng không phải là đă xong xuôi, trái lại chúng ta c̣n phải tiếp tục cộng tác với Ngài và ra sức chiến đấu không ngừng. V́ thế, thánh Augustinô đă nói:

 

- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ư kiến chúng ta. Tuy nhiên, để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài, bởi v́ chính Ngài cũng không thể cứu chuộc chúng ta, nếu như chúng ta không muốn.

 

Hăy tự cứu lấy ḿnh, rồi trời sẽ cứu. Lời nói này có nghĩa là trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải cố gắng và cố gắng không ngừng. Trong ngày sau hết, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đă làm được những ǵ, trái lại Ngài muốn biết chúng ta đă chiến đấu như thế nào, có sinh lời cho Chúa từ những nén bạc Ngài đă trao gửi hay không?

 


 

4. Thiên Chúa chúng ta chịu trách nhiệm.

 

Câu chuyện do Chúa Giêsu đặt ra về việc sử dụng các nén bạc là một dụ ngôn tiêu biểu chứ không phải là một ẩn dụ. Dụ ngôn là một so sánh toàn thể, cụ thể và đầy h́nh ảnh, cố ư giúp người ta hiểu một điều giảng dạy. Không nên xét quá kỹ về mỗi chi tiết, nhưng phải t́m bài học toát ra từ toàn thể, ẩn dụ là một số h́nh ảnh (sắp đặt thành một câu chuyện hy có khi không sắp đặt) nối tiếp nhau, mỗi một yếu tố đều tương ứng với các chi tiết của ư tưởng muốn diễn tả. Dụ ngôn các nén bạc đ̣i hỏi một cách hiểu toàn thể để rút ra một bài học lớn. Không nên cắt nghĩa chi tiết để rút ra các kết luận nhỏ; bài học lớn mà Chúa Giêsu muốn tŕnh bày như sau: người môn đệ phải bày tỏ ḷng trung thành tích cực phục vụ Thiên Chúa, ngược với sự thụ động lười biếng đồng nghĩa với bất trung, Người Kitô hữu chân chính sống cả đời trong sự trông đợi tích cực và có trách nhiệm. Việc so sánh ông chủ hà khắc đối với người làm có thể làm cho cảm xúc Kitô giáo của chúng ta thấy khó chịu. Chỉ cần nhớ lại Chúa Giêsu dùng các điều thấy trong lối sống thời Ngài mà so sánh; Ngài không nói nó xấu hay tốt, Ngài chỉ dùng như những sự kiện thấy được để rút ra những bài học. Trong trường hợp này, Ngài đặt ra một câu chuyện có thể tin được theo lối sống và tập tục thời ấy và qua đó Ngài rút ra 1 giáo huấn. Chúa nhấn mạnh ở điểm nào?

 

1) Ở sự nhanh nhẹn của các tôi tớ tốt. Họ ra đi ngay làm lợi số vốn được trao phó. Không những số tiền trao cho họ khiến nảy sinh ư thức trách nhiệm, nhưng tức th́ gây nên ư muốn hành động. Hơn nữa họ không sợ phiền hà. Người tôi tớ thứ nhất và thứ hai ra đi và làm số vốn lợi gấp đôi. Việc phục vụ Thiên Chúa đ̣i hỏi người ta không được an thân trong sự bảo đảm của cái đă có. Không có ǵ là thực sự nắm chắc. Người ta chỉ duy tŕ được cái đang có bằng cách gia tăng nó lên. Cuộc sống siêu nhiên ở tron thế động. Không ngơi nghỉ, không khép ḿnh ở một mức tưởng đă đạt tới. V́ là một cuộc sống, nó đ̣i hỏi phải tăng trưởng mà không mất đi những ǵ nuôi dưỡng nó. Nhanh nhẹn là ở chỗ không mất th́ giờ trong những điều khởi sự và không thối chí cố gắng liên tục.

 

2) Chúa nhấn mạnh về nguy hiểm của sự lười biếng tinh thần. Nó bị kết án thực sự: Người tôi tớ lười biếng không làm mất nén bạc được trao phó, anh ta trả lại cho ông chủ nhưng anh ta phạm lỗi lười biếng không chịu hoạt động. Có một thái độ lười biếng tinh thần cứ nghĩ Thiên Chúa không khó tính và chúng ta ra sao Người sẽ chấp nhận như vậy, miễn là chúng ta làm cho Người một vài điều tối thiểu. Như thế là xét sai vấn đề. Thiên Chúa để cho chúng ta chịu trách nhiệm về những ǵ cuộc sống chúng ta đă làm hay không làm được. Không tiến bộ trong đức tin- đức mến, trong hoạt động (nếu ơn gọi chúng ta hoạt động) bị xét xử như một tội bất trung. Điều chính không phải làm ra được nhiều. Thiên Chúa ban cho mỗi người tùy theo khả năng khác nhau, Ngài cũng chờ đợi những thành quả khác nhau. Người đă nhận nhiều, sẽ phải trả nhiều hơn kẻ nhận ít. Nhưng cả hai phải tích cực phát triển những ân huệ Chúa đă giao phó.

 

Một câu hỏi cuối. Tại sao Thiên Chúa là Đấng có t́nh thương cứu độ vô biên và nhưng không lại đ̣i hỏi con người đáp ứng tích cực? V́ Ngài không muốn cứu con người mà không có phần đóng góp của con người. Ngài đă tạo con người có tự do, Ngài muốn con người có trách nhiệm. Đó chẳng phải là yêu sách tiên quyết của một tương quan yêu thương sao?

 

 

 5. Hăy làm những ǵ Chúa muốn

 

Chỉ c̣n vài giây trong một trận bóng đá, trọng tài đă chạy theo banh vào giữa vùng sân nơi có đội banh cuối cùng sẽ bị loại, họ đă đá một trận ra tṛ để tới gôn bên kia. Người tiền vệ đă thay đổi lối chơi đá một quả vào vùng cuối sân nhưng bóng bị chận lại, họ đă mất một cơ hội để chiến thắng. Một vị giáo sư trong lớp lịch sử đă buộc học sinh phải làm một bài với một trang giấy không quá năm ngàn từ. Một sinh viên đă quyết định viết một ngàn từ thế là mất điểm và anh ta bị điểm kém.

 

Điều tốt hơn là làm những ǵ đúng hơn là làm những ǵ chúng ta muốn. Từ bài Phúc âm ngày hôm nay chúng ta có thể học được rằng, sẽ muốn làm những ǵ là công chính trong mắt của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không muốn làm những điều lớn lao v́ Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ muốn làm bất cứ điều ǵ mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm. Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta sẽ trở thành một người lớn lao trong Giáo hội, được phong thánh trong một thời gian ngắn, sau khi chúng ta chết, được tôn kính bởi toàn thể những người công giáo trên khắp thế giới, đó là giống như người mà Phúc Âm nói đến, người đă được trao cho năm nén bạc.

 

Mặt khác, có lẽ đời sống chúng ta không có ǵ đặc biệt. Đó là những dáng vẻ xuất hiện bên ngoài, chúng ta cũng nhỏ bé chẳng khác ǵ dân chúng sống chung quanh chúng ta, chúng ta làm việc với những người khác, chúng ta cũng xếp hàng tại các siêu thị. Điều quan trọng là chúng ta đă cố gắng sống theo ư muốn của Thiên Chúa, để tôn kính và hoàn tất ơn gọi của chúng ta trong từng chi tiết của đời sống, muốn trung thành sốt sắng trong tôn giáo của ḿnh. Chúng ta giống như những người trong Phúc âm đă được trao cho không phải là năm nén, nhưng chỉ là hai nén.

 

Một người phụ nữ mà đời sống của bà không có ǵ đặc biệt, bà giống như nhân vật trong bài đọc I của ngày hôm nay, một người vợ giá trị sẽ không bao giờ được xuất hiện trên TV trong sô diễn “60 phút”. Người đàn ông có thể là một người chồng trung thành, tin tưởng trao phó trái tim của anh cho vợ ḿnh, nhưng sẽ không bao giờ xuất hiện trong tạp chí “Dân chúng”. Có phải điều đó sẽ không thành vấn đề, bao lâu những người này biết họ được Thiên Chúa yêu mến và thân mật với họ? Theo Phúc âm, Thiên Chúa hài ḷng với người tôi tớ có hai nén, v́ anh ta đă là lợi được hai nén khác giống như người có năm nén đă làm lợi năm nén khác.

 

Điểm sai lạc là sống giống như một người trong Phúc âm, người nhận được một nén và đă chôn nó vào đất. Anh ta biện minh rằng anh ta sợ chủ của ḿnh. Sợ hăi đă ngăn chặn anh ta làm bất cứ điều ǵ, hoặc không làm bất cứ điều ǵ, mặc dù anh ta là một người khó khăn. Chúng ta có thể phỏng đoán ông chủ là một người khoan dung cho những người thất bại, nhưng ông không thể nào kiên nhẫn với sự kiện là người tôi tớ không nỗ lực làm việc.

 

Người chủ hiển nhiên là không cần những nén bạc. Cuối cùng ông cũng cho họ, những người làm lợi năm nén hay người làm lợi hai nén. Sự thật là Thiên Chúa không cần chúng ta. Ngài có thể thực hiện ư muốn của Ngài trong tích tắc, nếu Ngài muốn điều ấy. V́ Thiên Chúa chọn và muốn cho chúng ta ân sủng của Ngài. Chúng ta phải hiểu rằng mọi thứ là ân sủng đến từ Thiên Chúa: đời sống của chúng ta, gia đ́nh, đức tin, tài năng, ngay cả những khao khát và yêu mến phục vụ Thiên Chúa của chúng ta nữa. Mọi sự là đặc ân, nhưng chúng là một đặc ân được nh́n theo ư muốn của Thiên Chúa, v́ vinh quang của Ngài, v́ sự lợi ích cho dân của Người.

 

Thật sự trong một ư nghĩa chúng ta được gọi để làm một điều lớn lao cho Thiên Chúa bởi v́ bất cứ khi nào chúng ta làm bất cứ điều ǵ theo ư muốn của Thiên Chúa th́ không có vấn đề nào là nhỏ hoặc là tầm thường, nếu nó xuất hiện trước mặt con người là như thế, nhưng thật ra đó là một điều rất lớn lao.

 

 

6. Nén bạc

 

Ngày xưa, triết gia Platô (427–347 BC, trước công nguyên) người Hy Lạp đă đưa ra một thí dụ điển h́nh giúp chúng ta kiến tạo những điều ưu tiên trong cuộc đời. Hăy tưởng tượng cuộc đời như một h́nh tam giác lớn; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh đáy của h́nh tam giác. Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên. Khi chúng ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của h́nh tam giác càng thu hẹp nhỏ lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của h́nh tam giác. Chúng ta sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy những điều coi như quan trọng hơn ở trên. Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh của h́nh tam giác, chỉ c̣n một chỗ duy nhất mà thôi. Kết quả là, chúng ta sẽ tự hỏi chính ḿnh, “Cái ǵ quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi sự?” Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ư muốn của Thiên Chúa, là đầu tư cuộc đời để thi hành thánh ư Thiên Chúa.

 

Qua dụ ngôn những nén bạc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đă tin tưởng trao ban cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát triển trở nên phong phú bằng cách sẵn ḷng đầu tư khả năng của ḿnh vào chương tŕnh và mục đích của Ngài.

 

Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy sinh cho chương tŕnh của Ngài. Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống của chúng ta.

 

Một vị vua kia có ba người con trai, mỗi người với những tài năng riêng của ḿnh. Người thứ nhất có tài trồng cây ăn trái. Người thứ hai chăn nuôi cừu. Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất hay. Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dài. Trước khi ra đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân chúng hài ḷng trong lúc vua vắng mặt.

 

Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp. Nhưng rồi mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có. Không c̣n đủ củi cho dân chúng sưởi. Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không? Khi nh́n thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép họ làm.

 

Người con thứ hai cũng đă phải đối diện với một quyết định khó khăn. Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa đông. Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quư của ḿnh làm lương thực không? Khi nh́n thấy trẻ con than khóc v́ đói, anh đau ḷng và để cho họ giết đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông.

 

Dân chúng đă có củi để sưởi và thịt cừu để ăn trên bàn. Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dài. Tinh thần của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên được. Dân chúng t́m kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ chối không muốn chơi đàn cho họ nghe. Cuối cùng t́nh thế trở nên tuyệt vọng, nhiều người đă bỏ xứ, dọn đi nơi khác.

 

Đến một ngày, nhà vua trở về nước. Ông vô cùng buồn bă v́ thấy rằng nhiều người đă bỏ nước ra đi. Ông gọi ba người con lại để tường tŕnh xem chuyện ǵ đă xẩy ra. Người con thứ nhất nói, “Thưa cha, con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đă quá lạnh và con đă cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi”. Người con thứ hai nói “Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con v́ khi lương thực khan hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con”.

 

Nghe vậy, nhà vua thay v́ giận dữ, đă ôm lấy hai người con, hănh diện và hài ḷng về họ. Rồi người con thứ ba tiến đến với cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, “Thưa cha, con đă không thể nào chơi đàn nổi v́ cha đă không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó, hơn nữa dân chúng cũng đang chịu khổ v́ đói lạnh, làm sao vui được!”

 

Bấy giờ người cha mới nói rằng “Hỡi con, hăy kéo đàn cho cha nghe v́ bây giờ ḷng cha buồn rầu tan nát”. Người con cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những ngón tay của ḿnh đă trở nên cứng nhắc v́ bỏ lâu không thực tập. Dù cố gắng hết sức, anh cũng không thể nào nhúc nhích được những ngón tay. Sau đó người cha nói, “Con đă có thể làm cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của con, nhưng con đă từ chối không làm. Nếu xứ sở này đă mất đi một nửa số dân, đó là lỗi tại con. Nhưng bây giờ chính con cũng không c̣n có thể chơi đàn được nữa. Đó chính là h́nh phạt cho con vậy”.

Để sống một cách phong phú hơn chúng ta phải biết sử dụng tài năng đă đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén bạc, ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc. Một nén bạc tương đương với 15 năm lương của một người lao động suốt ảc ngày. Trong Anh ngữ nén bạc được dịch là “talent”, lại c̣n có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong các sinh hoạt sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú… Tài năng tự nhiên có thể được hiểu rộng răi hơn gồm những ơn lành chúng ta đă đón nhận từ Thiên Chúa, đặc biệt là đức tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn… Những tài năng này đă được ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi, nhưng phải được đầu tư để làm cho chúng sinh hoa kết quả.

 

 

7. Nén bạc

 

Báo Văn Học số 196 tháng 8 năm 2002, trong mục Tin Văn của Thế Quân, ca ngợi ông Gene Smith 65 tuổi, “Một người mê sách: kẻ cứu tinh của một nền văn học”. Nhờ mê sách mà ông cứu vớt nền văn học của Tây Tạng. Kư giả Barbara Stewart của báo New York Times đă gọi ông già Smith là người cứu tinh của nền văn học Tây Tạng. Ông Smith đang sở hữu một kho tàng văn chương Tây Tạng mà ông sưu tập được từ 37 năm nay. Theo ước tính, ông hiện có khoảng 12 ngàn tác phẩm văn chương Phật giáo và văn chương chịu ảnh hưởng Phật giáo của Tây Tạng. Những học giả Mỹ đánh giá công tŕnh sưu tập văn chương của ông là công tŕnh to lớn nhất ở phương Tây và có thể lớn nhất thế giới.

Thế nhưng sự nghiệp này đă được bắt đầu rất đơn giản. Lư do đưa ông đến việc nghiên cứu văn chương Tây Tạng là hồi chiến tranh Việt Nam xảy ra, ông xoay sở để được hoăn dịch bằng cách học một trong những ngôn ngữ khó học là tiếng Tây Tạng. Sau đó, ông đă học triết lư và quan điểm về thế giới của Phật giáo Tây Tạng với lạt ma Deshung. Lạt ma Deshung là một người mê sách. Và nỗi đam mê ấy truyền sang Smith khiến ông trở thành một người mê sách luôn. Sau 5 năm học tiếng Tây Tạng, ông du hành qua Aán Độ để sưu tầm sách.

 

Mặc dù văn chương Tây Tạng đă có lịch sử cả 1000 năm với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm văn chương, nhưng vẫn là một nền văn minh ẩn giấu, không mấy ai biết đến nền văn minh này. Trên thế giới không đâu có tác phẩm của Tây Tạng kể cả những thư viện lớn nhất thế giới. Lư do là v́ người Tây Tạng không biết in sách. Sách được hoàn thành bằng cách chép tay hoặc khắc trên những bản gỗ, và lưu giữ trong các tu viện hoặc nhà riêng. Đă thế mỗi một trong 4 tông phái Phật giáo Tây Tạng lại có một nền văn chương riêng biệt. Chẳng ai phân loại hay có một danh sách đầy đủ. Sau khi Trung Quốc xâm lăng, sách bị phân tán khắp nơi, cuốn c̣n, cuốn mất. Hơn nữa sách được mang ra ngoại quốc thường do những người tỵ nạn Tây Tạng vượt ngọn núi Hy Mă Lạp Sơn mang sang Aán Độ. T́m hỏi cho ra người mang sách đă là việc khó, lại c̣n phải biết sách nào quan trọng trong các tông phái chính đ̣i hỏi phải có kiến thức và sự nghiên cứu kỹ lưỡng.

 

Để khắc phục những khó khăn trên, ông Smith phải dốc toàn tâm lực làm việc liên tục, tra cứu, tham khảo với các vị lạt ma, gửi các chuyên viên đến các nơi xa xăm ở Aán Độ cũng như Nepal để săn lùng sách. Trong quá tŕnh làm việc như thế kiến thức của ông Smith trở nên phong phú phi thường. Ông trở thành giám đốc lưu động của văn pḥng thư viện đặt tại New Delhi, Indonesia và Cairo. Hiện nay ông đang dự định chuyển chỗ ở về New York với cơ quan văn hoá “Rubin Cultural Trust” hứa sẽ cung cấp đủ chỗ để chứa thêm một số sách hiện đang tồn trữ và hàng trăm cuốn sách mới khác vừa được t́m thấy gần đây mà người ta tưởng rằng đă bị phá hủy. Nói rằng Gene Smith là người cứu tinh của cả một nền văn học, quả không có ǵ quá đáng!

 

Sự tiêu cực và bi quan đă bóp méo h́nh ảnh của Thiên Chúa trở nên một ông chủ hung ác. Đây là thái độ của người đầy tớ thứ ba.

 

Một người cha sắp sửa lên đường đi làm ăn xa, trao cho hai người con tiền bạc để xây cho ông hai căn nhà. Người con đầu tiên đă dùng tất cả số tiền được trao phó xây cho cha một ngôi nhà tuyệt đẹp, sang trọng. C̣n người con thứ hai nh́n thấy đây là một cơ hội để kiếm tiền riêng cho ḿnh, hắn dùng những vật liệu xây cất rẻ tiền, và xây cho cha một ngôi nhà rất tầm thường. Khi người cha trở về, để làm quà thưởng cho các con, ông nói “Để trả công cho các con, cha cho mỗi con chính căn nhà mà các con đă xây cho cha, hăy đưa gia đ́nh các con vào ở trong căn nhà đó”.

 

Sự ích kỷ và lười biếng của người đầy tớ thứ ba đă làm cho anh có cái nh́n tiêu cực và bi quan về thiện ư của chủ rồi dẫn tới hành động chôn giấu nén bạc dưới đất.

 

Thiên Chúa chúng ta tờ phượng là một Thiên Chúa của sự sống, đầy yêu thương. Nói đến sự sống là nói đến sự sinh trưởng, phát sinh hoa trái. V́ chính Ngài là Đấng Tạo Hoá đă dựng nên vũ trụ và phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái tuỳ theo loại:, Ngài cũng phán ngay với con người rằng: “Hăy sinh sôi nẩy nở…” Do đó không tăng trưởng là dấu hiệu của sự hủy diệt, sự chết. Không phát sinh hoa trái là đi ngược lại thánh ư của Thiên Chúa và gây tai hại cho chính bản thân ḿnh.

 

Chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay, William Barclay đă viết: “Thiên Chúa không muốn những con người phi thường làm những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con người b́nh thường làm những việc b́nh thường một cách phi thường”.

 

Chúa Giêsu sẽ trở lại để hỏi chúng ta về những nén bạc, tài năng, ơn lành đă được Thiên Chúa trao ban. Chúng ta sẽ bị xếp vào loại người đầy tớ nào?

 

 

8. Nhận nhiều th́ bị đ̣i hỏi nhiều – JKN

 

Câu hỏi gợi ư:

1. Trên đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất nhiều nghịch cảnh. Vậy Ngài có phải là một Thiên Chúa bất công không? Nếu không bất công th́ phải giải thích sự bất b́nh đẳng này ra sao?

 

2. Người được nhiều thuận lợi có trách nhiệm ǵ về những thuận lợi của ḿnh không? Trách nhiệm thế nào?

 

3. Thiên Chúa phán xét con người dựa trên những thành quả, mức độ hoàn hảo mà con người đạt được, hay dựa trên mức độ nỗ lực mà con người đă làm để trở nên hoàn hảo hơn?

Suy tư gợi ư:

1. Trên đời, sự phân phối những điều tốt đẹp không đồng đều

Không ai có thể chối căi điều này: trên đời, người ta khác nhau về đủ mọi phương diện: tính t́nh, khuynh hướng, khả năng, quan niệm, tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, v.v... Đúng như cổ nhân nói: «Bá nhân bá tánh»>, «chín người mười ư»... Và ngay trong từng phương diện, người ta cũng khác nhau về mức độ, chẳng ai tuyệt đối bằng ai, y hệt như: «Bàn tay ngón thấp ngón cao». Điều đó tạo nên sự phong phú đa dạng trong thế giới con người. Trong những lănh vực khác của thiên nhiên vạn vật cũng có sự đa dạng y như thế. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa bất công? Phải chăng những người có tài đức hơn người, có nhiều điều kiện phát triển hơn người, giàu có hơn người… th́ được lợi hơn những người khác?

 

2. Ai nhận được nhiều th́ bị đ̣i hỏi nhiều

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Thiên Chúa cho ai nhiều, th́ Ngài đ̣i hỏi người ấy nhiều. Ngược lại Ngài cho ai ít, th́ lại đ̣i hỏi người ấy ít. Đức Giê-su đă từng nói: «Hễ ai đă được cho nhiều th́ sẽ bị đ̣i nhiều, và ai được giao phó nhiều th́ sẽ bị đ̣i hỏi nhiều hơn» (Lc 12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều ân huệ mà không làm những ân huệ sinh lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha nhân, th́ ân huệ ấy trở thành án phạt cho ḿnh. Cho nên ân huệ nhiều th́ trách nhiệm cũng nhiều. Vậy ai nhận được nhiều th́ cũng nên lo lắng về trách nhiệm của ḿnh. C̣n ai được ít th́ cũng nên tự an ủi v́ trách nhiệm của ḿnh ít. Như vậy kẻ được nhiều không hẳn đă hay, và kẻ được ít không hẳn đă dở. Mới nghĩ th́ thấy Thiên Chúa không công bằng, nhưng nghĩ cho kỹ th́ thấy Ngài tuy chủ trương đa dạng nhưng lại rất công bằng.

 

Những ân huệ ta nhận được cũng như món tiền ta vay của ngân hàng, phải trả tiền lời theo định kỳ, mỗi tháng hoặc mỗi năm. Do đó, vay càng nhiều tiền th́ càng phải sinh lợi ra nhiều để có thể trả số lời tương ứng với số tiền ḿnh vay. Giả như lăi suất là 10% một năm (tức 0,83% một tháng), th́ trong 10 năm, tiền lời sẽ lên cao bằng tiền vay ban đầu. Nếu vay trong 20 năm, tiền lời thành gấp đôi tiền vay ban đầu. Nếu vay nhiều mà không đủ khả năng sinh lợi ra nhiều, th́ sẽ không có tiền để trả lăi, và vay càng lâu th́ tiền lời càng cao, nếu không sinh lợi th́ càng nguy hiểm. V́ tới kỳ hạn cuối cùng, phải thanh toán cả vốn lẫn lời, nếu không có khả năng trả hết th́ có nguy hiểm phải ngồi tù. Do đó, nếu không có khả năng làm ăn sinh lợi, th́ vay được nhiều không phải là điều tốt đẹp mà trái lại có thể là nguyên nhân gây ra tai họa. Vay càng nhiều, họa càng lớn. Tương tự, được Thiên Chúa ban nhiều thuận lợi chớ vội mừng hay tự hào, v́ nếu không làm cho chúng sinh lợi th́ rất có thể những thuận lợi ấy lại trở thành tai họa.

 

3. Hăy ư thức trách nhiệm về những thuận lợi ḿnh đang hưởng

Vậy chúng ta hăy tự xét xem chúng ta được Thiên Chúa ban cho những thuận lợi nào: khỏe mạnh, thông minh, được giáo dục tử tế, có văn hóa, nhà giàu có, nhiều tài năng, v.v... Chúng ta thường hănh diện, tự hào với mọi người về những thuận lợi đó, mà rất ít khi nghĩ đến trách nhiệm v́ được những thuận lợi hơn người đó. Thiết tưởng, khi được những thuận lợi hơn người, người Ki-tô hữu phải nghĩ đến trách nhiệm hơn là tự hào về chúng.

 

Những thuận lợi đó phải được đem ra làm ích lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, và cho tha nhân. Nếu thuận lợi ta được quá nhiều, mà ích lợi ta làm ra được từ những thuận lợi đó lại quá ít, ắt nhiên ta không thể tránh được h́nh phạt của Thiên Chúa. Được quá nhiều thuận lợi mà không sinh lợi cho ai, điều ấy chứng tỏ ta không có t́nh yêu, và như thế là ta không có Thiên Chúa trong chúng ta: «Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em ḿnh lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động ḷng thương, th́ làm sao t́nh yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được» (1Ga 3,17). Thật vậy, nếu về mặt vật chất mà Thiên Chúa c̣n đ̣i buộc chúng ta «ai có hai áo, hăy chia cho người không có; ai có ǵ ăn, cũng hăy làm như vậy» (Lc 3,11), th́ về mặt tinh thần, Ngài c̣n đ̣i hỏi chúng ta phải chia sẻ hơn vậy rất nhiều. V́ sự chia sẻ vật chất th́ rất giới hạn, c̣n chia sẻ tinh thần th́ ít bị giới hạn hơn rất nhiều.

 

4. Đừng vội tự hào hay kiêu hănh về những thuận lợi của ḿnh

Vậy khi xét xử, Thiên Chúa không xét theo mức độ đạo đức, những thành quả tâm linh mà chúng ta đang có hay đă đạt được, mà xét theo mức độ cố gắng của chúng ta để nên hoàn thiện hơn. Nếu Thiên Chúa ban cho ta 5 yến bạc, mà ta chẳng làm lợi ra được yến nào, nghĩa là ta không phát huy được những thuận lợi của ta, không dùng những thuận lợi ấy để làm ích cho ai, th́ ta sẽ không được Ngài kể là công chính bằng một người chỉ được Ngài ban một yến, nhưng đă làm lợi ra được gấp 3, thành 3 yến. Tuy người ấy chỉ có 3 yến, nghĩa là kém ta tới 2 yến, nhưng người ấy được Thiên Chúa coi là công chính hơn ta rất nhiều. Có như thế, Ngài mới là một Thiên Chúa công bằng thật sự.

 

V́ thế, đừng tưởng ta đạo đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người mà nghĩ rằng ta công chính hơn người. Coi chừng kẻo lầm to: «ai tưởng ḿnh đang đứng vững, hăy coi chừng kẻo ngă» (1Cr 10,12). V́ không thể so sánh thấy kết quả của ḿnh hơn người khác mà kết luận ḿnh công chính hơn họ. Phải so sánh những thành quả ḿnh làm được với những thuận lợi ban đầu Thiên Chúa ban cho, xem đă tương xứng chưa: «Mỗi người hăy xem xét việc làm của chính ḿnh (...) chứ đừng so sánh với người khác» (Gl 6,4).

 

Đi vào cụ thể, ta thử so sánh hai người sau đây: Một người sinh ra từ một cha mẹ trộm cướp hay đĩ điếm, không được giáo dục đầy đủ, nhưng anh đă cố gắng hết sức ḿnh ra vượt ra khỏi ṿng tội lỗi do cha mẹ ḿnh để lại. Anh nỗ lực vươn lên sự thiện suốt cả cuộc đời, và anh đă trở thành một người khá lương thiện. C̣n người kia được sinh ra từ một cha mẹ đức hạnh, được giáo dục đầy đủ, v́ thế, dù anh chẳng cố gắng hay nỗ lực nhiều, anh vẫn được mọi người coi là rất tốt, và nhờ đó có một địa vị khá cao trong xă hội hay Giáo Hội. Như vậy, trước mặt người đời, người thứ hai chắc chắn được đánh giá là công chính hơn người thứ nhất. Nhưng rất có thể trước mặt Thiên Chúa, Ngài thấy nỗ lực vươn lên của người thứ nhất lớn hơn gấp nhiều lần nỗ lực của người thứ hai. Như thế chắc chắn phần thưởng Thiên Chúa dành cho người thứ nhất sẽ phải lớn hơn phần thưởng cho người thứ hai.

 

Quả thật cách phán xét của Thiên Chúa khác hẳn với cách phán đoán của người đời. Ngài đă từng nói với các các thượng tế và kỳ mục trong dân, là những người được dân chúng tôn trọng và cho là đạo đức: «Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31). Tại sao? Có thể v́ những người tội lỗi ấy đă cố gắng vươn lên sự thiện nhiều hơn cả những bậc được coi là đạo đức kia! Nên khi Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su đến, những người bị coi là tội lỗi ấy đă sám hối và tin theo ngay!

 

Cầu nguyện

Lạy Cha, nhiều khi con vui mừng v́ được Cha ban cho rất nhiều thuận lợi trong đời sống. Và con đă hănh diện và tự hào với những người kém may mắn hơn con. Qua bài Tin Mừng này, con thấy ḿnh thật dại dột, v́ nếu con không dùng những thuận lợi ấy để bù đắp lại cho những người kém may mắn hơn con, th́ vào ngày Cha phán xét, chính những thuận lợi ấy lại trở thành những ǵ gây bất lợi cho con. Xin cho con ư thức được trách nhiệm của con đối với họ.

 

 

9. Hăy dùng thời gian để yêu thương – Lm Ng. hữu An

 

Thiên Chúa là Alpha và Omega, Ngài là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ư nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian v́ ngàn năm đối với Chúa như một ngày.

 

Chỉ c̣n 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giê-su trong ngày quang lâm. Lịch sử nhân loại đă mở đầu bằng sáng tạo th́ sẽ kết thúc bằng tái tạo.

 

Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngă, Thiên Chúa đă muốn cứu chuộc loài. Ngài đă can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một Lịch Sử Cứu Rỗi.

 

Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính. Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi, Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối dài và phân phát ơn cứu rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Ki-tô lịch sử sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.

 

Đức Giê-su là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi, nơi Ngài, Ơn Cứu Rỗi không c̣n là lời hứa mà đă trở thành hiện thực. Đức Giê-su c̣n là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, v́ tất cả lịch sử quy hướng về Ngài. Ngài là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Ngài loài người đạt tới sự sống viên măn.

 

Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.

 

Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xă hội, các biến cố chính trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.

 

Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt ch́m mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng ta nhận ra có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm thấm nhập lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ư nghĩa. Từ đỉnh cao của vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung cuộc.

 

Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giê-su trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.

 

Ngày Đức Giê-su trở lại, ngày quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48), Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Ki-tô (Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17). Chính Đức Giê-su đă nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26, 64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39-40).

 

Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ đến, kể cả Đức Giê-su về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ "như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1-3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33-37; Lc 17, 22-37; 21, 35)

 

Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giê-su tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Sẽ có một cuộc phán xét chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu ám chỉ ngày phán xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới (Mt 15, 39-49), chủ đ̣i gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Ngài hết thảy. Tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo... đều được triệu tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các ṭa án trần gian: tố cáo, biện minh, đối chiếu, bằng chứng... Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rơ những giá trị các hành vi của ḿnh, cách ḿnh đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.

 

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Gio-an c̣n định nghĩa Thiên Chúa là t́nh yêu (1 Ga 4, 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là t́nh yêu. Như thế thời gian và t́nh yêu song hành là một.

 

Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có t́nh yêu sẽ trở thành lạnh lùng buồn tẻ. T́nh yêu ư nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nh́n thời gian như vàng ngọc. Ai sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.

 

Các bài đọc Chúa Nhật 33 Thường Niên kêu mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động. Sách Châm Ngôn mô tả người đàn bà lư tưởng. Bà ăn ở được ḷng chồng con, xây dựng gia đ́nh bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ. Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca đă đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hăi đến độ không muốn làm ǵ cả. Thánh nhân đă cảnh tỉnh: Hăy làm việc, đừng ngũ mê. Hăy biết trân trọng thời gian Chúa ban. Với bài phúc âm, Chúa Giê-su nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống th́ đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".

Thiên Chúa ban tài năng th́ chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho ḿnh và cho người khác. Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; c̣n người tôi tớ chăm chỉ làm việc, sinh lợi các nén bạc th́ được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét xử đó là t́nh yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là t́nh yêu chúng ta thực thi đối với anh chị em ḿnh.

 

Thiên Chúa là thời gian và cũng là t́nh yêu. Chúng ta quư trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong t́nh yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Thời gian quư giá như vàng ngọc. Bởi vậy:

Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh

Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan

Dùng thời gian để t́m hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác

 

Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn

 

Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những ǵ thuộc về tương lai

 

Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa

 

Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa

 

Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.

 

Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời Gian, là Vua của T́nh Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ trong t́nh yêu.

 

 

10. Nhu cầu

 

Trước hết, tài năng cần được phát hiện và thừa nhận. Người ta nói rằng nơi sinh thực sự của chúng ta là nơi mà, chúng ta được đánh thức những năng khiếu và tài năng của ḿnh. Thông thường, cần có một người bên ngoài nhận ra tài năng của chúng ta.

 

Tương tự như mặt trời làm trổ sinh những bông hoa thơm ngát c̣n đang nằm ẩn bên dưới ḷng đất ở những cánh đồng, cũng vậy, có những người t́m kiếm cách hoàn thành nhiệm vụ, bằng cách giúp cho những tài năng nơi người khác được bộc lộ ra. Có lẽ đây là những người có tài năng nhất.

 

Dostoevsky, một văn sĩ người Nga, đă viết tác phẩm Người Khốn Khổ, năm ông chỉ mới lên 20 tuổi. Belinsky là một nhà phê b́nh lỗi lạc nhất thời nay. Khi Belinsky đọc bản thảo của cậu thanh niên Dostoevsky, ông nói “Cậu đă làm cho chúng tôi chú ư đến một sự thật khủng khiếp. Cậu có một tài năng vĩ đại. Hăy chăm sóc cẩn thận tài năng này, rồi cậu sẽ trở thành một nhà văn lớn”.

 

Dostoevsky đă say sưa với những lời nhận định của nhà phê b́nh nổi tiếng này. Nhiều năm sau, ông viết “Đó là một giây phút hạnh phúc nhất trong suốt cuộc đời của tôi”.

 

Tại sao giây phút đó lại quan trọng đối với Dostoevsky đến thế? Bởi v́ Belinsky đă thực sự làm chỗi dậy tài năng viết văn của ông. Ông vẫn c̣n đang chưa chắc chắn ǵ về bản thân ḿnh, và do đó, rất dễ bị tổn thương. Sự phát hiện của Belinsky đă xác nhận được nơi ông niềm tin tưởng về tài năng của ḿnh. Hơn thế nữa, điều này đă thúc đẩy ông tiến tới trên đường đời. Thông qua các tác phẩm của ông, ông đă sử dụng cả cuộc đời để diễn tả về bản thân ḿnh.

 

Một trong những nhu cầu lớn nhất của chúng ta là tự diễn tả về bản thân ḿnh. Chúng ta không thể nào thể hiện hoặc phát huy hết năng lực bản thân, trừ phi chúng ta tự diễn tả về ḿnh. Sự tự diễn tả cần thiết đối với chúng ta, tựa như hoa lá cần thiết cho một thân cây. Thi sĩ và nghệ sĩ Kahil Gibran  đă nói về điều đó như sau: “Trong hầu hết mọi người, đều có một nỗi cô đơn lớn lao – một niềm khát vọng được tự diễn tả về bản thân”. Và họa sĩ Van Gogh nói “Giữa điều mà tôi nhận thức và điều mà tôi diễn tả, có một bức tường ngăn cách; tôi đă trải qua cả cuộc đời ḿnh để t́m cách phá bức tường đó”.

 

Diễn tả về bản thân là một cách thức sống trọn vẹn con người của ḿnh, và từ đó, trở nên thánh thiện. Liệu có bao nhiêu người trong chúng ta có thể nói rằng ḿnh đă phát triển đầy đủ các tiềm năng của ḿnh, với tư cách là những con người? Tất nhiên là người ta có thể tự diễn tả về bản thân bằng nhiều cách thức. Tuy nhiên, người ta lại có thể bộc lộ ra rất nhiều tài năng của ḿnh. Khi điều này xảy ra, chính sở hữu chủ của tài năng là người bị mất mát nhiều nhất. Một số người cứ sống trôi nổi cả cuộc đời ḿnh, rồi đă chết đi, mà vẫn không thể hiện ra, dù chỉ một đôi chút tiềm năng của họ.

 

Sự diễn tả trái ngược hẳn với sự ngăn chặn. Ngăn chặn là kiềm chế, đè nén, giấu giếm, ức chế. Sự ngăn chặn không tránh khỏi t́nh trạng phát sinh ra sự trầm cảm. Diễn tả là nói rơ ràng ra,  là bộc lộ, thể hiện ḿnh… Sự diễn tả có thể lôi kéo theo nỗi đau, nhưng cuối cùng, lại đưa đến niềm vui.

 

Chính bằng lối sống đó, mà chúng ta phát hiện ra những tài năng của ḿnh, và chính bằng cách sử dụng chúng, mà chúng được phát triển. Mỗi tài năng cần phải được phát triển. Nếu một tài năng cần phải mang lại hiệu quả đầy đủ của nó, th́ người ta phải biết chịu khó làm việc, sống kỷ luật và kiên nhẫn. Chúng ta nhận thấy điều này ở người đầy tớ thứ ba trong dụ ngôn của Đức Giêsu.

 

Trong trường hợp người đày tớ thứ ba, chúng ta nhận thấy có sự trái ngược. Không phải do tính khắt khe của ông chủ, đă ngăn cản anh ta không sử dụng được những nén bạc của ḿnh – đó chỉ là lư do biện hộ. Anh ta cũng không thiếu cơ hội. Bản thân anh ta đáng bị khiển trách, do tính lười biếng, hèn nhát và ích kỷ.

Cuộc sống là quà tặng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Chúng ta làm được ǵ cho cuộc đời, đó chính là quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa.