Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG
NIÊN - A
Lời Chúa: Ed. 34,
11-12.15-17; 1Cr. 15, 20-26.28; Mt. 25, 31-46
MỤC LỤC
1.
Vua vĩnh cữu.
2. Phán xét
3. Chúa sẽ luận xét chúng ta về điểm nào?.
7
4.
Chúng
ta là một phần của phong trào lớn lao.
10
5.
Vương
quốc t́nh yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
13
6.
Cuộc
sống của chúng ta tuỳ thuộc vào
Mt
25,40.
7. Lễ
Chúa Kitô Vua............................................................ 17
8. Lễ
Chúa Kitô Vua............................................................ 19
9. Lễ
Chúa Kitô Vua............................................................ 22
10.
Phán xét cùng tận.........................................................
29
11. Lễ
Chúa Kitô Vua – Noel Quesson............................ 33
12.
Chúa Giêsu là vua........................................................ 40
13.
T́nh yêu.........................................................................
42
14.
T́nh thương...................................................................
44
15.
T́nh thương...................................................................
46
16.
Làm sao tự định giá...................................................... 50
17. Lễ
Chúa Kitô Vua......................................................... 53
18. V́
xưa Ta đói.................................................................
56
19. Suy niệm của
59
1. Vua vĩnh cửu
Đức Kitô là Con Thiên
Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. V́ thế, Ngài không phải
chỉ là vua vũ trụ, mà c̣n là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.
Thực vậy, trời và đất
đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng
nên v́ Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh
cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi v́ quyền hành
của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian
ngắn ngủi nào đó mà thôi.
Người ta kể lại hoàng đế
Alexandre đă khóc khi nh́n lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn
phiền, chỉ vỉ đă không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm
cứ các lănh thổ và mở rộng bờ cơi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như
một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đă bị chém đầu chỉ v́ không chấp
nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi v́
ông đă chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.
Hoàng đế Napoléon với
những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận
bẽ bàng của cái chết.
Tất cả chúng ta đều là
con cái của thời gian. Có sáng chói. Th́ cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau
đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị ch́m vào đêm tối của quên lăng. Chỉ ḿnh Đức Kitô
mới cai trị đời đời. Chỉ ḿnh Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và
Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đă có trước thời gian và sẽ c̣n tồn tại
không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài
trải dài đến vô cùng.
Chateaubriand, một thi
sĩ nổi tiếng người Pháp, đă kêu lên:
-
Ôi lạy
Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có ḿnh
Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai ṭa
của Ngài.
Vậy chúng ta phải làm ǵ
để tung hô vương quyền của Chúa? Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng
cách qú gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi v́ đó
là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đă viết:
-
Con Chiên
bị sát tế xứng đáng lănh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và
chiếng thắng.
Chúng ta cũng có thể
chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và
yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho
cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội
bị hoen ố. V́ thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hăy thực
sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày
thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xă hội.
Chúng ta c̣n có thể chúc
tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là
bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa
đủ, chúng ta c̣n phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời
Ngài đă nói:
-
Ai xưng
tụng Ta trước mặt người đời, th́ Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở
trên trời.
Khi một vị tướng đi
duyệt đoàn quân của ḿnh, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng
và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi
quân cách…
Trong ngày sau hết, Vua
Kitô cũng sẽ đến. Ngài nh́n xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài:
già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng
ta về ḷng trung thành, về t́nh yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.
V́ thế, hăy tuân giữ
những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu
thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón
nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.
2. Phán xét
Vào ngày cuối cùng Chúa
Giêsu sẽ hiện đến, uy quyền như một vị vua để phán xét tất cả chúng ta. Thế
nhưng, đâu là nội dung của cuộc xét xử ấy?
Nội dung của cuộc xét xử
ấy thật là bất ngờ. Ngài không xét hỏi về những việc mà người ta có thể đang
chờ đợi, chẳng hạn như: có đạo hay không? Có siêng năng đọc kinh xem lễ, có
ăn chay hăm ḿnh hay không? Nhưng Ngài chỉ xét hỏi người ta về t́nh thương.
Không phải t́nh thương chung chung, hay là t́nh thương trong ư tưởng, trong
mơ ước, nhưng là một t́nh thương cụ thể được chứng tỏ bằng những việc làm
thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt. Cho kẻ đói được ăn,
cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ
bơ vơ.
Nhưng điều bất ngờ hơn
nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố:
-
Mỗi lần
các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ khốn khổ là các ngươi làm cho Ta.
Những người bị xét xử
đều nhất loạt thắc mắc, người tốt cũng như kẻ xấu:
-
Lạy Chúa,
có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay
là khách lạ đâu?
Nhưng mặc cho người ta
thắc mắc, lời Chúa dạy thật rơ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới h́nh thức
nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa ḿnh với họ. Vậy th́ rơ ràng
mọi việc chúng ta làm v́ t́nh thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức
hết.
Không phải chỉ có Kitô
giáo mới dạy phải yêu người. Những điều đặc sắc trong Kitô giáo là gắn liền
ḷng thương người vào ḷng mến Chúa, coi đó là nhiệm vụ tiêu biểu của người
có đạo, tức là mặc cho t́nh thương người một tính cách tôn giáo và có giá
trị cao cả nhất.
Tai hại thay nhiều người
chúng ta lại không sống như thế. Nhiều lúc chúng ta chỉ lo qui hướng về Chúa
mà quên đi người anh em. Chúng ta chỉ lo sống đạo trong nhà thờ mà không
sống đạo giữa ḷng cuộc đời. Trong nhà thờ chúng ta sốt sắng đọc kinh, nhưng
ngoài xă hội chúng ta lại chửi bới, bất công và ghen ghét nhau ra tṛ.
Tại Đại hội Thánh Thể
năm 1982 ở Lộ Đức, Đức cha Camara đă kể lại một câu chuyện như sau:
Có một số nông dân đến
gặp tôi. Họ kể lại rằng một tên ăn trộm đă đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà
tạm và lấy Ḿnh Thánh mang đi. Hôm sau, họ đă t́m thấy bánh thánh nằm vương
văi trong bùn nhơ. Nói tới đây họ đă bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ
ơn.
Dĩ nhiên là tôi vui ḷng
dâng lễ và trong buổi lễ tôi đă nói với họ đại khái như sau:
-
Chúng ta
thật mù quáng biết bao. Chúng ta đă sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn
nhơ, nhưng đó lại là một hiện tượng xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức
Kitô mỗi ngày trong những căn nhà ổ chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong
Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong nỗi cùng khổ của con
người.
Rơ ràng việc bác ái là
thành tích duy nhất được kể đến trong ngày phán xét. Việc bác ái là chúng
chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc. Làm
việc tôn giáo mà thiếu t́nh bác ái th́ cũng không được Chúa thừa nhận. Đức
Kitô vua t́nh yêu. Vương quốc của Ngài là vương quốc t́nh yêu. V́ thế, chỉ
có một cách để thực sự thuộc về Ngài là yêu thương.
Chúng ta thích mang nhăn
hiệu. Nhưng chỉ có một nhăn hiệu đáng kể, đó là ḷng bác ái, đó là t́nh yêu
thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng bác ái yêu thương sẽ tồn tại măi măi.
3.
Chúa sẽ luận xét chúng ta về điểm nào?
Chúa Giêsu dựng nên một
cảnh đầy h́nh ảnh để nói cho biết nguyên tắc phân xử khi đến ngày cuối cùng.
Qua đó Ngài muốn dạy chúng ta ngày nay phải sống theo nguyên tắc nào. Các
yếu tố Ngài dùng để dựng cảnh để minh giải cho giáo huấn đều quen thuộc với
người nghe Ngài nói. Nhiều truyện kư Do thái thuộc loại văn gọi là khải
huyền trước Chúa Giêsu đă dùng những h́nh ảnh ít nhiều kinh khủng về ngày
tận cùng lịch sử. Chúa Giêsu lấy lại một số không quá đáng và Ngài nhấn mạnh
đến điểm Ngài cho là tối quan trọng: các cử chỉ yêu thương đối với người
nghèo và người hèn mọn là những kẻ Ngài tự đồng hóa. Cá nhân Ngài không cần
ai giúp của ăn, nơi ở, áo mặc, nhưng Ngài muốn được chúng ta phục vụ trong
con người những kẻ Ngài tuyên bố là anh em ưu ái của Ngài. Nên lưu ư khi mô
tả h́nh ảnh vị vua ngự trên ngai ṭa vinh hiển, Chúa gợi ra quyền hành quân
vương và thẩm phán của Ngài nghĩa là quyền quản lănh toàn thể nhân loại. Một
vài điểm để suy gẫm rút ra từ bài học này:
1) Các người lành
trả lời: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Như thế các
người lành
có hành động yêu thương đối với người nghèo túng cũng không biết rơ tất cả
tầm mức các việc ḿnh làm. Có khi nào người ta thấu suốt ư nghĩa một hành vi
yêu thương chân chính? Thiên Chúa ẩn ḿnh giữa người ta có thể khiến chúng
ta kinh ngạc, nhưng phải chăng chính việc ấy giúp Ngài đến rất gần với chúng
ta? Chúng ta không thể nào chịu nổi nếu Ngài tỏ ḿnh trong thực tại quyền
năng của Ngài. Ngài để cho chúng ta giao thiệp được nơi đặc điểm thâm sâu
nhất mà cũng phù hợp với chúng ta; Ngài là t́nh yêu hiến tặng cho khả năng
yêu thương của chúng ta. Để chúng ta có thể yêu thương Ngài cách rất thiết
thực và luôn vừa tầm chúng ta. Ngài tự đồng hóa với người sống bên cạnh mà
chúng ta gặp gỡ và có thể đón tiếp vào trong ḷng; Ngài tự đồng hóa các đặc
biệt với người khốn khổ mà chúng ta có thể và phải giúp đỡ về mặt thể xác
lẫn tinh thần. Người Kitô hữu hăy nhờ lại hai lời Chúa dạy. Lời thứ nhất: sẽ
luôn c̣n có người nghèo ở giữa các người. Lời thứ hai: Ta ở với các ngươi
cho đến tận thế. Có thể nói Chúa ở voới các môn đệ cho đến tận thế trong con
người những kẻ nghèo khổ. Ngày nay chúng ta có thực sự xác tín có những
người túng thiếu, trong họ, Chúa chờ đợi t́nh yêu thương của chúng ta hay
không? Đặt ḿnh ở mức độ bản thể thần linh Chúa Giêsu đă phán: Cha với Ta là
một. Chúa Cha lại là t́nh yêu. T́nh yêu ấy, khi xuống mức độ nhân tính đă
khiến Chúa Giêsu nói: người nghèo với Ta là một. Điều này đo lường tầm quan
trọng các hành vị chúng ta đối với người nghèo.
2) Các kẻ bị chúc
dữ sẽ nói như người lành: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát…
Các kẻ bị
loại bỏ, các kẻ cứng ḷng, các kẻ buông tuồng, ích kỷ cũng không nhận rơ tất
cả tầm mức thái độ của ḿnh. Có những trường hợp bỏ qua không hành động cho
người nghèo khổ tương đương với việc ấn họ sâu thêm vào cảnh khốn cùng. H́nh
phạt đáng sợ của thái độ ấy ở chỗ tương đương với việc hất hủi Thiên Chúa.
Thế mà nếu Thiên Chúa là t́nh yêu trọn vẹn, Ngài cũng là công lư hoàn toàn.
Công lư ấy tỏ ra ở chỗ Ngài không ép buộc những ai khước từ Ngài. Sự cùng
khổ và cô đơn của người đă khước từ Thiên Chúa là một đau đớn vô cùng khổ sở
hơn mọi đau đớn trần gian này. Người Kitô hữu được mời gọi phải coi trọng
hết sức trách nhiệm của ḿnh đối với những người nhỏ bé, yếu đuối, khốn khổ,
để khỏi bị tách biệt xa Thiên Chúa. Để kết thúc nên lưu ư một chi tiết: Chúa
phán: mỗi một lần các người làm điều ấy… Trong ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng
(tiếng aram) động từ “làm” ở đây bao gồm ư nghĩa “phục vụ”. Người ta liên
tưởng đến lời Chúa Giêsu: Ta đến để phục vụ. Trước mặt Thiên Chúa có ai
nghèo hèn và cực khổ hơn những người tội lỗi là chúng ta tất cả? Chúa Giêsu
đă đặt ḿnh phục vụ chúng ta, mưu cầu ơn cứu độ, hạnh phúc và hân hoan cho
chúng ta. phúc cho chúng ta nếu bắt tay làm, nghĩa là hành động phục vụ cho
sự cứu rỗi và hạnh phúc của những người nghèo nhất trong anh em chúng ta.
4. Chúng ta là một phần
của phong trào lớn lao
Ngày đầu tiên của tháng
9 năm 1939, Hitle đă xâm chiếm Ba Lan và đặt một khởi đầu thúc đẩy chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Bây giờ chúng ta nhận biết rằng hành động xâm
lược thô bạo này là hành động của một kẻ ngông cuồng, nhưng vào lúc đó ông
ta đă thuyết phục được nhiều người trong quốc gia của ḿnh, là ông ta sẽ dẫn
họ đến sự vĩ đại.
Những bản năng ghê gớm
này ngự trị trong trái tim con người. Một trong những bản năng đó sinh ra
khát vọng là trở nên phần tử của một hội đoàn lớn lao nào đó, hay có liên
quan đến một phong trào nào có thể thay đổi được lịch sử, hay trở thành bất
tử thông qua việc chia sẻ một hệ thống kinh doanh lớn lao tầm cỡ thế giới.
Xuyên qua lịch sử của
những người vô lương tâm, những người đă sử dụng những bản năng mạnh mẽ này.
Adolf Hitler là gương đầu tiên của cái tôi kỳ quặc đă chiếm hữu những ǵ mà
hôm nay được gọi là “thần thánh”, nó có thể thay đổi quốc gia như một chiếc
đũa thần trong tay của ông. Từ sự nhận biết trong quá khứ chúng ta phải ngạc
nhiên về con người có trách nhiệm và lư trí đă dễ dàng bị lừa bịp, cho nên
chúng ta nhận ra rằng sự đói khát đam mê của chúng ta là muốn trở nên một
điều ǵ đó. Bởi v́ Hitler đă hiểu đam mê này. Hitler đă đặt căn bản cho
những bài hùng biện trên nguyên tắc là nếu nói dối anh hăy nói dối cho đủ
mạnh để mọi người tin vào sự nói dối ấy. Quả thật, ông ta đă đ̣i hỏi dân tộc
của ḿnh hăy đứng về phía ông ta để mục đích một ṇi giống hùng mạnh có thể
đạt được sự hoàn hảo.
Tội lớn nhất của Hitler
không phải là hành động dă man khủng khiếp, hành động đó đă mang đến sự hành
h́nh hàng triệu người qua những trại tập trung. Cũng không phải là sự kiện
ông ta đă biến thời cuộc thành thế chiến thứ hai, mà tội lớn nhất của ông ta
là tội phạm thánh, quả thật ông ta đă ước ao đặt ngai cuả ḿnh trong quả tim
con người, một chỗ mà chỉ thuộc về Đức Kitô. Hiler và những kẻ vô lương tâm
giống như ông ta th́ c̣n xấu hơn những tiên tri giả nữa. Họ là những kẻ báng
bổ phạm thánh hiện diện đứng trước nơi thánh.
Đức Kitô là Vua của
chúng ta đă ngự trị trên mọi tạo vật. Chỉ một ḿnh Ngài xứng đáng để lănh
nhận ngai báu trong trái tim của chúng ta. Dù Ngài là quyền năng, Ngài không
chiến thắng trên trái tim của ḿnh và trái tim của chúng ta bằng sức mạnh
của sự chinh phục.
Đúng hơn, Ngài mời gọi
chúng ta trở thành dân của vương quốc đời đời và hoàn vũ của Người. Ngài
không áp đặt trên bản năng của chúng ta sẽ trở nên những thành phần lớn lao;
Ngài đă làm viên măn bản năng của chúng ta.
Vương quốc của Ngài là
vương quốc không có sự giả trá, lường gạt hay bởi sự phá huỷ, là vương quốc
của chân lư và là sự sống. Đó là một vương quốc, không phải của sự xấu và sự
lường gạt, nhưng là của sự thánh thiện và ân sủng. Đó là một vương quốc
không phải của sự độc tài, chiếm hữu, oán ghét, cưỡng bức, nhưng của sự công
chính t́nh yêu và b́nh an. Như là một phần tử của Giáo Hội, chúng ta được
mời gọi để trở nên một bí tích cho vương quốc này, một dấu hiệu cho thế giới
về những ǵ mà vương quốc thật sự của Thiên Chúa làm.
Vương quốc này đă hiện
diện và sẽ ngự đến. Nó hiện diện ở giữa chúng ta trong những h́nh thức bất
toàn, nhưng trong cách chúng ta sống như là những tín hữu sẽ giúp mang đời
sống đó đến sự hoàn hảo khi Chúa Kitô đến một lần nữa trong vinh quang.
Chúng ta không cần trở
thành một dân tộc quan trọng, cuộc sống của họ sẽ hấp thụ một lối sống đẹp,
trong một đời sống tầm thường hay công việc tầm thường dẫn tới việc không
thể tránh được là một cái chết vô nghĩa. Đời sống th́ không ngớ ngẩn. Đời
sống là một sự thông dự vào một phong trào lớn lao trong lịch sử như là một
tín hữu trung thành theo Đức Kitô là Vua.
Những nài xin trung
thành với Đức Kitô Vua.
Chúa nhật này là một
thời gian thích hợp để nài xin sự trung thành với Đức Kitô. Theo mẩu lời
kinh được đề nghị sau đây là nền tảng trong lời nguyện đầu lễ trong kinh
nguyện Thánh Thể ngày lễ trọng này. Hoặc có thể được dùng trong thánh lễ khi
mọi người lập lại những ḍng nài xin này sau vị linh mục hoặc thừa tác viên
khác.
Chúng con xin trung
thành với Đức Kitô Vua.
Chúng con ao ước và âu
yếm vũ trụ của Người.
Chúng con nhận biết
vương quốc của Ngài là một vương quốc sự thật và sự sống, Của sự thánh thiện
và ân sủng.
Chúng con cũng ước ao
làm những ǵ chúng con có thể, Để qua lời cầu nguyện và hành động có thể
mang thế giới này về với vương quốc của Người, Một vương quốc của b́nh an,
công b́nh và t́nh yêu.
5. Vương quốc t́nh yêu –
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA:
Mt 25,31-46.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho
ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.
Sự thật thứ nhất
là: thế giới này sẽ chấm dứt.
Không có ǵ vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những ǵ được coi là bền
vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng
sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không c̣n. Sau cùng mọi người
bằng nhau và phải đến trước ṭa Chúa để chịu phán xét.
Sự thật thứ hai
là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả
mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những ǵ ḿnh
đă làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm
liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên
trần gian ta phải chứng kiến bất công th́ tại phiên xử cuối cùng này sẽ có
công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan ṭa tối cao, quyền uy
và công thẳng.
Sự thật thứ ba: sẽ
có một vương quốc mới. Tuy
nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng
kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không c̣n
thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không c̣n đau khổ. Thế giới hạnh phúc
tràn đầy. V́ Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc t́nh yêu. Cuộc
xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. V́ là
vương quốc t́nh yêu nên chỉ những ai có t́nh yêu mới được vào. Luật lệ trong
vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật t́nh yêu. Việc cai trị cũng
chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: t́nh yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua T́nh
Yêu.
Sự thật thứ bốn:
đời này là cơ hội duy nhất. Thế
giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng
ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương
quốc mới. Những ai có ḷng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo
khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại
là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không c̣n cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung
cuộc. V́ thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo
không kịp.
Với dụ ngôn ngày phán
xét cuối cùng, Chúa Giêsu đă tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế
giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu
thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống.
Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là
những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều
kiện để làm.
Lạy Chúa Giêsu Vua T́nh
Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa.
Amen.
III. TẤM BÁNH HÓA
NHIỀU.
1- Dụ ngôn ngày phán xét
cuối cùng cho thấy những sự thật nào?
2- Ta có thể làm chủ vận
mạng ḿnh được không?
3- Điều kiện để được vào
Nước Chúa có khó khăn ǵ không?
4- Nếu mọi người đều
thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương
quốc của Chúa được không?
6. Cuộc sống của chúng
ta tuỳ thuộc vào Mt 25,40
Đây là một bài học khác
về cái nh́n của Thiên Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ phán xét
chúng ta như thế nào? Câu trả lời chứa đựng trong bản văn chính yếu này. Đây
là tổng kết cuối cùng của tất cả mọi cuộc sống: ngày phán xét chung. Thiên
Chúa sẽ xoay sở như thế nào trước công việc vĩ đại này? Ngài sẽ dùng máy vi
tính phân tích các sử thi, các bi kịch, các tiểu thuyết cuộc đời cho đến vô
tận hay sao? Ngài sẽ tổ chức những vụ kiện ngắn để cân nhắc lợi hại hay
chăng? Đó không phải là điều Chúa Giêsu nói với chúng ta. Chúng ta có nguy
cơ bối rối v́ sự chọn lọc ngắn ngủi, sự nhanh chóng của các mục xét xử và sự
đơn giản của câu: “Ta đói, ngươi đă cho Ta ăn, hăy vào hưởng sự vui vẻ”.
Chúng ta hăy đánh giá
đúng hoàn cảnh: đây là lời răn dạy cuối cùng của Chúa Giêsu và nỗ lực tối
hậu của Ngài để đặt chúng ta trước điều cốt yếu. Biết bao lần Ngài nhấn mạnh
đến nguy cơ chúng ta trở thành kẻ ngập ngừng: chúng ta tưởng tượng ra những
điều tốt đẹp chúng ta sẽ làm... thế rồi chúng ta lại không làm.
Ngài biết chúng ta có
khuynh hướng thoát ra khỏi những bó buộc cụ thể của t́nh yêu bằng những xung
khắc dài và những mơ mộng: “Chỉ cần yêu thương... Sống yêu thương... Làm thế
nào gặp Chúa nơi anh em chúng ta... Làm thế nào thấy Chúa Kitô nơi người
nghèo nhất...”. Tốt, rất tốt. Nhưng sẽ đến một ngày nào đó bị tước mất những
lời nói chúng ta sẽ trần truồng trước những hành vi của chúng ta. Bạn có
hành động khi một người hay tập thể cần đến bạn? Đó là sự chọn lựa những
người được chúc phúc và những kẻ bị nguyền rủa. Đó là sức nặng thực sự của
cuộc sống của một con người và việc phán xét xem người đó có đáng sống đời
đời hay không.
-
Ngươi,
ngươi hăng hái lao vào giúp đỡ khi có dịp: hăy đi vào Nước Trời...Ngươi,
ngươi tránh né biết bao việc phải làm: hăy đi xa khỏi Ta.
-
Nhưng lạy
Chúa, con đă thực sự muốn gặp Ngài, sống với Ngài, sống v́ Ngài.
-
Ngươi đă
làm ǵ cho anh em ngươi?
-
Con thề
với Chúa nếu con đă biết rằng...
-
Ngươi đă
làm ǵ?
Mỗi lần chúng ta nghĩ về
việc gặp Chúa Giêsu, một cú bấm máy sẽ phải làm bừng sáng trước mắt chúng
ta, như một tấm áp phích sáng chói, câu Matthêu 25, 40 mà cuộc sống chúng ta
noi theo: “Mỗi lần ngươi làm điều tốt cho một trong những người bé mọn nhất
trong số các anh em của Ta th́ chính là ngươi đă làm cho Ta vậy”.
Điều vĩ đại trong việc
gợi ra ngày Phán xét phải làm cho chúng ta hiểu giá trị của cử chỉ nhỏ nhặt
nhất của t́nh yêu thương. Cuối cùng, có một điều quan trọng đó là điều chúng
ta thực sự làm để cứu giúp một hoàn cảnh nguy khốn. Danh sách những việc
được Chúa Giêsu lấy lại không ngừng kéo dài ra: “Ta mù chữ và ngươi đă dạy
Ta học... Ta bị tàn tật và ngươi, một kiến trúc sư, đă nghĩ đến việc xây
dựng những căn hộ có thể đến ở được... Ta là một kẻ tị nạn và ngươi đă đón
tiếp Ta”.
Duy chỉ trên những con
đường này người ta mới gặp Chúa Kitô Vua. Nước Trời của Ngài là một thế giới
gồm những ngừơi cần được giúp đỡ và những người sẵn ḷng giúp đỡ. Mỗi lần
chúng ta giúp đỡ tức là chúng ta chọn Chúa Giêsu làm Vua của chúng ta.
7. Lễ Chúa Kitô Vua
"Hoàng tử và người hành
khất" là câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước
Anh. Hai em bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng c̣n giống nhau như
như anh em sinh đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom
Canty, một chú bé nghèo khổ.
Một ngày kia, thật là
tṛ vui, hai em quyết định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc
quần áo rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà
ổ chuột ở London, sát cánh với những người hành khất và thấp kém.
Sau một thời gian hai
chú bé mệt mỏi v́ tṛ chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố
gắng nói cho người cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống
giam. Ngay khi Tom sắp sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các
viên chức chú là hoàng tử thật. Do kết quả kinh nghiệm của ḿnh, Edward trở
thành một nhà lănh đạo công minh và nhân ái.
T́nh cảnh giữa Chúa Kitô
và chúng ta cũng có cái ǵ giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật
của Thiên Chúa. Ngài đă chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài
mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta
thành hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính
sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.
Là Thiên Chúa, Chúa
Giêsu biết những thống khổ của loài người. Nhờ trở thành con người, Ngài
thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu. Như hoàng tử trong câu chuyện,
Chúa Giêsu học biết yêu thương những người nghèo khổ, Chúa Giêsu học biết
yêu thương những người thiếu thốn mọi sự.
Bạn đừng ngạc nhiên v́
Chúa Kitô, Vua của chúng ta, đặt để thử thách này cho được vào nhà vĩnh cửu
của Ngài: Bạn có giúp đỡ những người thiếu thốn không? Tin Mừng hôm nay là
một trong những truyện quan trọng nhất của Chúa Kitô - Tin Mừng cho những
người giúp đỡ những ai thiếu thốn, tin buồn cho những ít hay không chú ư đến
những nhu cầu của người khác.
Hôm nay bạn hăy xét ḿnh
đi. Bạn có bao giờ cung cấp của ăn cho người túng đói không? Có lẽ bạn chưa
bao giờ gặp mầu nhiệm chết đói. Tuy thế ai cũng biết có hàng triệu người
đang phải chịu cảnh đói. Bạn có giúp đỡ ǵ qua các cơ quan từ thiện không?
Có khi nào bạn thăm viếng tù nhân không? Không phải chỉ là những người ở sau
hàng giậu sắt, nhưng c̣n là những người ở sau hàng giậu cô đơn, dốt nát, sầu
khổ.
Bạn đă làm ǵ cho những
người chết đói về tinh thần, bệnh tật về tinh thần, xa lạ về tinh thần, bị
giam hăm về tinh thần? Nếu bạn mới chỉ làm ít hay chưa làm ǵ, th́ bạn hăy
nghe lệnh truyền "Khởi hành".
Tin Mừng c̣n đi xa hơn,
những ǵ bạn làm cho người túng thiếu là bạn làm cho chính Chúa Kitô. Hăy
lưu ư: "Ta đói... khát... ốm đau... là khách lạ". Những ǵ các con làm hay
không làm, là các con đă làm hay không làm cho chính Ta. Chúa Kitô tự đồng
hóa với những người túng thiếu, Vua chúng ta đói, Vua chúng ta khát, Vua
chúng ta là khách lạ, Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau. Vua
chúng ta bị cầm tù.
Phải, chúng ta phụng sự
và tôn thờ Chúa Giêsu Kiô Vua chúng ta trên bàn thờ này, nhưng chúng ta cũng
phải phụng sự và tôn thờ Ngài trong những người túng thiếu của Ngài. Rồi
Ngài sẽ gọi chúng ta vào buổi tận cùng. "Hăy đến".
Xin Chúa chúc lành cho
các bạn.
8.
Lễ Chúa Kitô Vua
Chúng ta hăy tưởng tượng
giả sử ngày hôm nay có một người khách lạ nào đó chưa bao giờ nghe đến Kitô
giáo là ǵ, và người đó đang ở giữa chúng ta, cùng tham dự Thánh lễ Chúa
Nhật hôm nay với chúng ta, khi nghe chúng ta tung hô "Chúa Giêsu là Vua vũ
trụ". Ngỡ ngàng, người đó hỏi chúng ta: "Quí vị có một vị Vua à? Ngài ở đâu?
Làm sao có thể gặp Ngài được?". Lúc đó có lẽ đức tin sẽ soi sáng giúp chúng
ta t́m ra những câu trả lời thật hay, thật ư nghĩa. Nào là Ngài đang ngự bên
hữu Thiên Chúa Cha kể từ khi Ngài từ cơi chết sống lại. Nào là Ngài đang
hiện diện với cộng đoàn các tín hữu. Nào là Ngài là Vua của vũ trụ, v́ Ngài
đă tạo dựng vũ trụ này cho con người.
Đó là những câu trả lời
đúng nhưng chưa đủ, v́ chưa trả lời câu hỏi: "Làm sao để gặp được Ngài?.
Trong đời sống cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu đang ngự trị ở đâu? Lúc nào
và thế nào? Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào của một con người, bất luận nam
hay nữ, màu da hay sắc tộc hoặc ngôn ngữ nào. Bởi thật, tất cả những ai đang
khao khát muốn t́m gặp được Ngài và muốn yêu mến Ngài, chúng ta phải cố gắng
thực hành đức bác ái huynh đệ đối với những người anh chị em ấy.
Với niềm tin đích thực
của người Kitô hữu, chúng ta tin rằng Chúa Kitô Vua vũ trụ đang hiện diện và
đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống, nhưng Ngài đang bị
xă hội ruồng bỏ và quên lăng. Sự hiện diện của Chúa Kitô luôn ở bên những
người nghèo khổ, rách rưới bị mọi người bỏ rơi. Ngài hiện diện nơi những
ngươi bệnh hoạn tật nguyền đang mất hết ư vị của đời sống mà hằng ngày phải
chết dần, chết ṃn bởi sự cô đơn buồn tủi. Ngài hiện diện nơi những người bị
bạc đăi và bị hiểu tầm, v́ là nạn nhân của tranh giành ganh tị, chỉ v́ khác
ư thức hệ, đang lủi thủi chịu số phận hẩm hiu mà không biết than thở cùng
ai. Ngài hiện diện nơi những trẻ em bạc phúc bị ruồng rẫy, lầm lạc, đang t́m
kiếm một cách vô vọng một chút lương tâm, một chút yêu thương của người khác
để lớn lên và phát triển.
Thật vậy, nước Ngài sẽ
bao trùm cả nhân loại, vương quốc của Ngài sẽ rạng rỡ huy hoàng khi người
khó nghèo được chia cơm sẻ áo, khi con tim người bệnh hoạn tật nguyền buồn
đau khổ sầu được an ủi nâng đỡ, khi nhân loại mở rộng ṿng tay đón nhận
những đứa trẻ chưa bao giờ được yêu thương. Nước Ngài sẽ đến khi công b́nh
và bác ái ngự trị, cho nên vương quốc của Ngài là vương quốc của "T́nh Yêu".
T́nh yêu đó được thể hiện qua từng hành động, từng lời nói của Đức Giêsu
Kitô, Vị Vua Chí Tôn Chí Thánh.
Khi đọc Tin Mừng của
Ngài, chúng ta chỉ thấy sứ điệp của Ngài là sứ điệp "Yêu Thương", một vị Vua
luôn chăm sóc và dạy dỗ thần dân con đường hạnh phúc thật, để cùng nhau sống
yêu thương hạnh phúc ở đời này như là một tiền nghiệm của hạnh phúc trường
sinh đời sau, nơi nước t́nh yêu không bao giờ tắt.
Là con dân của nước
Thiên Chúa, nước của t́nh yêu, chúng ta hăy cùng nhau làm tṛn bổn phận công
dân của ḿnh là góp phần xây dựng cho t́nh yêu được ngự trị lên mặt đất này.
Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi không thể nào ngồi yên để hưởng tiện nghi trong
đời sống của tôi, trong lúc bao nhiêu người lầm than cực khổ xung quanh tôi
đang cần đến t́nh yêu thương chia sẻ. Tôi biết rằng, tôi không thể làm được
ǵ thêm cho Chúa cả, v́ Người là Đấng trọn tốt trọn lành. Nhưng tôi là thần
dân trong nước của Chúa, tôi không mang lại cho anh chị em của tôi một cái
ǵ và đó chính là điều tôi bị xét đoán. Sự xét đoán ấy là xét đoán về t́nh
yêu đối với đồng loại.
V́ thế, nếu tôi chỉ biết
thu ḿnh trong cái vỏ ốc ích kỷ, tôi cũng sẽ nghe Chúa tuyên phán với tôi
rằng: "Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống. Ta
rách rưới các người không cho áo mặc. Ta không có nơi cư ngụ, các ngươi
không cho nơi nương tựa. Ta là người nghèo khó vô sản, ngươi đă không thiết
tập lại công b́nh". Rồi c̣n bao nhiêu án nữa sẽ tuôn xuống trên con người
không biết thương xót.
Yêu ai th́ giống người
ấy. Tôi không thể yêu Thiên Chúa là Vua T́nh Yêu, khi tôi không giống Người
là Đấng hay thương xót. T́nh yêu của con người đối với Thiên Chúa là chiêm
niệm và cầu nguyện, nhưng đối với tha nhân là linh hoạt và hay phân phát.
Cho nên khi đă nhận Đức Giêsu Kitô là Vua chúng ta phải cố gắng sống xứng
đáng là công dân của nước Người, nước của t́nh yêu.
9. Lễ Chúa Kitô Vua
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một bức hoạ cho
người ta xem thấy chung cuộc...
"Khi nào th́ điều
đó sẽ xảy đến?”. Các môn đệ đă
lo lắng hỏi Đức Giêsu như vậy, khi Người loan báo cho các ông về việc Đền
Thờ Jérusalem bị tàn phá. Chúa không trả lời như các ông trông đợi, trái lại
trong bài giảng nói về ngày tận thế, và xuyên qua năm dụ ngôn, Chúa đă dạy
các môn đệ phải chuẩn bị ḿnh thế nào cho Biến Cố đó, nghĩa là phải chủ động
tỉnh thức, phải làm cho những nén bạc đă trao, sinh lời.
Phần kết thúc bài giảng
cuối cùng này của Đức Giêsu, kết tinh tất cả mọi lời nói và việc làm của
Người, thâu tóm tất cả Phúc của Chúa, một cảnh tượng vĩ đại mang tính khải
huyền, riêng của Phúc Âm thánh Matthêu làm nên dư âm của phần kết thúc bài
giảng đầu tiên, Bài giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy
Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn
của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 25,31-33),
đối thoại với những “kẻ được chúc phúc” (câu 34-40), đối thoại với những
quân “bị nguyền rủa” (câu 41-45), thi hành bản án (c.46).
- Phần nhập đề gợi ra
quang cảnh một cuộc tập hợp vĩ đại của toàn thể nhân loại quanh Đấng sẽ “ngự
lên ngai vinh hiển của Người":
+ Đấng ấy được tŕnh bày
ở đây như “Con Người”, nhân vật huyền bí của các sách Khải Huyền Do Thái ấy
(như trong Daniel 7) ngự đến thi hành việc phán xét “các dân thiên hạ”, một
đặc quyền thuộc về Thiên Chúa. + Nhưng cũng như “Mục tử” đă được Ezéchiel
loan báo (bài đọc một Người đến thi hành việc phân lựa: “Người sẽ tách biệt
họ như mục tử tách biệt chiên với dê: chiên th́ đặt bên phải, dê th́ đặt bên
trái”).
“Ở nước Palestine người
ta chăn chiên chung với dê; nhưng đến chiều, người chăn tách chiên ra để ở
một nơi kín đáo hơn”, Cl. Tassin giải thích, nhưng vội thêm một cách hóm
hỉnh: “Bên phải” và “bên trái” trong thời Cổ đại, không có mang chút âm
hưởng chính trị nào đâu; Nhưng theo óc hơi mê tín, người ta cho là những từ
đó chỉ số phận tốt, xấu của con người” ("Phúc Âm thánh Matthêu”, NXB
Centurion, trang 264).
+ Đức Giêsu c̣n được
tŕnh bày như “Đức Vua” xét xử công minh, đang nói về “Cha ḿnh” và mọi
người bị phán xét th́ thưa với Người là “Lạy Chúa”, tước hiệu mà phụng vụ và
giảng thuyết buổi sơ khai vốn gán cho Đức Kitô vinh hiển khi Người phải trở
lại trong ngày tận thế.
2. ...Và hé cho thấy
tính cách nghiêm trọng của sự việc đang diễn ra trong lúc này:
- Cuộc đối thoại với
những kẻ “được chúc phúc” cho ta được nghe án quyết phù hợp với những lư lẽ
đă nêu ra, đồng thời cho thấy phản ứng của những người trong cuộc.
+ Tiên vàn là án quyết:
“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hăy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho
các ngươi, từ thuở tạo thành trời đất”, và lư lẽ đưa ra dưới h́nh thức một
bảng liệt kê dài những hành động bác ái mà coi như họ đă thực hành đối với
Đức Vua: “V́ xưa Ta đói, các ngươi đă cho ăn vv...”.
Cl. Tassin nhận xét:
“Ḷng đạo đức của người Do Thái cũng có những bảng liệt kê tương tự tương
đối dài (cf. Tobia 1,16-20), tuy nhiên lại không đề cập tới việc thăm viếng
tù nhân: hành vi bác ái này chắc hẳn đă được áp đặt khi cuộc bách hại đă
tống giam nhiều người thân của họ. Ta nên ghi nhận rằng những người Do Thái
đạo đức vốn coi những hành vi bác ái này như một việc noi gương bắt chước
thật đáng khen: ta phải cho kẻ đói ăn, bởi v́ Chúa đồng hoá ḿnh với người
đói, Chúa đứng về phía người bất hạnh; không liên đới với con người bất hạnh
là đi ngược với quyền lợi của Chúa. Ư tưởng này bén rễ sâu xa trong Kinh
Thánh (cf. Is 58,6-7) và đă đưa đến lời chú giải cao đẹp này: “Nếu ngươi đă
nuôi nấng những người nghèo khổ, th́ Ta sẽ kể như ngươi đă làm việc ấy cho
chính Ta vậy” (O.C. trang 265).
+ Những người công chính
ngạc nhiên: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi đă thấy Chúa...?”. Thế rồi họ
ngỡ ngàng khám phá ra điều ǵ là chủ chốt trong sinh hoạt đời thường của
những con người nam cũng như nữ: Đức Vua vốn đồng hoá ḿnh với hết mọi người
trong cảnh khốn cùng, họ đă phục vụ chính Người trong những con người khốn
khổ ấy: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các ngươi đă làm cho chính Ta vậy”.
- Cuộc đối thoại với
những quân bị nguyền rủa diễn lại cùng một khuôn khổ: án quyết với những lư
lẽ nêu ra, phản ứng ngạc nhiên của những người liên hệ: “Lạy Chúa, có bao
giờ chúng con đă thấy Chúa đói, khát...?”. Rồi họ cũng sẽ hay biết - nhưng
muộn quá rồi! - rằng khi bỏ mặc anh em họ trong cảnh khốn cùng, là họ đă bỏ
mặc chính Đức Vua vậy: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong
những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đă không làm cho chính Ta vậy”.
- Thi hành án diễn ra
tức th́, đă được tường thuật một cách giản dị: “Thế là bọn này sẽ phải ra đi
mà vào chốn cực h́nh muôn kiếp, c̣n những người công chính sẽ được lên hưởng
phúc trường sinh”.
J.Potin kết luận: “Tính
cách mới mẻ của giáo huấn của Đức Giêsu thật rơ như ban ngày. Giáo huấn ấy
được nhấn mạnh ở vẻ ngỡ ngàng của những kẻ khám phá ra được từ đàng sau
những dáng vẻ bề ngoài, sự thật về con người mà v́ đó họ được hạnh phúc hay
bất hạnh; ấy là: con người có tước vị làm anh em với Đức Giêsu, không phải
tước vị làm anh em với Con Người trong vinh quang, mà đúng hơn là với Đấng
sẽ đích thực trở nên anh em của người nghèo bằng đau khổ và nhục nhă trên
thập giá. Từ nay con người không thể dựa vào những thực hành điều Luật dạy
và tôn giáo để làm b́nh phong che chắn ḿnh. Chỉ điều răn mới về t́nh yêu
thương con người mới đáng kể thôi.
Như thế Đức Giêsu làm
nổi bật điều mà người cho là bản chất của Lề Luật và sách Các Ngôn sứ ấy là
ḷng yêu thương. Kẻ nghèo được coi như đủ tư cách để được Thiên Chúa và Con
của Người quư mến. Từ nay mọi điều răn khác đều phải được đánh ghía theo
thước đo này. Đạo Do Thái nhờ được Đức Giêsu mang đến cho ánh sáng này mà
được canh tân. Nhưng Đức Giêsu lấy uy quyền và tương lai của Người để bảo
đảm cho giáo huấn này: Thiên Chúa muốn hướng dẫn toàn thể nhân loại trên con
đường này, chứ không phải chỉ một ḿnh dân Do Thái mà thôi. Con người muốn
tập hợp người người mọi thời, mọi nơi để quy về giới răn duy nhất này. Hết
thảy đều sẽ bị xét xử theo t́nh yêu của họ đối với người nghèo” ("Jésus,
l'historie vraie”, NXB Centurion, trang 403-404).
Mối t́nh liên đới với
hết mọi người khốn khổ này mà Chúa vừa minh hoạ để kết thúc bài giảng cuối
cùng của Người, có một phạm vi vô hạn và bắt nguồn từ Thiên Chúa, th́ giờ
đây chính Người sống t́nh liên đới ấy đến mức độ tận cùng. Chương 26 là
chương tiếp theo bài giảng cuối cùng ấy đưa ta tŕnh thuật về cuộc Khổ nạn.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Một cảnh nhấn
mạnh phạm vi giá trị cách ta cư xử ở đời này” (Giám mục L.Daloz, trong “Le
Règne des
cieux s'est approché”, Desclée du Brouwer, trang 343-344).
Đức Giêsu không mô tả
cảnh này để ta lo sợ hướng nh́n về ngày chung thẩm mà buông lơi những phận
vụ hiện tại của ta; trái lại điểm có ư nhấn mạnh ở đây chính là cách ta cư
xử ở đời này có một tầm kích vĩnh cửu. Tính vĩnh cửu làm cho thời gian có
giá trị, định hướng hoạt động của ta và cho hoạt động ấy có ư nghĩa. Ai tin
vào trời th́ càng phải định tâm làm cho trần gian này trở thành nơi chan hoà
t́nh huynh đệ, một miền đất của Tương Lai! Không phải đến ngày tận thế người
ấy mới gặp gỡ Con Người.
Đến ngày tận thế, người
ấy sẽ được thấy Người tỏ tường, v́ Con Người sẽ tỏ ḿnh ra rơ ràng. Nhưng
chính Người lúc này vẫn đang cận kề ta trong những người anh em bé mọn nhất.
Điều có lẽ làm ta ngạc nhiên nhất, chính là mọi người cùng có chung một sự
vô tri, những người đă thực hành ḷng thương xót cũng như những người đă
trốn tránh - Ai nấy sẽ bỡ ngỡ: Những người trước thưa rằng: “Lạy Chúa, có
bao giờ chúng con đă thấy Chúa đói mà cho ăn?”. Những kẻ đă không tiếp rước
Người cũng nói như vậy: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đă thấy Chúa đói,
khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù mà không phục
vụ Chúa đâu?”. Mọi manh tâm phục con người v́ Chúa, chứ không v́ chính họ
đều bị Chúa phơi bày.
Thực vậy người và Chúa
không tách biệt nhau: “Quả thực, Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi
đă làm cho chính Ta vậy”. Điều đó mời gọi ta nhận biết rơ t́nh huynh đệ liên
kết những kẻ bé nhỏ này với Đức Giêsu, và mời gọi ta phục vụ họ tốt hơn.
Điều đó cũng có nghĩa là ta sẽ gặp những bất ngờ, hay đúng hơn mối quan hệ
của ta với Đức Giêsu thường diễn ra ở nơi ta vốn không trông đợi Người.
Tiên vàn ta đừng t́m
cách nhận ra Đức Giêsu trong dung mạo của người ta, trước khi ta phục vụ họ:
ta thường sẽ phải thất vọng thôi. Chỉ cần phục vụ họ một cách đơn sơ, yêu
mến họ một cách cụ thể, bằng hành động và cho không. Rồi đây chính Người sẽ
nói cho ta biết rằng Người đă ở gần ta ngay lúc ta không nghĩ đến Người: “Có
bao giờ chúng con đă thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà
cho mặc?”. Chúng con đâu có biết... Vậy th́ ta đừng t́m kiếm để biết bây giờ,
hăy hành động, hăy yêu mến bằng sự thật! Ở đâu người ta sống t́nh yêu chân
thật với nhau, th́ Thiên Chúa làm người sẽ nh́n nhận họ là người của ḿnh:
“Các ngươi đă làm cho chính Ta vậy...”.
2. “Một bức tranh
chiếu vào hiện tại, ánh sáng thực của đức tin và sự minh mẫn” (H.Vulliez,
trong “Thiên
Chúa thật gần”, Desclée de Brouwer, trang 175).
Đức Giêsu đă đặt bức
tranh này dưới mắt các môn đệ để chiếu vào hiện tại ánh sáng thực của đức
tin và sự minh mẫn. Sự chia sẻ không phải chỉ được quyết định thực hiện vào
thời buổi cuối cùng, nhưng là bây giờ, ở đây và lúc này (hic et nunc). Đây
không phải là một quyết định có tính cách h́nh thức, nhưng là một quyết định
đưa đến sự thay đổi đời sống trong xă hội.
Vào thời Matthêu viết
Tin Mừng của ngài, các Kitô hữu nồng nhiệt chờ đợi ngày Chúa trở lại đến nỗi
họ quên cả đời sống hiện tại. Nhắc nhớ họ về đời sống hiện thực là điều quan
trọng. Hơn nữa, không phải sự thực hành các mối phúc là điều quyết định phần
rỗi đời đời trước cả tế lễ và cầu nguyện đó sao? Ngay cả những người ngoại
giáo cũng được cứu độ nhờ thực hiện các mối phúc này. “Anh em đợi chờ Chúa,
vua vinh quang, nhưng Ngài đang ở đây! Không phải nơi người nghèo như người
ta nói. Nhưng trong sự chia sẻ với họ”.
Thiên Chúa hiện diện qua
sự chia sẻ cơm bánh. Đó là vinh quang của vương triều Thiên Chúa. Đức Giêsu
không chói ngời vinh quang trong cung điện hay trên ngai vàng, nhưng ở tất
cả những nơi có t́nh liên đới nhân loại. Thiên Chúa t́nh yêu có thể có mặt ở
khoảng trống vắng chia cách con người và các dân tộc chăng? Ngài hiện diện ở
trong sự hiện diện của người này cho người kia. Đó là “sự hiện diện trong
chia sẻ”.
10. Phán xét cùng tận
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Như người chăn
chiên tách chiên ra khỏi dê”. Nói
cho đúng, đây là chiên và "dê con"; ở Palestine, việc chăn chung chiên với
dê con là chuyện thường. Nhưng chiều đến, người ta phải lựa chúng ra, v́ dê
con cần được sưởi ấm suốt đêm. V́ chiên có giá trị hơn dê nên ta hiểu tại
sao, trong dụ ngôn, chúng được đứng bên hữu Đấng Thẩm phán cánh chung (bên
hữu là chỗ danh dự).
"Vua": các chữ này
(đây quy chiếu về Chúa Giêsu
(x 2, 2; 21. 3; 27, 11; 27, 29. 37. 42).
"Hăy lĩnh lấy làm
cơ nghiệp Nước đă dọn cho các ngươi": x.hai mối phúc thật đầu tiên: V́ Nước
Trời là
của họ" (5, 3) và họ sẽ được đất làm cơ nghiệp" (5, 4).
"V́ xưa Ta đói . .
.Ta khát . . . ": Phù hợp với óc tả
thực không thay đổi của Mt, các nỗi thống khổ nhân thế được gợi lên ở đây:
ḿnh trần thân trụi, lưu đày biệt xứ (nghĩa là không có quyền lợi và sự chở
che), bắt bớ giam cầm, đói khát yếu đau, xảy ra rất thường; ta đang ở trong
cùng một bầu khí như trong Tám mối phúc thật và Diễn từ trên núi. Các kẻ
khốn khổ này là những người, khách quan mà nói, cần được cứu giúp, dù theo
chủ quan họ thế nào chăng nữa. Bản răn không bảo những người khách lạ, đói
khát, tù đày đó là Kitô hữu hay là thừa sai. Con Người liên đới với mọi nỗi
khổ của nhân loại trong tất cả chiều rộng và chiều sâu của nó.
"Lạy Chúa, có bao
giờ chúng tôi thấy Ngài đói...":
Bản văn không cố ư bảo các người công chính ấy (những kẻ trung thành và tỉnh
thức của các dụ ngôn trước) quên điều họ đă làm, nhưng là: họ không biết
rằng ḿnh đă làm cho chính Con Người trong bản thân của những kẻ khốn khổ. Ư
nghĩa trọn vẹn của các hành vi họ khi được mặc khải cho họ vào giờ chót;
điều này phù hợp với toàn bộ luân lư của Mt (x."Cha ngươi, Đấng thấu suốt
nơi kín ẩn, sẽ hoàn trả lại cho ngươi"-6,4). Hăy ghi nhận là động từ làm
thường xuất hiện trong các câu đây (4 lần trong cc. 40- 45); thế mà trong
tiếng Aram, Chúa Giêsu chỉ có thể dùng động từ "abad" vừa có nghĩa làm vừa
có nghĩa phục vụ.
"Hăy xéo đi... mà
vào lửa đời đời": Như trong suốt
các chương 24-25, việc kết án các bất công, nghĩa là kết án những kẻ đă
chẳng thi thố ḷng nhân lừ, thật vô cùng khủng khiếp. Trong lúc trong sách
Khải huyền Do thái, chính lương dân hoặc địch thù của Israel, hoặc các người
Do thái bất trung (xét theo quan điểm của nhóm Essêni hay Biệt phái) sẽ bị
vị thẩm phán của những ngày cuối cùng đè bẹp, th́ ở đây là những kẻ đă chẳng
cứu giúp anh em của Con Người. Không một bản văn Tân ước nào diễn tả rơ ràng
như ở đây ư tưởng "tránh phục vụ” (“các ngươi đă không làm") cũng lỗi nặng
nề như phạm tội ác; sau này, học thuyết của thánh Gioan sẽ dạy rằng không
yêu thương tức là giận ghét vậy (1 Ga).
KẾT LUẬN
Người công chính rốt cục
là những kẻ đă chu toàn Luật Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đă diễn tả
trong giới răn trọng nhất. Một lần nữa Người đồng hóa t́nh yêu tha nhân với
t́nh yêu Thiên hùa. Cái mặc tính cách "thiện hảo" cho các công việc con
người làm đối với anh em ḿnh chính là chúng đă được làm cho Chúa Kitô.
Ư HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thế là chúng ta đă
đến Chúa nhật cuối cùng của Năm phụng vụ. Giáo Hội, kẻ đă đưa ta vào trong
mọi mầu nhiệm của Chúa. Hôm nay muốn thu tóm tát cả sứ điệp đă được nghe
trong suốt năm rồi bằng cách lập ra cho ta lễ Chúa Kitô-Vua vũ trụ.
Ta nói vậy là v́ dựa vào
các bài đọc hôm nay trong đó Chúa Giêsu lần lượt được giới thiệu như là
Vua-mục tử săn sóc chiên ḿnh, Vua-chiến thắng đánh bại các quyền lực chống
đối và làm ta thông hiệp vào cuộc Người thắng trận, Vua-Thẩm phán phân biệt
những kẻ đă biết chấp nhận quyền bá chủ của Người, Vua-tôi tớ giáo quyền
thống trị lại cho Chúa Cha. Thật khó mà tóm kết trong vài câu một h́nh ảnh
vừa đa dạng vừa đầy đủ về Chúa như thế.
"Các dân thiên hạ được
thâu họp lại trước mặt Người thảy": Đây là một cuộc phán xét phổ quát. Tất
cả mọi người đều có liên hệ. Dầu họ thuộc tôn giáo, chủng tộc hay nền văn
hóa nào, Chúa Kitô-vua cũng triệu tập tất cả họ lại trong cuộc gặp gỡ tối
hậu ấy. Điều lạ lùng là hết thảy những kẻ Chúa Kitô-vua sắp xét xử, đều
không biết rằng họ đă phục vụ Người hay bỏ rơi Người. C̣n đối với các tín
hữu, Tin Mừng đưa ra nhiều tiêu chuẩn xét xử bổ sung khác, mặc khải các yêu
sách chính xác khác; điều này thật dễ hiểu v́ họ đă biết Chúa Kitô, Đấng đă
nhờ Thánh Thần mà tự mặc khải cho họ. Họ đă phải can đảm tuyên xưng Người
(10, 32), đă phải thi hành thánh ư Cha thiên quốc (7,1), đă phải tỏ ra ḷng
nhân ái (5,7), đă phải luôn sẵn sàng thứ tha (6,14)... Ta biết các tín hữu
bị xét xử như thế đă nhận nhiều ánh sáng hơn các kẻ khác, v́ họ đă được tiền
định biết Chúa Kitô từ lúc c̣n ở dương trần. Thành thử thật dễ hiểu khi
người ta đ̣i hỏi ở họ nhiều hơn. Nhưng cái “nhiều hơn" này vẫn luôn đứng
trong đường hướng t́nh yêu như đối với các lương dân đă không được nhiều ánh
sáng ngần ấy. Chỉ khác điểm này là các Kitô hữu, v́ đă biết rơ các yêu sách
t́nh yêu hơn, v́ đă biết rằng Chúa Giêsu tự đồng hóa với tất cả các kẻ "bé
mọn" của thế gian, nên sẽ khó ḷng chữa ḿnh hơn lương dân được.
2. Trang Tin Mừng hôm
nay chỉ nói đến các việc phục vụ thuộc b́nh diện vật chất phải thi hành đối
với các kẻ "bé mọn” của thế gian nầy. Nhưng đó chỉ là những ví dụ, bảng kê
khai các việc lành phúc đức không chỉ từng ấy. Chúa Giêsu chỉ gợi lên những
việc rơ ràng nhất. Nhưng Người cũng đă rất có thể đề cập đến việc giáo dục
những kẻ dốt nát, phấn khích người suy nhược, bầu bạn với những ai đơn côi,
cảm thông vơi các gia đ́nh tang thế, tươi cười với người quạu cọ… Khi vừa
đáp ứng nhu cầu của tha nhân, là ta làm được một điều ǵ đó cho các anh em
của con người là ta làm cho chính bản thân Chúa Giêsu. Chính các dấu tích
t́nh yêu đó một ngày kia sẽ lầm ta xứng đáng nghe bảo: hăy đến, hỡi những
người được Cha Ta chúc phúc ...".
11. Lễ Chúa Kitô Vua –
Noel Quesson
Khi Con Người đến
trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người
sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.
Trong bài giảng lớn cuối
cùng này của Đức Giêsu, người thợ mộc hèn mọn Nadarét sau cùng biểu lộ ư
thức phi thường mà Người có về vai tṛ của ḿnh. Ơû đây, chúng ta có sự
khẳng định mạnh mẽ nhất về thiên tính của Đức Giêsu theo nghĩa chặt chẽ.
Trong vài ngày nữa, Người sẽ bước vào cuộc khổ nạn (Mt 26,1-5) và trở thành
"ông vua" bị nhạo báng, bị đội măo gai, bị giết chết như một người nô lệ tầm
thường. Nhưng Người biết ḿnh là ai. Một ngày kia Người sẽ đến trong vinh
quang để phán xét thế gian, là đặc quyền mà Cựu ước dành cho Giavê. Ở đây
Đức Giêsu lấy lại tước hiệu Con Người mà Người đă sử dụng nhiều lần trong
bài giảng về thời Thế Mạt (Cánh chung): Mt 24,3.27.30.37.39.44. Kể từ ngôn
sứ Đanien (7,13), Con Người là nhân vật mầu nhiệm, có nguồn gốc từ trời, mà
sách Khải Huyền Do Thái (Đặc biệt là sách Hê-nóc) mô tả như vị Thẩm Phán của
thời Thế Mạt.
Các dân thiên hạ
sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục
tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, c̣n dê ở
bên trái.
Thỉnh thoảng chúng ta
nên nghĩ đến "Ngày" này. Tôi sẽ được đưa về với ngày đó rất nhanh. Lúc đó
mọi sự vật trần gian sẽ có một tỉ lệ mới: Lạy Chúa, xin Chúa ngay từ bây giờ
giúp con phán đoán mọi sự việc theo quan điểm vĩnh cửu, để phân biệt cái ǵ
là không đáng kể với cái ǵ là quan trọng.
“Các dân thiên hạ..".
Tôi cũng thế, tôi sẽ có mặt ở đó. Một đám đông to lớn chờ phán xét. Cũng có
mặt ở đó tất cả những người mà tôi yêu thích, tất cả những người mà tôi
biết, tất cả những người mà tôi có trách nhiệm.
Nhưng cũng có mặt mọi
người khác: Do Thái và không Do Thái, Kitô hữu và không phải Kitô hữu, tín
hữu và không tín hữu, Hồi giáo, Ấn giáo, người theo thuyết vật linh… những
nhà thần bí suốt đời sống trong sự cầu nguyện, và những người vô thẩm mà cả
đời không bao giờ cầu nguyện... tất cả đều đứng trước mặt Đức Giêsu! Người
là vị Vua Mục tử, tước hiệu mà văn chương của các ngôn sứ cũng đă dùng để
nói về Gia-vê (Ed 34,11-22).
Bấy giờ Đức vua sẽ
phán cùng những người ở bên phải rằng:"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hăy
đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho cắc ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập
địa”.
Trong vài ngày nữa, Đức
vua này, Con Thiên Chúa sẽ bị đóng đinh. Tuy nhiên Người ư thức được "ư định
của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên, lập địa!". Người nói Thiên Chúa đă tạo ra
con người… để một ngày ban cho con người Nước của Người làm gia nghiệp.
Nhưng sự phán xét dựa
trên tiêu chuẩn nào? Trên quy tắc nào sự sàng lọc được thực hiện?
V́ xưa Ta đói, các
ngươi đă cho ăn Ta khát, các ngươi đă cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đă
tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đă cho mặc, Ta đau yếu, các người đă
thăm nom, Ta ngồi tù, các người đă đến thăm.
Vậy chúng ta được phán
xét dựa trên và chỉ dựa trên t́nh yêu. Và dựa trên một t́nh yêu rất đơn
giản: cho ăn, cho uống, tiếp đón, cho mặc, thăm viếng, săn sóc. Như thế,
những cử chỉ yêu thương khiêm hạ và chân thật có một giá trị vô cùng, một
giá trị vĩnh cửu. Vả lại danh sách những hành động yêu thương mà Đức Giêsu
kể ra không hạn chế. Đó chỉ là những gương mà chúng ta có thể kéo dài ra tùy
theo cuộc sống của mỗi người.
Con tôi khóc ban đêm, và
tôi thức dậy để dỗ dành âu yếm nó. Bà mẹ già của tôi không thể ngồi dậy, và
tôi đă đỡ bà ra khỏi giường để cho bà ngồi vào ghế bành. Những người láng
giềng của chúng tôi thiếu thốn t́nh bạn họ cần và chúng tôi đem t́nh bạn đến
với họ. Trong giáo xứ, linh mục cần các bậc phụ huynh phụ trách việc dạy
giáo lư và tôi đă chấp nhận trách nhiệm này và nó chiếm khá nhiều thời gian
của tôi. Các đồng nghiệp của tôi cần được bảo vệ và tôi đă lănh trách nhiệm
về cộng đoàn và chính sách.
Thế giới thứ ba yêu cầu
chúng ta giúp đỡ để phát triển, và tôi đă tham dự vào chiến dịch thế giới
chống nghèo đói…Người phối ngẫu, con cái tôi, bạn bè tôi... đang cần những
cử chỉ yêu thương của tôi... Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng:
"Lạy Chúa, có bao
giờ chúng con đă thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, có bao giờ đă
thấy Chúa là khách lạ mà tiếp đón hoặc trân truồng là cho mặc. Có bao giờ
chúng con đă thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?"
Sự ngạc nhiên của những
người "được cứu” là một trong những yếu tố gây kinh ngạc trong cảnh này.
Theo Đức Giêsu không một ai trong số những người được Chúa Cha chúc phúc có
vẻ nhận biết đích xác điều ǵ đă được diễn ra trong đời sống hàng ngày của
họ: ư nghĩa sau cùng của các hành động họ làm chỉ được tiết lộ vào giờ sau
hết.
Như thế, cuộc phán xét
sau cùng này mà chúng ta tưởng tượng trong tương lai, c̣n rất xa trong thời
gian, thực ra lại là một biến cố thường xuyên: Chính HÔM NAY là ngày phán
xét? Thiên Chúa sẽ không cần phán xét con người, mà con người ta phán xét
ḿnh trong suốt cuộc đời.
Thiên Chúa chỉ cần tiết
lộ điều đă được "che giấu” trong mỗi ngày mà họ đă sống. Đời sống vĩnh cửu
đă được bắt đầu. Vậy điều ǵ đă được "che giấu” và không được nhận thức?
Để đáp lại Đức vua
sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho
một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đă làm cho chính
Ta vậy.”
Điều được "tiết lộ v́
thế chính là sự hiển diện khó tin được của Đức Giêsu ! Khi toàn bộ lịch sử
nhân loại sẽ hoàn tất, và để tóm thu toàn bộ lịch sử ấy, Đức Giêsu chỉ có
thể nói về Người, như thể trong vô số người đàn ông và đàn bà, chỉ ḿnh
Người đă hiện hữu, bằng sự hiện diện vô số và ẩn giấu. 'Ta đói …Ta khát… Ta
ngồi tù… Ta là khách lạ.. Ta đau ốm...".
Như thế, cuộc quang lâm
sau cùng, sáng chói trong vinh quang của Đức Giêsu từ trên các đám mây sẽ là
bằng chứng cho một "sự đến" khác, bí mật và ẩn giấu nhưng thường xuyên, và
xảy ra qua những hành động yêu thương.
Một cách rơ ràng và hiển
nhiên sự hiện diện huy hoàng của Đức Giêsu trong ngày Thế Mạt sẽ nói rằng
Người không ngừng đến và không ngừng hiện diện trong mỗi người anh em đang
cần đến chúng ta.
Lạy Chúa, xin giữ cho
chúng con luôn canh thức cho đến giờ Chúa sẽ hiện ra.
Rồi Đức vua sẽ
phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho
khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần
của nó".
Lạy Đức Giêsu, Đấng mạc
khải t́nh yêu của Chúa Cha, chính Chúa đă tuyên bố những lời đáng sợ như
thế. Con lắng nghe và không thể trốn tránh trách nhiệm đă gạt bỏ những ǵ
gây phiền nhiễu cho con trong Tin Mừng. Thật vậy Tin Mừng không phải là một
thuyết duy tâm mơ hồ và nặng t́nh cảm, đó là lời kêu gọi của một yêu sách
cực độ. Từ chối yêu thương... không giống như yêu thương? Không - t́nh yêu
không thể có chỗ của nó bên cạnh Thiên Chúa là t́nh yêu. Chúng ta nhận thấy
có một khía cạnh có tầm quan trọng tột bậc: Chúa Cha đă chuẩn bị thiên đàng
cho người từ thuở tạo thiên lập địa... c̣n hỏa ngục không được chuẩn bị cho
con người nhưng cho sa tan và các sứ thần của nó. Ơû đây chúng ta gặp lại
nhân vật hắc ám mà ngay từ lúc đầu đă được giới thiệu như kẻ thù của Đức
Giêsu (Mt 4,1), kẻ đă gieo cỏ lùng vào cánh đồng lúa ḿ (Mt 13,39), kẻ mà
Đức Giêsu đă nhiều lần đi đầu để tiêu diệt (Mt 9,34; 12,24; 8,31; 15,22;
17,18).
Tín điều về hỏa ngục
không do Giáo Hội bày đặt ra. Chúng ta nghe từ chính miệng Đức Giêsu: “Quân
bị nguyền rủa, đi đi cho khuất mắt Ta…”
Tín điều về Hỏa ngục có
nghĩa như sau: Thiên Chúa có đủ t́nh yêu cao cả để cho tạo vặt được tự do
với sự tự do chân thật, kể cả tự do nói "không" với Thiên Chúa. Dĩ nhiên
Thiên Chúa không muốn có Hỏa ngục. Và sự hiện diện dù của chỉ một người bị
sa Hỏa ngục đối với chúng ta cũng là một cớ vấp ngă, đối với Thiên Chúa th́
c̣n hơn thế nữa. Giữa Hỏa ngục “có thể" và Hỏa ngục thực, Thiên Chúa can
thiệp với tất cả năng lực của T́nh Yêu Của Người: chính ở chỗ đó, thập giá
của Đức Giêsu được dựng lên Thiên Chúa đă làm tất cả để không một ai phải
vào chỗ đó nội các tạo vật dứt khoát nói "không" với Thiên Chúa. "Thiên Chúa
sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để
thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ". "Tôi không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người' tội lỗi" (Mt 9,13). "Đức Kitô đă chết v́
chúng ta, ngay khi chúng ta c̣n là những người tội lỗi" (Rm 5,9). "Thiên
Chúa muốn mọi người được cứu (1Tm 2,4) . Hỏa ngục v́ là sự khước từ tuyệt
đối T́nh yêu nên lúc nào cũng chỉ hiện hữu từ một phía... phía của người đă
tạo ra hỏa ngục cho chính ḿnh. Nhưng chính Thiên Chúa không thể có bất cứ
sự cộng tác nào trong sự lệch lạc ấy. Chừng nào c̣n có dù chỉ một con người
ở trong sự khước từ ấy th́ có thể nói Thiên Chúa c̣n thấy ḿnh bị đóng dấu
sắt nung đỏ bởii sự từ chối ấy xúc phạm đến t́nh yêu vô hạn của Người và
người ta đoán rằng dấu ấn này đă mang h́nh thể của thập giá?
V́ xưa Ta đói, các
Ngươi đă không cho ăn; Ta khát, các ngươi đă không cho uống; Ta là khách lạ,
các ngươi đă không tiếp rước Ta trần truồng, các ngươi đă không cho mặc; Ta
đau yếu và ngồi tù, các ngươi đă chẳng thăm nom". Bấy giờ những người ấy
cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đă thấy Chúa đói, khát,
hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ
đâu?": Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các
người không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các
ngươi đă không làm cho chính Ta vậy". Thế là họ ra đi để chịu cực h́nh muôn
kiếp, c̣n những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.
Cả hai cảnh phán xét
hoàn toàn giống nhau và đối nhau: điều mà những người này đă làm, những
người khác bỏ không làm. Mọi con người dù là Kitô hữu hay không, dù biết hay
không biết Đức Giêsu sẽ bị xét đoán trên cùng một tiêu chuẩn: không phải số
lời cầu nguyện đă đọc, những hành động thờ phụng đă hoàn tất …những t́nh yêu
cụ thể mà người ấy sẽ biểu lộ cho các anh em ḿnh. Không làm điều xấu chưa
đủ. C̣n phải làm điều tốt. Mỗi con người ngay từ HÔM NAY được phán xét bằng
điều tốt lành mà người ấy làm cho những người cần đến người ấy . Vậy ngày
hôm nay, ai đang chờ đợi tôi một điều ǵ?
12. Chúa Giêsu là vua
Vào năm 1925, Đức Thánh
Cha Piô XI đă thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai tṛ và
chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng
như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi
này, chúng ta cùng nhau t́m hiểu về tước hiệu cao cả này.
Trước hết là trong
Cựu Ước.
Với những thánh vịnh,
vua Đavít đă cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua ḥa b́nh sẽ
đến để cai trị trong yêu thương:
-
Ta sẽ đặt
một vị vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.
Trong khi đó, tiên tri
Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng:
-
Thiên Chúa
sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong
nhà Giacóp và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.
Tiếp đến là trong
Tân Ước.
Qua Tin Mừng, chúng ta
thấy được nơi Đức Kitô h́nh ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua
vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây
trời để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Chính Đức Kitô, trong
những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết trước
mặt Philạô:
-
Phải, tôi
là vua.
Chính v́ thế, bản án của
Ngài đă được ghi:
-
Giêsu
Nagiarét, vua dân Do Thái.
Thế nhưng, tước hiệu
Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể
nói: Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.
Thực vậy, trong Mùa
Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. Với lễ Giáng sinh, chúng ta không
chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà c̣n mừng kính một vị
vua ḥa b́nh. Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nh́n thấy vị vua ấy xuất
hiện và tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương
Đông. Và chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức
Kitô đến để thiết lập một vương quốc của ánh sáng và t́nh thương.
Bước vào mùa phục sinh,
Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua
những đau khổ ấy, Giáo hội c̣n nh́n thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài.
Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem, một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung
hô:
-
Chúc tụng
Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.
Tiếp đến, ngày thứ sáu
tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đă
nh́n thập giá như ngai ṭa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước
khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đă phán:
-
Ngày nào
Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Rồi trong ngày lễ Phục
sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi từ
đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.
Tóm lại, niên lịch phụng
vụ luôn nh́n ngắm Đức Kitô như một vị vua. Đó cũng là điều mà toàn thể thế
giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.
Thế nhưng tuyên xưng mà
thôi chưa đủ, chúng ta c̣n phải sống điều chúng ta đă tuyên xưng, nghĩa là,
chúng ta phải trung thành với Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, bằng sống một
đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm
cho vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này.
13. T́nh yêu
Vào khoảng giữa thế kỷ
19, các dân tộc thuộc vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi
một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu
trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó th́ tất cả những ai bị bắt quả tang phạm
tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều
không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại
chính là mẹ ông, sự kiện này làm cho ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ
hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đă ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền
nhà vua ngồi yên trong pḥng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện
trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay
mẹ ông và bắt đầu xử lư theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa
quất xuống trên người mẹ ông, th́ nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở
trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và
bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đă quất xuống trên thân ḿnh nhà vua, với
thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và
nói: “Bây giờ th́ các ngươi có thể ra về, luật đă được thi hành, máu của vua
các ngươi đă chảy ra để đền bù cho tội ác này”. Kể từ ngày đó, trong đất
nước, người ta không c̣n bao giờ nghe đến nói tội tham nhũng hay hối lộ nữa.
H́nh ảnh của ông vua
trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo Hội gọi là mầu
nhiệm nhập thể cứu độ. Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hoá thân làm
người để cứu độ con người. Cũng như ông vua Hồi giáo trên đă chịu đ̣n thay
cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước, Thiên Chúa đă mang lấy
thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả
cái chết nhục nhă trên thập giá để cứu độ con người.
Nói rơ hơn, Thiên Chúa
yêu thương con người. T́nh yêu ấy không phải là một lư thuyết trừu tượng
nhưng đă trở nên hữu h́nh, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con
người và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là chính t́nh yêu của Thiên
Chúa giữa người trần, có nghĩa là v́ yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đă ban
Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con Ngài để thực hiện ư định yêu thương
của Ngài, như thánh Gioan đă viết: “Cứ dấu này chúng ta nhận ra t́nh yêu của
Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đă sai con một xuống trần để cứu chuộc
chúng ta”. Chúa Giêsu đă đến, Ngài đă giảng dạy và cuối cùng, Ngài đă bị
đóng đinh vào thập giá. Thập giá là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu và cũng là
đỉnh cao t́nh yêu của Thiên Chúa, như Chúa đă nói: “Không có t́nh yêu nào
lớn hơn là hiến mạng sống v́ người ḿnh yêu”.
Nếu Thiên Chúa là t́nh
yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, th́ đạo của Ngài hẳn phải là
đạo yêu thương. V́ thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi
những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như
bài Tin Mừng hôm nay đă thuật lại. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng
Tin Mừng ở trần gian, Chúa c̣n quả quyết: “Tôi bảo thật, những ǵ anh em làm
cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đă làm cho chính tôi”.
Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục
nơi chính mỗi người Kitô hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ.
Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lên lời an ủi khuyến khích. Ngài cần
đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống t́nh liên đới yêu thương. Ngài cần
đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
14. T́nh thương
Cách đây ít lâu, một
người lính Mỹ đang ngồi trên xe buưt ở Thụy Điển nói chuyện với một người
đàn ông ngồi bên cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế
giới. Những người công dân b́nh thường có thể đi tới toà Bạch Ốc để gặp tổng
thống và thảo luận công việc”. Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu
có đáng là ǵ. Ở Thuỵ Điển, nhà vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng
một chiếc xe buưt ḱa”. Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi
xe buưt, người lính Mỹ đă được các hành khách khác c̣n lại trên xe nói cho
biết người ấy chính là vua Gustav Adolf VI.
Trong bài Phúc âm hôm
nay nói về “Dụ ngôn cuộc phán xét chung” nói lên những điều nghịch thường
của đức tin Kitô giáo. Ngày nay nói đến sự cai trị, người ta nghĩ đến sức
mạnh của vũ trụ, quyền lực, kinh tế, tiền bạc, quảng cáo, thị trường… Chúa
Giêsu nói đến sự cai trị bằng t́nh yêu, phục vụ và trách nhiệm. Chúa Giêsu
là Đức Vua. Người đến không phải để được phục vụ, nhưng phục vụ, và hy sinh
mạng sống của Người làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Vương quốc của Người
gồm những người cùng cực, nghèo khổ, đói khát, trần truồng, bị bỏ rơi và tù
tội. Những ai săn sóc, phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của họ th́ thuộc
về vương quốc của Người.
Ngược lại, chúng ta sẽ
bị phạt “nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu nghiêm trọng của
những người nghèo khó và của những kẻ bé mọn, anh chị em của Ngài”. “Thiên
Chúa chúc phúc cho những ai giúp đỡ những người nghèo và Ngài lên án những
kẻ ngoảnh mặt đi”. Trong cuốn sách “One Heart Fullof Love”, Mẹ Têrêsa
Calcutta cũng đă cảnh giác:
“Đức Kitô đă lấy sự trao
ban trọn vẹn toàn thân ḿnh làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét
chúng ta khi giờ chết đến. Chúng ta sẽ được xét đoán trên những ǵ đă làm
cho người nghèo khổ, trên thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng
ta: “ Ta đói nhưng các ngươi đă không cho Ta ăn. Ta đói bánh, đói sự công
bằng, đói nhân phẩm con người, nhưng các ngươi đă bỏ mặc Ta! Ta trần truồng
và bị tước hết mọi điều cần thiết, Ta bị sự công bằng chối từ, và ngay cả
điều đơn giản nhất được nh́n nhận rằng Ta cũng giống như các ngươi, được
cùng một Thiên Chúa t́nh yêu tạo dựng nên để yêu thương và được yêu thương,
ngay chính điều đơn giản đó, Ta cũng bị khước từ. Các ngươi đă để mặc Ta
chết, mặc Ta cô đơn và bị xua đuổi. Ta đă bị quẳng ra đầu đường xó chợ,
không một ai đoái hoài, không một ai thương xót và chôn vùi trong quên
lăng”.
Một người thanh niên tên
là Michael Christensen đă trải qua một thời gian phục vụ chung với Mẹ Têrêsa
trong những xóm dân nghèo ở Calcutta. Trong cuốn sách của anh tựa đề là
“City Streets, City People”, anh mô tả về một gánh nặng đau đớn không thể
tưởng tượng nổi mà Mẹ Têrêsa đă phải chứng kiến mỗi ngày:
Anh kể lại rằng một ngày
nọ Mẹ Têrêsa đă cứu được một em bé bị bỏ rơi dưới cống rănh. Cánh tay và bàn
chân của em đă bị lũ chuột rúc rỉa mất gần hết. Vào cuối ngày hôm đó, Mẹ
Têrêsa hỏi Michael Christensen rằng anh đă trông thấy Chúa Giêsu chưa.
Christensen vẫn c̣n đang tập trung vào những h́nh ảnh kinh hoàng xẩy ra
chung quanh, đă chấp nhận rằng anh không thấy Chúa Giêsu ở đâu cả. Mẹ Têrêsa
đă dùng những lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong chương 25 của thánh Matthêu
về việc săn sóc những người nghèo đói, yếu đuối để giải thích cho anh. Và
sau cùng Mẹ chỉ nói rất đơn giản rằng, “Con đă làm cho chính Ta”. Mẹ Têrêsa
đă nh́n thấy Chúa Giêsu chung quanh Mẹ mỗi ngày.
15. T́nh thương
“Dụ ngôn cuộc phán xét
chung” cũng tŕnh bày một bối cảnh người mục tử tách rời chiên ra khỏi dê.
Đây là điểm sẽ tạo nên ngạc nhiên. Ai là chiên? Ai là dê? Đă có những người
không nhận ra rằng họ đang phục vụ cho Chúa Kitô khi họ cho những người đói
khát ăn uống, cho kẻ ḿnh trần mặc, đón tiếp khách lỡ đường, viếng thăm
người đau ốm, tù đày. Và cũng có những người đă không nhận ra rằng họ đă
thực sự chểnh mảng, không săn sóc Đức Kitô, khi họ làm ngơ trước những nhu
cầu của những người nghèo khổ.
Ngày 12 tháng 4 năm
1961, phi hành gia Yuri Gagarin của Nga Sô, người đầu tiên bay vào không
gian du hành xung quanh quỹ đạo của trái đất, tuyên bố khi trở về rằng đă
không nh́n thấy Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào trong cuộc hành tŕnh vào không
gian bao la của ḿnh. Nghe được lời phát biểu của ông, một linh mục người
Nga đă b́nh luận rằng: “Nếu bạn chưa nh́n thấy Thiên Chúa trên trái đất, bạn
sẽ không bao giờ nh́n thấy Ngài ở trên các tầng trời được”. Thật đáng thương
cho Yuri, vào năm 1968 ông đă bị tử nạn trong một tai nạn máy bay khi làm
huấn luyện viên phản lực cơ MIG.
Làm thế nào để t́m thấy
Thiên Chúa trên trái đất? Chúa Giêsu trả lời: “Ta đói, các ngươi đă cho ăn;
Ta khát, các ngươi đă cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đă tiếp rước; Ta
trần truồng, các ngươi đă cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đă thăm nom; Ta
ngồi tù các ngươi đă đến thăm”. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi
đă làm cho chính Ta vậy”.
Văn sĩ Kitô giáo, C.S.
Lewis, người đă chết vào cùng ngày với tổng thống John F. Kennedy bị ám sát,
đă đưa ra nhận xét này. “Khi chúng ta đi lên trời, sẽ có ba điều ngạc nhiên:
Trước hết, chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi những người chúng ta gặp thấy ở đó,
chắc chắn rằng nhiều người chúng ta không mong muốn nh́n thấy họ. Ngạc nhiên
thứ hai là chúng ta sẽ kinh ngạc v́ những người vắng mặt – những người chúng
ta đă nghĩ rằng phải ở trên thiên đàng, nhưng lại không có mặt. Ngạc nhiên
thứ ba, dĩ nhiên, sẽ là v́ chúng ta có mặt ở đó.
Phúc âm nói rất rơ,
người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia ra bởi
tiêu chuẩn căn bản dựa trên những việc làm bác ái yêu thương, chứ không phải
dựa vào danh giá, chức vụ và địa vị xă hội. Và đây chính là điều làm cho
nhiều người phải ngạc nhiên.
Một văn sĩ Kitô giáo
khác, Frederick Buechner đă diễn tả cùng một tư tưởng này như sau: “Nhiều
người vô thần là một người có ḷng tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người
có ḷng tin lại là một người vô thần mà không hay biết. Bạn có thể thành
thật tin tưởng rằng không có Thiên Chúa nhưng lại sống như thể có một Đấng
Tối Cao. Ngược lại bạn cũng có thể thành thật tin tưởng rằng có một Thiên
Chúa nhưng lại sống như thể không có ǵ”.
Chưa bao giờ sự chênh
lệch giữa những người giàu có và những người nghèo khổ lại càng ngày càng
tách biệt như ngày nay. Người Mỹ chiếm tỷ lệ 4/o dân số thế giới, nhưng đă
tiêu thụ đến 40/o số dầu hỏa của nhân loại. Họ nắm trong tay 80/o của cải
của thế giới. Tài tử Jack Nicholson chỉ nói mấy câu tếu táo trong phim
Batman đă lănh được 10 triệu đôla. Nhà vơ sĩ quền Anh hạng nặng Buster
Douglas xuất hiện trên vơ đài 7 phút để bị thua trận đổi lấy 24 triệu đôla.
Tài tử Bill Cosby với lợi tức cả trăm triệu đôla hàng năm nếu di chuyển đến
sống ở một quốc gia nhỏ bé nào đó, có thể làm cho lợi tức của toàn thể quốc
gia đó tăng lên gấp đôi. Ca sĩ Michael Jackson đă thương lượng với nhà xuất
bản để ra một CD với hợp đồng đ̣i hỏi tăng từ 18 triệu tới 25 triệu đôla.
Tất cả các cầu thủ thể thao về bóng rổ, baseball và football, đều là các
triệu phú! Michael Jordan kư hợp đồng 37 triệu đôla một năm…
Trong khi đó theo báo
cáo của hội nghị quốc tế về t́nh trạng của các trẻ em trên thế giới. Mỗi
năm, có khoảng 14 triệu trẻ em chết oan uổng v́ đói ăn, suy dinh dưỡng, và
thiếu sự săn sóc về thuốc men. Bà Oprah Winfrey trên show truyền h́nh đă đề
nghị rằng chỉ cần mỗi người Mỹ bỏ ra 19 xu một tuần, chưa tới 10 đôla một
năm, có thể cứu vớt được 14 triệu sinh mạng trẻ em dễ dàng. Có người đề nghị
rằng chỉ cần cắt giảm 10/o ngân sách quốc pḥng của Mỹ cũng có thể cứu sống
được 14 triệu sinh mạng hàng năm.
Đối diện với t́nh trạng
khủng hoảng của thế giới hiện nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă kêu gọi
mọi người hăy dấn thân xây dựng một nền văn minh mới:
“Chính ngài nói với bạn
“Hăy chỗi dậy! Hăy chỗi dậy!” Ngài yêu cầu bạn từ bỏ các ngẫu tượng của thế
giới và chọn Ngài là t́nh yêu, thứ t́nh yêu mang lại một ư nghĩa hoàn toàn
cho cuộc sống của bạn và kêu mời bạn hướng về tuổi xuân cũng như về mùa
xuân, vui vẻ sống mùa xuân trong việc trao tặng, trao tặng chính ḿnh, trao
tặng Chúa Kitô, trao tặng Ngài cho mỗi một người chúng ta, và sau đó trao
tặng chúng ta cho Ngài, trao tặng chúng ta cho tha nhân cũng như trao tặng
chúng ta cho Ngài qua tha nhân. Đó là viễn ảnh của việc xây dựng một nền văn
minh khác, một nền văn minh mới: nền văn minh t́nh thương.
Thật vậy, Giáo Hội xét
như hiền thê của Chúa Giêsu, tiếp nối công việc mục vụ của Người, Giáo Hội
luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía những người nghèo và những kẻ bị bỏ
rơi. Giáo Hội đă không ngừng lên tiếng, kêu gọi và đấu tranh chống lại sự
nghèo đói, bất công xă hội dưới mọi h́nh thức, nghèo về vật chất, tinh thần,
và đặc biệt nghèo t́nh thương yêu.
Trong cuộc cách mạng
Pháp vào năm 1789 đă xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong
rừng ba ngày với hai người con, họ không có ǵ ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng
để sống. Vào ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang
tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn.
Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục soát các bụi rậm đă nh́n thấy người mẹ
đói khổ và hai đứa con th́ chạnh ḷng thương bèn đem cho họ một ổ bánh ḿ.
Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa.
“Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả”, viên trung sĩ nói. “Bà ấy không
đói sao?” một người lính hỏi. “Không phải vậy, v́ bà ấy là mẹ”, viên trung
sĩ trả lời. Đứng trước nhu cầu của thế giới hiện nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy
cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của t́nh thương, qua lời nhắn nhủ của
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, t́nh thương đó dựa trên t́nh thương của Chúa
Giêsu Kitô, Vua của ḷng thương xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ
quát mà con người đang đi t́m kiếm.
16. Làm sao tự định giá
Khi Albert Einstein
thường đi nhiều nơi nói về thuyết Tương Đối. Ông thường có người lái xe cho
ông. Một hôm, đang trên đường, anh tài xế nói: "Thưa tiến sĩ Einstein, tôi
nghe ngài giảng bài này cả chục lần, tôi thuộc ḷng rồi và tôi bảo đảm tự
tôi có thể giảng cũng được." Einstein trả lời: "Được lắm, tôi cho anh có cơ
hội. Những người tại đại học này chưa gặp mặt tôi. Khi đến đó, tôi sẽ đội mũ
tài xế và anh sẽ giới thiệu tôi là tài xế của anh rồi anh bắt đầu giảng."
Mọi việc xảy ra y như họ dự tính và anh kia giảng bài một cách trơn tru. Đến
khi một giáo sư đứng lên hỏi một vấn đề liên quan đến công thức toán, anh ta
nhanh trí trả lời: "Câu giải đáp của vấn đề đó quá đơn giản. Tôi không ngờ
giáo sư lại hỏi tôi. Để thấy vấn đề đơn giản thế nào, tôi sẽ để tài xế của
tôi trả lời."
Làm thế nào để nên trọn
lành? Làm thế nào để biết chính ḿnh và ḿnh phải làm cái ǵ? Làm thế nào
hiểu rơ được ḿnh thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời thật đơn
giản và chúng ta nghe Chúa Giêsu trả lời: "Hăy đến, các con được Cha chúc
phúc, hưởng phúc thiên đàng Cha đă sắm sẵn từ tạo thiên lập địa" (Mt 25,34).
Họ đă học được bí quyết trở nên hoàn hảo. Chúa Giêsu nói tiếp về đức tính
thương người, tế nhị của họ: "Các ngươi đă cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống,
cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ yếu đau, tù đầy, an ủi người cô
đơn..."
Chúng ta có tin lời Chúa
Giêsu không? Chúng ta có chấp nhận quan điểm của Chúa Giêsu về Nước Thiên
Chúa không? Chúng ta có chấp nhận khi Ngài nói đến điều để thuộc về hay
không thuộc về Nước Thiên Chúa, đó là "cùng với người khác" (together)
không? Theo Chúa Giêsu, để thuộc về Nước Thiên Chúa, để nên hoàn hảo, chúng
ta phải đối xử tử tế với mọi người, hành động tử tế xuất phát từ ḷng yêu
thương quan tâm đến sự cần thiết của người khác.
Đạt được tự tin, tự
trọng cao, tâm trí b́nh an, có cảm nghĩ ḿnh giá trị, ḿnh có mục đích cho
cuộc sống, ḿnh ổn định, đó là điều mọi người mong muốn. Đúng vậy, chúng ta
đều muốn trở nên hoàn hảo, nhưng làm thế nào để được như vậy. Thời nay người
ta viết không biết bao nhiêu sách chỉ dẫn làm thế nào gỡ rối chính ḿnh và
làm thế nào ráp nối lại chính ḿnh. Các sách tâm lư phổ thông nhiều vô kể và
nó có thể giúp được một số người nhưng đối với số đông th́ nó gây rối thêm.
Khi hiểu được các điều mà các nhà chuyên môn đề nghị để giải quyết vấn đề
th́ các điều đó nhấn mạnh rằng: "Để được thành toàn trong cuộc sống, người
ta cần để ư đến nhau, cần hiểu nhau hơn. Chúng ta không thể nên viên măn lẻ
loi."
Lời Chúa Giêsu trong
Phúc Âm hôm nay nói lên một cách đơn thành rằng nên hoàn hảo là tuyệt đối
chấp nhận tiêu chuẩn Chúa đề ra là quan tâm đến người khác: "cho kẻ đói ăn,
cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, thăm tù nhân và kẻ ốm đau."
Nước Thiên Chúa không
nên coi là một viễn tượng không đạt được hay một ước mong không thực tế.
Hiện thực hoá Nước Thiên Chúa tùy thuộc mỗi người chúng ta. Nước Thiên Chúa
hiện hữu và phát triển ngay trong đời sống của mọi người chúng ta trên trần
gian. Mỗi người chúng ta có trong ḿnh một t́nh yêu được thừa hưởng v́ là
con cái Thiên Chúa: "Sẽ không c̣n sự chết, không c̣n buồn đau, không c̣n
nước mắt, không c̣n than khóc hay đau đớn. Thế giới cũ đă qua đi." Những
điều đem lại lộn xộn và phá hủy nhân loại là do con người. Trách nhiệm của
chúng ta, những người theo Chúa Kitô, là bắt đầu thay đổi cái thế giới cũ
đó, là bắt đầu sống một đời sống mới trong t́nh yêu, và đó là Nước Thiên
Chúa ngay giữa chúng ta.
Thiết lập Nước Thiên
Chúa trong thế giới này là một ưu tiên trước hết của những người theo Chúa
Kitô. Chúng ta được gọi để công bố Nước Chúa trong ḥa b́nh, công lư và yêu
thương. Tác giả sách Khải Huyền diễn tả: "Tôi thấy trời mới đất mới. Trời cũ
đất cũ đă qua đi... Tôi thấy thành thánh Giêrusalem mới xinh đẹp như cô dâu
trang điểm ra gặp chú rể. Tôi nghe tiếng nói lớn: "Đây là nơi Thiên Chúa ở
với con cái loài người. Họ là dân của Chúa và Chúa là Chúa của họ. Chúa sẽ ở
với họ." Đây không phải chỉ là một thành phố mới nhưng là một bầu khí mới.
Làm thế nào hiểu rơ được
ḿnh thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời được t́m thấy trong lời
Chúa Giêsu: "Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống..." Hăy yêu kẻ khác như Chúa
yêu chúng ta và chúng ta sẽ trở nên toàn vẹn như Chúa muốn cho mỗi người
chúng ta.
17. Lễ Chúa Kitô Vua
Cùng với Giáo Hội Mẹ,
hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm
Phụng Vụ, với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ
mới.
Lời Chúa hôm nay muốn
nói ǵ với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trích từ sách Ez 34,11-17, tŕnh bày
việc Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ
chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người; Người sẽ băng bó và an ủi
những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn
thương; đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với
đồng loại của ḿnh. Người là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công
chính.
Bài đọc hai trích từ 1Cr
15,20-26.28. Thánh nhân nói với chúng ta về niềm hoan lạc cho những người
tin vào t́nh yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đă chết và đă sống
lại, và trong sự chết của Ngài, chúng ta được cứu chuộc; trong sự sống lại
của Ngài, chúng ta được sống lại, sống lại trong ngày hôm nay, trong t́nh
nghĩa con cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương
Thiên Quốc khi tất cả được gom lại để qui phục vương quyền của Chúa Giêsu
Kitô Vua.
Trong Tin Mừng hôm nay,
Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái
giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác
độc, đều có mặt và phân xử rơ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả
những ǵ chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những
ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho
người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức
là chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc
vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích,
hành hạ và bị treo trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng
trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại th́ cũng là
lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Thiên Chúa công b́nh sẽ
dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy
chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên
vàn chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đă qua, một năm chúng ta
nhận lănh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua các Thánh Lễ
mỗi ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương
quan chúng ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ
cho chúng ta, v́ những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ư để mà xúc phạm
đến t́nh yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em ḿnh, nhất là
những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho
những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.
Một trong những điều
Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong Năm Mới này, đó là biết sám hối
những lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra ḿnh có tội
với Chúa, với anh chị em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay
đổi thái độ và phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.
Chúng ta dựa vào đâu để
biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đă đưa ra những
tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà
chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hăy đến với Ngài qua những con người đó,
những con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm t́nh,
những con người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề
có ư niệm ǵ về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên
Chúa là Cha của ḿnh. Chúng ta đến và yêu thương họ, v́ họ cũng được Thiên
Chúa yêu thương và muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương
Thiên Quốc.
Rồi những ngày này, biết
bao người anh chị em của chúng ta đang phải vật lộn với đói khổ v́ thiên
tai, v́ bệnh tật, v́ bị bỏ rơi v.v..., chúng ta nghe lời các chủ chăn trong
giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên,
nhiều người trong chúng ta không khá giả ǵ, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải
chắt chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước (Việt Nam) của chúng ta
là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và
Indonesia). Nhưng với những con người mang tâm trạng yêu thương anh chị em
ḿnh đang đau khổ, chúng ta nên bớt chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của
ḿnh để chia sẻ, mặc dù không biết có đến tay người nhận hay không? Nhưng
Chúa biết tấm ḷng của chúng ta dành cho nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ
măi th́ không biết đến bao giờ những người anh chị em mới có được chén cơm
manh áo.
Với tất cả những suy
nghĩ dựa trên Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha
trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần
thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu
chứng t́nh yêu Chúa giữa anh chị em.
Có thể nói rằng, với
hành vi dâng hiến quảng đại cho ư muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đă mang Đức
Giêsu Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới
với tâm t́nh dâng hiến và đón nhận thánh ư Chúa Cha, thể hiện qua những ǵ
chúng ta sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. Amen.
18. V́ xưa Ta đói
Suy Niệm
TÊRÊSA Calcutta là người
mê và sống đoạn Tin Mừng này. Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ. Dưới
mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương, mà c̣n là hiện thân của
chính Chúa Giêsu đau khổ.
T́nh yêu con người và
t́nh yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau. V́ yêu Ngài, nên bà yêu con người mănh
liệt hơn. "Tập nh́n ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người, dù họ có vẻ
đáng kinh tởm đến đâu đi nữa."
Đoạn Tin Mừng này được
chọn đọc vào Chúa Nhật hôm nay, v́ ở đây Chúa Giêsu được mô tả như một vị
Vua, có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển. Ngài là Thẩm phán xét
xử muôn dân, tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh. Nhưng phán
quyết của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.
Người ta được chúc phúc
hay bị nguyền rủa dựa trên những việc họ đă làm hay không làm cho Ngài, mà
họ không hề hay biết.
Vua Giêsu chẳng ở đâu
xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc. Ngài ở trong những người cùng khốn.
Vua Giêsu đồng hoá ḿnh
với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù mà chúng ta
vẫn gặp mỗi ngày.
Ngài ẩn ḿnh hay đúng
hơn Ngài tỏ ḿnh qua con người, qua những người hèn kém đáng thương nhất.
Chúa vinh quang không ngại nhận họ là anh em.
Ngài không khoác tấm áo
lộng lẫy kiêu sa để dễ gần gũi với nỗi đau của người yếu thế.
Như thế chúng ta không
phải t́m Chúa ở nơi xa xôi.
Ngài không chỉ ở trong
nhà thờ, trong bí tích.
Ngài c̣n ở nơi những
người đang cần chúng ta.
Mỗi người khốn cùng đều
là một bí tích, nơi chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu. Có những lần
Chúa đi ngang qua đời ta như vị vua giả trang làm người hành khất. Ngày phán
xét, chúng ta không được giả vờ ngạc nhiên khi nghe biết ḿnh đă để Ngài đi
qua tay trắng.
"Chúng ta sẽ bị xét xử
dựa trên t́nh yêu."
Tội lớn nhất là tội
thiếu sót: không làm điều phải làm.
Hôm nay Vua Giêsu vẫn
ngửa tay xin ta giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài. Những người mù chữ,
những trẻ em đường phố, những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu
thương, những người không t́m được cho đời ḿnh một chỗ trọ, những người tự
nhốt ḿnh trong tù ngục đam mê, những người trần trụi v́ phải sống nhờ thân
xác.
Phải làm một việc ǵ đó
cụ thể để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này.Phải xây dựng một điều tốt
đẹp nào đó để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ, vũ trụ bên ngoài và vũ trụ
trong ḷng con người.
Gợi Ư Chia Sẻ
Thế giới hôm nay c̣n
nhiều bất công và đau khổ do con người gây ra cho nhau. Bạn thử nghĩ, với
khả năng của ḿnh, bạn làm được điều ǵ để người chung quanh hạnh phúc?
Thấy Chúa Giêsu nơi
những người đói nghèo, rách rưới, vô gia cư nghề nghiệp, thậm chí đă có lần
phạm pháp, bạn nghĩ điều đó có khó không? Làm sao tôi có thể đối xử với họ
như với Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ
trụ, nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn
tám trăn ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, th́ thế
giới này sẽ đổi khác, Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là
một lượng men nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được
dậy lên, th́ là v́ men đă mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu
trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu: có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu
cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ
trụ, chúng con thường cố ư thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong
nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đă đến trái đất này từ
hơn 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến
làm phiền ḷng chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước ǵ một tỉ người công
giáo chịu để Chúa chi phối đởi ḿnh và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa
hề đến.
Như thế vũ trụ này trở
thành vũ trụ của Thiên Chúa.
19. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ư:
1. Người đời chúng ta
dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa phán
xét nhân loại, Ngài có phân biệt theo kiểu của chúng ta không? Ngài có mạc
khải về những tiêu chuẩn phân biệt của Ngài không?
2. Thiên Chúa phân biệt
kẻ xấu với người tốt dựa trên tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy? Phân biệt theo
tiêu chuẩn ấy có hợp lư không?
3. Qua bài Tin Mừng này,
bạn có rút ra được bài học ǵ mới cho việc nên thánh của bạn không? Quan
niệm về nên thánh của bạn có ǵ thay đổi không?
Suy tư gợi ư:
1. Viễn cảnh cánh
chung: phân biệt chiên và dê
Bài Tin Mừng cho thấy
một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng
của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi
người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo
Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng
lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám chỉ hai hạng người
này, bài Tin Mừng dùng h́nh ảnh chiên và dê, là h́nh ảnh mà ngôn sứ
Ê-dê-ki-en đă dùng (x. Ed 34,17-24). V́ chiên và dê là hai loài thú cùng
được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ
đến thời kỳ xén lông th́ người ta mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa
và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với
nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên
bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: «cỏ lùng
th́ bó thành bó mà đốt đi, c̣n lúa th́ thu vào kho lẫm» (13,30). Tương tự,
chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin
mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hăy thử tự xét xem, vào ngày đó,
ḿnh thuộc loại nào?
2. Tiêu chuẩn để
phân loại
Chỉ có Thiên Chúa, với
trí tuệ sáng suốt vô cùng, nh́n thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét
từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:
-
ngày ấy,
toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho
người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ
ba.
-
ngày ấy,
Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn
đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay
không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.
-
ngày ấy,
Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách
mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh ḿnh.
Dường như không có một
tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là
giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo,
ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai
đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ
nhiều, v. v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đă làm ǵ và không làm ǵ
cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói
hay cái ǵ khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.
3. Đó là tiêu
chuẩn thực tế để phán xét ai tin và ai không tin
a) Tin vào Đức Giê-su là
điều kiện để được cứu độ
Trên nguyên tắc, ai tin
vào Đức Giê-su th́ sẽ được cứu độ (x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta
được nên công chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ
không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11; ). Thật vậy, người
ta không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm
chỉnh các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất
tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ đức tin
hay t́nh yêu thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho ḿnh. Nhiều
nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với
điều kiện là bệnh viện hay trường học đó phải mang tên ḿnh, để ḿnh được
lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động
bố thí như thế không làm cho người ấy nên công chính, v́ không phát xuất từ
đức tin hay t́nh thương.
b) Đức tin ấy phải đích
thực, được chứng tỏ bằng việc làm
Người ta chỉ trở nên
công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin làm cho người ta nên công chính phải
là đức tin đích thực: «Quả thế, có tin thật trong ḷng mới được nên công
chính» (Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là loại «đức tin rẻ tiền»,
là thứ đức tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc
sống, không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường
là hàng giả. Đức tin đích thực phải là thứ «đức tin đắt giá», không chỉ được
tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh
cụ thể theo sự đ̣i hỏi của đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đ̣i hỏi
một thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. V́ không thể vừa tin, mà lại vừa có
đời sống trụy lạc, hèn nhát, tham lam, ích kỷ... Thánh Gia-cô-bê xác định:
«Đức tin không việc làm là đức tin chết» (Gc 2,14.17).
c) Việc làm của đức tin
là việc làm ǵ?
Tin ở đây là tin vào
Thiên Chúa, vào Đức Giê-su. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là T́nh Yêu, và
Đức Giê-su chính là hiện thân của T́nh Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó,
những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su, ắt phải yêu mến Ngài và
trở nên giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của t́nh yêu giữa những
người chung quanh, gần gũi với ḿnh nhất, đặc biệt với những người đau khổ,
túng thiếu, bị áp bức, bất công, cần ḷng thương xót. Như vậy, muốn biết ai
tin vào Ngài, th́ cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh,
những người gần gũi nhất (vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân
thiết...), và những người nghèo khổ cần được cứu giúp. Nếu tin Thiên Chúa
đích thực, người ấy ắt sẽ phải cư xử với họ bằng t́nh thương, cụ thể qua sự
hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ v́ họ.
Vả lại, những người
chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu
giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giê-su bên cạnh chúng ta.
Đức Giê-su xác định rơ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. V́ thế, yêu Ngài
th́ ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới
ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin
vào Ngài không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân.
Để tóm gọn lại cách nên
thánh cho chúng ta, Đức Giê-su nói: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là
anh em hăy yêu thương nhau; anh em hăy yêu thương nhau như Thầy đă yêu
thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này:
là anh em có ḷng yêu thương nhau» (Ga 13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha
nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giê-su
với những người khác.
Cầu nguyện
Tôi nghe Đức Giê-su nói
với tôi: «Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào
cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn
anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh
anh không ra ǵ. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với
họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu
Thầy. Anh làm điều ǵ cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy».