Văn Minh
Khoa Học
(tiếp)
Thế là từ đó, từ thế kỷ 18,
Âu Châu bước vào thời minh tri (Enlightenment hay
Age of Reason), thời khao khát kiến thức, thời t́m kiếm và khám phá
khoa học, bằng cách áp dụng phương pháp khoa học cho cả các ngành như
sinh vật học (biology), địa chất học (geology) và
hóa chất học (chemistry). Về sinh vật học có Carolus
Linnaeus, một nhà thiên nhiên học và thực vật học người Thụy Điển, vị đă
đặt ra một hệ thống mới để đặt tên và phân loại cây cối và thú vật. Về
địa chất học có James Hutton, một nhà hóa học người Tô Cách Lan,
nhân vật đă phổ biến một lư thuyết cho rằng trái đất quá cổ với những đặc
tính liên tục đổi thay một cách từ từ. Về hóa chất học có Joseph
Priestley, một hóa học gia người Anh, và Carl Scheele, một hóa
học gia người Thụy Điển, mỗi người tự ḿnh khám phá ra được chất dưỡng khí
(oxygen). Sau đó, qua thí nghiệm, Antoine Lavoisier, một hóa học gia
Pháp, đă khám phá ra sức bức cháy (combustion) là một phản ứng
hóa học bao giờ cũng được phát tỏa bởi một chất nào đó với chất dưỡng khí
oxygen. Cuốn Elementary Treatise on Chemistry (Khái Luận Căn Bản
về Hóa Học) ông xuất bản năm 1789 là cuốn giáo khoa
hóa học tân thời đầu tiên.
Năm 1803, nhà hóa
học người Đại Anh Quốc John Dalton nêu lên một lư thuyết mới rất quan
trọng về vật lư, đó là vật chất được tạo nên bởi các đơn vị li ti được gọi
là nguyên tử, v́, theo quan sát và thí nghiệm, hầu hết các chất bị hư hoại
đều do bởi phản ứng hóa học, song phản ứng hóa học sẽ hoàn toàn ngưng lại ở
mức độ phản ứng cuối cùng làm nên chất than (carbon), sau đó phản ứng
hóa học không xẩy ra nữa. Bấy giờ Dalton đă liệt kê ra 16 nguyên tố hóa học
(chemical element) là những chất được tạo nên bởi một loại nguyên tử
đặc biệt và những nguyên tử này dù bất khả phân chia song cũng có thể trở
thành hợp chất bằng những đường lối khác nhau để tạo nên tất cả mọi chất
liệu trên mặt đất này.
Thuyết nguyên tử của Dalton đă
giúp cho các hóa học gia cuối hậu bán thế kỷ 19 khám phá ra được thêm các
định luật về các hợp chất nguyên tử. Năm 1869, hai nhà hóa
học, một của Nga là Dmitri Mendeleev, và một của Đức là Julius
Lothar Meyer, mỗi người tự động tuyên bố rằng ḿnh đă khám phá ra được
định luật phân cách (periodic law), v́ họ thấy rằng khi liệt kê các
hóa chất theo trọng lượng nguyên tử của chúng th́ các chất có đặc tính tương
tự như nhau sẽ phân cách nhau một cách đều đặn. Nhờ khám phá này, các nhà
hóa học đă lập thành một bảng phân cách hóa chất (periodic table of the
elements) hoàn toàn để làm tiêu chuẩn chung cho tới ngày nay. Tuy nhiên,
vấn đề tại sao các hóa chất lại có một trọng lượng thứ tự như vậy chỉ được
giải quyết vào đầu thế kỷ 20 với thuyết cơ lượng (quantum mechanics)
mà thôi.
Cũng vào thời điểm ngành hóa học
đang nở rộ như thế th́ ngành sinh vật học cũng tiến đến một bước hết sức
quan trọng vào thập niên 1870, với đóng góp của nhà hóa học người Pháp,
Louis Pasteur, cũng như của một y sĩ người Đức, Robert Koch. Căn
cứ vào các nghiên cứu của ḿnh, cả hai cho thấy rằng các thứ bệnh nạn, nhất
là bệnh truyền nhiễm là do những vi khuẩn gây ra. Từ đó, Pasteur đă
nghĩ tới việc sử dụng nhiệt độ để diệt các loại vi trùng ở trong rượu, trong
bia, trong sữa và đồ ăn, một phương pháp sau đó được khoa học đặt tên cho là
phá-tổ-di-trùng (pasteurization). Ngoài ra, nhà bác học
Pasteur c̣n cho thấy tầm mức quan trọng và cần thiết của việc chích ngừa
(vaccination) và ông cũng đă chế ra một số loại chủng ngừa
(vaccines), trong đó có loại chủng ngừa rabies vaccine để đề
pḥng bị thú dại cắn (như bị chó dại cắn).
Trong thế kỷ 19, trước khi có
bảng phân cách hóa học và có việc chích ngừa, th́ thuyết tiến hóa (evolution)
đă xuất hiện, một lư thuyết của Charles Darwin, một người Đại Anh
Quốc, được phổ biến trong cuốn Nguồn Gốc Giống Loại (The Origin of
Species) của ông xuất bản năm 1859. Thuyết tiến hóa này
được bắt đầu từ kinh nghiệm việc nhân tạo lựa giống (artificial
selection) của tác giả là một người nuôi chim bồ câu bấy giờ. Theo tác
giả, việc tự nhiên lựa giống (natural selection) xẩy ra lâu
hơn là việc nhân tạo lựa giống, v́ việc tự nhiên lựa giống là sự kiện
tranh sống (competition) về đủ thứ giữa các phần tử chênh lệch
nhau (variations) trong cùng một loại, và kết quả phải xẩy ra
là phần tử nào có khả năng hơn sẽ sống c̣n (the survival of the fittest).
Chưa hết, cuối thế kỷ 19 c̣n đánh
dấu những khám phá khoa học quan trọng nữa, đó là các khám phá về điện
tính (electricity) và từ tính (magnetism),
do nhà vật lư học người Tô Cách Lan, James Clerk Maxwell, người đă
cho thấy hai lănh vực này bắt nguồn và tương giao với nhau ra sao qua bốn
phương tŕnh (equations) được phổ biến vào năm 1865.
Tác phẩm nổi danh nhất của nhà vật lư toán học này là cuốn Khái Luận về
Điện Tính và Từ Tính (Treatise on Electricity and Magnetism) xuất
bản năm 1873. Theo nhà khoc học này th́ những làn sóng điện
từ (electromagnetic waves) chuyển động giống như vận tốc của ánh
sáng, bởi v́ chính ánh sáng cũng bao gồm những làn sóng điện từ này, một giả
thuyết đă được công nhận là xác thực vào năm 1887, qua các thí
nghiệm của nhà vật lư học người Đức là Heineich R. Hertz.
Năm 1897, Joseph
Thomson, một nhà vật lư học người Đại Anh Quốc, khám phá ra rằng các
nguyên tử (atoms) có chứa đựng các vi thể (particles)
mà ông gọi là các điện tử (electrons). Năm sau đó, hai vợ
chồng vật lư gia, Marie Curie, người Pháp gốc Balan, và Pierre Curie, người
Pháp, đă lấy được chất phóng xạ (radium), nhờ đó đẩy mạnh việc
nghiên cứu năng lực phóng xạ (redioactivity).
Một trong những thành đạt về khoc
học mở màn cho thế kỷ 20 xẩy ra vào năm 1905, đó là thuyết
tương đối tính (theory of relativity) của Albert
Einstein, một nhà vật lư học người Đức. Theo thuyết này th́ các định
luật về vật lư đều giống nhau nơi tất cả mọi trường hợp liên hệ, tức là, dù
chúng ta ở đâu hay di động thế nào đi nữa, chúng ta cũng chỉ thấy các định
luật vật lư giống nhau xẩy ra mà thôi. Thuyết này cho rằng một chiếc đồng hồ
đang chạy, đối với một người ở nguyên một chỗ, sẽ có vẻ như chạy chậm hơn là
chiếc đồng hồ của một người đang di chuyển. Sau khi được khoa học chứng nhận
là đúng, thuyết tương đối tính này đă trở thành một phần chính yếu của ngành
vật lư ngang hàng với định luật chuyển động của Newton.
Năm 1911, căn cứ
vào thí nghiệm, nhà vật lư học Đại Anh Ernest Rutherford đă vẽ ra cho
thấy cấu trúc của các nguyên tử, ở chỗ, mỗi nguyên tử như là một vi cầu có
một nhân tử (nucleus) ở giữa, và có những điện tử (electrons)
phóng phát rất nhanh. Năm 1913, nhà vật lư học người Danish,
Niels Bohr, mới cắt nghĩa cho biết các điện tử của một nguyên tử hợp
nhau lại thành một quĩ đạo ở chung quanh nhân tử, khi một điện tử phóng từ
quĩ đạo phía ngoài vào quĩ đạo phía trong th́ phát ra một số lượng nhiệt
năng nhất định nào đó. Chính thuyết cơ lượng (quantum mechanics)
này cũng đă cho thấy được lư do tại sao hóa chất cần phải được xếp thứ tự
trên bảng phân cách hóa chất (periodic table of the elements). V́
theo cơ lượng thuyết, những tác động giống nhau của một nhóm nguyên tố là do
nhóm nguyên tố ấy có cấu trúc giống nhau nơi các nguyên tử của ḿnh.
Về thiên văn, từ thập niên 1860,
loài người mới chỉ nhận thấy rằng các hành tinh cách nhau rất xa. Vào
thập niên 1920, Edwin Hubble, một nhà thiên văn
Hoa Kỳ làm việc tại Pḥng Thí Nghiệm Mount Wilson ở California mới cho thấy
là Giải Ngân Hà (the Milky Way) của chúng ta chỉ là một trong hàng tỉ
giải ngân hà khác trong vũ trụ, khi ông chứng tỏ cho biết có những chùm sao
rất lớn mờ mờ ở ngoài các giới hạn của Giải Ngân Hà, những giải ngân hà ấy
đang di chuyển chẳng những xa dần chúng ta mà c̣n xa cả lẫn nhau nữa. Như
thế có nghĩa là vũ trụ này đang giăn ra thêm và đă được xuất hiện bằng một
cuộc đại bộc phát (big bang) vào một lúc nào đó ngay từ ban
đầu. Theo các nhà thiên văn th́ vũ trụ đă được hiện hữu và tồn tại khoảng từ
10 đến 20 tỉ năm.
Về sinh vật học, căn cứ vào những
khám phá của Gregor Mendel, một Đan Sĩ Áo Quốc, vào giữa thế kỷ 19,
các nhà sinh vật học mới chỉ biết được những đặc tính thể lư là do di truyền,
song măi đến năm 1953, nhờ hai nhà sinh vật học, một của Hoa
Kỳ là James Watson và một của Đại Anh Quốc là Francis Crick,
khoa học mới khám phá ra cấu trúc của DNA (deoxyribonucleic acid)
là một thứ phân tử (molecule) làm nên chất di truyền (gene).
Ngày 22/2/1997, thế giới bàng hoàng kinh ngạc trước sự xuất
hiện của con Dolly bên Tô Cách Lan, hoàn toàn do việc phối bào
nhân tạo (cloning) mà có, một trong những thí nghiệm bằng cách
tạo sinh vô tính dục này là nhờ bởi kỹ thuật phối hợp giữa một tế bào vú (c̣n
nguyên chất DNA) lấy từ con chiên cái đủ lớn thứ nhất, với một tế bào trứng
(đă bỏ chất DNA đi) lấy từ một con chiên cái thứ hai, đem cấy vào trong bụng
của một con chiên cái thứ ba, sau 148 ngày, con chiên cái thứ bốn giống hệt
con chiên cái thứ nhất (v́ có chất DNA của con chiên cái thứ nhất này) đă
chào đời.
(c̣n tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL