Bá Chủ Hoàn
Cầu
ếu con người không nắm được sự
thật, tức không sống trong sự thật và sống theo sự thật là thực tại hiện hữu
th́, theo lư luận tự nhiên, con người chưa sống thật, nghĩa là con người c̣n
đang mơ màng hay sống trong mung lung, do đó, theo kinh nghiệm cho thấy, con
người lúc nào cũng có thể làm những ǵ không xứng hợp với thân phận làm
người đích thực của ḿnh, thậm chí cả những việc mất tính người, hay nếu
không muốn nói theo tâm lư và luân lư như thế, mà nói cách khác theo khoa
học hơn, th́ những việc con người làm đang lúc như sống trong một vùng
ngụy chân không (false vacuum) theo vật lư toán học như thế sẽ
làm cho con người tự nhiên phồng nở (infaltion) ra nhiều vũ
trụ con người khác nhau, tức loài người ai cũng là một vũ trụ riêng biệt.
Hiện tượng mỗi người là một vũ
trụ được phồng nở ra bởi một thứ chân không tưởng, tức bởi tầm thức vô thức
nơi bản thân con người, hay bởi con người, về tâm linh, chưa hoàn toàn biết
được ḿnh, nên về ư chí và tác hành, chưa thực sự làm chủ được ḿnh, do đó,
như lịch sử loài người cho thấy, con người đă có những hành động phi nhân
bản phản lại chính ḿnh, điển h́nh nhất là hiện tượng đế quốc, muốn làm bá
chủ thiên hạ. Sau đây là lược sử về những sự kiện liên quan đến diễn tiến
của hiện tượng đế quốc.
Hiện tượng đế quốc được phát xuất
từ ḷng con người tham lam đến ghen hận và lấn át đồng loại. Mở màn cho hiện
tượng đế quốc này là sự kiện Cain hạ sát Aben em ḿnh, hai người con đầu
tiên của nhị vị nguyên tổ loài người, như Thánh Kinh Do Thái Giáo thuật lại
ở đoạn 4 trong cuốn Sách Khởi Nguyên của họ. Từ đó, lịch sử loài người cho
thấy hiện tượng đế quốc này đă diễn tiến trên lănh vực quốc gia chủng tộc.
Trước tiên phải kể đến các đế quốc thời BC. Đầu tiên là đế quốc Sargon
I ở Agade gần Babylon, thống trị vùng đất từ Địa Trung Hải đến Vịnh
Ba Tư, kéo dài đúng một thế kỷ, từ năm 2350 BC đến năm 2250 BC. Tiếp đến là
đế quốc Ai Cập ở Trung Đông, kéo dài cả 500 năm, từ năm 1554
BC đến 1070 BC, tột đỉnh là khoảng thế kỷ 1400 BC. Sau đó là đế quốc
Assyria, từ thế kỷ 800 BC tới giữa thế kỷ 600 BC, làm chủ thương lộ
Địa Trung Hải, xứ Syria, Israel, và Ai Cập. Sau đế quốc Assyria là đế
quốc Ba Tư, từ năm 545 BC đến 331 BC, làm chủ từ Địa Trung Hải và
vùng Tây Tiểu Á đến miền Bắc Nước Pakistan, cũng như từ vùng Vịnh Otman đến
Aral, rồi từ miền Đông Nam Âu Châu tới miền Nam Nước Pakistan. Sau đế quốc
Ba Tư là đế quốc Alexander làm chủ từ Hy lạp đến Aán Độ, lấy
Babylon làm thủ đô, kéo dài từ năm 323 BC đến 311 BC. Sau đế quốc Alexander
là đế quốc Rôma, một đế quốc lâu nhất lịch sử loài người, và có liên
quan trực tiếp đến Kitô giáo.
Đế quốc Rôma
Đế quốc này được bắt đầu từ năm
27 BC với hoàng đế Augustô và kéo dài 503 năm nơi phần đế quốc bên Tây và
1480 năm ở phần đế quốc bên Đông. Đế quốc Rôma được vĩnh viễn chia đôi từ
năm 395 AD, tức từ sau cái chết của hoàng đế Theođôsiô I. Phần đế quốc bên
Tây bao gồm các nước Britain, Gaul, Spain, Italy, Rome và vùng Cực Bắc Phi
Châu; phần đế quốc bên Đông gồm có các nước Greece, Macedonia, Judea,
Byzentium, Syria, Egypt và Thrace. Năm 476 AD, phần đế quốc bên Tây bị dân
Đức đánh chiếm; và năm 1453 AD, phần đế quốc bên Đông mất thủ đô
Constantinople trong tay quân Turks.
Đế quốc Byzantine
Đế quốc Byzantine là quyền lực
mạnh nhất thế giới vào năm 1000 AD. Đế quốc này là phần đế quốc Rôma bên
Phiá Đông và được bắt đầu từ năm 330 AD, thời điểm hoàng đế Constantine I
thiết lập tân thủ đô của thế giới Rôma ở một thành phố Hy Lạp cổ, một thủ đô
mang tên của hoàng đế và được gọi là Constantinople.
Đế quốc này giầu thịnh và quyền
lực hầu như suốt thời gian lịch sử của ḿnh, nhất là từ sau khi Đế Quốc Rôma
Đông Phương sụp đổ năm 476 AD. Đế quốc này được mở đầu với một biến cố rất
quan trọng, đó là việc hoàng đế Constantine biến Kitô giáo, một tôn giáo bị
đế quốc Rôma trước đó bách hại dữ dội, thành quốc giáo, và tân thủ đô
Constantinople cũng là giáo đô của Kitô giáo trong đế quốc Byzantine bấy
giờ. Dưới thời hoàng đế Justinianô (527-565), đế quốc này bao gồm phần đất
Nam Âu và Đông Âu, cùng với phần đất Bắc Phi và Trung Đông.
Đến thập niên 630, người Ả Rập
phất cờ Hồi giáo bắt đầu đánh chiếm một số lănh thổ của đế quốc này, và đă
chiếm được Trung Đông, trong đó có cả Đất Thánh và thành Giêrusalem. Cho dù
đế quốc này vào thế kỷ thứ chín, có chiếm lại hầu hết phần đất bị chiếm trên
đây, nhưng cũng chỉ kéo dài tới giữa thế kỷ 11.
Thật vậy, năm 1071, đế quốc đă
phải đương đầu với một lực lượng hùng hầu chưa từng thấy, đó là quân Thổ
Seljuk nổi lên từ miền Trung Á và đă bị họ đánh thảm bại nặng nề trong trận
Manzikert ở Armenia. Quân Thổ chiếm Thánh Địa và làm khó dễ các phái đoàn
hành hương tại đây. Đó là lư do xuất hiện của Đạo Binh Thánh Chiến Kitô Giáo
từ năm 1097, sau khi hoàng đế Byzantine bấy giờ là Alexious I Comnenus lên
tiếng cầu cứu với Đức Giáo Hoàng Urbanô II ở Rôma.
Đạo Binh Thánh Chiến thực sự đă
chiếm lại Thánh Địa. Trong khi đó, đế quốc Byzantine cũng chiếm lại được một
số những nơi đă mất vào tay quân Thổ Seljuk. Tuy nhiên, vào năm 1204, thủ đô
Constantinople của đế quốc bị Đạo Binh Thánh Chiến Kitô Giáo lần thứ tư
chiếm đoạt để thiết lập vương quốc của riêng họ. Tuy đế quốc có tái chiếm
lại được thủ đô Constantinople vào năm 1261, song từ đó vẫn không thể nào
lấy lại được uy thế của ḿnh như trước, cho tới khi hoàn toàn sụp đổ gần 200
năm sau, năm 1453.
Đế quốc Rôma Thánh.
Đế Quốc Byzantine tuy là một nửa
phần tách ra của Đế Quốc Rôma vào thế kỷ thứ tư và là tiếp nối của Đế Quốc
Rôma cho đến thế kỷ 15 của Thiên Kỷ Thứ Hai Kitô Giáo, song tự nó h́nh như
không phải là cuộc tiếp nối của Đế Quốc Rôma cho bằng Đế Quốc Rôma Thánh,
như đế quốc này đă tự nhận ḿnh như vậy. Bởi thế, có thể nói, Đế Quốc Rôma
Thánh được bắt đầu từ Vua Charlemagne, người mà vào thế kỷ thứ 8 đă chiếm cứ
và hiệp nhất được một vùng đất Âu Châu lại với nhau, bao gồm vùng đất của
những nước hiện nay như Bỉ, Pháp, Lục Xâm Bảo, Netherlands và một phần của
Đức.
Đức Giáo Hoàng Leo III đă phong
cho Vua Charlemagne làm Hoàng Đế của những người Rôma vào năm 800. Tuy đế
quốc Chalemagne bị phân tán quyền lực sau khi vua này qua đời năm 814, nhưng
ư tưởng thành lập một đế quốc Kitô giáo đă thành h́nh và vẫn tiếp tục được
theo đuổi. Năm 961, Vua Otto I của Đức đă vượt qua dẫy núi Alps để dẹp tan
một cuộc nổi dậy ở Rôma, bởi thế, vua này đă được Giáo Hoàng phong cho làm
hoàng đế của hai nước Đức và Ư năm 962.
Đó là lư do Đế Quốc Rôma Thánh
thực sự chỉ có Đức Quốc và rất ít liên hệ với Đế Quốc Rôma cũ. Từ thế kỷ thứ
10 đến thế kỷ 14, Đế Quốc Rôma Thánh, một danh xưng được chính thức sử dụng
vào thế kỷ 13, cùng với Giáo Hội Công Giáo Rôma, đă trở thành hai quyền lực
chính yếu ở Âu Châu. Tuy nhiên, trong thế kỷ 15, đế quốc này chỉ giới hạn
vỏn vẹn trong nguyên lănh thổ Đức Quốc mà thôi, c̣n ở những nơi khác, hoàng
đế không c̣n quyền lực nào cả.
Vào năm 1438, Nhà Habsburgs, một
vương tộc tiên khởi ở Âu Châu, lên nắm quyền bính của đế quốc này trong gần
400 năm, song càng ngày càng bị suy yếu hơn, nhất là vào Thời Cải Cách của
Thệ Phản ở thế kỷ 16, thời phân rẽ Đức Quốc thành hai thành phần, Công Giáo
và Thệ Phản. Cuối cùng, vào năm 1806, hoàng đế Francis II đă tuyên bố Đế
Quốc Rôma Thánh hết thời.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL