Thời Điểm Maria - Thời Điểm Thánh Linh

 

Mọi sự đều có thời điểm ấn định, và mọi việc dưới gầm trời này đều có thời. Thời sinh ra và thời chết đi; thời trồng cấy và thời bật rễ. Thời tán sát và thời chữa trị, thời phá đổ và thời dựng xây. Thời khóc lóc và thời vui cười; thời than văn và thời nhẩy mừng... Thời xé bỏ và thời khâu vá; thời lặng thinh và thời lên tiếng. Thời yêu thương và thời ghét bỏ; thời chiến tranh và thời ḥa b́nh” (Ecc.3:1-4,7-8).

 

Đến cả những việc thần linh thực hiện “dưới gầm trời này” cũng có thời của ḿnh và phải theo thời. Chẳng hạn như việc “Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn.1:14): “Đến thời điểm ấn định, Thiên Chúa đă sai Con ḿnh sinh ra bởi một người nữ, sinh ra dưới lề luật” (Gal.4:4). Kể cả việc “Con Người phải được treo lên để tất cả những ai tin sẽ được sự sống đời đời nơi Người” (Jn.3:14-15) không phải xẩy ra lúc nào cũng được, mà là cho đến khi Người cho phép xẩy ra, qua lời tuyên bố: “Đây là giờ của các người - giờ chiến thắng của tối tăm” (Lk.22:53).

 

Đúng thế, theo thời của ḿnh, Chúa Giêsu Kitô chỉ ở thế gian 33 năm, từ khi nhập thể trong ḷng Trinh Nữ Maria cho đến khi về trời, “không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt.20:28).

 

Sau đó, theo dự án và chương tŕnh cứu độ thần linh của Thiên Chúa, là đến Thời Thánh Linh, Thời Thánh Linh cùng với Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, hay cũng là Thời Giáo Hội nhờ Thánh Linh làm cho thế gian nhận biết Chúa Giêsu Kitô: “Là Thần Chân Lư, Đấng từ Cha mà đến và cũng là Đấng Thày từ Cha sai đến, Ngài sẽ làm chứng về Thày. Các con cũng phải làm chứng nữa, v́ từ ban đầu các con đă ở với Thày... Khi Ngài đến, Ngài sẽ làm cho thế gian nhận thức được ḿnh sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và về việc luận phạt” (Jn.15:26-27;16:8); “Các con sẽ nhận được quyền lực khi Thánh Linh xuống trên các con; rồi các con phải là những nhân chứng của Thày ở Gialiêm, Giuđêa và Samaria, cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8).

 

Như thế, Thời Thánh Linh và Thời Giáo Hội cũng là một, một thời sẽ kéo dài “cho đến tận thế” (Mt.28:20), tức sẽ kéo dài “cho tới khi, sau hết, tất cả mọi sự phải qui thuận Con, rồi Con qui thuận chính ḿnh cho Đấng đă làm mọi sự qui thuận ḿnh, để Thiên Chúa trở nên tất cả trong mọi sự” (1Cor.15:28). Tuy nhiên, theo thực trạng hiển nhiên cho thấy, thế giới văn minh càng ngày càng tân tiến đến mức tuyệt đỉnh trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba hiện nay lại càng tỏ ra ngang nhiên bất thuận Thiên Chúa hơn là ngoan ngoăn “qui thuận” Đức Giêsu Kitô, Con Ngài.

 

Thế nhưng, chính hiện trạng thế giới có vẻ bi quan hiện nay lại càng chứng tỏ Thời Thánh Linh, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhận định trong sứ điệp ngài gửi nhân ngày Chúa Nhật Truyền Giáo 18-10-1998 sau đây:

 

“Kiến thức về Thần Linh đang tác động trong cơi ḷng các tín hữu và can thiệp vào các biến cố lịch sử là một lư do để chúng ta lạc quan và hy vọng. Dấu hiệu cả thể thứ nhất của tác động này là t́nh trạng khủng hoảng ngược ngạo đang xẩy ra trong thế giới tân tiến của chúng ta đây: đó là một hiện tượng phức tạp mà những yếu tố tiêu cực của chúng lại thường gợi lên như là một phản ứng cho các khẩn nguyện thiết tha hướng về Thần Linh ban sự sống, nói lên nỗi khát mong Tin Mừng của Chúa Kitô Cứu Thế là Đấng đang hiện diện trong cơi ḷng con người... Trong những thập niên vừa rồi, cuộc khủng hoảng giai đoạn được diễn tả trong Hiến Chế Mục Vụ Công Đồng Vaticanô II (từ đoạn 4 tới 10) đă trở nên sâu nặng hơn: t́nh trạng thiếu lư tưởng và các giá trị càng tràn lan hơn; cảm nhận về Chân Lư đă mất đi và khuynh hướng tương đối về luân lư càng tăng hơn; một nền luân lư cá nhân duy lợi bấp bênh càng thịnh hành; trong nhiều cách thức rơ ràng là con người tân tiến một khi chối bỏ Thiên Chúa th́ lại càng kém nhân bản hơn, đầy sợ hăi và căng thẳng, đóng khung bản thân ḿnh, không thỏa măn và vị kỷ. Hậu qủa thực tế hết sức hiển nhiên là mẫu sống hưởng thụ càng nổi hơn bao giờ hết, mặc dù bị phê phán rất nhiều. Mối nguy hiểm dính dáng đến t́nh trạng này thường sâu đậm với nhiều vấn đề vật chất có thể trở nên thu hút, đến nỗi khiến cho những mối liên hệ nhân bản trở nên lạnh lùng và khó khăn. Người ta cảm thấy rằng họ đang trở nên khô cứng, hung hăng, khó nói cười, khó chào hỏi nhau, cám ơn nhau, quan tâm đến các khốn khó của nhau... Thế nhưng, chính những t́nh trạng như thế, những t́nh trạng đưa con người tới những giới hạn thất vọng, những giới hạn gợi lên mối thôi thúc cầu khẩn với Vị là ‘Chúa, Đấng ban sự sống’, v́ con người không thể sống vô nghĩa và vô vọng. Dấu hiệu cả thể thứ hai của việc Thần Linh hiện diện là sự tái nhận thức cảm quan đạo giáo nơi dân chúng. Đây là một phong trào không phải là không có những mập mờ, nhưng cũng là một phong trào cho thấy tỏ tường tính cách hụt hẫng, trong lư thuyết cũng như trong thực hành, của các ư hệ và triết lư vô thần, của các thể chế duy vật hạ con người xuống tầm mức sự vật trên trái đất này. Con người không thỏa măn với chính ḿnh. Hiện nay đang có một xác tín rộng răi là việc làm chủ của thiên nhiên và vũ trụ, của khoa học và kỹ thuật tân tiến nhất không thể nào làm con người thỏa măn, v́ chúng không thể nào cho thấy được ư nghĩa tối thượng của thực tại: chúng chỉ là những dụng cụ thuần túy, chứ không phải là cùng đích cho đời sống con người cũng như cho cuộc hành tŕnh của nhân loại... Chúng ta làm sao không nh́n thấy trong tất cả những sự kiện này công việc của Đấng Quan Pḥng thần linh, Đấng dẫn dắt nhân loại và lịch sử hướng đến những điều kiện sống nhân phẩm hơn cho tất cả mọi dân tộc”.

(L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ,

số 24/1546, 17-6-1998, trang 3)

 

Tuy nhiên, vấn đề cần phải giải quyết hiện trạng thế giới hiện nay ở đây mới càng chứng tỏ Thời Thánh Linh hơn bao giờ hết. Thánh Louis Grignion de Montfort, trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 13, đă cho rằng “một trong những lư do tại sao Chúa Giêsu Kitô không được nhận biết như Người cần phải được nhận biết”, là v́ “Mẹ Maria đă không được nhận biết cho đến ngày nay”. Từ đó, thánh nhân đă mạnh dạn kết luận như sau:

 

“Nếu kiến thức về Chúa Giêsu Kitô và vương quốc của Chúa Giêsu Kitô phải đến trong thế gian thực sự là như thế, th́ những điều này sẽ là kết qủa cần phải có từ kiến thức về Trinh Nữ rất thánh Maria và từ vương quốc của Trinh Nữ rất thánh Maria này, vị đă đưa Người vào thế gian lần thứ nhất cũng sẽ là vị làm cho lần đến thứ hai của Người đầy quang vinh”.

 

Đó là lư do thánh nhân cũng đă không ngần ngại công bố cảm nhận linh thiêng của ḿnh gần như là một viễn ảnh tiên tri cho hậu thế trong đoạn 49 của cuốn Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria như sau:

 

“Vào lần đến thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô cũng được nhận biết, mến yêu và phụng sự”.

 

Nếu vậy th́ ngay trước Thời Tái Giáng của Chúa Giêsu Kitô chính là Thời Thánh Linh với Mẹ Maria, đến nỗi có thể nói nhấn mạnh hơn, đó là Thời Điểm Maria, thời điểm “Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô cũng được nhận biết, mến yêu và phụng sự”. Thế nhưng, “Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ hiện” thế nào, hay căn cứ vào đâu để có thể nhận ra Thời Điểm Maria, nếu không phải vào “những dấu chỉ thời đại” (Mt.16:3), tức vào những cuộc hiện ra của Người từ đầu thế kỷ 19 và vào những tín điều về Người được Giáo Hội long trọng tuyên bố từ giữa thế kỷ 19 đến nay.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL