NGUYỆN GẪM VỚI THÁNH VỊNH
Linh mục Giuse Vơ Đức Minh
Tv 8
VINH QUANG THIÊN CHÚA TẠO HOÁ.
1. Yavê Chúa chúng tôi
Danh Người uy linh dường bao trên khắp cơi trần !
Ước ǵ tôi được ca hát uy đức Người chốn trời cao
Hơn miệng nhi đồng nhũ tử vang ca.
2. Khi Người dựng nên thành quách
chống phường loạn
Để tiêu diệt đối địch và đứa căm thù
3. Một khi trông lên trời, ngón
tay Người đă làm ra,
Trăng sao vằng vặc Người đă định chỗ
4. Th́ phàm nhân là ǵ để Người
nhớ đến,
Hay con người là ǵ để Người bận tâm ?
5. So với thần linh Người không
để cho thua mấy tí,
Vinh dự huy hoàng là triều thiên Người ban tặng
6. Người cho thống trị các kiệt
tác tay Người làm
Muôn sự Người đă đặt cả dưới chân.
7. Chiên, dê, ḅ, ngựa hết thảy,
Lại thêm các loài mănh thú
8. Chim trời cá biển,
Những vật ngang dọc nẻo đường đại dương.
9. Lạy Yavê, Chúa chúng tôi
Danh Người uy linh dường bao trên khắp cơi trần !
Đọc qua Thánh vịnh 8, chúng ta ghi nhận hai
yếu tố nổi bật:
- Yếu tố cố định: Yavê, Chúa chúng tôi ;
- Yếu tố linh động : những quan sát, kể lể
của vịnh gia ;
Từ đó chúng ta thấy được lối cấu trúc đồng tâm mà tác giả chủ ư sử dụng.
Mục đích là làm nổi bật tâm điểm, chủ đề của bài thơ : “Yavê, Chúa chúng
tôi !”. Và từ tâm điểm, chủ đề đó, vịnh gia lần lượt kể ra bao việc
Người làm, bao kỳ công Người thực hiện, cũng như t́nh thương vô biên mà
Người dành cho con người.
Trong toàn bài thơ thuộc gia đ́nh ca ngợi này, điều làm chúng ta ngạc
nhiên là chỉ có một từ ngữ để diễn tả niềm hân hoan phấn khởi, đó là
động từ “ca hát”. Niềm vui ở đây v́ thế không mang tính chất ồn ào, náo
nhiệt như ở nhiều bài thánh thi khác (như Thánh vịnh 150 chẳng hạn).
Chính cách đặt câu của tác giả khiến ta xếp bài thơ nàyvào nhánh thánh
thi thuộc gia đ́nh ca ngợi . Tác giả đi từ lời tung hô trang trọng (câu
2) đến thái độ chiêm ngưỡng ngất ngây (câu 4), từ câu hỏi thật đơn sơ
(câu 5) đến cách tường thuật, kể lể (câu 6-9). Rồi khi muốn diễn tả
Thiên Chúa, vịnh gia lại dùng những từ ngữ thật chỉnh : “uy linh”, “uy
đức” khiến độc giả như cảm thấy vừa đối diện với một vị Thiên Chúa thật
quyền năng, sâu thẳm, nhưng đồng thời lại rất gần gũi, thân mật với
ḿnh. Sự hiện diện gần mà xa này của Thiên Chúa có tính chất xuyên suốt
bài thơ. Một yếu tố nữa trong vịêc sử dụng từ ngữ, là vịnh gia đă khoác
cho “con người”, “phàm nhân” những tước hiệu cao quư : “vinh dự, huy
hoàng, triều thiên, thống trị, đặt dưới chân”. Đó là danh hiệu dành cho
các bậc vương đế, những người làm chủ. V́ thế, chỉ dựa trên cách đặt câu
và từ ngữ sử dụng, độc giả đă có thể bắt đầu cảm được điều mà tác giả
muốn diễn tả, đó là địa vị cao cả của con người ở trong trời đất, bởi lẽ
con người chính là “h́nh ảnh” của Đấng đầy uy đức, uy linh.
a) Danh Yavê
Yavê Chúa chúngtôi,
Danh Người uy linh dường bao trên khắp cơi trần!”
Đây là lời ca ngợi buột ra từ cửa miệng, quấy động tâm
t́nh, diễn tả sự ngất ngây, thán phục. Tính chất uy linh của Yavê không
những rực sáng xuyên qua các kỳ công trong vũ trụ, mà c̣n chiếu giăi ra
và được trần gian nhận biết.
“Danh Người” không phải là một từ ngữ trừu tượng, mà là
thực tế sâu xa của Người. Theo truyền thống Hipri, Danh gắn liền với con
người cụ thể. Người ta chỉ nói lên tên ai khi người đó tỏ hiện bằng các
hành động. V́ thế Danh Yave gắn liền với với chính Yavê, gắn liền với
những ǵ mà cơi trần gian nghe, thấy, biết được.
b) Uy đức và t́nh thương của
Yavê
Từ trong thâm tâm của ḿnh : “tôi”, thi hứng của vịnh
gia trải rộng ra vũ trụ bao la : “chốn trời cao”, “thành quách”, “ṿm
trời”, “trông lên trời”, “trăng sao vằng vặc” … để rồi quy lại trong
thân phận của “phàm nhân”, “con người”.
Đứng trước uy đức vô biên, sâu thẳm của Yavê, vịnh gia
chỉ có thể bập bẹ như “miệng nhi đồng”, “nhũ tử”, như những đứa trẻ chưa
thành nhân, sống c̣n nhờ sữa mẹ. V́ thế tâm t́nh ca ngợi này mang tính
chất trong sáng, hồn nhiên, siêu thoát như những lời bập bẹ dễ thương
của đứa bé đối với mẹ ḿnh.
Dựa trên tài liệu cổ, đối chiếu, th́ “nhi đồng”, “nhũ
tử” chính là sao hôm, sao mai. Sao hôm, sao mai luôn thay phiên nhau
hiện diện trên ṿm trời đề xứơng ca trong huyền thoại về tạo dựng của
Canaan.
Từ h́nh ảnh đó, vịnh gia ước mong tâm hồn ḿnh luôn tỉnh
thức, hiện diện như sao hôm, sao mai để không bao giờ ngưng lời tán
dương Yavê, Thiên Chúa của ḿnh. Động từ “dựng nên” gợi lại hành động
tạo dựng của Thiên Chúa. Nhưng “phường loạn” của Thiên Chúa là ai ?
Chính là kẻ “đối địch” và “đứa căm thù” của Người (biền ngẫu tiệm tiến).
Thánh kinh thường nhắc tới bốn sức mạnh đối thủ của
Thiên Chúa (cf Ys 51,9-10) :
“Há lại không phải chính ngươi đă phân thây Rakhab
Và đâm chết thuồng luồng sao ?
Há lại không phải chính Ngươi đă tát khô biển cả, nước
của vực thẳm bao la ?”
Rakhab: - hỗn mang nguyên thủy (Yb 9,13)- Ai cập (Ys
30,9) Thuồng luồng - thủy quái trong biển nguyên thủy (Yb 7,12) - Pharaô
(Ez 29,3) Biển cả - Biển nguyên thủy trước tạo dựng (Yb 38,8) - Biển
sậy - biển đỏ (Xh 14,2 Vực thẳm - Vực thẳm nguyên thủy (Kn 1,2) - Ḷng
biển sậy (Ys 63,13).
Giải thích “phường loạn” của Tv 8,3 dưới ánh sáng của Ys
51,9-10 h́nh như tác giả cuả bài thơ muốn nói lên sự phá hoại của các
sức mạnh đối nghịch cùng Thiên Chúa trong chương tŕnh tạo dựng và cứu
độ của Người. Chính hành động cứu độ của Yavê Thiên Chúa đă làm thất bại
sức tàn phá mà “phường loạn”, “đứa căm thù” xem ra đă thành công đối với
công tŕnh tạo dựng của Thiên Chúa.
Sau khi đă tự đặt ḿnh vào quỹ đạo uy đức của Thiên
Chúa, sau khi đă mặc nhiên tuyên xưng sự toàn thắng của Người, vịnh gia
muốn chiêm ngắm những kỳ công của Yavê, ngắm nh́n vẻ huy hoàng, trật tự
của trời đất, của vũ trụ để rồi nh́n lại thân phận mỏng ḍn, yếu đuối
của con người. Nét tương phản đó hiện ra trong các câu thơ. Ư và lời thơ
toát lên được tâm t́nh của vịnh gia : vừa bao la, bàng bạc mà cũng vừa
day dứt thâm trầm.
Trước cái bao la sâu thẳm của trời đất và chỗ đứng kỳ
diệu của con người trong vũ trụ, vịnh gia tự hỏi :
“th́ phàm nhân là ǵ để Người nhớ đến ?
hay con người là ǵ để Người phải bận tâm ?”
Tiếng Hipri sử dụng 2 kiểu nói để chỉ con người :
- phàm nhân (Enosh - le mortel) : phải chết ;
- con người (Ben-adam - le fils d’homme) : mỏng ḍn, yếu
đuối, tội lỗi
Họ thế mà lại là đối tượng của “nhớ đến”, của “bận tâm”
của Yavê
- Nhớ đến : động từ chuyên biệt trong tưong quan giao
ước, gắn liền với hành động cứu độ của Thiên Chúa. Cf Xh 2,23 ; Lc 1,54
- 55
- Bận tâm : động từ diễn tả hành động cứu độ, phương thế
sử dụng trong cứu độ, chăm sóc, viếng thăm. Cf Xh 3,16 ; Lc 1,68
Ngỡ ngàng, thắc mắc về chỗ đứng của con người trong vũ
trụ (tạo dựng), cũng như thân phận con người trong t́nh thương của Yavê
(cứu độ), vịnh gia đặt ḿnh dưới ánh sáng của Lời Chúa, của Giao ước để
t́m ra câu đáp trả cho “phàm nhân là ǵ ?”, “con người là ǵ ?”
Bằng bốn câu thơ, tác giả đưa ta rảo lại hai câu chuyện
về tạo dựng ở Kn 1 và Kn 2 :
- Trong Kn 1 tác giả Thánh kinh đưa ta từ hỗn mang
nguyên thủy đến việc hoàn tất tạo dựng theo lối cấu trúc trôn ốc ; nhờ
đó, ta hiểu được con người chính là cao điểm của tạo dựng : h́nh ảnh của
Thiên Chúa ;
- Trong khi đó ở Kn 2 nhờ lối cấu trúc đồng tâm, con
người được xem là tâm điểm của tạo dựng : đối tượng của t́nh thương của
Thiên Chúa.
Tứ đó, với ư nghĩa về hai câu chuyện của tạo dựng, vịnh
gia thấy được con người là ǵ : đó là tâm điểm và là cao điểm của công
tŕnh tạo dựng. Cho nên, con người không những là h́nh ảnh của Thiên
Chúa, mà c̣n là h́nh ảnh rất yêu quư của Người. Do vậy, ta sẽ không ngạc
nhiên khi bắt gặp những tước hiệu rất là vương giả mà vịnh gia gán cho
con người : “vinh dự, huy hoàng, triều thiên, thống trị, đặt dưới chân”.
Trong vũ trụ, vạn vật, con người chính là chủ tế, có
nhiệm vụ phải điều khiển sử dụng mọi sự cho xứng với cương vị của ḿnh.
Tác giả bài thơ liệt kê ra những đạo quân súc vật, chim
trời, cá biển … để rồi trải rộng chúng đến vô tận bằng câu : “những vật
ngang dọc nẻo đừơng đại dương”
Tất cả mọi vật được dựng nên để con người sử dụng, để ở
dưới quyền thống trị của con người. Tác giả như ngây ngất với địa vị,
vai tṛ của con người. Nếu không là đối tượng của “nhớ đến” và “bận tâm”
của Thiên Chúa, th́ con người chỉ là phàm nhân, có giá trị ǵ đâu !
Nhưng, v́ được tạo dựng và nhất là được cứu độ, nên con người mới trở
nên hiện thân sâu sắc của chính Yavê Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không
dằn được nỗi xúc cảm, vịnh gia đă thốt lên :
“Lạy Yavê, Chúa chúng tôi
Danh Người uy linh dường bao trên khắp cơi trần !”
Tv 74
AI CA VỀ THÁNH ĐIỆN BỊ PHÁ
1. Nhân
sao, lạy Thiên Chúa, Người đă từ rẫy đến cùng,
Người đă bừng nổi giận với chiên ràn Người ?
2. Xin
Người nhớ đến cộng đoàn Người đă tậu từ ngàn xưa
Bộ lạc Người đă chuộc làm cơ nghiệp của Người,
Núi Sion nơi Người trấn ngự.
3. Xin
hăy quá bộ duyệt xem cảnh thê lương vạn đại :
Quân thù đă tàn phá cả trong thánh điện !
4.
Chúng rống lên, quân địch của Người, trong công hội
Cờ hiệu là cờ hiệu chúng cắm vào
5.
Chúng bổ phăng như thể (tiều phu)
Múa ŕu giữa cây rậm,
6.
Hoành phi và đồ cẩn chạm một thể,
Chúng giương búa, giương chùy chúng nện
7.
Chúng phóng hoả thánh điện của Người
Chúng phá b́nh địa nơi Danh Người trấn ngự
8.
Chúng định trong ḷng :
“Ta hăy triệt hạ chúng đi một trật”
chúng đă đốt phá khắp xứ các hội đường thờ Thiên Chúa
9. Dấu
lạ đâu, chúng tôi không thấy
Tiên tri cũng không c̣n,
Nơi chúng tôi không ai biết c̣n thế cho đến bao giờ !
10. Đến
bao giờ nữa, lạy Thiên Chúa
Kẻ thù c̣n thoá mạ,
Quân thù cứ phỉ báng Danh Người măi măi ?
11.
Nhân sao Người lại ṿng tay
Và tay phải Người, Người lại thu dấu vào ḷng ?
12. Lạy
Thiên Chúa, vua của tôi, từ ngàn xưa,
Giữa đất đai này, Người là Đấng dày công cứu độ.
13.
Chính Người đă ra oai xả thây đại hải,
Đập bể đầu thuồng luồng trong nước.
14.
Chính Người đă làm bay đầu hải long
Phanh thây nó làm mồi cho giải biển
15.
Chính Người đă xẻ ra khe suối,
Chính Người đă tát cạn những sông luôn chảy.
16.
Ngày là của Người, mà đêm cũng là của Người,
Chính Người đă dựng nên ánh nguyệt và mặt trời.
17.
Chính Người đă vạch cương giới địa cầu
Hạ đông các tiết, chính Người định phân
18.
Điều này xin Người ghi nhớ :
Kẻ thù đă thoá mạ Yavê
Và một dân ngu ngốc đă phỉ báng Danh Người
19.
Mạng chim câu của Người, xin chớ thí cho mănh thú
Sinh mạng hạng nghèo khó của Người,
Xin chớ lăng quên măi măi.
20. Xin
hăy đoái nh́n giao ước, v́ đă ứa đầy
Tận hang cùng ngơ hẻm, những ổ bạo tàn
21. Chớ
để kẻ bị áp bức, lui về tủi hổ
Cho kẻ khó người nghèo được ngợi khen danh Người !
22. Xin
hăy chỗi dậy, lạy Thiên Chúa
Mà bênh lấy vụ kiện của Người
Xin ghi nhớ : đưa ngu ngốc thoá mạ Người suốt ngày
23.
Đừng quên tiếng gầm của phừơng đối địch
Tiếng la lối rên lên măi của lũ phiến loạn với Người.
Bài Thánh vịnh 74 thuộc gia đ́nh lời nguyện, theo nhánh
kêu cứu tập thể. Trọng tâm đặt cơ sở trên giao ước giữa Thiên Chúa và
dân Người. V́ thế tâm t́nh củabài thơ là tâm t́nh của cả cộng đoàn. Đó
là lời nguyện của toàn dân trong lúc gặp khủng hoảng.
Theo nhận định của đa số các nhà chú giải, Tv 74 được
sáng tác một thời gian ngắn sau biến cố năm -587 bởi những người đă
chứng kiến cảnh đạo quân của Nabukodonosor tiến vào tàn phá Yerusalem
(x. 2V 25,9). Bởi thế đặt song song Tv 74 với Ai 2 ta ghi nhận được
nhiều nét tương đồng, không những về nội dung mà c̣n về cung giọng, tâm
t́nh của những kẻ vừa bị thấm đ̣n ! Đang ngỡ ngàng về thực tại phũ phàng
của ḿnh, chưa hiểu nổi tại sao Thiên Chúa của họ lại hầu như tỏ ra đứng
vào hàng ngủ kẻ thù, nếu không dám nói là Người đă đổi trắng thay đen,
trở nên kẻ thù của chính dân Người ! Từ đó, cung giọng, lời nói thốt ra
từ tâm hồn đoàn dân vừa bị quật ngă là những lời than văn, kêu cứu, ŕ
rầm, càm ràm như tiếng rù ŕ độc điệu của chim câu
Bài thơ nói lên sự hiện diện của ba hạng người : đoàn
dân đang kêu cứu, phân trần với một vị Thiên Chúa mà họ không muốn Người
đồng loă với kẻ thù của họ.
Ta lưu ư đến các từ ngữ sử dụng cho ba hạng người ấy :
- Dân : “chiên ràn”, “cộng đoàn Người đă tậu từ ngàn
xưa”, “bộ lạc Người đă chuộc “, “cơ nghiệp của Người”, “núi Sion”, “mạng
chim câu của Người”, “hạng nghèo khó”, “kẻ bị áp bức”, “kẻ khó người
nghèo”
- Kẻ thù : “quân thù”, “quân địch của Người”, “kẻ thù”,
“một dân ngu ngốc”, “mănh thú”, “ổ bạo tàn”, “đứa ngu ngốc”, “phường đối
địch”, “lũ phiến loạn với Người” …
Toàn thể bài thơ như muốn giải thích – nhưng một cách
bất toàn – câu hỏi chua cay, bở ngỡ của đoàn người đối diện với một thực
tại mà họ chưa chấp nhận nổi : “nhân sao Người đă từ rẫy đến cùng !!!”.
a. Xin hăy duyệt xem cảnh thê
lương vạn đại (74, 1-9)
Lời đầu tiên là một câu hỏi : nhân sao ? vịnh gia như
chưa chấp nhận là thật hoàn cảnh ḿnh đang sống. Tâm tư h́nh như có một
cái ǵ ấm ức, phản kháng, bộc lộ nỗi oan ức, ưất hận. Với câu hỏi “nhân
sao”, mệnh để mang hẳn sức mạnh của niềm uất hận, khác hẳn tâm t́nh trầm
lặng, khiêm tốn của Tv 51,3 :
“Lạy Thiên Chúa xin xót thương tôi
Theo ḷng nhân nghĩa của Người”
“Đă từ rẫy đến cùng” : kết hợp giữa từ quá khứ của động
từ “đến cùng” càng diễn tả một cách sâu sắc nỗi khốn quẫn hiện tại. “Từ
rẫy” nói lên thái độ đoạn tuyệt, bất can thiệp, phó mặc. Thấy, biết,
nhưng che tai, nhắm mắt làm ngơ. “Từ rẫy” nói lên chiều kích bi đát nhất
của mối tương quan thân hữu : từ bạn nay trở nên thù ! bạn nay liên minh
với kẻ thù ; bạn nay lại chỉ đường cho kẻ thù đánh vào chỗ yếu của ḿnh
; hay tệ hại hơn, bạn nay trở mặt, phản bội để ám hại ḿnh. Thật đúng là
tâm t́nh chua chát của Ai ca :
“Sao !
Người đă khoanh tay mặc kệ khi kẻ thù đến đánh
Người đă giương cung như một kẻ thù, tay phải giơ cao
Như một kẻ địch
Người tru diệt hết những ǵ là báu vật trước con người
Đức Chúa đă nên như một kẻ thù” (Ai 2,1-5)
Khi sử dụng từ ngữ “chiên ràn”, vịnh gia không những
muốn gợi lại tính chất thân mật trước kia, mà c̣n chú ư muốn làm nổi bật
chiều kích yếu đuối, cần sự chăm sóc, hướng dẫn của chủ chiên. Thật là
mỉa mai !
Sau giây phút bàng hoàng, bỡ ngỡ xen lẫn tâm trạng phản
kháng đó, vịnh gia như trút được cơn uất hận. Ông b́nh tĩnh lại và mời
gọi Thiên Chúa hăy “nhớ lại”. “Nhớ lại” gắn liền với giao ứơc. Từ đó
vịnh gia phân trần với Thiên Chúa về chỗ đứng của ḿnh trong giao ước.
Đó là “cộng đoàn Người đă tậu từ ngàn xưa” ; “bộ lạc Người đă chuộc”,
“cơ nghiệp của Người”, “núi Sion nơi Người trấn ngự” (câu 2). Bốn tước
hiệu đó như muốn nhắc nhở Thiên Chúa đừng quên Người là ai ! là :
“Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung,
Và đầy nhân nghĩa, tín thành” (Xh 34,6)
Đặt cơ sở giao ứơc vững chắc rồi, nhắc Thiên Chúa nhớ
lại Người là ai và Dân là ai trong tương quan giao ước, sau đó vịnh gia
mời Thiên Chúa “hăy duyệt xem cảnh thê lương vạn đại”.
Từ câu 3 đến câu 9, vịnh gia tuần tự kể ra cảnh đổ nát,
điêu tàn, phạm thượng của dân ngoại ; trong khi đó, vịnh gia như hàm ư
bộc lộ sự giận lẫy của ḿnh đốivới Thiên Chúa.
Bằng cung giọng dồn dập, bằng những động từ sắc bén
triệt để, vịnh gia phơi bày ra cảnh tàn phá của quân thù khi chúng kéo
vào thành thánh : “tàn phá”, “bổ phăng”, rốnglên”, “giương búa giương
chùy”, “nện”, “phóng hoả”, “phá b́nh địa”, “triệt hạ”, “đốt phá”.
Sở dĩ có cảnh điêu tàn đổ nát đó là tại sao, nếu không
phải là do hành động “bừng nổi giận” của Yave, do thái độ “từ rẫy” của
Người ? Xin hăy duyệt xem ! Người đă thấy chưa ? Người có thấy tai hại
việc Người từ rẫy đoàn dân mà trước kia Người yêu qúy không ? và rồi,
Người c̣n muốn thấy cảnh đó tới bao giờ ?
b. Nhân sao Người lài ṿng tay ?
(74, 10-17)
Trải rộng cảnh thê lương vạn đại đó rồi, vịnh gia lặp
lại câu hỏi “ đến bao giờ nữa, lạy Thiên Chúa ?”
Ông không dừng lại ở đây. Ông c̣n tiến xa hơn : ông đồng
hoá cảnh thê lương vạn đại của Dân ông với cảnh thê lương vạn đại của
chính Thiên Chúa :
“Kẻ thù c̣n thoá mạ,
Quân thù cứ phỉ báng danh Người măi măi”.
Ông khéo léo nhắc Thiên Chúa :
“Đến bao giờ nữa, lạy Thiên Chúa …”
V́ gắn liền với giao ứơc, nên kẻ thù của dân cũng chính
là kẻ thù của Thiên Chúa. Từ đó ông mạnh dạn bày tỏ :
“Nhân sao Người lại ṿng tay
Và tay phải Người, Người lại thu giấu vào ḷng ?”
Câu 12 đến 17 như phần quá tŕnh lịch sử của bản văn
giao ước. Ông nhắc lại quá tŕnh tương quan thân mật giữa Thiên Chúa với
Dân. Thiên Chúa tạo dựng (câu 13-17) cũng chính là Thiên Chúa cứu độ :
“Lạy Thiên Chúa, Vua của tôi, từ ngàn xưa
Giữa đất đai này, Người là Đấng dày công cứu độ”.
Ư tưởng về Thiên Chúa cứu độ xen lẫn ư tưởng về Thiên
Chúa tạo dựng khiến Ông thêm tin tưởng, phấn khởi. Nhịp điệu các câu thơ
diễn tả tâm t́nh đó :
“Chính Người đă ra oai …
Chính Người đă làm bay đầu…
Chính Người đă xẻ ra khe suối…
Chính Người đă tát cạn …
Chính Người đă dựng nên…
Chính Người đă vạch cương giới …
… chính Người định phân”.
Nhắc lại vài nét trong xuất hành là cốt để tin tưởng vào
ơn cứu độ của Thiên Chúa.
c. Xin hăy đoái nh́n giao ước
(74, 18-23)
Một khi lấy lại ḷng tin tửơng của ḿnh vào Thiên Chúa,
vịnh gia như cảm thấy tiêu tan tâm trạng uất hận ban đầu, Ông không c̣n
hằn học thốt lên những lời chua cay : “nhân sao”, “từ rẫy”, “đến cùng”
nữa, nhưng Ông quay về ḷng trung tín của Thiên Chúa giao ước. Trong
phần cuối của bài thơ, những động từ nổi bật là : “xin ghi nhớ” (câu
18,22) ; “xin chớ lăng quên” (câu 19) ; “đừng quên” (câu 23).
Xin ghi nhớ, xin đứng quên giao ứơc. Căn bản giao ứơc đă
rơ để phân ranh giới giữa một bên là Dân Chúa, một bên là là kẻ thù của
dân Chúa. Họ chính là những ai “thoá mạ Yavê”, là “mănh thú”, là “dân
ngu ngốc phỉ báng Danh Người”, là “những ổ bạo tàn”, là “đứa ngu ngốc
thoá mạ Người suốt ngày”, là “phường đối địch”, là “lũ phiến loạn với
Người”.
Trong khi đó, dân Chúa là những người mang thân phận
“mạng chim câu của Người”, “hạng nghèo khó”, “kẻ bị áp bức”, “kẻ khó
người nghèo”.
Trước hai hạng người đó, Yavê Thiên Chúa sẽ có hành động
như thế nào ? người sẽ lắng nghe tiếng của ai ? Người là vị Thiên Chúa
luôn nâng đỡ kẻ nghèo khó, người bị áp bức, lẽ nào giờ đây lại đứng về
phía bọn bạo tàn, lũ phiến loạn ?
Trong tâm trạng của con người gặp cơn cùng khốn, nhục
nhă, vịnh gia đă thốt lên :
“Nhân sao, lạy Thiên Chúa
Người đă từ rẫy đến cùng ?”
Nhưng nhờ ánh sáng của giao ước, của Lời Chúa, vịnh gia
ư thức sâu sắc ḿnh vẫn là “chiên ràn của Người”, là “bộ lạc Chúa đă
buộc làm cơ nghiệp”, nên ông đặt hết tin tửơng vào Thiên Chúa : bởi ông
tin rằng “vụ kiện” của ḿnh, dựa trên cơ sở giao ứơc, đă trở nên “vụ
kịên của chính Thiên Chúa” :
“Xin hăy chỗi dậy, lạy Thiên Chúa
Mà bên lấy vụ kiện của Người”
Tv 84
BÀI CA HÀNH HƯƠNG
2. Khả
ái thay cung điện của Người
Yavê thiên binh !
3. Hồn
tôi mong ước đến hao ṃn
Hướng về tiền đường Yavê
Ḷng tôi, xác tôi reo lên
Tới Thiên Chúa hằng sống.
4. Ngay
se sẻ cũng kiếm được nhà,
Và chim én được có tổ đặt con :
Nên cạnh bàn thờ của Người,
Yavê thiên binh, Vua và là Thiên Chúa của tôi.
5. Phúc
thay những ai ở đậu nhà Người
Họ sẽ ngợi khen Người măi măi !
6. Phúc
thay những kẻ lấy Người làm sức mạnh,
Nặng ḷng với dặm hành hương.
7.
Ngang qua thung lũng Tàm - ma, sẵn trổ mạch nước,
Cơn mưa đầu mùa sẽ giáng phúc lành trên chúng.
8. Hết
đồi này qua đồi nọ, chúng tiến lên
Thiên Chúa sẽ hiện ra cho chúng tại Sion.
9. Yavê Thiên Chúa thiên binh,
Xin hăy nghe lời tôi khẩn nguyện
Xin hăy lắng tai, lạy Thiên Chúa của Yacob
10. Thuẫn đỡ cho chúng tôi, xin
hăy nh́n xem, lạy Thiên Chúa
Xin hăy đoái nh́n mặt Đức Kitô của Người !
11. Vâng, phúc cả dư ngàn một
ngày nơi tiền đường Người,
Nên tôi thà nán lại cửa nhà Thiên Chúa,
Hơn là được ấm cúng nơi dinh trại lũ ác nhân.
12. Chính Người là thành quách,
là khiên mộc,
Yavê thiên Chúa
Người ban diễm lệ vinh quang,
Yavê không nỡ khước từ hạnh phúc
Cho những ai bước đi trọn lành.
13. Yavê thiên binh
Phúc thay kẻ nào tin cậy ở Người !
Đây là một bản Thánh vịnh hành hương đặc sắc. Nhờ một lối cấu trúc hoàn
chỉnh, theo kiểu đồng tâm, lại được thêm nhiều h́nh ảnh phong phú, đa
dạng, bài thơ này khiến độc giả chia sẻ chiều kích nội tâm của vịnh gia
tương đối dễ dàng.
Sau những ngày lễ, tác giả biểu lộ tâm t́nh hiện tại cụ thể của ḿnh,
ḷng đạo đức được dâng cao trong dịp lễ, để rồi trên đường về với đời
sống thực tế, vịnh gia tự vạch ra cho ḿnh một hướng sống đạo mới mẻ,
phát xuất từ ư nghĩa của cuộc hành hương : khởi từ cuộc hành hương bên
ngoài, vịnh gia hướng về cuộc hành hương nội tâm. Trong 2 cuộc hành
hương đó, đền thánh luôn luôn hiện diện, sống động và đóng vai tṛ tâm
điểm.
Từ ngữ ṇng cốt của bài thơ là : “cung điện của Người” (84,2).
Ư tưởng đó được lặp đi lặp lại trong suốt bài thơ :
- Tiền đường Yavê (84,3) - bàn thờ của người (84,4)
- nhà Người (84,5) - Sion (84,8)
- Tiền đường Người (84,11) - Cửa nhà Thiên Chúa (84,11)
Các từ ngữ trên gợi ra ư tưởng kiên cố, vững chắc như : “thành quách”,
như “khiên mộc”, có khả năng tạo nên tâm t́nh “tin cậy ở Người” cho bất
cứ ai.
Xoay quanh tâm điểm “cung điện”, ta có bốn hạng người mà vịnh gia gọi là
người được chúc phúc :
“Những người ở đậu nhà Yavê” (84,5)
“Những người nặng ḷng với dặm hành hương” (84,6)
“Những người bước đi trọn lành” (84,12)
“Những người tin cậy ở Yavê” (84,13)
1. Jerusalem hiện diện ở trước mắt (84,2)
Sau ngày lễ, đoàn khách hành hương tuần tự ra về. Vịnh gia đứng ngắm
nh́n thánh điện lần cuối, rồi bật lên lời ca ngợi : “khả ái thay !”
Đáng yêu thay Yerusalem ! Yerusalem trở nên đối tượng của tâm t́nh, của
t́nh yêu, của lẽ sống vịnh gia. Tại sao ? v́ nơi đây Yavê uy dũng, quyền
năng đang hiện diện.
2. Jerusalem hiện diện trong tâm trí
(84,3-6)
Chân đă bước đi nhưng ḷng c̣n lưu luyến. Ngày lễ đă qua nhưng dư âm c̣n
đọng lại. Rời khỏi Yerusalem, nhưng h́nh ảnh đền thờ đă khắc sâu vào tâm
trí. Trên đường về, vịnh gia thả hồn hướng về đền thánh : “hồn tôi mong
ước đến hao ṃn”
Hao ṃn v́ sao ? - v́ yêu mến ! yêu Yerusalem mà giờ đây đành phải giă
từ, ly biệt ! muốn ở măi bên Yerusalem mà hoàn cảnh đ̣i buộc phải xa rời
! t́nh yêu như nung nấu, như thiêu đốt tâm hồn vịnh gia, khiến ông khắc
khoải đến hao ṃn. Nhưng chỉ cần nghĩ đến Yerusalem, th́ điều ấy đă đủ
để cho toàn thân ông, cho ḷng ông, cho ông phải reo lên :
Hướng về tiền đừơng Yavê,
Ḷng tôi, xác tôi reo lên
Tới Thiên Chúa hằng sống”
Nghĩ thế, ông lại đâm ra ao ước đến độ phải ghen với số phận của bất cứ
ai được diễm phúc sống bên cạnh đền thờ, ngay cả với lũ se sẻ, chim én.
Chúng thế mà có phúc ! chúng thế mà khôn ngoan hơn ḿnh ! chúng đă xây
nhà, đặt tổ ở gần bàn thờ Chúa để đêm ngay được ở gần bên Yavê. C̣n tôi
đây th́ sao ?
Ghen với se sẻ, chim én xong, vịnh gia lại thèm muốn số phận của các tư
tế, những người phục dịch đền thờ. Họ là những người có phúc được “ở
đậu”, tá túc dưới mái nhà Yavê để đêm ngày không ngừng được xướng ca,
ngợi khen Người.
Thế nhưng, có phải chỉ có hạng người “ở đậu” nhà Yavê mới chiếm độc
quyền ca ngợi Người không ? nghĩ tới đây, vịnh gia cảm thấy bớt chua
cay, để rồi dần dần thêm phấn khởi : nếu Yerusalem là nhà cho Người tá
túc, th́ Yavê thiên binh lại là “sức mạnh “ cho khách hành hương. Yavê
không chỉ hiện diện trong đền thờ, mà c̣n hiện diện đối với hạng người
“nặng ḷng với dặm hành hương”.
Với tâm t́nh đó, vịnh gia không những thấy Yerusalem hiện diện trong tâm
trí ḿnh, mà c̣n hiện diện trong cả mỗi bước đi của ḿnh.
3. Jerusalem hiện diện trong bước đi
(84,7-12)
Nếu như cuộc đời của Dân Chúa là cuộc hành hương hướng về nhà Chúa, th́
trên lộ tŕnh, họ bắt gặp sự hiện diện của Người trên mỗi bước đi của
ḿnh.
+ “Ngang qua thung lũng Tàm-ma”. Trong nguyên bản và theo nhiều bản
dịch,th́ đây là “thung lũng than khóc” . Chính trong thung lũng đầy gian
khổ và nước mắt của cuộc sống con người, vịnh gia vẫn thấy được sự hiện
diện cùng phúc lành của Thiên Chúa. Người hiện diện như “mạch nứơc” như
“cơn mưa đầu mùa” làm nhuyễn đất đai, tạo thuận lợi cho vụ mùa sắp tới.
Ở mỗi bước đi, Ông tưởng chừng như đang giẫm lên đồng ruộng ướt sũng,
tượng trưng cho ḷng từ bi của Chúa (vào dịp lễ Lều, người ta cầu xin
mưa. Cf Za 14,17).
+ “Hết đồi này qua đồi nọ” ư nói trong mọi trạng huống của cuộc đời, mọi
bước đi của người hành hương, Thiên Chúa vẫn luôn luôn hiện diện, giống
như Người hiện diện ở Sion. Để rồi từ đó, vịnh gia bứơc đi trong chiêm
niệm, với tâm t́nh cầu nguyện, liên đới với toàn Dân Thiên Chúa :
“Yavê Thiên Chúa thiên binh
Xin hăy nghe lời tôi khẩn nguyện…
Xin hăy đoán nh́n mặt Đức Kitô của Người !”
Lời nguyện của vịnh gia được mở rộng va hoà tan trong niềm hy vọng của
toàn dân vào Đức Kitô, tức Đấng Mesia, Đấng được xức dầu : trươc thời
lưu đày là Đức Vua ; sau thời lưu đày là vị Thượng tế. Đấng Kitô (Mesia)
là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn toàn dân sống theo giao ước.
Tâm t́nh cầu nguyện nhắc nhở bước đi của người hành hương phải là bước
dấn thân vào thực tế trong cuộc sống hàng ngày. Suy nghĩ về điều này,
vịnh gia lại bị giằng co, day dứt. Ông muốn quay trở lại Yerusalem :
“Vâng phúc cả dư ngàn
một ngày nơi tiền đường Người”.
Vịnh gia nhớ lại niềm vui, nhớ lại bầu khí của cộng đoàn dân thánh trong
dịp lễ. Ông cảm thấy ḷng ḿnh tê tái khi phải rời xa cộng đoàn phụng vụ
để lao ḿnh vào cuộc sống phũ phàng hàng ngày :
“Nên tôi thà nán lại cửa nhà Thiên Chúa
hơn là được ấm thân nơi dinh trại của lũ ác nhân”.
Thế nhưng, đối diện với thực thế không phải luôn phù hợp với điều vịnh
gia mong ước. Với cái nh́n mới sau cuộc hành hương, vịnh gia có một tâm
t́nh thần học thật sâu sắc, như con người đă t́m ra lẽ sống :
“Yavê không nỡ khước từ hạnh phúc
Cho những ai bước đi trọn lành”
Thật vậy, Yavê trở nên “thành quách”, “khiên mộc” bảo vệ, đồng thời
chính Người đem lại “diễm lệ vinh quang”, nguồn hạnh phúc vô tận cho
những ai bứơc đi trong giao ước của Người.
4. Jerusalem hiện diện trong cuộc sống
(84,13)
Với câu kết của bài thơ, chúng ta t́m thấy một tổng hợp thần học về cuộc
hành hương mà vịnh gia muốn chia sẻ với chúng ta :
“Yavê thiên binh
phúc thay kẻ nào tin cậy ở Người”
+ “tin cậy” là tâm t́nh của con người đă cảm thấy ḿnh được ổn định, đă
khám phá ra lẽ sống cho đời ḿnh. Tin cậy tạo nên tư thế vững chắc, kiên
cố. Đây là cao điểm của cuộc hành hương. “Cung điện của Chúa “kiên vững
đă tạo nên tâm t́nh “tin cậy” nơi khách hành hương.
Dầu ở trong đền thờ hoặc phải xa đền thờ, tâm t́nh chưa chan hạnh phúc
hoặc phải khắc khoải giằng co … những trạng huống đó của cuộc đời đều
được vịnh gia phơi bày ra trong cuộc hành hương. Từ hành hương cụ thể
bên ngoài, vịnh gia chuyển đời sống ḿnh thành cuộc hành hương liên tục,
hành hương nội tâm. Trong hai cuộc hành hương này, nhà Chúa luôn là tâm
điểm, nơi quy tụ cái nh́n, tâm trí, bước đi và đời sống của ḿnh. Với
tâm t́nh “tin cậy ở Chúa”, vịnh gia quả đă đat được mục đích của cuộc
hành hương, v́ từ nay Thiên Chúa đă thật sự là tâm điểm của cuộc đời
vịnh gia.
Tv 2 –
VỊ KITÔ CỦA THIÊN CHÚA
1. Làm sao các dân chấn động
Và các nước tính chuyện hăo huyền
2. Vua chúa trần gian dấy binh
khởi nghĩa,
Vương hầu liên minh một khối
Chống lại Yavê và chống lại Đức Kitô của Người :
3. “Ta hăy giật tung dây chúng
trói
và quảng xa thừng chăo chúng đi”
4. Đấng ngự trời cao phải ph́
cười,
Chúa nhạo báng khinh thừơng bọn chúng.
5. Bấy giờ thịnh nộ, Người phán
bảo ;
Nổi giận, Người làm chúng kinh hoàng :
6. “Chính Ta, Ta đă tấn phong vua
Ta chọn,
trên Sion núi thánh của Ta”
7. Đây Ta truyền sắc chỉ của Yavê
:
Người phán với Ta : “ngươi là con Ta
Chính Ta, hôm nay Ta đă sinh ra Ngươi
8. Hăy xin Ta
Ta sẽ cho ngươi, các dân làm cơ nghiệp,
Và lănh địa đến mút cùng mặt đất.
9. Lấy trượng sắt, Người đập
chúng tan tành
Và nghiền nát chúng như đồ sành chợ gốm”
10. Vậy bây giờ, hỡi chư vương,
hăy xử cho khôn
Các ngự sử trần gian, hăy biết điều
11. Hăy phụng thờ kính giới Yavê
Và run sợ mà hôn chân Người.
12. Kẻo Người bốc giận mà các
ngươi mạt lộ
V́ chày kíp khí nộ Người bùng cháy
Phúc cho ai ẩn náu bên Người.
Đây là một Thánh vịnh đặc biệt, rất phong phú về tư tưởng thần học : xét
về ư, ve lời, về cách giải thích cũng như cách áp dụng trong kinh thánh.
a. Về ư: ngày đặng quang của
đức vua chính là ngày vua nhận trọng trách đại diện cho Thiên Chúa đă
lănh đạo dân Người : “Ngươi la con Ta, chính Ta, hôm nay ta đă sinh ra
Ngươi” (cf 2, s7-14)
b. Về lời: dựa trên lời, bài
thơ sẽ khiến chúng ta ngạc nhiên, v́ một số từ ngữ, kiểu nói không những
xa lạ đối với thời Davit - Salomon, mà c̣n cho ta thấy dấu vết của thời
lưu đày, khi Israel không c̣n vua cai trị ḿnh :
c. Về cách giải thích: đây là
một bài thơ có trước lưu đày, nhưng được “đọc lại” (re-lecture) sau thời
lưu đày. Trước lưu đày để ca ngợi đức vua thuộc ḍng tộc Đavit vào dịp
đăng quang ; sau lưu đày được “đọc lại”, hướng về vị vua “sẽ đến”. Từ vị
vua cụ thể, ḷng dân hướng về Đấng Mesia tuyệt đối (xuất phát từ kinh
nghiệm lưu đày, mất nước, mất vua…)
Giải thích bài thơ này ta thấy mở ra 3 chiều kích :
- Thời gian : hướng về thời Mesia, thời cánh chung
- Không gian : hướng về ư phổ cập
- Đức tin : nội tâm sâu sắc
d. Về cách áp dụng trong thánh kinh:
Rơ ràng Tân ước đă sử dụng Thánh vịnh này để áp dụng một cách có chủ ư
và đặc biệt vào Đức Yêsu Nazaret.
Mc 1,11 : “Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đă sủng mộ
Cv 4, 1-27. Trong bài Kerygma, thánh Phêrô đă tuyên bố cách các tông đồ
và hội thánh tiên khởi đă hiểu ư nghĩa bài thánh vịnh này và đă áp dụng
cho Đức Yêsu như thế nào.
Cv 13,32-33. Sau này, tại hội đừơng Antiokia, thánh Phaolô cũng đă loan
truyền niềm xác tín đó.
Sau khi nói qua về tầm quan trọng của Tv 2 trên một số mặt : ư, lời,
cách giải thích, cách áp dụng trong thánh kinh, chúng ta bắt đầu chú
giải bài thánh vịnh nổi tiếng này dưới nhăn quan lịch sử cứu độ.
Cung giọng và từ ngữ sử dụng trong bài thơ thật tài t́nh : giữa cảnh hỗn
loạn, mờ ám, giữa thái độ thù nghịch của muôn dân đối với Thiên Chúa :
“chấn động … tính chuyện hăo huyền … liên minh một khối … chống lại …”
chúng ta ghi nhận tính vững chắc, minh bạch của Yavê Thiên Chúa trong
thái độ của Người : “ngự trời cao … ph́ cười… nhạo báng … thịnh nộ… nổi
giận … tấn phong … trên sion … truyền sắc chỉ …”.
Từ ngữ “chấn động” đối lập hoàn toàn với từ ngữ “ẩn náu” ở cuối bài thơ.
Bài thơ chia làm 4 phần rơ rệt :
2,1-3 thái độ của muôn dân
2,4-6 thái độ của Yavê Thiên Chúa
2,7-9 Vị vua Mesia xuất hiện
2,10-12 lời khuyên đối với muôn dân
a. Chương tŕnh của Yavê Thiên Chúa
Bốn phần cuả bài thơ lược tóm tất cả chương tŕnh của Thiên Chúa trong
ḍng lịch sử của con người. Chương tŕnh đó được thực hiện bởi Đấng
Mesia (Đấng Kitô - Đấng được xức dầu), Người Con chí ái của Người.
- Thái độ xôn xao, mất định hướng, âm mưu, thù nghịch của muôn dân cùng
với những người lănh đạo của họ để chống lại Yavê Thiên Chúa và chống
lại vị đại diện của Người là Đấng Kitô. Họ cho rằng sự hiện diện của
Thiên Chúa và Đấng Kitô là những chướng ngại cho đời sống họ. Chỉ sự
hiện diện đó thôi đủ khiến họ như bị trói buộc, không c̣n được tự ư thực
hiện điều ḿnh muốn : “làm sao muôn dân chấn động …”
- Thái độ b́nh thản, ung dung của Thiên Chúa trước cảnh xôn xao của muôn
dân. Ta lưu ư chủ tâm của tác giả khi đối lập hai thái độ :
Làm sao các dân chấn động
và các nước tính chuyện hăo huyền ?
Đấng ngự trời cao phải ph́ cười
Chúa nhạo báng khinh thường bọn chúng !
Trong tư thế ổn định, b́nh thản đó, Thiên Chúa tiến hành chương tŕnh
của ḿnh đối với loài người với sự xuất hiện của đấng Kitô, đấng Thiên
Chúa tuyển chọn và tấn phong bằng việc xức dầu.
- Vị Vua Mesia xuất hiện. Ngài không tự ḿnh chiếm lấy
ngai vàng và cũng không tự giao phó cho ḿnh một sứ mạng đối với loài
người. Ngược lại, Ngài hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và sứ mạng của
Ngài hoàn toàn dựa trên sắc chỉ của Thiên Chúa. Từ đó, Ngài xuất hiện
trong hai tư thế : - Con Thiên Chúa (2,7) - vị lănh đạo muôn dân (2,8)
- Đối diện với Đấng Mesia của Thiên Chúa, muôn dân sẽ
phải lựa chọn để có thái độ dứt khoát : - hoặc tiếp tục chống lại Thiên
Chúa, th́ sẽ thấy chung cuộc là bị “nghiền tán như đồ sành thợ gốm” ; -
hoặc sẽ “ẩn náu bên Người” để thực sự sống trong an b́nh, hạnh phúc.
b. Ánh sáng của Thánh vịnh 2 trên giờ khổ nạn của Đức
Giêsu Kitô
Thánh sử Mattheo dường như đọc lại Tv 2 và nhận định giờ
khổ nạn của Đức Yesu - cao điểm của lịch sử cứu độ - dưới ánh sáng đó :
- Các thượng tế, kư lục, trưởng lăo Do Thái âm mưu khích
động dân chúng chống lại Đức Yêsu, Đấng Kitô của Thiên Chúa. Họ liên
minh với nhau, thậm chí cả với Philato, thuộc giới cầm quyền La Mă mà từ
xưa họ vẫn nghi kỵ, chống đối. Trong âm mưu đó, điều nực cười là ngay cả
Herode cũng thoả hiệp với Philato, mà mục đích duy nhất là khử trừ một
con người, bởi lẽ sự hiện diện của Đấng này làm khổ họ, biến họ nên như
tù nhân, v́ việc làm mờ ám, sai quấy của họ.
- Thái độ b́nh thản của Đức Yêsu trong cuộc khổ nạn, đặc
biệt trước phiên toà Do Thái và La Mă. Người bị xử và người xử có thái
độ thật rơ rệt. Ai bị chấn động và ai b́nh thản như “Đấng ngự trời cao”
? Và chính trên cây thập tự ở ngọn đồi Sion giữa cảnh rung chuyển của vũ
trụ, vạn vật, Đức Yesu đă được tấn phong : “chính Ta, Ta đă tấn phong
vua Ta chọn trên Sion, núi thánh của Ta”
- Dầu bị đóng đinh, nhưng Đức Kitô đă chiến thắng, v́
Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Qua cuộc khổ nạn - phục sinh, Đức Kitô
được tôn phong làm Chúa của vũ hoàn.
- Biến cố trên, đ̣i buộc mọi người phải suy nghĩ để lựa
chọn thái độ. Chính Đức Yesu Kitô đă mang trên bản thân ḿnh mọi tộip
hản loạn của loài người. V́ thế, ai khiêm tốn tự nhận ḿnh là người có
tội, th́ sẽ t́m được thứ tha và hạnh phúc khi náu thân ở nơi Ngài.
c. Ánh sáng của Tv 2 trên đời sống các Tông Đồ và Hội
Thánh
Thánh vịnh 2 không những chỉ soi sáng trên giờ khổ nạn
của Đức Yesu mà thôi, mà c̣n trên đời sống các Tông Đồ và Hội Thánh.
- Các nhà lănh đạo dân Do Thái cũng như La Mă liên minh
với nhau chống lai các tông đổ (xem Công vụ)
- Nhưng chương tŕnh của Thiên Chúa không bị ngăn trở, v́ lời của Đức
Kitô phục sinh không bị xiềng xích : tin mừng cứu độ được loan truyền
đến mút cùng trái đất.
- Các tông đồ tham dự vào vinh quang của Đức Kitô phục sinh. Đau khổ,
thử thách họ chịu ở đời này không thể sánh được với vinh quang sau này
(xem Rm 8,19)
- Bởi thế, các tông đồ của Chúa không sợ gặp thử thách, gian truân hay
bách hại. Ngược lại họ đă vui sướng và tạ ơn Thiên Chúa khi gặp phải thử
thách hay bách hại ; v́ nhờ hoàn cảnh đó họ có dịp làm chứng cho Đức
Kitô hơn. Điều quan trọng là phải hiểu và giải thích cho đúng những thử
thách, đau khổ, bách hại dưới ánh sáng thánh vịnh 2, ánh sáng của mầu
nhiệm tử nạn – phục sinh của Đức Yêsu. Những thất bại trên con đường các
tông đồ và hội thánh trong nhăn quan đó chính là dấu chỉ chương tŕnh
cứu độ của Thiên Chúa đang thực hiện : sự chết mở cửa vào sự sống.
Linh mục Giuse Vơ Đức Minh
|