|
Các Phong Trào
Ân Tứ và Ngũ Tuần
Chương Một
Lược sử các Phong Trào Ân Tứ
và Ngũ Tuần
Dẫn nhập
Các Phong Trào Ân
Tứ và Ngũ Tuần dấy lên trong lịch sử của Hội Thánh kể từ đầu thế kỷ 20
và kéo dài cho đến nay đă tạo ra nhiều ảnh hưởng sâu đậm cả bên trong
lẫn bên ngoài Hội Thánh. Sự t́m hiểu về các phong trào này thường khiến
cho người ta đối diện với hai vấn đề:
1. Lẫn lộn giữa
Phong Trào Ân Tứ và Phong Trào Ngũ Tuần.
2. Lẫn lộn giữa
Phong Trào Ân Tứ, Phong Trào Ngũ Tuần, và các giáo phái Tin Lành truyền
thống.
Để giảm thiểu
những khó khăn dẫn đến sự rối trí trong khi theo dơi loạt bài Các Phong
Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần độc giả cần ghi nhớ các điểm quan trọng sau đây:
-
Danh từ Phong Trào
Ngũ Tuần được dùng để gọi sự kiện "nói tiếng lạ" xuất hiện trong một
cộng đồng Cơ-đốc nhân thuộc Giáo Hội Tin Lành,
làm phát sinh ra một giáo phái mới trong Giáo Hội Tin Lành gọi là Giáo
Phái Ngũ Tuần. Giáo Phái Ngũ Tuần theo thời gian phân nhánh ra thành
nhiều tiểu giáo phái. Có thể ví Phong Trào Ngũ Tuần như một trong những
cây con nảy ra từ gốc của cây mẹ (Giáo Hội Tin Lành), sau đó, từ gốc của
cây con đó lại nảy ra nhiều cây con khác nữa.
-
Danh từ Phong Trào
Ân Tứ được dùng để gọi sự kiện đặt tay té ngă, "nói tiếng lạ" xuất hiện
trong tất cả các giáo hội và giáo phái của Cơ-đốc Giáo.
Phong trào này thoạt đầu không tách rời khỏi các giáo phái như Phong
Trào Ngũ Tuần nhưng khi đă phát triển mạnh mẽ th́ tự h́nh thành các giáo
phái. Phong Trào Ân Tứ ví như những trái cây phát sinh ra trên khắp các
nhánh của một thân cây (Cơ-đốc Giáo, bao gồm các giáo hội Chính Thống
Giáo, Anh Giáo, Công Giáo, Tin Lành...) khi chín mùi th́ rụng xuống và
mọc lên thành những cây mới.
-
Danh từ Phong Trào
Dấu Lạ được dùng để gọi sự kiện những dấu kỳ, phép lạ xuất hiện trong
tất cả các giáo hội và giáo phái của Cơ-đốc Giáo
mà không nhất thiết phải có hiện tượng té ngă và "nói tiếng lạ" kèm
theo. Trên một phương diện, Phong Trào Dấu Lạ cũng chính là một Phong
Trào Ân Tứ nhưng không chủ trương đề cao việc đặt tay té ngă và "nói
tiếng lạ" cho bằng việc đề cao dấu kỳ, phép lạ xuất hiện trong khi giảng
đạo.
-
Danh từ "trường
phái" nói đến những khuynh hướng khác nhau trong cùng một phong trào.
Thí dụ: Phong Trào Ngũ Tuần có mẫu số chung là "nói tiếng lạ" và tin
rằng hiện tượng "nói tiếng lạ" là dấu hiệu của một người được báp-tem
bằng Thánh Linh. Tuy nhiên, có ba khuynh hướng khác nhau về ư nghĩa của
hiện tượng "nói tiếng lạ" khiến cho phân chia thành ba trường phái khác
nhau. Có thể nói, phong trào là gốc cây chính, trường phái là các cây
khác nảy ra từ gốc cây chính.
-
Danh từ "làn sóng"
do Phong Trào Dấu Lạ đặt ra để tự phân biệt với các Phong Trào Ân Tứ và
Ngũ Tuần.
Theo họ, từ đầu
thế kỷ 20 đến nay, Đức Thánh Linh đă ba lần phục hưng Hội Thánh mà họ
gọi là "những làn sóng phục hưng" (the revival waves). Họ xem Phong Trào
Ngũ Tuần là làn sóng thứ nhất, Phong Trào Ân Tứ là làn sóng thứ hai, và
họ là làn sóng thứ ba.
Nh́n theo quan
điểm của những người Ân Tứ và Ngũ Tuần Tin Lành th́ Phong Trào Ân Tứ và
Ngũ Tuần được phân biệt như sau:
1. Làn sóng thứ
nhất:
Phong Trào Ngũ Tuần (The Pentecostal Movement) khởi động bởi Charles Fox
Parham tại Topeka, Kansas, USA vào năm 1901 và phát triển bởi William
Joseph Seymour tại Los Angeles, California, USA vào năm 1906.
2. Làn sóng thứ
nh́:
Phong Trào Ân Tứ (The Charismatic Movement) c̣n được gọi là Phong Trào
Ân Tứ Phục Hưng (Charismatic Renewal Movement) khởi động bởi Dennis
Bennett tại Van Nuys, California, USA vào năm 1960.
3. Làn sóng thứ
ba:
Phong Trào Dấu Lạ (The Signs and Wonders Movement) khởi động bởi John
Wimber từ Trường Thần Học Fuller (Fuller Theological Seminary) tại
Pasadena, California, USA vào năm 1981.
Nh́n khách quan về
lịch sử của Cơ-đốc Giáo th́ Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần phải được chia
ra làm bốn làn sóng, bao gồm Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng (The
Catholic Charismatic Renewal Movement) khởi động giữa các sinh viên và
nhân sự của Trường Đại Học DuQuesne tại Pittsburgh, Pennsylvania, USA
vào năm 1967.
I. Phong Trào
Ngũ Tuần (The Pentecostal Movement)
C̣n được gọi là
Phong Trào Ngũ Tuần Cổ Điển (The Classical Pentecostal Movement)
Ngũ Tuần
(Pentecostalism) phát xuất từ Giáo Hội Tin Lành như một phong trào nhấn
mạnh đến kinh nghiệm cá nhân của một người với Đức Chúa Trời thông qua
cái gọi là "báp-tem bằng Thánh Linh" (the baptism of the Holy Spirit).
Có ba trường phái Ngũ Tuần chính:
Trường phái thứ
nhất chiếm đa số, có tín lư tương tự như các giáo phái trong Giáo Hội
Tin Lành, như tín lư về Thiên Chúa Ba Ngôi, tín lư về sự cứu rỗi, tín lư
về thẩm quyền của Thánh Kinh. Điều khác biệt là họ tin rằng "nói tiếng
lạ" là dấu hiệu phải có của một người đă được báp-tem bằng Thánh Linh.
Hai trường phái c̣n lại (một làm lễ báp-tem chỉ trong danh của Đức Chúa
Jesus Christ, một làm lễ báp-tem trong danh của Ba Ngôi Thiên Chúa) dùng
Công Vụ Các Sứ Đồ 2:38 làm nền tảng cho tín lư: Một người cần phải ăn
năn tội, nhận báp-tem trong danh Đức Chúa Jesus Christ, rồi nhận lănh
Đức Thánh Linh. Nhận lănh Đức Thánh Linh là điều cần thiết cho sự cứu
rỗi và (theo hai trường phái này) có nghĩa là phải biết "nói tiếng lạ."
Như vậy, theo họ, nếu một người tin Chúa mà không biết "nói tiếng lạ" là
chưa được báp-tem bằng Thánh Linh và có nghĩa là chưa được cứu rỗi. Hai
trường phái này chia ra thành các giáo phái: "Jesus Name," "First,"
"United," và "Oneness." Từ trong bốn giáo phái chính này lại phát sinh
ra nhiều tiểu giáo phái khác nữa.
Phong trào Ngũ
Tuần phát sinh với George Fox (1624-1691, England) một tín đồ thuộc Giáo
Phái Giám Lư (Methodist) và thành viên của phong trào Thánh Khiết
(Holliness Movement) là một phong trào cũng bắt nguồn từ Giám Lư. Vào
năm 19 tuổi, George Fox ly khai giáo hội v́ không chịu nỗi sự hâm hẫm
của nó. Chàng thanh niên trẻ khao khát một đời sống thuộc linh phong phú
và nóng cháy. Tuy nhiên, thay v́ dựa trên nền tảng muôn đời là lời Chúa
để sống đạo, chàng đă dựa trên cảm giác và kinh nghiệm. Chàng nghe một
giọng nói phán với chàng:
"Không phải Lời
Thánh Kinh bên ngoài, không phải sự giảng dạy của giáo hội, không phải
Đấng Christ bên ngoài có thể hướng dẫn con, nhưng là ánh sáng bên trong,
là Đấng Christ nội tại."
(Not the outward
Word of Scripture, not the teaching of the church, not the outward
Christ can lead you, but only the inner light, the inward Christ.)
Fox trở thành
người sáng lập nhóm Con Cái của Sự Sáng (Children of Light) c̣n gọi là
Xă Đoàn Thân Hữu (Society of Friends). Về sau, các đối thủ của ông gọi
nhóm của ông là Quakers. (Quake = rung động, quakers = những người hay
vật bị rung động. Có lẽ các đối thủ của Fox muốn chế nhạo sự kiện run
rẩy trong khi xuất thần của những người thuộc nhóm ông. Tại Việt Nam,
Quaker được gọi là Giáo Phái Anh Em.) Danh xưng Quaker không bao giờ
được Fox và những người theo ông chấp nhận nhưng vẫn được những người
ngoài nhóm của ông sử dụng và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Dù trong
thuở ban đầu phái Quaker bị bách hại tàn bạo tại Anh nhưng đă phát triển
đi khắp nơi, mạnh mẽ nhất là tại Hoa Kỳ và Đông Phi Châu. Điểm quan
trọng cần chú ư trong quan điểm cực đoan của phái Quaker ngay từ nguyên
thỉ, là: Họ xem ánh sáng nội tại (tâm thức, sự hiểu biết đến từ bên
trong) và tiếng phán từ trên cao quan trọng hơn là lời của Chúa trong
Thánh Kinh. (Đối với Phong Trào Ân Tứ sau này th́ dấu kỳ và phép lạ quan
trọng hơn là Thánh Kinh.) Điều đó là cánh cửa mở rộng cho đủ mọi thứ tà
giáo xâm nhập. Ngay từ buổi sơ khai của phái Quaker đă có hiện tượng
"nói tiếng lạ" xuất hiện trong nhiều nhóm.
Vào những năm
1800, phái Irvinggian được thành lập bởi Edward Irving (1792-1834), vốn
là một pastor thuộc Giáo Hội Trưởng Lăo (Presbyterian), với danh xưng là
Giáo Hội Công Giáo Sứ Đồ (Catholic Apostolic Church) xứ Scotland. Phái
này thực hành, giảng dạy sự "nói tiếng lạ" cùng những h́nh thức xuất
thần và các hiện tượng ân tứ như chữa bệnh, khải tượng, nói tiên tri...
nên thu hút rất đông tín đồ từ các giáo hội truyền thống vốn đă quá khô
cạn sự sống thuộc linh v́ sự tắc trách của những người chăn bầy. Phái
Irvingian phát triển nhanh chóng sang Anh, Ḥa Lan, Hoa Kỳ, và đặc biệt
là Đức, với trung tâm chính tại Augsburg, và nơi có đông tín đồ nhất là
Stuttgart.
Giữa những phong
trào xuất thần có phái Mormon, c̣n được biết dưới danh xưng Latter Day
Saints, do Joseph Smith (1805-1844) thành lập. Người Mormon cũng được
biết đến qua những hiện tượng khải tượng, mạc khải, "nói tiếng lạ," và
chữa bệnh. Smith xưng rằng ông nhận được khải tượng đến từ thiên sứ
Moroni. Theo Smith, thiên sứ Moroni đă cho ông thấy những tấm bảng bằng
vàng trên có viết chữ tại Mount Cumorah và ông đă nhận lănh những bảng
này vào năm 1827. Đối với những người Mormon, những chữ viết trên các
tấm bảng vàng này có cùng một thẩm quyền như Thánh Kinh. Smith c̣n tuyên
bố ông đă được phong chức tế lễ theo ḍng A-rôn bởi Giăng Báp-tít. Về
sau, ông tuyên bố rằng: các Sứ Đồ Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng đă phong
chức tế lễ cho ông theo ḍng Mên-chi-xê-đéc. Smith bị giết vào năm 1844.
Ngay cả vùng cực
Bắc của Liên Xô cũ cũng có hiện tượng "nói tiếng lạ" trong một làng nhỏ
tên là Kara Kala của dân tộc Armenian, vốn theo Chính Thống Giáo Nga. V́
bị giáo hội khủng bố cho nên vào năm 1900 những người Armenian "nói
tiếng lạ" này lánh nạn sang Hoa Kỳ và định cư tại Los Angeles. Vài năm
sau, nhóm này kết hợp với một nhóm "nói tiếng lạ" khác tại Azusa Street,
Los Angeles.
Tại Hoa Kỳ, mặc dù
hiện tượng "nói tiếng lạ" đă xảy ra từ trước nhưng đến năm 1901 mới
thành phong trào dấy lên từ Trường Thánh Kinh Bethel ở Thủ Đô TopeKa của
Tiểu Bang Kansas, do Charles Fox Parham (1873-1929) dẫn đầu. Parham xuất
thân từ Giáo Phái Giám Lư (Methodist), là một người sốt sắng trong sự
kêu gọi người theo Chúa phải sống thánh khiết. Ông phản đối lối tổ chức
giáo quyền hàng dọc của Giám Lư, ly khai giáo hội này, tự lập ra một mục
vụ riêng, độc lập với các giáo phái và thành lập Trường Thánh Kinh
Bethel.
Vào đêm tất niên
năm 1900, Parham đang giảng cho các sinh viên tại Trường Thánh Kinh
Bethel, một nữ sinh viên tên là Agnes Ozman đă dạn dĩ đứng lên yêu cầu
ông đặt tay trên cô và cầu nguyện xin Chúa đổ Thánh Linh xuống trên cô.
Parham đáp ứng lời yêu cầu này và lập tức Ozman bắt đầu "nói tiếng lạ."
Vài ngày sau, chính Parham cũng "nói tiếng lạ" và sau đó là các sinh
viên khác. Ngày 1 tháng 1 năm 1901, ngày đầu tiên của thế kỷ 20, Parham
thành lập Phong Trào Đức Tin Sứ Đồ (Apostolic Faith) và bắt đầu đi khắp
nơi rao giảng về sự thánh khiết, sự chữa lành thiên thượng, sự chữa lành
bởi đức tin, sự đặt tay cầu nguyện, sự thánh hóa bởi đức tin, và tuyên
bố "nói tiếng lạ" là dấu hiệu của sự được báp-tem bằng Thánh Linh và
bằng lửa (?) Đến cuối năm 1901, hiện tượng "nói tiếng lạ" trong Phong
Trào Đức Tin Sứ Đồ được báo chí đưa tin, bàn thảo sôi nổi, xem như là
dấu hiệu của Lễ Ngũ Tuần lần thứ hai.
Năm 1905, Parham
mở một Trường Thánh Kinh tại Houston, Texas và một người da đen tên là
William Joseph Seymour được đào tạo tại đó. Trong suốt thời gian ở tại
Houston, Seymour không biết "nói tiếng lạ." Tháng 2 năm 1906, Seymour
được mời giảng tại Los Angeles về đề tài "Phép báp-tem bằng Thánh Linh."
Buổi giảng đầu của ông gây nên nhiều xáo trộn, là v́ ông tuyên bố "nói
tiếng lạ" là dấu hiệu của sự đă được báp-tem bằng Thánh Linh trong khi
ông lại không biết "nói tiếng lạ." Đến tháng 4 năm đó, một người nghe
ông giảng tên là Edward Lee biết "nói tiếng lạ" và sau đó vài ngày đến
lượt Seymour.
Tháng 5 năm 1906,
Seymour trở thành lănh tụ của Phong Trào "Azusa Street Revival," một
phong trào không phân biệt giáo phái, chủng tộc, hoặc giới tính. Thuở
ấy, mỗi ngày từ 10 giờ sáng cho đến khoảng hai, ba giờ sáng hôm sau, vô
số người từ các nơi kéo về tụ hội ca hát, la hét lớn tiếng, nhảy múa, co
giật như bị động kinh, té xuống ngất đi, kêu khóc, tru, rống như thú
vật, và "nói tiếng lạ." Các giới lănh đạo tôn giáo vùng Los Angeles và
những nơi khác lập tức lên tiếng phủ nhận hiện tượng đang xảy ra tại
Black Holiness Church, 312 Azusa Street, Los Angeles là công việc của
Đức Thánh Linh và khuyến cáo các tín hữu của họ, rằng phong trào này
chạy theo cảm xúc, thông linh, và có Sa-tan tính.
Vào tháng 10 năm
1906, khi Parham đến thăm Seymour và giảng tại Azusa Street, cũng đă
sững sốt khi nh́n thấy các hiện tượng xảy ra tại đó. Theo Parham, những
hiện tượng đó đến từ xác thịt, hoặc ma quỷ. Parham không công nhận phong
trào "Azusa Street Revival." Parham đă phát biểu về phong trào này như
sau:
"God is sick at His stomach!"
(Tạm dịch: Đức
Chúa Trời đang buồn nôn!) Sau đó, Parham và Seymour đă chia tay nhau và
không bao giờ kết hợp trở lại.
Phong trào "Azusa
Street Revival" lắng xuống vào năm 1909 nhưng vẫn c̣n âm ỉ cho đến năm
1915. Từ phong trào này phát sinh ra nhiều giáo phái Ngũ Tuần khắp nơi
trên thế giới. Người từ các nơi khác đến Los Angeles thăm viếng, khi trở
về quê hương của họ đă mang theo các tín lư mới của Ngũ Tuần, gieo rắc
trong cộng đồng của họ.
II. Phong Trào
Ân Tứ (The Charismatic Movement)
C̣n được gọi là
Phong Trào Tân Ngũ Tuần (The Neo-Pentecostal Movement)
Từ Phong Trào Ngũ
Tuần phát sinh ra Phong Trào Ân Tứ. Phong Trào Ân Tứ nhấn mạnh đến các
ân tứ của Đức Thánh Linh như: "nói tiếng lạ," nói tiên tri, nói lời khôn
ngoan, nói lời thông biết, chữa bệnh, đuổi quỷ, dấu kỳ, phép lạ... (I
Cô-rinh-tô 12:8-10). Phong Trào Ân Tứ ảnh hưởng đến Hội Thánh mạnh mẽ
hơn Phong Trào Ngũ Tuần. Ban đầu, Phong Trào Ân Tứ không chủ trương cho
các thành viên tách rời khỏi các giáo hội, giáo phái như Phong Trào Ngũ
Tuần, nhưng chủ trương cho các thành viên ở lại để Ân Tứ hóa toàn bộ
giáo hội và giáo phái mà họ đang sinh hoạt với. Chỉ khi nào bị chính các
giáo hội hay giáo phái khai trừ th́ các thành viên của Phong Trào Ân Tứ
mới đi ra lập thành nhóm khác. Về sau, với sự lớn mạnh của phong trào,
các nhà lănh đạo Ân Tứ muốn độc lập điều hành ngân quỹ do các thành viên
đóng góp cho nên đă lập ra các giáo phái riêng.
Vào năm 1960,
Dennis Bennett, linh mục của Saint Mark's Episcopal Church tại Van Nuys,
California (thuộc Giáo Phái American Episcopal – Giám Nhiệm Hoa Kỳ)
tuyên bố với hội chúng, rằng ông ta đă được báp-tem bằng Thánh Linh. Sau
đó, Bennett dẫn thêm 100 tín hữu đến với kinh nghiệm nhận "báp-tem bằng
Thánh Linh" và biết "nói tiếng lạ." Hiện tượng "nói tiếng lạ" bùng nổ
tại Saint Mark's Episcopal Church khiến cho các tạp chí Times và
Newsweek thời bấy giờ làm phóng sự đưa lên lên b́a báo (cover story).
Giáo Phái Giám Nhiệm Hoa Kỳ không công nhận hiện tượng đó đến từ Đức
Thánh Linh nên đă băi nhiệm Bennett. Ông đến Vancouver, Canada thiết lập
nhiều lớp huấn luyện, dạy về công vụ của Đức Thánh Linh gây ảnh hưởng
sâu đậm đến tín đồ Anh Giáo khắp nơi trên thế giới và dẫn đến những cuộc
gọi là "phục hưng" trong các hội chúng Giám Nhiệm, Anh Giáo, Lutheran,
Công Giáo và Chính Thống Giáo. Đến tháng 10 năm 1962 Phong Trào Tân Ngũ
Tuần xâm nhập vào các trường đại học tại Mỹ, sau đó lan vào trong các
trường thần học. Chính Phong Trào Tân Ngũ Tuần đi vào Giáo Hội Công Giáo
làm phát sinh ra Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng. Tính đến năm
1990, phong trào này bao gồm trên 55 triệu tín đồ thuộc các giáo phái
trong Giáo Hội Tin Lành.
Phong Trào Lời Đức
Tin (Word of Faith Movement) được xem như sự nối dài của Phong Trào Ân
Tứ. Ngoài những đặc điểm chung với Phong Trào Ân Tứ, Phong Trào Lời Đức
Tin nhấn mạnh đến "quyền năng của đức tin." Những người thuộc phong trào
này tin rằng họ có thể dùng lời nói để điều động "quyền năng của đức
tin," và như vậy, họ có thể tạo ra những ǵ mà họ tin rằng Thánh Kinh đă
hứa, như: sức khoẻ, sự giàu có... Theo họ, những định luật chi phối
"quyền năng của đức tin" vận hành độc lập với ư chỉ siêu việt của Đức
Chúa Trời và chính Đức Chúa Trời cũng bị chi phối bởi những định luật
này (?) Ngoài ra, Phong Trào Lời Đức Tin c̣n đưa ra những tín lư như:
Mỗi tín nhân là một Đức Chúa Trời Con v́ Đức Chúa Trời dựng nên loài
người cùng bản thể với Ngài; Tín đồ Đấng Christ phải được khoẻ mạnh và
giàu có; Tín đồ Đấng Christ phải luôn có những lời tuyên xưng tích cực
(positive confession) v́ Đức Chúa Trời đă dùng lời nói để sáng tạo nên
tín nhân cũng có thể dùng những lời nói tích cực để thu đạt những kết
quả tích cực; Đấng Christ vừa chết phần thể xác, vừa chết phần tâm thần
và đă được tái sinh trong địa ngục...
Sáng lập viên và
hiệu trưởng của trường Rhema Bible College tại Tulsa, Oklahoma, USA là
Kenneth Hagin (1917-2003), được xem là bố già (Papa Hagin) của Phong
Trào Lời Đức Tin. Những giáo sư nổi tiếng khác của phong trào này là:
Benny Hinn, Bishop Eddie L. Long, Clarence McClendon, Creflo Dollar, Ed
Young, Fred Price, Jesse Duplantis, John Bevere, Joel Osteen, Joyce
Meyer, Juanita Bynum, Karl Strader, Kenneth Copeland, Kim Clement, Larry
Huch, Marilyn Hickey, Markus Bishop, Mike Murdock, Morris Cerullo, Myles
Munroe, Oral Roberts, Paul Crouch, Paula White, Peter Popoff, R.W.
Shambach, Robert Schuller, Rod Parsley, Rodney Howard-Browne, Robert
Tilton, Steve Munsey, T.D. Jakes...
III. Phong Trào
Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng (The Catholic Charismatic Renewal Movement)
Tháng 2 năm 1967, một số nhân viên và nhiều sinh viên của một trường đại
học tư, Duquesne University, thuộc Giáo Hội Công Giáo tại Pittsburgh,
Pennsylvania, USA trải qua một kinh nghiệm mà họ gọi là "được báp-tem
bằng Thánh Linh." Những điều họ kinh nghiệm, là: "nói tiếng lạ," "thánh
tiếu" (tiếng cười thánh – Holy laughter), xuất thần, khóc, la... không
thể tự kềm chế. Liền sau đó, những hiện tượng này lan tràn sang một
trường đại học tư khác, cũng thuộc Giáo Hội Công Giáo, University of
Notre Dame, tại Indiana, USA. Notre Dame có nghĩa là "Đức Bà của chúng
ta," chỉ về bà Mary. Đến năm 2003, Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng
lan rộng đến trên 230 quốc gia và bao gồm trên 119 triệu tín đồ Công
Giáo.
Các Giáo Hoàng
Paul VI (nắm quyền: 1963-1978), John Paul II (nắm quyền: 1978-2005), và
Benedict XVI (nắm quyền: 2005 - đến nay) đều chấp nhận Phong Trào Công
Giáo Ân Tứ Phục Hưng. Giáo Hoàng John Paul II cho rằng phong trào này
thuộc vào sự phục hưng của toàn Giáo Hội Công Giáo. Giáo Hoàng Paul và
Benedict khuyến cáo các thành viên của phong trào phải giữ ǵn sự thông
công giữa họ và Giáo Hội Công Giáo.
Tháng 3 năm 1992,
Giáo Hoàng John Paul II đă phát biểu như sau:
"Trong khoảnh
khắc này của lịch sử giáo hội, sự Phục Hưng Ân Tứ có thể đóng một vai
tṛ thiết yếu trong sự cổ vũ tính tự vệ rất cần thiết cho cuộc sống của
người tín đồ Đấng Christ trong những xă hội mà thế tục và vật chất đă
làm suy yếu khả năng đáp ứng Đức Thánh Linh và nhận thức tiếng gọi từ
Đức Chúa Trời của nhiều người. Sự cống hiến của quư vị vào công cuộc tái
phúc âm hóa xă hội sẽ được thực hiện trước hết qua lời chứng cá nhân về
sự Đức Thánh Linh ngự trị bên trong và sự chiếu ra sự hiện diện của Ngài
qua các công tác thánh khiết và hiệp một."
("At this moment
in the Church's history, the Charismatic Renewal can play a significant
role in promoting the much-needed defense of Christian life in societies
where secularism and materialism have weakened many people's ability to
respond to the Spirit and to discern God's loving call. Your
contribution to the re-evangelization of society will be made in the
first place by personal witness to the indwelling Spirit and by showing
forth His presence through works of holiness and solidarity." - Address
of Pope John Paul II to the ICCRO Council - March 14, 1992.)
Phần lớn người
Công Giáo Ân Tứ tin rằng Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng được phát
sinh bởi lời cầu nguyện của Giáo Hoàng John XXIII trong Công Đồng
Vatican II:
"Lạy Đức Thánh
Linh... xin tuôn tràn sự đầy dẫy các ân tứ của Ngài... Xin làm mới lại
những sự lạ lùng của Ngài trong thời đại này như là một Lễ Ngũ Tuần
mới."
("O Holy Spirit… pour forth the fullness of your gifts… Renew your
wonders in this day as by a new Pentecost").
Điều đáng chú ư là
Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng không loại bỏ sự thờ lạy h́nh tượng
bà Mary, sự lần chuỗi hạt Mân-côi, sự cầu nguyện với bà Mary... cùng
nhiều giáo lư phản Thánh Kinh khác của Giáo Hội Công Giáo. Nhiều nhóm Ân
Tứ Công Giáo nhận được sự xuất thần và sự "nói tiếng lạ" trong khi kêu
cầu bà Mary (!)
IV. Phong Trào
Dấu Lạ (The Signs and Wonders Movement)
C̣n được gọi là
Phong Trào Làn Sóng Thánh Linh Thứ Ba
(The Third Wave
of the Holy Spirit Movement)
Phong Trào Dấu Lạ
(The Signs and Wonders Movement) hoặc "Làn sóng Thánh Linh thứ ba" (The
Third Wave of the Holy Spirit) bắt đầu vào đầu thập niên 1980 và vẫn c̣n
kéo dài cho đến ngày nay. Các phong trào như: Vineyard Christian
Fellowship, Global Harvest, Toronto Blessing, Eternal Grace là biến dạng
của Phong Trào Dấu Lạ. Những người thuộc Phong Trào Dấu Lạ không chấp
nhận họ thuộc về Ngũ Tuần hoặc Ân Tứ.
Điểm khác biệt nổi
bật của Phong Trào Dấu Lạ đối với Ân Tứ và Ngũ Tuần là Phong Trào Dấu Lạ
có khuynh hướng không nhấn mạnh đến sự kiện "nói tiếng lạ" như là bằng
chứng của một người đă được báp-tem bằng Thánh Linh, nhiều nhà lănh đạo
trong phong trào này không hề có kinh nghiệm "nói tiếng lạ," trái lại,
họ quan tâm đến khía cạnh dấu kỳ, phép lạ, các sự hiện thấy, sự nói tiên
tri, cùng cái gọi là "lời nói thông biết" (the word of knowledge - được
tận dụng trong chương tŕnh truyền h́nh 700 Club của Pat Robertson trong
sự tuyên bố các chi tiết về sự chữa lành xảy ra cho một số khán thính
giả đang ngồi tại nhà riêng, xem chương tŕnh 700 Club qua máy truyền
h́nh). Phong Trào Dấu Lạ chấp nhận cả hai quan điểm về sự được báp-tem
bằng Thánh Linh:
1. Một người được
tái sinh và được báp-tem bằng Thánh Linh khi thật ḷng ăn năn tội và tin
nhận Đấng Christ, (quan điểm của Tin Lành truyền thống). Những người
thuộc Giáo Phái Vineyard Christian Fellowship bảo vệ tích cực quan điểm
này.
2. Một người được
báp-tem bằng Thánh Linh nếu t́m cầu điều này sau khi tin nhận Chúa,
(quan điểm của Ân Tứ và Ngũ Tuần). Báp-tem bằng Thánh Linh không liên
quan đến sự cứu rỗi mà chỉ liên quan đến năng lực sống đạo và giảng đạo.
Peter Wagner
(Global Havest Ministry) và John Wimber (Vineyard Christian Fellowship)
được xem là những nhân vật tiên phong của Phong Trào Dấu Lạ. Vào năm
1977, Carol, vợ của Wimber, vốn xuất thân từ Công Giáo, nằm chiêm bao
thấy ḿnh được đầy dẫy Thánh Linh và khi bà thức dậy th́ biết "nói tiếng
lạ." Mười tháng sau, Wimber kinh nghiệm được một sự chữa lành trong
chính thân thể của ông và bắt đầu tin rằng việc chữa bệnh, đuổi quỷ như
Đức Chúa Jesus là khả thi. Nhờ quen biết với Peter Wagner, một giảng sư
tại Fuller Theological Seminary School of World Missions mà Wimber được
mời cùng dạy lớp "Dấu Lạ" (Signs and Wonders) tại Fuller Seminary với
Wagner. Lớp học này dạy về sự chữa lành thiên thượng và trở thành lớp
học nổi tiếng nhất tại Fuller cho đến khi bị đ́nh chỉ vào năm 1985 v́
các viên chức trong trường có những thắc mắc về tính thần học và kinh
viện của môn học.
Bên cạnh hiện
tượng "bị giết trong Thánh Linh" như trong các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ
Tuần, có ba hiện tượng nổi bật trong Phong Trào Dấu Lạ được cho là sự
thể hiện của Đức Thánh Linh, là: Tiếng Cười Thánh (The Holy Laughter -
sự vui mừng khi được đầy dẫy thánh linh khiến một người trở thành "say
Thánh Linh" không kềm hăm được tiếng cười biểu lộ niềm vui), Tiếng Gầm
Tiên Tri (The Prophetic Roar - tiếng rống lớn phát ra từ cổ họng của
những người được đầy dẫy Thánh Linh, được cho là dấu hiệu Đức Chúa Trời
thông báo sự kiện Ngài bắt đầu chiếm lại quyền tể trị thế giới này từ
Satan), và Âm Thanh Của Thú Vật (The Animal Noises - sự tru, hú, gầm gừ
như các loài thú, kể cả cục tác như gà, chưa được những người Ân Tứ định
nghĩa) [1]. Gần đây, Wimber đă yêu cầu các hội chúng thuộc giáo phái
Vineyard Christian Fellowship do ông sáng lập ngưng chấp nhận hiện tượng
Tiếng Cười Thánh.
V. Các Phong Trào Ân Tứ và
Ngũ Tuần trong Hội Thánh Việt Nam
Tin Lành đến Việt Nam vào năm 1911
do các giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp. Vào giữa thập niên
1960, các Giáo Phái Ngũ Tuần, và Giáo phái Anh Em (Quaker) đem theo
hiện tượng "nói tiếng lạ," theo chân
những người lính viễn chinh Hoa Kỳ đến Việt Nam và tạo ra vài nhóm nhỏ
tại Saigon nhưng không gây ảnh hưởng nhiều đến Hội Thánh Việt Nam. Cuối
thập niên 1960, Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng lan đến Việt Nam,
tạo thành Phong Trào Công Giáo Về Nguồn. Chính hiện tượng "nói tiếng lạ"
trong Phong Trào Công Giáo Về Nguồn gây nhiều chú ư đến các mục sư và
tín đồ thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Có một số sinh viên Tin Lành
đă tham dự sinh hoạt với Phong Trào Công Giáo Về Nguồn và nhận được ân
tứ "nói tiếng lạ." Nhiều sinh viên Tin Lành khác bắt đầu nghiên cứu về
các Giáo Phái Ngũ Tuần. Điều đáng nói là thuở ấy tài liệu biện giáo th́
ít hơn là tài liệu cổ vơ về Phong Trào Ngũ Tuần cho nên các sinh viên
chỉ học biết một chiều về những điểm tích cực của Ngũ Tuần. Hội Thánh
Việt Nam, vào thời đoạn đó, phần lớn là tín đồ thuộc Giáo Phái Phúc Âm
Liên Hiệp (với danh xưng chính thức là: Hội Thánh Tin Lành Việt Nam) đă
tích cực chống đối các hiện tượng đặt tay té ngă và "nói tiếng lạ." Về
sau, một vài mục sư đă ly khai Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, sáng lập các
giáo phái Ngũ Tuần Việt Nam. Đến đầu thập niên 1980 th́ Phong Trào Ân Tứ
bắt đầu xâm nhập và phát triển mạnh mẽ. Đầu thập niên 1990 th́ Phong
Trào Dấu Lạ xâm nhập và kết hợp các khuynh hướng Ngũ Tuần, Ân Tứ đă du
nhập Việt Nam trước đó.
Sau năm 1975, Hội Thánh Tin Lành
Việt Nam một mặt buộc phải ḥa hoăn với chính quyền mới để được công
nhận tư cách pháp nhân, một mặt các mục sư bị cán bộ và công an tôn giáo
theo dơi chặt chẽ cho nên sinh hoạt của Hội Thánh dần dần bị giảm thiểu
và khô cạn. Trong hoàn cảnh đó, những sứ giả của Ân Tứ và Ngũ Tuần phát
triển mô h́nh nhóm nhỏ nhóm tại tư gia và tích cực trong công tác truyền
giáo. Có thể nói, số người tuyên xưng đức tin trong Đấng Christ thuộc
các Hội Thánh Tư Gia phần lớn là tín đồ mới chứ không phải tín đồ từ Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam chuyển sang. Đến cuối thập niên 1990, với sự
tiếp sức của các giáo phái Ân Tứ và Ngũ Tuần Nam Hàn, với áp lực của các
doanh nhân Nam Hàn trên chính quyền Việt Nam, không bao lâu, phong trào
Tin Lành Tư Gia phát triển rầm rộ, xây cất nhiều cơ sở nhóm họp, gây
tiếng vang trong và ngoài nước. Hiện nay, có thể nói, số thành viên
thuộc các nhóm Ân Tứ và Ngũ Tuần tại Việt Nam nhiều hơn số thành viên
thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.
Điều đáng chú ư là những người đi
tiên phong trong các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần tại Việt Nam thiếu sự
hiểu biết về lịch sử và tín lư của các phong trào này cho nên tạo ra một
nét đặc thù của Ân Tứ và Ngũ Tuần Việt Nam. Nét đặc thù đó, là: Ân Tứ và
Ngũ Tuần Việt nam tổng hợp tất cả những đặc tính của các Phong Trào Ân
Tứ và Ngũ Tuần phát sinh từ Hoa Kỳ. Đối với người Ân Tứ và Ngũ Tuần Việt
Nam, bất kỳ giáo sĩ, hoặc tài liệu, hoặc tài chánh của bất kỳ một giáo
phái Ân Tứ và Ngũ Tuần nào từ Hoa Kỳ đến, đều được hoan nghênh nhiệt
liệt. Người Ân Tứ và Ngũ Tuần Việt Nam chỉ dựa vào một mẫu số chung:
hiện tượng đặt tay té ngă, "nói tiếng lạ," và chữa bệnh, đuổi quỷ (!)
Các giáo lư mới lạ được đón nhận dễ dàng dựa trên lư luận: điều đó nghe
hợp lư và do "mục sư danh tiếng" giảng th́ chắc là không sai. Điển h́nh
là giáo lư về Tin Lành Thịnh Vượng (The Prosperity Gospel) do Kenneth
Hagin, Benny Hinn, và Joel Osteen giảng dạy; giáo lư Chiều Kích Thứ Tư
(The Fourth Dimension) do David (Paul) Yonggy Cho (quản nhiệm một hội
chúng với số thành viên lên đến trên 850,000 người) khởi xướng.
Ở hải ngoại (ngoài Bắc Mỹ) Ân Tứ và
Ngũ Tuần có sức thu hút rất mạnh trong những nước Đông Âu vốn thuộc chủ
nghĩa Cộng Sản trước kia. Hầu như Tin Lành truyền thống không có chỗ
đứng trong các nước này v́ hai lư do chính:
1. Các giáo phái thuộc Giáo Hội Tin
Lành Truyền Thống của người Việt không tích cực trong công tác truyền
giáo.
2. Nếu các giáo phái thuộc Giáo Hội
Tin Lành Truyền Thống có đi truyền giáo th́ hầu hết cũng thỏa hiệp với
các giáo sĩ của Ân Tứ và Ngũ Tuần.
C̣n một lư do phụ là: Cách thức nhóm
họp, thờ phượng sôi nổi với các hiện tượng đặc thù của Ân Tứ, Ngũ Tuần
như: đặt tay té ngă, "nói tiếng lạ" dễ thu hút những người Việt Nam phần
lớn tha hương từ miền Bắc Việt Nam. Hai cánh đồng truyền giáo Việt Nam
rất lớn tại Mă-lai và Nam Hàn cũng không thoát ra ngoài t́nh trạng nói
trên.
Riêng tại Bắc Mỹ, cho đến giữa thập
niên 2000, Ân Tứ và Ngũ Tuần rất khó xâm nhập vào Hội Thánh Việt Nam bởi
v́ phần lớn các Hội Thánh Việt Nam thuộc vào các giáo phái truyền thống.
Từ 2005 cho đến nay, t́nh h́nh đang chuyển hướng: nhiều mục sư Báp-tít
và CMA đứng ra mời các mục sư Ân Tứ, Ngũ Tuần đến giảng dạy, đặt tay cầu
nguyện, chữa bệnh, đuổi quỷ tại Hội Thánh do ḿnh quản nhiệm hoặc tại
các trại bồi linh do ḿnh tổ chức.
Một trong các mục sư Ân Tứ Việt Nam
nổi tiếng nhất là Huỳnh Quốc Khánh, quản nhiệm Vietnamese Baptist
Church tại Houston, Texas, USA. Trên website của Hội Thánh này [2] có
các bài dịch và ghi âm Việt Ngữ tác phẩm Chiều Kích Thứ Tư của David
(Paul) Yonggy Cho mà người viết sẽ đề cập đến trong chương thứ ba: Những
tín lư của Ân Tứ và Ngũ Tuần. Từ năm 2004 đến nay, hàng năm, vào tháng
10, Mục Sư Khánh và Hội Thánh Vietnamese Baptist Church tại Houston tổ
chức Hội Đồng Phục Hưng. Số mục sư và tín đồ thuộc đủ giáo phái về tham
dự ngày càng đông hơn là các cuộc Hội Đồng Thường Niên của Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam Giáo Hạt Bắc Mỹ hoặc Liên Hữu Baptist Việt Nam tại Hoa Kỳ.
[1] Các Websites
sau đây sưu tầm rất nhiều những đoạn video ghi lại các hiện tượng kể
trên:
http://www.bible.ca/tongues-audio-video-documentation.htm.
http://video.google.com/videoplay?docid=-5162260544921752923.
[2]
http://www.vbcweb.org/media.php?catid=47
Huỳnh Christian
Timothy
06/09/2007
Ghi chú:
1.
Loạt
bài "Các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần" sẽ được lần lượt đăng tải trong
mục "Những
Phong Trào Ân Tứ & Ngũ Tuần" trên website
http://tinlanhbiengiao.net. Xin nhấp vào |
đây | để xem tất cả các bài. Xin trở lại thường xuyên mỗi tuần để
xem bài mới. Xin tiếp tay phổ biến loạt bài này đến các con dân Chúa
người Việt ở khắp nơi.
2. Tác giả giữ bản
quyền tất cả các bài viết trong loạt bài "Các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ
Tuần." Mọi người có quyền sao chép, lưu trử, và phổ biến dưới mọi h́nh
thức miễn là giữ đúng nội dung của các bài viết.
http://tinlanhbiengiao.net/?q=node/209
© 2007 by Timothy
Christian Huynh. All Rights Reserved.
George Fox (1624-1691).
Disillusioned with the cold orthodoxy of his day, Fox claimed that
enlightenment could be found in a Christian mystical experience. Rather
than experiencing God through outward means, or orthodox-held
sacraments, Fox looked to the leading of the Sprit from within. He
called his followers “Friends,” but they would later be better known as
The Quakers (so named because they would physically quake during
their inward mystical encounters). They rejected orthodox forms of
church leadership and tradition. They focused on a personal, immediate
revelation of God, and were marked by pacifism and personal holiness.
The movement spread to America and is still thriving today. (base on
Justo L. González. “The Story of Christianity” Vol. II) |
|