|
Đức
Giáo Hoàng Biển
Đức
XVI: Buổi
Triều
Kiến
Chung hằng
tuần
Thứ
Tư
24/5/2008 –
Bài
Giáo Lư 71 trong Loạt
bài về
Giáo Hội
Hiệp
Thông Tông Truyền:
Vị
Giáo Phụ
Bút Danh Dionysius Công
Đường
mở
màn với khoa thần
học phụng vụ và thần
bí
Anh chị em thân mến,
Trong tiến tŕnh của các buổi Giáo Lư về các vị Giáo Phụ của Hội Thánh,
hôm nay, tôi muốn nói về một nhân vật có vẻ bí nhiệm, đó là một thần học
gia thuộc thế kỷ thứ sáu với tên tuổi không được biết đến và là vị đă
viết dưới bút danh là Dionusius the Areopagite. Với bút hiệu này ngài ám
chỉ đến đoạn Thánh Kinh chúng ta vừa nghe, một biến cố được Thánh Luca
tŕnh thuật trong đoạn 17 Sách Tông Vụ, nơi vị thánh kư này nói cho biết
cách thức Thánh Phaolô giảng dạy ở Công Đường thành Nhă Điển cho một
nhóm quí phái thuộc thế giới trí thức quan trọng Hy Lạp. Cuối cùng đa số
thính giả của Thánh Phaolô tỏ ra không thích nghe nữa và cười nhạo thánh
nhân rồi bỏ đi. Tuy nhiên, theo Thánh Luca, có một số đă đến với Thánh
Phaolô và mở ḷng đón nhận đức tin. Vị Thánh Kư này cho chúng ta biết 2
tên tuổi, đó là Dionysius là một phần tử ở Công Đường này và một phụ nữ
tên là Damaris.
Nếu 5 thế kỷ sau, vị tác giả của những cuốn sách chọn bút hiệu là
“Dionysius the Areopagite”, tức là vị này có ư đem sự khôn ngoan của
người Hy Lạp ra phụng sự Phúc Âm, muốn nuôi dưỡng văn hóa và trí thức Hy
Lạp với việc loan báo Chúa Kitô; ông muốn thực hiện những ǵ được
Dionysius có ư định thực hiện, đó là làm cho tư tưởng Hy Lạp hội nhập
với việc loan truyền của Thánh Phaolô; là một người Hy Lạp, ông muốn trở
thành môn đệ của Thánh Phaolô, tức là môn đệ của Chúa Kitô.
Tại sao ông đă giấu tên của ḿnh và chọn bút hiệu ấy? Một phần của câu
trả lời đă được tôi nêu lên đó là ông thực sự muốn bày tỏ ư định chính
yếu này nơi đầu của ông. Thế nhưng, có hai giả thuyết liên quan tới vấn
đề khuyết danh và biệt hiệu này. Giả thuyết thứ nhất đó là vấn đề cố
t́nh làm sai lệch đi ngày tháng về những tác phẩm của ông khi đưa chúng
trở lại thế kỷ thứ nhất, thời của Thánh Phaolô, mà ông muốn tác phẩm văn
chương của ông có được một thẩm quyền hầu như tông truyền. Thế nhưng, có
một giả thuyết khác hợp lư hơn là giả thuyết vừa rồi, đối với tôi đủ để
khả tín, đó là chính ông muốn thực hiện một tác động khiêm nhượng; ông
không muốn làm vẻ vang tên tuổi của ḿnh, ông không muôn xây dựng lên
một tượng đài cho ḿnh bằng công cuộc của ông mà chỉ muốn thực sự phục
vụ Phúc Âm, muốn tạo nên một nền thần học về giáo hội, chứ không phải là
thứ thần học cá nhân hay căn cứ vào chính bản thân ḿnh. Thực sự là ông
đă thành công trong việc soạn thảo một thứ thần học mà dĩ nhiên chúng ta
có thể xác định ngày tháng ở thế kỷ thứ sáu nhưng không thể qui cho bất
cứ một nhân vật nào trong giai đoạn ấy: nó là một nền thần học “phi cá
nhân hóa” một cách nào đó, tức là một thứ thần học bày tỏ một ư nghĩ và
ngôn ngữ chung. Đó là giai đoạn của những cuộc luận chiến nẩy lửa sau
Công Đồng Chalcedon; thật vậy ông đă nói trong bứa Thư Thứ Bảy của ḿnh
là: “Tôi không muốn làm bùng lên những cuộc bút chiến; tôi chỉ muốn làm
bùng lên chân lư thôi. Tôi t́m kiếm chân lư”. Và ánh sáng của chân lư tự
nó đánh tan những lầm lẫn sai lạc và làm sáng tỏ sự thiện. Để rồi với
nguyên tắc ấy, ông đă thanh tẩy tư tưởng Hy Lạp và liên hệ nó với Phúc
Âm. Nguyên tắc này, một nguyên tắc ông đă khẳng định trong bức thư thứ
bảy của ḿnh, cũng là những ǵ bày tỏ cho thấy một tinh thần thực sự
muốn đối thoại: không phải về việc t́m kiếm những ǵ tách biệt, mà là
t́m kiếm sự thật nơi chính Sự Thật. Bởi đó điều này mới rạng ngời và
đánh tan những lầm lỗi sai lạc.
Bởi vậy, khoa thần học của vị tác giả ấy có thể nói là siêu bản vị
“supra-personal” thực sự là khoa thần học về giáo hội mà chúng ta có thể
cho nó ở vào thế kỷ thứ sáu. Tại sao? Tinh thần của người Hy Lạp, một
tinh thần ông mang ra phục vụ Phúc Âm, ông đă gặp thấy nơi những cuốn
sách của Proclus, vị đă chết ở Nhă Điển năm 485. Vị tác giả này thuộc về
phái hậu Plato, một trường phái tư tưởng đă biến triết lư của Plato
thành một thứ tôn giáo, nhắm mục đích tối thượng là tạo nên một thứ hộ
giáo mănh liệt cho thuyết đa thần của Hy Lạp, và, theo sau sự thành công
của Kitô giáo, quay về với tôn giáo cổ điển của Hy Lạp. Vị tác giả này
đă muốn chứng tỏ ra trên thực tế th́ các vị thần linh là những quyền lực
chủ động trong vũ trụ này. Kết quả xuất phát từ điều ấy đó là chủ trương
đa thần cần phải được coi là đích thực hơn là chủ trương độc thần chỉ có
một Thiên Chúa Hóa Công duy nhất. Điều được tác giả Proclus tŕnh bày là
một hệ thống thần linh về vũ trụ, về những quyền lực bí nhiệm, mà trong
cái vũ trụ được thần linh hóa này, con người có thể tiến tới thần tính.
Tuy nhiên, tác giả này đă phân biệt giữa những đường lối giành cho kẻ
b́nh dân, thành phần không thể vươn cao tới đỉnh của chân lư – chỉ cần
một số lễ nghi cũng đủ cho họ rồi – và những đường lối giành cho thành
phần khôn ngoan tự thanh tẩy bản thân ḿnh để đạt tới ánh sáng tinh
tuyền.
Tư tưởng này, như đă rơ, là những ǵ hoàn toàn phản Kitô giáo. Nó là một
hậu phản ứng trước cuộc chiến thắng của Kitô giáo, một sử dụng Ploto
chống lại Kitô giáo, trong khi đó đă xuất hiện việc dẫn giải về Kitô
giáo của một đại triết gia. Vấn đề đáng chú ư ở đây là Pseudo-Diosysius
đă dám tự lợi dụng chính tư tưởng này để chứng tỏ sự thật về Chúa Kitô;
để biến vũ trụ đa thần này thành một vũ trụ được Thiên Chúa dựng nên,
thành cảnh ḥa hợp nơi vũ trụ này của Thiên Chúa, nơi mà hết mọi quyền
lực đều chúc tụng Thiên Chúa và cho thấy cảnh hết sức ḥa hợp này, một
cuộc ḥa tấu của vũ trụ xuất phát từ Luyến Thần đến các Thiên Thần và
Tổng Thần, đến loài người cũng như đến tất cả mọi tạo vật, thành phần
cùng nhau phản ảnh vẻ đẹp của Thiên Chúa và chúc tụng Thiên Chúa. Như
thế ông đă biến h́nh ảnh đa thần thành lời chúc tụng Đấng Hóa Công và
tạo vật của Ngài. Nhờ đó, chúng ta có thể khám phá ra các đặc tính thiết
yếu nơi tư tưởng của ông: trước hết và trên hết, nó là một chúc tụng của
vũ trụ. Tất cả mọi tạo vật đều nói về Thiên Chúa và đều chúc tụng thiên
Chúa. V́ tạo vật là sự chúc tụng Thiên Chúa mà khoa thần học của Bút
Danh Dionysius đă trở thành khoa thần học về phụng vụ, ở chỗ, Thiên Chúa
trên hết được thấy nơi việc chúc tụng Ngài, chứ không phải chỉ nơi việc
suy tư về Ngài, và phụng vụ không phải là những ǵ do chúng ta tạo ra,
là những ǵ được chế ra để có được một cảm nghiệm tôn giáo cho một
khoảng thời điểm nào đó; nó là việc ca hát với ca đoàn tạo vật và là
việc tiến vào chính thực tại của vũ trụ. Và nhờ chính cách thức ấy mà
phụng vụ, dĩ nhiên là chỉ mang tính cách giáo hội, trở thành bao rộng và
cao cả, nó trở thành việc chúng ta hiệp nhất với ngôn ngữ của tất cả tạo
vật. Ông nói rằng: không thể nói về Thiên Chúa một cách trừu tượng; việc
nói về Thiên Chúa – ông nói bằng một tiếng Hy Lạp là ‘hymnein’,
là việc ca tụng Thiên Chúa với một bản thánh ca lớn lao của tạo vật được
phản ảnh và cụ thể hóa nơi việc chúc tụng về phụng vụ. Tuy nhiên, cho dù
khoa thần học của ông là khoa thần học về vũ trụ, giáo hội và phụng vụ,
nó cũng là một khoa thần học hết sức cá thể. Ông đă tạo ra một khoa thần
học lớn về thần bí đầu tiên. Thật vậy, với ông, chữ thần bí “mystic” có
một ư nghĩa mới. Cho đến lúc bấy giờ, đối với Kitô hữu, một chữ như thế
tương đương với chữ “bí tích”, tức là những ǵ liên quan tới “mysterion”,
tới bí tích. Với ông, chữ bí nhiệm “mystic” trở thành cá thể hơn, thân
mật hơn: nó diễn tả hành tŕnh của linh hồn hướng về Thiên Chúa. Và làm
sao có thể t́m thấy Thiên Chúa? Ở đây chúng ta một lần nữa ghi nhận một
yếu tố quan trọng trong việc đối thoại của ông giữa triết lư Hy Lạp và
Kitô giáo, và đặc biệt với đức tin theo thánh kinh. Hiển nhiên là những
ǵ Plato nói và những ǵ khoa triết học lớn lao này về Thiên Chúa nói
đều cao quí hơn và chân thực hơn; Thánh Kinh là những ǵ ngày nay người
ta có thể nói dường như “man di”, tầm thường và non dại làm sao ấy; thế
nhưng ông nhận định rằng thực sự điều ấy là những ǵ cần thiết, nhờ đó
chúng ta mới có thể hiểu được rằng những ư niệm về Thiên Chúa cao quí
nhất cũng không bao giờ có thể đạt tới sự uy nghi cao cả của Ngài: chúng
bao giờ cũng bị hụt hẫng. Thật vậy, những h́nh ảnh này giúp chúng ta có
thể hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng vượt trên hết mọi quan niệm; nơi tính
chất đơn sơ của các h́nh ảnh, chúng ta t́m thấy được sự thật hơn là ở
nơi những quan niệm hay ho. Chân Dung của Thiên Chúa là những ǵ chúng
ta không thể diễn tả thực sự về Ngài. Như thế người ta có thể nói – và
chính Bút Danh Dionysius cũng nói – về một “khoa thần học tiêu cực”.
Chúng ta dễ nói về mặt trái của Thiên Chúa hơn là nói về mặt phải của
Ngài. Chỉ qua những h́nh ảnh ấy chúng ta mới có thể trực giác thấy được
Dung Nhan thực sự của Ngài, ngoài ra, Dung Nhan Thiên Chúa này là những
ǵ rất cụ thể, là chính Chúa Giêsu Kitô.
Mặc dù Dionysius đă cho chúng ta thấy, theo Proclus, mối ḥa hợp của các
ca đoàn trời cao một cách đường như chúng tất cả đều lệ thuộc vào nhau,
thật ra trong cuộc chúng ta hành tŕnh tiến về Thiên Chúa chúng ta vẫn
c̣n rất cách xa Ngài. Bút Danh Dionysius cho chúng ta thấy rằng cuối
cùng th́ cuộc hành tŕnh đến cùng Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, Đấng
làm cho ḿnh gần gũi với chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Bởi vậy, một khoa
thần học lớn lao và bí nhiệm cũng có thể trở thành rất cụ thể thực tiễn,
cả nơi việc giải thích về phụng vụ cũng như cả nơi vấn đề bàn luận về
Chúa Giêsu Kitô: bằng tất cả những điều này, Dionysius Công Đường đă tạo
được ảnh hưởng rất sâu nặng trên tất cả khoa thần học thời trung cổ cũng
như trên tất cả khoa thần học thần bí, cả ở Đông phương lẫn Tây phương.
Ngài đă được thực sự tái khám phá ra vào thế kỷ thứ 13, nhất là bởi
Thánh Bonaventura, đại thần học gia ḍng Phanxicô, vị thánh ở nơi khoa
thần học thần bí này đă t́m thấy dụng cụ về tri thức để tái cắt nghĩa về
gia sản – đơn sơ và sâu xa – của Thánh Phanxicô. Cùng với Dionysius,
“Poverello”nói với chúng ta rằng cuối cùng th́ yêu thương thấy hơn là lư
trí. Ở đâu ánh sáng của yêu thương chiếu soi th́ bóng tối của lư trí bị
đánh tan; yêu thương là những ǵ trông thấy, t́nh yêu là con mắt và là
cảm nghiệm cống hiến cho chúng ta hơn là suy tư. Thánh Bônaventura đă
thấy nơi Thánh Phanxicô những ǵ chất chứa nơi cảm nghiệm này: đó là cảm
nghiệm về một cuộc hành tŕnh rất tầm thường, rất thực tiễn, ngày qua
ngày, nó là việc bước đi với Chúa Kitô, chấp nhận Thập Giá của Người.
Nơi cái nghèo khó này cũng như trong sự khiêm hạ này, trong sự khiêm hạ
cũng được sống trong giáo hội, đó là một thứ cảm nghiệm về Thiên Chúa
cao quí hơn cả những ǵ đạt được bằng suy tư. Nơi nó chúng ta thự csự
chạm tới Tâm Can của Thiên Chúa.
Ngày nay Dionysius Công Đường đang có được những ǵ là thích đáng mới:
ông hiện lên như là một đại trung gian nơi cuộc đối thoại tân tiến giữa
Kitô giáo và các khoa thần học thần bí ở Á Châu, những khoa thần học
thần bí mang tính chất đặc biệt nơi niềm xác tín rằng không thể nào nói
được Thiên Chúa là đấng nào, mà chỉ có thể gián tiếp nói về Ngài thôi;
rằng chỉ có thể nói về Thiên Chúa bằng cái “không’, và chỉ có thể vươn
tới Ngài bằng việc có được cái cảm nghiệm “không” này. Ở đây, chúng ta
có thể thấy được cái tương tự giữa tư tưởng của nhân vật Công Đường này
với tư tưởng của các đạo giáo Á Châu; ngày nay ông có thể là một trung
gian như ông đă là giữa tinh thần Hy Lạp và Phúc Âm vậy.
Nơi bối cảnh này chúng ta có thể thấy rằng cuộc đối thoại không chấp
nhận tính cách hời hợt bề ngoài. Thật vậy chính khi nào con người tiến
sâu vào cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô mới có thể cởi mở cho việc đối thoại.
Khi nào người ta gặp được ánh sáng chân lư, người ta mới nhận ra rằng nó
là một thứ ánh sáng cho hết mọi người; những cuộc luận chiến biến mất và
có thể hiểu được nhau, hay ít là nói với nhau, tiến đến gần nhau hơn.
Con đường của việc đối thoại thực sự là ở tại việc gần gũi với Thiên
Chúa nơi Chúa Kitô, nơi một cuộc gặp gỡ sâu xa với Ngài, nơi cảm nghiệm
về thứ sự thật hướng chúng ta về ánh sáng và giúp chúng ta vươn ra với
kẻ khác – bằng ánh sáng chân lư, ánh sáng yêu thương. Sau hết ông nói
với chúng ta rằng hăy sử dụng đường lối cảm nghiệm, cảm nghiệm khiêm
tốn, hằng ngày. Bấy giờ tấm ḷng được mở rộng và có thể thấy cũng như có
thể soi sáng trí khôn, nhờ đó nó thấy được vẻ đẹp của Thiên Chúa. Chúng
ta hăy cầu nguyện cùng Chúa xin Người giúp chúng ta ngày nay cũng biết
đặt sự khôn ngoan của thời đại chúng ta đây vào việc phục vụ Phúc Âm,
khám phá một cách mới mẻ vẻ đẹp của đức tin, cuộc gặp gỡ Thiên Chúa nơi
Chúa Kitô.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo mạng điện toán toàn cầu
của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2008/documents/hf_ben-xvi_aud_20080514_en.html
|
|