|
Các Chuyến Tông Du Mục Vụ: Nguồn Gốc, Ư Nghĩa và Tác Dụng
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Trước
khi Chúa Kitô Tử Giá, Người đă thiết lập Bí Tích Thánh Thể để Giáo Hội
có thể tiếp tục tưởng niệm Cuộc Vượt Qua của Người là Đấng ở cùng Giáo
Hội cho tới tận thế ra sao, th́ trước khi Người là Đấng Phục Sinh về
trời cùng Cha là Đấng đă sai Người, Người cũng đă sai các tông đồ đi rao
giảng, trước tiên ở Giêrusalem, ở Giuđêa, ở Galilêa và cho tới tận cùng
trái đất (xem Acts 1:8) cũng như cho tới khi Người lại đến (xem Acts
1:11) như vậy. Cốt lơi của việc rao giảng được gọi là truyền giáo hay
truyền bá phúc âm hóa này là ở chỗ làm chứng cho Chúa Kitô, bởi thế,
theo Thánh Kư Luca, trong cả Sách Phúc Âm và Cuốn Tông Vụ của ḿnh, ngài
đă lập lại từ ngữ được chính Chúa Giêsu sử dụng, đó là “các con là những
chứng nhân của Thày” (Lk 24:48; Acts 1:8). Và việc làm chứng nhân
cho Chúa Kitô đă được mở màn bởi chính các vị tông đồ là thành phần
chứng nhân tiên khởi, thành phần trong Phúc Âm của Thánh Kư Marcô ở đoạn
ở đoạn 3 câu 13 và 14, được Chúa Giêsu tuyển chọn để ở với Người và để
được Người sai đi: các vị cần ở với Người để thấu biết về Người và được
Người sai đi để làm chứng về Người như Người tỏ ḿnh ra cho các vị.
Thế
nhưng, việc làm chứng cho Chúa Kitô, theo ư định của Người là Đấng Phục
Sinh, Thăng Thiên và Tái Giáng trong vinh quang vào ngày cùng tháng tận,
lại không phải chỉ vỏn vẹn ở Thánh Địa và cho riêng thành phần chiên lạc
nhà Yến Duyên như lúc Người c̣n sống sai 12 tông đồ và 72 môn đệ đi (x.
Mt 10:6; Lk 10:1,13-15), mà là cho tới tận cùng trái đất, và c̣n qua cả
thành phần thừa kế của những vị chứng nhân tiên khởi này, thành phần
được gọi là hàng giáo phẩm của Giáo Hội hoàn vũ, dưới sự lănh đạo của vị
được gọi là Giáo Hoàng, thừa kế Thánh Phêrô. Điển h́nh cho việc tiếp tục
làm chứng cho Chúa Kitô cho đến tận cùng trái đất này và cho tới khi
Người lại đến này là những chuyến tông du của chính các vị Giáo Hoàng
thời đại, kể từ Công Đồng Chung Vaticanô II tới nay, tới chuyến tông du
của vị giáo hoàng đương kim ở Thánh Địa trong 8 ngày, 8-15/5/2009, một
biến cố phải nói là có một tầm vóc quan trọng chẳng những cho lịch sử
Giáo Hội mà c̣n của cả lịch sử thế giới nữa, một biến cố không thể nào
không là đề tài phát thanh của Tin Mừng Sự Sống hôm nay.
Kể
từ
Công Đồng
Chung Vaticanô II, một
công đồng
chung thứ
21 trong lịch
sử
2000 năm
của
Giáo Hội,
một
công đồng
theo chiều
hướng
hoàn toàn khác với
20 công đồng
trước,
một
chiều
hướng
hoàn toàn mới
mẻ,
chiều
hướng
của
một
thứ
“Ánh Sáng Muôn Dân” - Lumen Gentium, nhan
đề
của
Hiến
Chế
tín lư về
Giáo Hội,
mang “Vui Mừng
và Hy Vọng”
- Gaudium et Spes, nhan
đề
của
Hiến
Chế
Mục
Vụ
của
Giáo Hội,
Giáo Hội
đă
thể
hiện
chiều
hướng
truyền
bá phúc âm hóa này một
cách cụ
thể
ngay từ
khi công đồng
chung Vaticanô II từ
ngày 11/10/1962 đến
ngày 8/12/1965 này chưa
kết
thúc, qua chuyến
tông du đầu
tiên ngoài Ư quốc
trong lịch
sử
Giáo Hội
là chuyến
tông du của
Đức
Phaolô VI tới
Thánh Địa
3 ngày, từ
4 tới
6 tháng Giêng năm
1964, một
chuyến
tông du lịch
sử
liên quan đặc
biệt
tới
chiều
kích đại
kết
với
Chính Thống
Giáo và liên tôn với
Do Thái giáo. Kể
từ
đó,
đích
thân các vị
Giáo Hoàng, thừa
kế
Thánh Phêrô, đă
thực
hiện
việc
truyền
bá phúc âm hóa hết
sức
khẩn
trương
trong một
thế
giới
càng văn
minh con người
càng sợ
bị
hủy
diệt
bởi
chính những
ǵ ḿnh phát minh ra, càng
đề
cao nhân quyền
càng quay cuồng
với
băo lốc
văn
hóa chết
chóc, nhất
là cho một
thế
giới
Tây phương
Kitô giáo đang
bị
khủng
hoảng
đức
tin và phá sản
văn
hóa nhân bản
chân chính.
Việc
truyền
bá phúc âm hóa của
các vị
giáo hoàng từ
Công Đồng
Chung Vaticanô II đă
được
thực
hiện
cụ
thể
nhất
qua các chuyến
tông du mục
vụ
khắp
hoàn cầu.
Đức
Thánh Cha Phaolô VI với
11 chuyến,
từ
năm
1964 tới
1970, tức
gần
2 chuyến
1 năm;
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II với
104 chuyến
trong 26 năm
rưỡi,
tức
4 chuyến
1 năm;
và vị
Giáo Hoàng đương
kim Biển
Đức
XVI với
12 chuyến
trong ṿng 4 năm,
tức
3 chuyến
1 năm.
Có một
điểm
chung giống
nhau giữa
cả
3 vị
giáo hoàng này là các vị
đều
đến
2 nơi
chính yếu
quan trọng
nhất
trên thế
giới,
một
là Liên Hiệp
Quốc,
một
địa
điểm
liên quan tới
chính trị,
và hai là Thánh Địa,
một
địa
điểm
liên quan đến
tôn giáo. Đức
Phaolô VI đến
Liên Hiệp
Quốc
ngày 4/10/1965, Đức
Gioan Phaolô II ngày 5/10/1995, và
Đức
Bênêdictô ngày 18/4/2008.
Đức
Phaolô VI thăm
Thánh Địa
ngày 4-6/1/1964, Đức
Gioan Phaolô II ngày 20-26/3/2000, và
Đức
Bênêdictô ngày 8-15/5/2009.
Hôm Thứ Năm 12/6/2003, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă tiếp khoảng 200
người đă cộng tác với ngài trong chuyến tông du mục vụ lần thứ 100 của
ngài. Trong số này có các viên chức của Bộ Nội Vụ Ṭa Thánh, Bộ Trưởng
Chuyển Vận Ư Quốc, các giám đốc của những hăng bay Alitalia, các Vệ Binh
Thụy Sĩ và các kư giả. Trong dịp này, ngài cho biết lư do tại sao ngài
cần phải thực hiện quá nhiều cuộc tông du mục vụ
“Ngay từ ngày Tôi được bầu làm Giám Mục Rôma, 16/10/1978, Tôi đă nghe
thấy một cách mạnh mẽ và thôi thúc tiếng vọng của lệnh Chúa Giêsu
truyền: ‘Các con hăy đi khắp thế gian và giảng dạy Phúc Âm cho tất cả
mọi tạo vật’. Bởi thế Tôi cảm thấy có nhiệm vụ cần phải bắt chước Thánh
Tông Đồ Phêrô, vị ‘đă đi đây đó để đến với tất cả mọi người trong họ’
hầu củng cố và liên kết t́nh trạng sinh động của Giáo Hội trong việc
trung thành với Lời Chúa cũng như trong việc phục vụ cho chân lư; nói
cho hết mọi người biết rằng Giáo Hội yêu thương họ, Giáo Hoàng yêu quí
họ, cũng nhờ đó cảm thấy phấn khởi trước gương sáng sống thiện hảo của
họ, sống đức tin của họ”.
ĐTC nhấn mạnh là những chuyến tông du của Ngài đă làm cho Ngài có thể
thực hiện “một việc đặc biệt của thừa tác vụ xứng hợp với Vị Thừa Kế
Thánh Phêrô, đó là, trở thành ‘đường lối và nền tảng vĩnh viễn và hữu
h́nh cho mối hiệp nhất trong đức tin và niềm hiệp thông’”.
Ngoài ra, ngoài khía cạnh củng cố đức tin, thực hiện truyền giáo và thi
hành đại kết, Ngài c̣n nhấn mạnh đến một khía cạnh nữa liên quan đến
Chúa Kitô như sau: “Qua tất cả mọi chuyến đi của ḿnh, Tôi cảm thấy
ḿnh như là một kẻ hành hương đến thăm một thứ đền thánh đặc biệt là Dân
Chúa. Nơi những đền thánh này, Tôi đă được dịp chiêm ngắm dung nhan Chúa
Kitô, một dung nhan tang thương trên thập giá lẫn vinh quang sáng ngời
vào buổi sáng Phục Sinh”.
Đức Thánh Cha c̣n nói tới tầm quan trọng của việc Ngài đến để chia sẻ
với các vị giám mục những khó khăn và niềm vui của các vị, để gặp gỡ
thành phần tín hữu, nhất là giới trẻ, “và cảm thấy gần gũi hơn nữa
với sinh hoạt của các cộng đồng Kitô giáo ở các lục địa khác nhau”.
Đức Thánh Cha cũng không quên đề cập tới những cuộc Ngài gặp gỡ anh chị
em thuộc các giáo hội hay cộng đồng Kitô hữu đại kết, cũng như các tín
đồ thuộc các tôn giáo ngoài Kitô giáo, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo.
Tuy nhiên, điều đánh động Đức Thánh Cha nhất và đáng nhớ nhất của Ngài
trong tất cả các chuyến tông du đó là những cuộc cử hành phụng vụ: “Những
cộng đồng Dân Chúa muôn mầu sắc qui tụ lại để cử hành Thánh Thể vẫn là
những ǵ in sâu vào kư ức của Tôi và vào tâm can của Tôi như những kỷ
niệm ư nghĩa nhất và cảm kích nhất trong những cuộc viếng thăm của Tôi”.
Lịch sử
thế kỷ 20 cho thấy một hiện tượng rất lạ, có thể nói là một dấu chỉ thời
đại liên quan tới một mầu nhiệm quan pḥng nào đó sắp sửa xẩy ra hay
hiện thực. Đó là nạn thảm sát 6 triệu dân Do Thái ở Âu Châu bởi Đảng
Nazi Đức Quốc xă trong Thế Chiến Thứ Hai (1939-1945), nhưng chỉ 3 năm
sau, tức vào năm 1948, năm Bản Tuyên Ngôn Hiến Chương về Nhân Quyền của
Liên Hiệp Quốc ban hành, một dân tộc ít người vừa bị sát hại 6 triệu
nhân mạng như thế đă trở thành một quốc gia Do Thái trước mắt thế giới ở
chính mảnh đất hứa của họ, sau 19 thế kỷ mất nước, từ sau biến cố Thành
Giêrusalem bị Tướng Titô thuộc Đế Quốc Roma tàn phá hầu như tan tành.
Quốc gia Do Thái nhỏ bé ít dân bé đất này, như một tiểu Việt Nam với đại
Trung Quốc xưa và nay, lại là một cái gai nhức nhối khó nhổ nhất của
khối Ả Rập Hồi giáo khổng lồ bao gồm 22 quốc gia tập trung chính yếu ở
Trung Đông và Tiểu Á, trong đó có cả Ai Cập.
Từ ngày
quốc gia Do Thái tái thiết lập ở mảnh đất hứa này của họ, cuộc chiến
trung đông bắt đầu bùng nổ từ đó cho tới nay trên 60 năm, nhất là trận
chiến 6 ngày năm 1967 và trận chiến
Yom Kippur
năm 1973, những trận chiến làm cho khối Ả Rập Hồi giáo khổng lồ Gồliát
càng ngày càng cảm thấy không thể ăn tươi nuốt sống một thằng nhăi con
Đavít Do Thái. Cuộc chiến tranh giằng co càng ngày càng quyết liệt này ở
Thánh Địa hầu như không thể nào có thể chấm dứt được, không ai có thể
nào giải quyết được, kể cả quốc tế và chính nội bộ các phe đối địch nhau,
cho dù đă có những cố gắng về mọi phía. Chẳng khác ǵ như t́nh trạng
hiệp nhất Kitô giáo, suốt từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II, thời điểm
bắt đầu phát động phong trào và chiến dịch đại kết Kitô giáo, theo sau
là những cuộc gặp gỡ và đối thoại đại kết, nhưng mới chỉ hơi nhúc nhích
được một tí trong ṿng gần nửa thế kỷ. Về t́nh h́nh chiến tranh trung
đông giữa Do Thái và khối Palestine ở Thánh Địa, người ta có cảm tưởng
cả hai bên đều áp dụng luật Cựu Ước là “mắt đền mắt răng đền răng”.
Palestine khủng bố, Do Thái trả đũa. Cứ thế và cứ thế.
Phải
chăng đó là lư do các chuyến tông du của những vị Giáo Hoàng Công Giáo
đều nhắm đến chỗ làm sao để mang lại ḥa b́nh cho hai dân tộc này, để họ
có thể chung sống với nhau trên cùng một mảnh đất, một mảnh đất hứa của
dân Do Thái, nhưng cũng là mảnh đất dân Palestine đă lưu trú cả 19 thế
kỷ? Giải pháp 2 quốc gia đồng chung sống được quốc tế phát động và cổ vơ
vẫn không được chấp nhận, chiến tranh vẫn tiếp tục kéo dài cho tới nay?
Phải chăng, một khi “quyền lực chính trị” (political power) không thể
giải quyết được th́ cần phải sử dụng đến một yếu tố quan trọng khác, một
yếu tố được vị Giáo Hoàng đương kim Biển Đức XVI, vị giáo hoàng của một
quốc gia liên quan tới cuộc thảm sát dân Do Thái, đă đề cập tới trong
cuộc họp báo Thứ Tư 8/5/2009, đó là “năng lực thiêng liêng” (spiritual
force) từ các tôn giáo?
Bởi vậy,
chúng ta hăy đặc biệt theo dơi những bài ngài nói hay những lời ngài nói
trong chuyến tông du XII ở Thánh Địa liên quan tới thứ “năng lực thiêng
liêng” là những ǵ có thể cùng với và thậm chí thay cho “quyền lực chính
trị” trong việc mang lại ḥa b́nh cho thế giới nói chung và ở Thánh Địa
nói riêng.
|
|