|
“Năng Lực Thiêng Liêng”
Đaminh
Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
soạn dọn cho buổi phát thanh Tin Mừng Sự Sống 454 Thứ Sáu 22/5/2009
ể tiếp tục biến cô Tông Du Thánh Địa của vị Giáo Hoàng đương kim Biển
đức XVI của chúng ta trong bài trước, “Tông Du Th
ánh Địa - một biến cố quan trọng chẳng những đối với vai tṛ truyền bá
phúc âm hóa của Giáo Hội mà c̣n tới cả ḥa b́nh thế giới nữa.
Cũng
trong buổi phát thanh tuần trước, trong bài về
cuộc họp
báo trên máy bay từ Rôma sang nước Jordan là chặng dừng chân đầu tiên
trong chuyến tông du Thánh Địa lần thứ ba của vị Lănh Đạo Tối Cao thế
giới Công Giáo Hoàn Vũ, Đức Thánh Cha có phân biệt giữa “quyền lực chính
trị” liên quan tới chính trị và các vị lănh đạo chính trị quốc gia cũng
như quốc tế, và “năng lực thiêng liêng” liên quan tới tôn giáo và các vị
lănh đạo tôn giáo. Cũng trong buổi phát thanh lần trước, chúng ta đă
thoáng nh́n lại lịch sử Thánh Địa trên 60 năm qua từ ngày xuất hiện một
quốc gia Do Thái, một lịch sử liên tục chiến tranh, một lịch sử đầy hận
thù và chết chóc bởi tranh chấp đất đai và chủ quyền, nhất là sau Trận
Chiến sáu ngày năm 1967. Cho đến nay, thực tế cho thấy “quyền lực chính
trị” hầu như bó tay, không thể nào giải quyết được, cho dù đă hết sức cố
gắng trên 6 thập niên qua. Nếu “quyền lực chính trị” không làm được th́
phải chăng chỉ có “năng lực thiêng liêng” mới là giải pháp duy nhất và
cuối cùng cho việc giải tỏa t́nh h́nh Chiến Tranh Trung Đông ở Thánh Địa
hầu như bất tận này? Trước hết, chúng ta hăy cùng nhau ôn lại những điểm
then chốt trong cuộc Chiến
Tranh Trung Đông ở Thánh Địa và nhận định của ĐTC về t́nh h́nh này hiện
nay như sau.
Trung Đông: MẢnh ĐẤt TrưỜng KỲ Xung ĐỘt
(phần
này đă được phát thanh ở cuối Tin Mừng Sự Sống 453 Thứ Sáu 15/5/2009)
T́nh h́nh Trung Đông dằng dai và căng thẳng giữa hai phe Palestine và Do
Thái cho tới nay khiến cho người viết cứ suy nghĩ về hai câu Thánh Kinh,
một câu liên quan đến phe Palestine Ả Rập và một câu liên quan đến phe
Do Thái.
Câu Thánh Kinh (Cựu Ước) liên quan đến phe Palestine Ả Rập, đó là câu
Thiên Sứ phán với người nữ tỳ Ai Cập Hagar về tương lai của đứa con trai
Ishmael đang ở trong bụng chị bấy giờ, đứa trẻ chị sẽ sinh ra cho ông
chủ Abram của chị v́ bà chủ Sarai của chị bị bất hạnh hiếm muộn: “Nó
chống lại mọi người và mọi người chống lại nó” (Gen 16:12). T́nh h́nh an
ninh trên thế giới hiện nay cho thấy nạn khủng bố trên thế giới phát
xuất từ dân Ả Rập Hồi giáo, và thế giới cũng đang liên kết để chống lại
nạn khủng bố gây ra bởi những con người thuộc dân này.
Câu Thánh Kinh (Tân Ước) liên quan đến phe Do Thái là câu Thánh Phaolô
Tông Đồ khẳng định về số phận của dân ấy: “Phần dân Do Thái đă bị mù
quáng cho tới khi đủ số Dân Ngoại, tới lúc ấy tất cả dân Do Thái sẽ được
cứu độ” (Rm 11:25-26). T́nh h́nh hiện nay cho thấy dân Do Thái dường như
không cần mong đợi một Vị Cứu Tinh, Vị Thiên Sai nữa, v́ họ không bị một
quyền lực chính trị nào chi phối, như thời đế quốc Rôma, thời điểm xuất
hiện nhân vật Giêsu Nazarét, trái lại, họ c̣n làm chủ t́nh h́nh Trung
Đông nói riêng, nhất là, làm điêu đứng cả một thế giới Ả Rập Hồi giáo
khổng lồ về địa dư và dân số gấp trăm ngàn lần họ.
Chúng ta không biết dân Do Thái sẽ được cứu độ bằng cách nào, chỉ biết
rằng khi đủ số Dân Ngoại th́ họ được cứu, thế thôi. Nhưng làm thế nào để
biết được c̣n bao nhiêu Dân Ngoại cần phải trở về nữa mới đủ số, hay
ngược lại, cứ khi nào thấy Dân Do Thái bắt đầu tỏ ra nhận biết Giêsu
Nazarét là Chúa Kitô, là Đấng Thiên Sai, th́ đó là dấu cho thấy đă đủ số
Dân Ngoại. Tuy nhiên, trong khi mong chờ điềm trời cho thấy ứng nghiệm
lời tiên báo của Thánh Phaolô về số phận của dân Do Thái, chúng ta hăy
theo dơi t́nh h́nh Trung Đông, một mảnh đất hữu thần và linh thánh nhưng
liên lỉ xung khắc và trường kỳ xung đột
Những ranh giới Palestine và Việc Do Thái định cư
Phe Palestine nhấn mạnh rằng quốc gia của họ cần phải bao gồm tất cả mọi
lănh thổ bị phe Do Thái chiếm đóng từ cuộc chiến
tranh 1967, tức
bao gồm Giải Gaza và vùng Tây Ngạn kể cả phía Đông Giêrusalem. Phe Do
Thái không đồng ư, cho rằng v́ nhu cầu an ninh của những người Do Thái
mà cần phải có sự hiện diện của họ theo chính sách phác họa của vùng Tây
Ngạn, và một số những cuộc định cư của người Do Thái xẩy ra trong những
năm họ chiếm đóng cần phải được sát nhập vào nước Do Thái. Ủy ban t́m
kiếm dữ kiện của nguyên Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ George Michell đă đề nghị
vào ngày 21/5/2001 là chính quyền Do Thái hăy ngưng tất cả mọi hoạt động
định cư, bao gồm cả việc phát triển tự nhiên của những cuộc định cư đang
có, đồng thời cũng kêu gọi phe Palestine “hăy thực hiện 100% nỗ lực để
ngăn cản những cuộc khủng bố và trừng phạt những tay vi phạm”.
Quan điểm đôi bên về những vùng đất tranh giành.
Theo phe Do Thái th́ cộng đồng định cư Do Thái, lên tới khoảng 200 ngàn
người ở vùng Tây Ngạn, cũng như những người bảo thủ đạo giáo thấy rằng
vùng này là phần đất thánh kinh của dân Do Thái nên nhất định không chịu
bỏ ư định kiểm soát vùng ấy. Những cuộc định cư của dân Do Thái ấy được
coi là cần phải được bảo vệ an ninh. Những cuộc định cư ở giải Gaza ít
đông dân Do Thái hơn ở vùng Tây Ngạn và là mảnh đất không có tầm quan
trọng thánh kinh là bao đối với dân Do Thái.
C̣n theo phe Palestine th́ những người thuộc phe này ngờ vực về những nỗ
lực cứ muốn hiện diện của người Do Thái ở những vùng họ chiếm đóng vào
năm 1967. Lănh thổ thuộc
Thẩm Quyền Palestine Yasser Arafat bị phân lẻ và chia cắt bởi 144 cuộc
định cư thường dân và quân đội Do Thái, làm suy yếu sức sống của việc
kiểm soát của chính quyền Palestine. Những cuộc định cư ấy được coi như
một khí cụ tiếp tục chiếm đóng với mục đích chia cắt quốc gia Paleatine
sau này thành những phần không liên hệ ǵ với nhau.
Những miền đất bị chiếm đóng là phía Đông Giêrusalem, bao gồm cả trung
tâm Cổ Thành xưa. Cả phe Palestine và Do Thái đều cho rằng Giêrusalem
thuộc về họ. Đôi bên cũng đang tranh giành nhau giải Gaza và vùng Tây
Ngạn. Ngoài ra, c̣n những điểm then chốt nữa là vùng biên giới giữa Do
Thái và Lebanon, nơi chiến đấu quân Hezbollah đă đụng độ với quân đội Do
Thái, và Cao Nguyên Golan, một b́nh nguyên ở phía tây nam Syria bị Do
Thái chiếm đóng từ năm 1967.
Riêng Giêrusalem là một trong những vấn đề tranh giành đệ nhất nơi những
cuộc thương thảo ḥa b́nh giữa hai phe Palestine và Do Thái. Điểm nóng ở
Giêrusalem này là ngọn đồi được phe Do Thái cho là Núi Đền Thờ (Temple
Mount) và được phe Palestine cho là Thánh Cung Cao Quí (Haram al-Sharif).
Sở dĩ đó là điểm nóng là v́ nơi ấy được cho rằng có những tàn tích của
ngôi đền thờ linh thánh nhất của Do Thái Giáo, một nơi lại bị ngự trị
bởi Ngôi Ṿm Đá (Dome of the Rock) và đền thờ Al-Aqsa là một dịa điểm đệ
tam linh thánh của Hồi Giáo. Tuy nhiên, theo sự phân chia của Liên Hiệp
Quốc năm 1947 th́ Giêrusalem là một thành đô quốc tế chung cho quốc gia
Do Thái và Palestine. Thế nhưng, phe Do Thái đă chiếm vùng phía Tây
Giêrusalem sau cuộc chiến tranh giành độc lập của họ và chiếm cả vùng
phía Đông Giêrusalem là vùng bao gồm cả Ngôi Ṿm Đá năm 1967. Tất nhiên
dân Do Thái sống đông đúc ở miền Tây Giêrusalem và dân Ả Rập ở miền Đông
Giêrusalem.
Quan điểm đôi bên về vị thế của Giêrusalem: Theo Do Thái
th́ việc thôi không kiểm soát, ngay cả những vùng lân cận Palestine
thuộc phía Đông Giêrusalem hay phía Cổ Thành đi nữa, là một lằn đỏ đối
với nhiều người Do Thái coi Giêrusalem là tâm điểm của phong trào Do
Thái Phục Quốc và là một phần quan trong thuộc căn tính Do Thái. Họ muốn
bảo đảm là họ vẫn có thể đến những địa điểm họ coi là linh thánh và họ
không muốn thương thảo về điểm này. C̣n theo phe Palestine th́ những địa
điểm ở Cổ Thành Giêrusalem là nơi có các địa điểm linh thánh của chẳng
những người Palestine mà c̣n của cả thế giới Ả Rập và Hồi Giáo nữa. Thế
nhưng, cho đến
nay
vẫn
không thể giải quyết nổi vấn đề này.
ĐTC Nhận định về thời cuộc ở Thánh Địa giữa dân Do Thái và Palestine
ĐTC nói về t́nh trạng hận thù dai dẳng nói chung và bức tường chia cách
nói riêng trong lời Tạ Từ với Tổng Thống Do Thái
tại Phi Trường Quốc Tế Ben Gurion Thủ Đô Tel Aviv Do Thái Thứ Sáu
15/5/2009
“Tôi đă đến thăm xứ sở này như là một người bạn của nhân dân Israel,
cũng như tôi là một người bạn của nhân dân Palestine. Những người bạn
vui vẻ bỏ giờ ra gặp gỡ nhau, và họ cảm thấy hết sức buồn v́ thấy nhau
phải khổ đau. Không người bạn nào của Do Thái và Palestine lại không cảm
thấy buồn trước t́nh trạng liên lỉ căng thẳng giữa hai dân tộc này.
Không một người bạn nào lại không khóc trước t́nh trạng khổ đau chết
chóc mà hai dân tộc này phải chịu đựng trên 6 thập niên qua. Xin cho
phép tôi được kêu gọi tất cả dân chúng sống ở miền đất này là Xin đừng
đổ máu nữa! Xin đừng đánh nhau nữa! Xin đừng khủng bố nữa! Xin đừng
chiến tranh nữa! Trái lại, chúng ta hăy chấm dứt cái ṿng bại hoại bạo
lực này. Hăy xây dựng ḥa b́nh bền vững trên công lư, hăy thực sự ḥa
giải và chữa lành. Hăy nh́n nhận phổ quát là Nước Do Thái có quyền hiện
hữu và hoan hưởng ḥa b́nh và an ninh trong những biên giới được quốc tế
công nhận. Cũng thế hăy nh́n nhận là nhân dân Palestine có quyền làm chủ
một quê hương độc lập, sống xứng với phẩm giá và được tự do di chuyển.
Hăy hiện thực hóa giải pháp 2 quốc gia, chứ đừng cứ là một giấc mơ nữa.
Hăy lan truyền ḥa b́nh ở ngoài cả mảnh đất này nữa, hăy làm cho mảnh
đất này trở thành như “ánh sáng chư dân” (Is 42:6), mang hy vọng đến cho
nhiều vùng khác đang bị xung đột.
“Một trong những cảnh tôi cảm thấy buồn thảm nhất trong chuyến viếng
thăm mảnh đất này của tôi đó là cảnh bức tường ngăn cách. Khi tôi chạy
xe dọc theo bức tường này tôi đă cầu xin cho một tương lai để các dân
tộc ở Thánh Địa có thể chung sống với nhau trong ḥa b́nh và ḥa hợp
không cần đến những dụng cụ an ninh và phân rẽ ấy, trái lại tỏ ra tôn
trọng và tin tưởng nhau, và từ bỏ tất cả những h́nh thức bạo động và tấn
công. Thưa Ngài Tổng Thống, tôi biết là mục đích này khó đạt được biết
bao. Tôi biết công việc làm của ngài khó khăn là dường nào cũng như công
việc của Thẩm Quyền Palestine. Thế nhưng, tôi xin ngài an tâm v́ lời cầu
nguyện của tôi và của dân Công giáo khắp thế giới sẽ ở cùng ngài khi
ngài tiếp tục nỗ lực của ngài trong việc xây dựng một nền ḥa b́nh chính
đáng và bền vững ở miền đất này”.
ĐTC, trong diễn Từ viếng thăm Trại Tị Nạn Aida ở Bêlem thuộc Lănh Thổ
Palestine
Thứ Tư 13/5/2009, cũng đă nhận định về t́nh h́nh chia rẽ liên quan tới
bức tường ngăn cách được chính quyền
Do Thái xây lên và t́nh trạng khổ sở của dân Palestine bởi đó mà ra.
“Dân chúng ở trại tị nạn này, ở những Lănh Thổ Palestine này và ở cả
vùng này mong ước sống ḥa b́nh! Trong những ngày này, niềm mong ước này
lại càng trở nên cồn cào hơn nữa khi anh chị em tưởng nhớ những biến cố
Tháng 5/1948 và những năm của t́nh trạng xung khắc, vẫn chưa được giải
quyết, sau những biến cố ấy. Giờ đây anh chị em đang sống trong những
điều kiện nhất thời và khó khăn, với những cơ hội hạn hẹp về công ăn
việc làm. Vấn đề anh chị em thường cảm thấy chán chường là những ǵ có
thể hiểu được. Các khát vọng hợp lư của anh chị em về nơi ăn chốn ở vĩnh
tồn, về một Quốc Gia Palestine độc lập, vẫn chưa nên trọn. Thay vào đó,
anh chị em thấy ḿnh, cũng như nhiều người ở vùng này và khắp thế giới,
bị lọt vào một cơn lốc bạo động, tấn công và phản công, trả thù, và liên
tục hủy hoại. Cả thế giới đang mong sao cho cơn lốc bạo động này ngưng
lại, cho ḥa b́nh chấm dứt cuộc đánh nhau liên tục ấy.
“Khi chúng ta qui tụ lại với nhau chiều hôm nay ở nơi đây có một cái
nhắc nhở cay nghiệt về t́nh trạng bí tắc trong mối liên hệ giữa Do Thái
và Palestine đó là bức tường. Trong một thế giới càng ngày càng nới rộng
biên giới – để buôn bán, du hành, di chuyển dân chúng, trao đổi văn hóa
– thật là thảm thương khi thấy những bức tường vẫn c̣n đang được dựng
lên. C̣n bao lâu nữa chúng ta mới thấy được những hoa trái của biết bao
nhiêu là công việc khó khăn cho việc xây dựng ḥa b́nh! Chúng ta cần
phải cầu nguyện tha thiết biết bao để chấm dứt những thứ hận thù khiến
cho những bức tường này được dựng lên!
“Ở cả 2 bên bức tường này, cần phải rất can đảm mới có thể thắng vượt
được sợ hăi và ngờ vực, mới có thể kêu gọi chống lại được việc trả đũa
cho những mất mát hay thương tích. Cần phải hào hiệp để t́m cách tái ḥa
giải sau nhiều năm đánh nhau. Tuy nhiên, lịch sử đă chứng tỏ cho thấy
rằng ḥa b́nh chỉ có thể xẩy ra khi đôi bên của cuộc xung đột sẵn sàng
muốn vượt ra ngoài những bất b́nh của ḿnh và cùng nhau làm việc hướng
về những mục tiêu chung, mỗi bên nghiêm cẩn lưu ư tới những quan tâm và
sợ hăi của người khác, nỗ lực xây dựng một bầu khí tin tưởng. Cần phải
sẵn sàng thực hiện những khởi động táo bạo và sáng tạo đối với vấn đề
ḥa giải: nếu mỗi bên cứ bắt bên kia phải nhượng bộ trước th́ thành quả
chỉ là những ǵ bế tắc mà thôi.
“Vấn đề viện trợ nhân đạo, thứ viện trợ được cung cấp trong trại tị nạn
này, đóng một vai tṛ thiết yếu, thế
nhưng việc giải quyết dài hạn cho một cuộc xung đột như thế chỉ có tính
cách chính trị mà thôi. Không ai mong là nhân dân Palestine và Do Thái
tự ḿnh có thể giải quyết được cả. Cần phải có việc hỗ trợ của cộng đồng
quốc tế, và v́ thế tôi muốn lập lại lời kêu gọi tất cả mọi người c̣n
quan tâm hăy gây ảnh hưởng thuận lợi cho một giải quyết chính đáng và
bền lâu, tôn trọng những đ̣i hỏi hợp lư của tất cả đôi bên và nh́n nhận
quyền được sống trong an b́nh và phẩm vị, hợp với luật lệ quốc tế. Tuy
nhiên, đồng thời những nỗ lực ngoại giao chỉ có thể thành công khi chính
những người Palestine và Do Thái sẵn sàng giải tỏa cái ṿng bạo động.
Tôi nhớ đến những lời tuyệt vời được gán cho Thánh Phanxicô là “để con
đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi tổn thương… đem ánh
sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn ưu sầu”.
“Tôi lập
lại việc van nài của tôi với tất cả anh chị em về một cuộc dấn thân sâu
xa trong việc vun trồng ḥa b́nh phi bạo động, theo gương của Thánh
Phanxicô và của những đại kiến thiết ḥa b́nh gia. B́nh an cầm phải được
bắt đầu ở nhà, trong gia đ́nh, trong tâm can. Tôi tiếp tục nguyện cầu để
tất cả mọi bên dính dáng tới cuộc xung khắc ở những mảnh đất này được
can đảm và sáng tạo trong việc theo đuổi con đường thách đố bất khả
thiếu. Chớ ǵ một lần nữa nở ra trên mănh đất này! Xin Thiên Chúa chúc
lành an b́nh cho dân Ngài!”
ĐTC nói về bản chất tôn giáo liên quan tới việc xây dựng
ḥa b́nh
“Năng
lực
thiêng liêng” là ǵ theo Vị
Giáo Hoàng thần
học
gia Biển
Đức
XVI của
chúng ta, vị
giáo hoàng thuộc
dân tộc
có một
chế
độ
Nazi Đức
Quốc
Xă tàn sát 6 triệu
người
Do Thái, một
dân tộc
đă
gây ra hai thế
chiến
I và II trong tiền
bán thế
kỷ
20, vị
giáo hoàng mang danh hiệu
tiếp
nối
vị
Giáo Hoàng Biển
Đức
XV trong thời
Thế
Chiến
I, vị
giáo hoàng bởi
thế
phải
chăng
đươc
tiền
định
thừa
kế
vị
giáo hoàng Balan để
mang lại
ḥa b́nh cho thế
giới
bằng
việc
phát động
chiến
dịch
“năng
lực
thiêng liêng” này.
Để hiểu
được
đích
xác ư nghĩa
sâu xa và tác dụng
của
“năng
lực
thiêng liêng” này liên quan tới
ḥa b́nh thế
giới
nói chung và Thánh
Địa nói riêng, chúng
ta hăy cùng nhau theo dơi những
phát biểu
của
ngài trong chuyến
tông du thứ
12 vừa
qua ở
Thánh Địa,
bao gồm
8 ngày, và ở
2 nơi
khác nhau, nước
Jordan và Thánh Địa
là nơi
bao gồm
cả
nước
Do Thái lẫn
Lănh Thổ
Palestine. Palestine cho
đến
nay vẫn
chưa
được
gọi
là một
quốc
gia mà chỉ
được
gọi
là Lănh Thổ.
Có một
cái lạ
là cả
3 vị
giáo hoàng cận
đại
của
chúng ta khi tông du Thánh
Địa
đều
ghé nước
Jordan trước.
Đức
Phaolô VI ghé nước
này ngày 4/1/1964,
Đức Gioan Phaolô II
ngày 20-21/3/2000, và
Đức
đương
kim 3 trong 8 ngày từ
8 đến
11/5/2009.
Jordan có dân số
5.720.000, trong đó
có 109.000 (1.91%) Công giáo. Có 3 giáo phận
và 64 giáo xứ.
Hiện
có 4 giám mục,
103 linh mục,
258 tu sĩ
và 7 đại
chủng
sinh. Có 30,595 học
sinh tham dự
123 học
đường
của
Công giáo từ
mẫu
giáo tới
trung học.
Ngoài ra Giáo Hội
Công giáo c̣n có 2 nhà thương,
một
bệnh
xá, một
trung tâm tham vấn
gia đ́nh,
và 3 trung tâm giáo dục
và phục
hồi
xă hội.
Do Thái và Palestine có tổng
số
dân là 7.180.000, trong
đó
có 130.000 (1.81%) Công giáo. Có 9 giáo phận,
78 giáo xứ
và 3 trung tâm mục
vụ
đủ
loại.
Hiện
có 11 giám mục,
406 linh mục,
1.171 tu sĩ
và một
thừa
sai giáo dân, 14 tiểu
chủng
sinh và 110 đại
chủng
sinh. Có 43.876 học
sinh học
ở
các trường
Công giáo từ
vườn
trẻ
tới
đại
học.
Ngoài ra c̣n có 11 bệnh
viện,
10 bệnh
xá, 9 nhà coi sóc người
già và tật
nguyện,
11 cô nhi viện
và vườn
trẻ,
4 trung tâm giáo dục
và phục
hồi
xă hội,
và 2 cơ
quan đủ
loại
dịch
vụ
khác. Nếu
“năng
lực
thiêng liêng” được
vị
Giáo Hoàng đương
kim của
chúng ta ám chỉ
về
lực
lượng
Công giáo th́ với
thiểu
số
Công giáo như
vậy,
chưa
đầy
2 phần
trăm
ở
Jordan cũng
như
ở
Thánh Địa
th́ “năng
lực
thiêng liêng” này sẽ
làm được
ǵ, hay ngài có ư nói
đến
vấn
đề
lực
lượng
tôn giáo nói chung bằng
việc
đối
thoại
liên tôn? Sau đây là ư thức
của
ngài về
bản
chất
tôn giáo liên quan tới
văn
hóa cùng với lời
ngài kêu gọi
hăy cùng nhau quyết
tâm giải
quyết
vấn
đề.
ĐTC nói với các vị Lănh Đạo Hồi giáo, phái đoàn ngoại giao và các vị
viện trưởng đại học đường ở Đền Thờ al-Hussein bin Talal Thủ Đô Amman
nước Jordan Thứ Bảy 9/5/2009.
Trước
hết về phương diện tiêu cực, ngài công nhận tôn giáo có lúc đă trở thành
nguyên tố gây chia rẽ như sau:
“Chúng
ta không thể không quan tâm là ngày nay, càng ngày càng thấy một số
người chủ trương là tôn giáo không thể theo như những ǵ nó tuyên bố
theo bản chất của ḿnh là tác nhân xây dựng hiệp nhất và ḥa hợp, là
biểu hiện của mối hiệp thông giữa con người và với Thiên Chúa. Thật thế,
một số người chủ trương rằng tôn giáo thật sự là nguyên nhân gây chia rẽ
trong thế giới của chúng ta đây; và v́ thế họ biện luận rằng càng ít chú
ư tới tôn giáo bao nhiêu th́ lănh vực quần chúng càng trở nên khá hơn.
Thật sự là đáng buồn không thể chối căi được t́nh trạng xung khắc căng
thẳng và chia rẽ giữa những tín đồ của các truyền thống tôn giáo khác
nhau. Tuy nhiên cũng không phải thường xẩy ra hay sao trường hợp tôn
giáo bị mạo dụng theo ư hệ, đôi khi cho các mục đích chính trị, những ǵ
trở thành như một chất kích tố thực sự gây căng thẳng và chia rẽ, có
những lúc thậm chí trở thành bạo động trong xă hội nữa? Trước t́nh trạng
này, một t́nh trạng mà thành phần đối phương của tôn giáo t́m cách chẳng
những làm câm nín đi tiếng nói của tôn giáo mà c̣n thay thế tôn giáo
bằng những ǵ riêng của họ, th́ lại càng phải làm sao cho các tín đồ cảm
thức được sâu xa hơn việc họ sống đúng với những nguyên tắc và niềm tin
của họ. Tín đồ Hồi giáo và Kitô giáo, chính v́ gánh nặng nơi lịch sử
chung của chúng ta thường bị ghi dấu bằng việc hiểu lầm, ngày nay cần
phải nỗ lực để được nhận biết và nh́n nhận là thành phần tôn thờ Thiên
Chúa trung thành với việc cầu nguyện, nhiệt thành đề cao và sống theo
các chỉ thị của Đấng Toàn Năng, nhân hậu và xót thương, nhất trí làm
chứng cho tất cả những ǵ là chân thật và thiện hảo, và hằng lưu ư tới
nguồn gốc chung cùng phẩm giá của tất cả mọi con người, thành phần là
tột đỉnh của dự án tạo dựng của Thiên Chúa đối với thế giới và lịch sử…”
Sau nữa,
về phương diện tích cực, ngài phấn khích tôn giáo hăy vun trồng những ǵ
là thiện hảo như sau:
“Hôm nay
tôi muốn nói đến một công việc tôi mạnh mẽ tin rằng cả tín đồ Kitô giáo
lẫn Hồi giáo đều có thể theo đuổi… đó là cái thách đố vun trồng điều
thiện hảo, liên quan tới đức tin và sự thật, một khả năng lớn lao cho lư
trí con người…. Là những tín hữu của vị Thiên Chúa duy nhất chúng ta
biết rằng lư trí của con người tự nó là tặng ân của Thiên Chúa và nó
vươn lên tới tột đỉnh của ḿnh khi nó được thấm đẫm ánh sáng sự thật của
Thiên Chúa. Thật vậy, khi lư trí con người khiêm tốn để cho nó được đức
tin thanh tẩy nó chẳng những không yếu kém đi; trái lại, nó c̣n được
củng cố để chống lại giả tưởng và vươn ra ngoài những hạn hữu của nó.
Nhờ đó, lư trí của con người được vững mạnh để theo đuổi mục đích cao cả
của nó trong việc phục vụ nhân loại, trong việc diễn đạt những ước vọng
chung sâu xa nhất của chúng ta và trong việc mở rộng, thay v́ mạo dụng
hay thu hẹp, cuộc tranh luận chung. Như thế, việc gắn bó chân thực với
tôn giáo – chẳng những không thu hẹp trí khôn của chúng ta – lại c̣n nới
rộng chân trời kiến thức của con người. Nó bảo vệ xă hội dân sự khỏi
những thứ thái quá của cái tôi buông thả dẫn tới việc tuyệt đối hóa cái
hạn hữu và che lấp đi cái vô hạn; nó bảo đảm là tự do được hành sử song
song với sự thật, và nó trang điểm cho văn hóa bằng những minh thức liên
quan tới tất cả những ǵ là sự thật, sự thiện và sự mỹ”.
ĐTC c̣n nói trong
Diễn Từ với Các Tổ Chức Đối Thoại Liên Tôn trong Hội Trường Trung Tâm
Đức Bà ở Giêrusalem
Thứ Hai 11/5/2009.
Trước
hết, ngài đặt vấn đề như sau:
“Tôn
giáo đóng góp như thế nào cho những nền văn hóa của thế giới trước bối
cảnh của một chiều hướng toàn cầu hóa nhanh chóng này.….”
Sau đó ngài trả lời
cho biết
một là tôn trọng sự thật và hai là vấn đề khác biệt không gây chia rẽ mà
làm cho nhau thêm phong phú như sau:
“Niềm
tin của đạo giáo là những ǵ bao hàm chân lư. Ai tin tưởng là người đang
t́m kiếm chân lư và sống theo chân lư. Mặc dù vị trung gian nhờ đó chúng
ta biết khám phá và truyền đạt sự thật khác nhau tùy theo tôn giáo,
chúng ta không được lui bước trước nỗ lực làm chứng cho quyền lực của
chân lư. Cùng nhau chúng ta có thể tuyên bố Thiên Chúa là Đấng hiện hữu
và có thể nhận biết, trái đất này được Ngài tạo dựng nên, chúng ta là
thành phần thụ tạo của Ngài, và Ngài đă kêu gọi hết mọi con người nam nữ
sống tôn trọng dự án của Ngài đối với thế giới. Các bạn mến, nếu chúng
ta tin tưởng chúng ta có một qui chuẩn phán đoán và nhận định những ǵ
là thần linh theo nguồn gốc và những ǵ được ấn định cho toàn thể nhân
loại, để rồi chúng ta không thể nào cảm thấy mệt mỏi trong việc bày tỏ
kiến thức này trong đời sống dân sự. Cần phải cống hiến sự thật cho tất
cả mọi người; nó giúp cho tất cả mọi phần tử trong xă hội. Nó chiếu giăi
ánh sáng cho nền tảng của luân lư và đạo lư, và làm cho lư trí thêm sức
mạnh để vươn ra ngoài cả tầm tay với của lư trí để bày tỏ những niềm
khát vọng chung sâu xa nhất của chúng ta. Chẳng những không đe dọa tới
việc khoan nhượng đối với những khác biệt hay tính cách đa văn hóa, sự
thật làm cho việc đồng thuận trở thành khả dĩ và giúp cho cuộc tranh
luận chung trở thành hợp lư, thành thực và khả tín, cũng như mở đường
tiến tới ḥa b́nh. Việc nuôi dưỡng ư muốn tuân phục sự thật thực sự nới
rộng quan niệm của trí khôn chúng ta và lănh vực áp dụng của nó, và khả
dĩ hóa cuộc đối thoại chân thực về văn hóa và tôn giáo rất ư là khẩn
trương ngày nay.
“… Một
số người muốn chúng ta tin rằng những khác biệt của chúng ta hẳn là một
nguyên do gây chia rẽ và bởi thế cần phải được nhân nhượng hết sức. Một
số ít thậm chí chủ trương rằng tiếng nói của chúng ta cần phải nín thinh
đi. Thế nhưng, chúng ta biết rằng những khác biệt của chúng ta không bao
giờ được là nguồn mạch bất khả tránh cho những ǵ là va chạm hay căng
thẳng hoặc giữa chúng ta hay chung xă hội. Trái lại, chúng cung cấp một
cơ hội tuyệt vời cho dân chúng thuộc các tôn giáo khác nhau cùng nhau
sống bằng một ḷng sâu xa tôn trọng, quí mến và cảm nhận lẫn nhau, phấn
khích nhau trên con đường tiến đến cùng Thiên Chúa. Được tác động bởi
Đấng Toàn Năng và soi sáng bởi chân lư của Ngài, chớ ǵ các bạn tiếp tục
tiến bước một cách can đảm, tôn trọng tất cả những ǵ khác biệt giữa
chúng ta và cổ vơ tất cả những ǵ liên kết chúng ta như là thành phần
tạo vật được chúc phúc với niềm ước vọng mang hy vọng đến cho các cộng
đồng của chúng ta và thế giới. Xin Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta theo
con đường này!”
ĐTC cũng nói trong Lễ Nghi Làm Phép Lành Đặt Viên Đá Đầu Tiên cho Đại
Học Đường Madaba của Ṭa Thượng Phụ Latinh ở Jordan Thứ Bảy 9/5/2009 về
hai điểm then chốt này, một là t́m kiếm chân thiện và hai là cái khác
biệt làm phong phú hơn là gây chia rẽ
“Thật vậy, niềm tin nơi Thiên Chúa không đè nén việc t́m kiếm chân lư;
trái lại, niềm tin này c̣n khuyến khích viện t́m kiếm ấy nữa. Thánh
Phaolô đă kêu gọi các Kitô hữu sơ khai là hăy mở ḷng ḿnh ra cho “tất
cả những ǵ là chân thực, tất cả những ǵ là cao quí, tất cả những ǵ là
thiện hảo và tinh tuyền, tất cả những ǵ chúng ta yêu chuộng và tôn kính,
tất cả những ǵ được coi là tuyệt hảo hay đáng ca tụng” (Phil 4:8). Dĩ
nhiên, tôn giáo, như khoa học và kỹ thuật, triết lư và tất cả những biểu
hiệu của việc chúng ta t́m kiếm chân lư, có thể trở thành băng hoại. Tôn
giáo trở nên méo mó khi bị ép buộc phục vụ cho vô thức hay thành kiến,
khinh bỉ, bạo động và lạm dụng. Trong trường hợp như thế, chúng ta thấy
chẳng những một thứ xuyên tạc về tôn giáo mà c̣n là một thứ bại hoại nơi
tự do của con người nữa, một thứ co hẹp và mù quáng của trí khôn. Hiển
nhiên là một hậu quả như thế không phải là những ǵ bất khả tránh. Thật
vậy, khi chúng ta cổ vơ giáo dục là chúng ta công bố niềm tin tưởng của
chúng ta nơi tặng ân tự do. Ḷng con người có thể trở nên chai cứng
trước những giới hạn của môi trường sống, trước những lợi lộc và đam mê.
Thế nhưng, hết mọi người cũng được kêu gọi sống khôn ngoan và liêm chính,
kêu gọi thực hiện việc chọn lựa căn bản hết sức quan trọng là sự lành
hơn là sự dữ, chân lư hơn là bất lương, và họ có thể được trợ giúp nơi
công việc này.
“Tiếng gọi sống liêm chính là những ǵ được con người đạo hạnh đích thức
nhận thức, v́ Vị Thiên Chúa của chân lư, yêu thương và mỹ lệ không thể
nào được phục vụ bằng cách nào khác hơn. Niềm tin tưởng trưởng thành vào
Thiên Chúa giúp rất nhiều trong việc hướng dẫn việc thâu nhận và áp dụng
cách thích đáng kiến thức. Khoa học và kỹ thuật cống hiến những lợi ích
ngoại lệ cho xă hội và đă cải tiến rất nhiều cho phẩm chất của đời sống
nơi nhiều người. Thật sự đó là một trong những niềm hy vọng của những ai
đang cổ vơ Đại Học Đường này, một đại học có khẩu hiệu là Sapientia et
Scientia – Khôn Ngoan và Khoa Học. Đồng thời các thứ khoa học cũng có
giới hạn của chúng. Chúng không thể nào giải đáp tất cả mọi câu hỏi về
con người và việc hiện hữu của con người. Thật thế, con người, vị thế
của họ và mục đích của họ trong vũ trụ này không thể bị chất chứa trong
những giới hạn của khoa học. “Bản chất tri thức của nhân loại t́m thấy
tầm mức trọn hảo của nó trên hết nơi sự khôn ngoan, một sự khôn ngoan
lôi kéo trí khôn con người t́m kiếm và yêu chuộng những ǵ là chân thiện”
(cf. Vui Mừng và Hy Vọng, 15). Việc sử dụng kiến thức khoa học cần đến
ánh sáng soi dẫn của sự khôn ngoan về đạo lư. Sự khôn ngoan như thế đă
gây hứng khởi cho Lời Thề Hippocratic, cho Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân
Quyền 1948, cho Công Ước Geneve và các thứ luật lệ tác hành quốc tế đáng
ca ngợi khác. Bởi thế sự khôn ngoan về đạo giáo và đạo lư, bằng việc
giải đáp những vấn nạn về ư nghĩa và giá trị, đóng một vai tṛ chính yếu
trong việc huấn luyện chuyên nghiệp. Thành quả đó là những đại học đường
nào t́m cầu chân lư th́ cũng đồng thời t́m kiếm những ǵ là thiện hảo và
cao quí, cống hiến việc phục vụ bất khả thiếu cho xă hội.
“Với những ư nghĩ đó trong trí, tôi đặc biệt phấn khích các sinh viên
Công giáo ở Jordan và các miền lân cận hăy dấn thân một cách hữu trách
cho việc thụ huấn thích đáng về chuyên nghệ và luân lư. Các bạn được kêu
gọi để trở thành những người xây dựng nên một xă hội chân chính và an
b́nh bao gồm các dân tộc thuộc những tôn giáo và chủng tộc khác nhau.
Những thực tại này – tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa – cần phải dẫn đến
chỗ không phải là chia rẽ mà là làm cho nhau thêm phong phú. Sứ vụ và ơn
gọi của Đại Học Đường Madaba chính là để giúp các bạn them phần hơn nữa
vào công việc cao quí ấy.
ĐTC Kêu Gọi hăy cùng nhau quyết tâm giải quyết vấn đề
Qua bài khai từ của ngài ở Quảng trường Bêlem trước dinh Tổng Thống
Palestine khi bắt đầu thăm viếng Lănh Thổ Palestine ngày Thứ Tư
13/5/2009, Đức Thánh Cha nói:
“Thưa Ngài Tổng Thống, Ṭa Thánh ủng hộ quyền lợi của nhân dân ngài
trong việc có được một quê hương chủ quyền Palestine ở mảnh đất cha ông
của ngài, sống an ninh và ḥa b́nh với các quốc gia lân bang, có một
biên cương bờ cơi được quốc tế công nhận. Cho dù tới nay mục tiêu đó vẫn
c̣n xa vời để trở thành hiện thực, tôi cũng thiết tha kêu gọi ngài cùng
với toàn thể nhân dân của ngài hăy giữ ngọn lửa hy vọng sống động, niềm
hy vọng một cách nào đó có thể t́m thấy trong việc đáp ứng những khát
vọng hợp lư của cả người Do Thái và Palestine đối với vấn đề ḥa b́nh và
ổn định. Theo lời của cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “không thể có ḥa
b́nh nếu thiếu công lư, không thể có công lư nếu thiếu thứ tha” (Sứ Điệp
cho Ngày Thế Giới Ḥa B́nh 2002). Tôi nài xin tất cả đôi bên dính dáng
tới cuộc xung đột kéo dài này hăy loại trừ đi những ǵ là bất b́nh và
chia rẽ vẫn c̣n cản trở con đường tiến đến việc ḥa giải, mà quảng đại
và thương cảm vươn ḿnh với tất cả mọi người như nhau không kỳ thị. Việc
chung sống công chính và ḥa b́nh giữa các dân tộc ở Trung Đông chỉ có
thể đạt được bằng một thứ tinh thần hợp tác và tương kính, một tinh thần
nh́n nhận và ủng hộ các quyền lợi và phẩm vị của tất cả mọi người. Tôi
xin tất cả quí vị, tôi xin các vị lănh đạo của quí vị, hăy thực hiện một
cuộc dấn thân mới trong việc thực hiện đối với những mục tiêu này Tôi
đặc biệt kêu gọi cộng đồng quốc tế hăy gây ảnh hưởng của ḿnh cho một
cuộc giải quyết tốt đẹp. Hăy tin và tin tưởng rằng nhờ việc chân thành
và kiên tŕ đối thoại, hoàn toàn tôn trọng các đ̣i hỏi của công lư,
những mảnh đất này sẽ đạt tới một nền ḥa b́nh bền vững…
“Tôi kêu gọi nhiều giới trẻ khắp Lănh Thổ Palestine hôm nay là đừng để
cho t́nh trạng mất mất sự sống và hủy hoại các bạn từng chứng kiến thấy
làm bừng lên trong ḷng các bạn cảm giác cay nghiệt hay oán hận. Hăy can
đảm chống lại bất cứ khuynh hướng nào các bạn cảm thấy liên quan tới
hành động bạo lực hay khủng bố. Trái lại, hăy để cho những ǵ các bạn
cảm thấy canh tân quyết tâm của các bạn trong việc xây dựng ḥa b́nh.
Hăy để cho cảm nghiệm ấy làm cho các bạn tràn đầy ḷng ước muốn sâu xa
trong việc đóng góp bền bỉ cho tương lai của Palestine, nhờ đó Palestine
có thể chiếm được vị thể đúng đắn của ḿnh trên khấu trường thế giới.
Hăy để cho cảm nghiệm ấy phấn khích nơi các bạn những cảm thức nhân hậu
đối với tất cả những ai đang khổ đau, nhiệt t́nh với việc ḥa giải, và
vững vàng tin tưởng vào tiềm năng của một tương lai sáng sủa hơn”.
Với Các Vị Lănh Đạo Tôn Giáo tại Hội Trường Đền Thánh Truyền Tin ở
Galilêa Thứ Năm 14/5/2009, ĐTC kêu gọi hăy tuân hợp dự án thần linh
và huấn luyện giới trẻ sống theo những giá trị thiêng liêng:
“Thế
giới này không phải là thành quả của một thứ định mệnh mù quáng mà được
Thiên Chúa muốn và tỏ hiện vinh hiển rạng ngời của Ngài.
“Ở tâm
điểm của tất cả mọi truyền thống tôn giáo là niềm xác tín rằng chính ḥa
b́nh là tặng ân Thiên Chúa ban, tuy nhiên nó vẫn không thể nào đạt được
nếu không có sự nỗ lực của con người. Nền ḥa b́nh bền vững xuất phát từ
việc nh́n nhận rằng thế giới này tối hậu không phải là của chúng ta mà
là chân trời chúng ta được mời gọi để tham dự vào t́nh yêu của Thiên
Chúa và hợp tác để hướng dẫn thế giới cùng lịch sử theo tác động của
Ngài. Chúng ta không thể làm bất cứ điều ǵ chúng ta muốn đối với thế
giới này; trái lại, chúng ta được kêu gọi để tuân hợp những chọn lựa của
chúng ta với những luật lệ tinh tế nhưng khả giác được Đấng Hóa Công in
ấn nơi vũ trụ và để khuôn khúc các hành động của chúng ta theo sự thiện
hảo thần linh ngập tràn lănh giới của tạo vật.
“Những
truyền thống về tôn giáo khác nhau của chúng ta có một khả năng mănh
liệt trong việc cổ vơ nền văn hóa ḥa b́nh, nhất là qua giáo huấn và
việc giảng dạy về những giá trị thiêng liêng sâu xa của chung gia đ́nh
nhân loại chúng ta. Bằng việc uốn nắn ḷng trí của giới trẻ, chúng ta
uốn nắn tương lai của chính nhân loại. Tín hữu Kitô giáo sẵn sàng liên
kết với người Do Thái, Hồi giáo, Druze và những người thuộc các tôn giáo
khác trong ước muốn bảo tŕ trẻ em khỏi t́nh trạng cuồng tín và bạo động,
trong khi sửa soạn cho chúng trở thành những con người xây dựng một thế
giới tốt đẹp hơn”.
Trong lời Tạ Từ tại Sân của Dinh Tổng Thống Palestine Thứ Tư 13/5/2009,
ĐTC đă trấn an và phấn khích riêng dân Palestine hăy sống niềm hy vọng
trổi vượt lên trên cả những bức tường phân cách
“Cho dù các bức tường có được dễ dàng xây lên, tất cả chúng ta đều biết
rằng chúng sẽ không tồn tại đến vô tận. Chúng có thể bị đổ xuống. Tuy
nhiên, trước hết cần phải loại bỏ đi những bức tường chúng ta xây dựng
lên chung quanh cơi ḷng của chúng ta, những chướng ngại chúng ta tạo
nên chống lại tha nhân của chúng ta. Đó là lư do tại sao, nơi lời tạ từ
của ḿnh, tôi muốn lập lại lời van xin hăy có tinh thần cởi mở và quảng
đại để chấm dứt t́nh trạng bất khoan nhượng và loại trừ nhau. Bất kể
cuộc xung đột có vẻ khó chế ngự và hết sức loang lở đến thế nào chăng
nữa, bao giờ cũng có lư do để hy vọng rằng vấn đề vẫn có thể giải quyết
được, những nỗ lực nhẫn nại và kiên tŕ của những ai hoạt động cho ḥa
b́nh và ḥa giải cuối cùng sẽ sinh hoa kết trái. Hỡi nhân dân Palestine,
niềm ước vọng thiết tha nhất của tôi đối với anh chị em đó là điều ấy
sớm xẩy ra, và anh chị em cuối cùng có thể hoan hưởng ḥa b́nh, tự do và
ổn định vồn tránh né anh chị em đă quá lâu”.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh,
trước
khi Thăng Thiên về Trời cùng Cha,
Chúa
đă nói với các tông đồ là thành phần được Chúa tuyển chọn ở với Chúa
và
sai đi làm chứng nhân cho Chúa rằng “Thày được toàn quyền trên trời dưới
đất”,
và
Chúa cũng đă ban cho các vị được quyền năng khu trừ ma quỉ và chế ngự sự
dữ.
Xin
quyền năng phục sinh của Chúa tiếp tục tác hiệu nơi thành phần thừa kế
các vị
để bộ
mặt trái đất được canh tân trong Chúa Thánh Thần,
đặc
biệt là vùng đất Chúa đă nhận làm quê hương trần thế của Chúa
trong
việc hạ giáng, sinh sống và vượt qua của Chúa. Amen.
|
|