Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 21/10/2009 – Loạt Bài Giáo Lư Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền –

Bài 93 về Khoa Thần Học ở Thế Kỷ 12

 

 

Anh chị em thân mến,

 

Hôm nay, tôi dừng lại để chia sẻ về một trang lịch sử hào hứng liên quan tới viểc triển nở của thần học Latinh ở thế kỷ 12, một nền thần học xẩy ra nhờ một chuỗi biến cố trùng hợp xẩy ra theo quan pḥng. Ở những quốc gia Tây Âu bấy giờ đang hoan hưởng một nền ḥa b́nh tương đối, một nền ḥa b́nh đă làm cho xă hội được vững chắc phát triển về kinh tế và kiên cố về các cấu trúc chính trị, và đă nuôi dưỡng những hoạt động văn hóa khởi sắc cũng nhờ ở những giao tiếp với Đông phương. Trong Giáo Hội thấy được những lợi ích của hoạt động rộng lớn được gọi là “cuộc canh tân Gregorian”, một cuộc canh tân, được phát động mạnh mẽ ở thế kỷ trước đó, đă mang lại tính chất tinh tuyền của phúc âm hơn nữa cho đời sống của cộng đồng giáo hội, nhất là hàng giáo sĩ, và đă phục hồi cho Giáo Hội và vai tṛ giáo hoàng quyền tự do hành động thực sự. Ngoài ra, c̣n lan tràn một cuộc canh tân thiêng liêng lớn lao, được duy tŕ bởi việc việc phát triển đầy giẫy của đời sống tận hiến: Những ḍng mới được xuất phát và lan rộng, trong khi những ḍng đă có trải qua một cuộc canh tân hứa hẹn.

 

Khoa thần học cũng triển nở, có được một ư thức hơn nữa về bản chất của nó: Nó cải tiến phương pháp của ḿnh, giải quyết những vấn đề mới, tiến bộ trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Thiên Chúa, sản xuất những tác phẩm chính yếu, cảm hứng những sáng kiến quan trọng về văn hóa – từ nghệ thuật cho tới văn chương – và sửa soạn cho những tuyệt phẩm của thế kỷ sau đó, thế kỷ của Thánh Thomas Aquinas và Thánh Bonaventura ở Bagnoregio.

 

Có hai lănh vực cho thấy việc phát triển của hoạt động khoa thần học sôi động này, đó là những đan viện và những học đường ở phố thị, the scholae, mà một số trong những học đường này chẳng mấy chốc đă cống hiến hồn sống cho những đại học đường, những đại học đường đă kiến tạo nên một trong những “sáng chế” của Thời Trung Cổ Kitô Giáo.  Thật vậy, từ hai lănh vực này, lănh vực đan viện và lănh vực học đường, người ta có thể nói về hai mẫu khác nhau về khoa thần học: “khoa thần học đan viện” và “khoa thần học kinh viện”. Những vị đại diện cho khoa thần học đan viện là các vị đan sĩ nói chung, những vị đan viện phụ, được ơn khôn ngoan và có ḷng nhiệt thành với phúc âm, dấn thân chính yếu cho việc làm vươn lên và nuôi dưỡng một ước muốn mến yêu đối với Thiên Chúa. Thành phần đại diện cho khoa thần học kinh viện là những con người về văn hóa, hăng say nghiên cứu; những vị thày muốn cho thấy cái hợp lư và lành mạnh của các mầu nhiệm về Thiên Chúa và về con người, dĩ nhiên là tỏ ra chấp nhận bằng đức tin nhưng cũng được lư trí hiểu biết nữa. Những mục tiêu tương phản giải thích những sự khác biệt nơi phương pháp của chúng cũng như nơi đường lối thể hiện thần học của chúng.

 

Trong các đan viện ở thế kỷ 12, phương pháp của khoa thần học được liên hệ chính yếu với việc giải thích Thánh Kinh, giải thích sacra pagina, bày tỏ cảm nhận của ḿnh như những tác giả thời ấy làm. Khoa thần học thánh kinh được lan tràn cách đặc biệt. Thật vậy, tất cả các đan sĩ đều là thành phần sốt sắng lắng nghe và đọc Thánh Kinh, và một trong những bận tâm chính của họ là ở lectio divina, tức là việc độc nguyện thánh kinh. Đối với họ, việc chỉ đọc sách thánh mà thôi chưa đủ để nhận thức được ư nghĩa sâu xa của Thánh kinh, cái hiệp nhất nội tại và sứ điệp siêu việt của Thánh Kinh. Bởi thế, họ phải thực hành “việc đọc sách thiêng liêng”, dẫn đến chỗ đơn sơ dễ dạy đối với Chúa Thánh Thần. Thế nên, theo trường phái của các vị Giáo Phụ, Thánh Kinh được giải thích một cách ẩn dụ, để khám phá ra ở hết mọi trang, của cả Cựu Ước lẫn Tân ước, những ǵ được nói về Chúa Kitô cũng như về công cuộc cứu độ của Người.

 

Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới năm ngoái về “Lời Chúa trong Đời Sống và Sứ Vụ của Giáo Hội” đă nhắc lại tầm quan trọng của việc thiêng liêng tiến đến với Thánh Kinh. Để đạt được mục đích này, cần phải trân quí khoa thần học đan việnc, một thứ dẫn giải thánh kinh liên tục, cũng như các tác phẩm được viết bởi thành phần đại diện của khoa thần học này, những lời luận giải khổ công quí báu về các sách Thánh Kinh. Bởi thế, khoa thần học đan viện liên kết việc sửa soạn thiêng liêng với việc sửa soạn về văn chương. Thật vậy, nó ư thức được rằng việc đọc thuần lư thuyết hay trần tục không đủ: Để tiến vào tâm điểm của Thánh kinh, cần phải đọc bằng tinh thần như Thánh kinh được viết ra và thành nên. Việc sửa soạn về văn chương là những ǵ cần thiết để biết ư nghĩa xác đáng của những lời lẽ và để dễ dàng hóa việc hiểu biết về bản văn, luyện lọc cảm thức về văn phạm và triết lư. Jean Leclercq, một học giả ḍng Biển Đức trong thế kỷ vừa qua đă đặt tên cho tiểu luận được ngài sử dụng để tŕnh bày về những đặc tính của khoa thần học đan viện như thế này: “L’amour des letters et le desir de Dieu” (yêu chuộng ngôn từ và ước ao Thiên Chúa).

 

Thật vậy, ước muốn nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa này, Đấng đă đến với chúng ta qua Lời của Ngài, một Lời được lănh nhận, suy niệm và thực hành, là những ǵ dẫn đến việc t́m cách đào sâu hơn vào các bản văn thánh kinh ở tất cá mọi chiều kích của những bản văn này. Thế rồi c̣n một thái độ khác được những ai thực hiện khoa thần học đan viện nhấn mạnh, đó là một thái độ sâu xa cầu nguyện là thái độ cần phải có trước, hỗ trợ và bổ túc cho việc học hỏi Thánh kinh. V́ khoa thần học đan viện nói cho cùng là ở chỗ lắng nghe Lời Chúa mà người ta không thể nào không thanh tẩy tâm can để lănh nhận Lời Chúa, nhất là con người không thể không thắp lên Lời Chúa bằng nhiệt t́nh muốn gặp gỡ Chúa. Thế nên, thần học trở thành suy niệm, cầu nguyện, ngợi ca, và thúc đẩy con người tới một cuộc chân thành hoán cải. Không phải là ít những người thuộc thành phần đại diện cho khoa thần học đan viện, theo đường lối ấy, đă đạt tới đích điểm cao nhất của cảm nghiệm thần bí, và các vị cũng mời gọi cả chúng ta nữa hăy nuôi dưỡng cuộc sống của chúng ta bằng Lời Chúa, chẳng hạn như, qua việc chuyên chú lắng nghe hơn những bài đọc và Phúc Âm, nhất là trong Thánh Lễ Chúa Nhật. Ngoài ra, cần phải giành một thời giờ nào đó hằng ngày để suy niệm Thánh Kinh, nhờ đó Lời Chúa là đèn soi dẫn đường lối thường nhật của chúng ta trên trần gian.

 

Khoa thần học kinh viện, trái lại – như tôi đă nói – được thể hiện nơi các học đường, mọc lên gần những đại vương cung thánh đường của thời bấy giờ, để sửa soạn cho hàng giáo sĩ, hay ở chung quanh một giáo sư thần học cùng với thành phần môn sinh của vị này, để làm nên những tay chuyên về văn hóa, ở vào một thời điểm càng ngày càng quí hóa việc học hành hiểu biết. Cái tâm điểm của phương pháp được thành phần kinh sĩ này là việc đặt vấn đề (the quaetio), tức là việc đặt vấn đề với độc giả khi bàn luận những lời Kinh Thánh và Truyền Thống. Trước vấn đề được những bản văn thẩm quyền này đặt ra, những câu hỏi được nêu lên và cuộc tranh luận được diễn ra giữa thày tṛ với nhau. Trong cuộc tranh luận như thế, một đàng là những lư lẽ thuộc thẩm quyền, đàng khác là những lập luận của lư trí, và cuộc tranh luận được diễn tiến theo chiều hướng cuối cùng t́m kiếm một tổng hợp giữa thẩm quyền và lư trí để đạt được một hiểu biết sâu xa hơn lời Chúa.

 

Về vấn đề này, Thánh Bonaventura nói rằng thần học là “per additionem” (cf. Commentaria in quatuor libros sententiarum, I, proem., q. 1, concl.), tức là thần học thêm chiều kích lư trí vào lời Chúa, nhờ đó tạo nên một niềm tin sâu xa hơn, bản vị hơn, và do đó cũng cụ thể hơn nơi đời sống của con người. Trong mối liên hệ này đă có những giải quyết khác nhau cùng với những kết luận để bắt đầu kiến tạo nên một khoa thần học có hệ thống. Việc sắp xếp những vấn nạn đă dẫn tới việc biên soạn những tổng hợp càng ngày càng dồi dào, tức là những vấn nạn khác nhau hợp với những câu trả lời theo đó, nhờ đó tạo nên một tổng hợp, được gọi là summae, một tổng hợp thực sự dồi dào những luận đề về tín lư thần học xuất phát từ cuộc đối chọi của lư trí con người với lời Chúa.

 

Khoa thần học kinh viện đă t́m cách tŕnh bày mối hiệp nhất và ḥa hợp Mạc Khải Kitô giáo với phương pháp, được đặc biệt gọi là “Kinh viện”, học đường, một phương pháp cống hiến niềm tin tưởng cho lư trí của con người: văn phạm và triết lư là những ǵ giúp vào việc học hỏi thần học, nhưng cũng gia tăng cả lập luận tức là ngành nghiên cứu “hoạt động” lập luận của con người, nhờ đó sự thật về một điều nêu lên được sáng tỏ. Ngày nay cũng thế, khi đọc tổng luận thần học kinh viện, người ta cảm thấy ngỡ ngàng trước cái thứ tự lớp lang, sáng sủa, sự khít khao hợp lư của những lư lẽ, và chiều sâu của một số những ǵ thuộc về trực giác. Nhờ ngôn ngữ chuyên môn hết mọi từ ngữ đều có được một ư nghĩa chính xác, và giữa tin tưởng và hiểu biết có một chuyển động sáng tỏ có tính cách hỗ tương.

 

Anh chị em thân mến, âm vang lời mời gọi của Bức Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô, khoa thần học kinh viện phấn khích chúng ta hăy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai muốn hỏi chúng ta về lư do liên quan tới niềm hy vọng ở nơi chúng ta (cf. 3:15). Hăy chấp nhận vấn đề được đặt ra cho chúng ta nhờ đó cũng có thể cống hiến câu trả lời. Nó nhắc nhở chúng ta rằng giữa đức tin và lư trí có một mối thân hữu tự nhiên, được căn cứ vào cấp trật của chính việc tạo dựng.

 

Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, ở đầu thông điệp “Đức Tin và Lư Trí” đă viết: “Đức tin và lư trí giống như hai cánh, nhờ đó tâm linh của con người bay lên chiêm ngưỡng sự thật”. Đức tin cởi mở trước nỗ lực hiểu biết nơi phần của lư trí; ngược lại, lư trí nh́n nhận rằng đức tin không triệt tiêu nó, trái lại, đẩy nó tới những chân trời rộng lớn hơn và cao cả hơn. Được xen kẽ vào nơi đây là bài học vĩnh viễn của khoa thần học đan viện. Đức tin và lư trí, trong cuộc đối thoại hỗ tương, đều hân hoan phấn khởi khi cả hai được sinh động bởi việc t́m kiếm mối hiệp nhất sâu xa với thiên Chúa. Khi t́nh yêu sinh động hóa chiều kích cầu nguyện của khoa thần học, th́ kiến thức, có được nhờ lư trí, được nới rộng. Sự thật được t́m kiếm bằng ḷng khiêm nhượng th́ được lănh nhận một cách ngỡ ngàng và tri ân: Tắt một lời, kiến thức gia tăng chỉ khi nào nó yêu mến sự thật. T́nh yêu trở nên kiến thức và thần học trở thành đức khôn ngoan chân thực của cơi ḷng, một đức khôn ngoan hướng dẫn và duy tŕ đức tin và đời sống của tín hữu. Vậy chúng ta hăy cầu xin để con đường của kiến thức và của việc đào sâu vào các mầu nhiệm của Thiên Chúa bao giờ cũng được soi động bởi t́nh yêu thần linh.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 28/10/2009