|
Thánh Biển
Đức,
tổ
phụ đan
viện
tu Tây phương
Đức
Giáo Hoàng Biển
Đức
XVI: Buổi
Triều
Kiến
Chung hằng
tuần
Thứ
Tư
17/5/2008 – Bài Giáo Lư 70 trong Loạt
bài về
Giáo Hội
Hiệp
Thông Tông Truyền
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi muốn nói về Thánh Biển Đức, tổ phụ của đan viện tu Tây
phương, và cũng là thánh quan thày của vai tṛ giáo hoàng của tôi. Tôi
sẽ bắt đầu bằng mấy lời của Thánh Giáo Hoàng Grêgory Cả, vị đă viết
những lời sau đây về Thánh Biển Đức: “Con người của Thiên Chúa này, vị
đă chiếu tỏa trên trái đất này rất nhiều phép lạ, chiếu tỏa cũng không
kém về tài hùng biện được ngài sử dụng trong việc tŕnh bày giáo huấn
của ḿnh” (Dial., II, 36).
Vị Đại Giáo Hoàng này đă viết những lời ấy vào năm 592: vị đan sĩ thánh
thiện này đă qua đời non 50 năm trước và vẫn sống trong kư ức của dân
chúng và nhất là nơi hội ḍng triển nở được ngài sáng lập. Thánh Biển
Đức, qua đời sống và hoạt động của ngài, đă gây ảnh hưởng sâu xa đến
việc phát triển văn minh và văn hóa Âu Châu.
Nguồn tín liệu quan trọng nhất về đời sống của ngài là cuốc sách thứ hai
của Dialogues do Giáo Hoàng Gregorio Cả viết. Nó không phải là một cuốn
tiểu sử như thế. Theo các tư tưởng của thời bấy giờ, ngài đă muốn chứng
tỏ cho thấy, bằng việc sử dụng một con người thực sự – Thánh Biển Đức –
làm thế nào một người phó ḿnh cho Thiên Chúa có thể tiến tới đỉnh cao
chiêm niệm. Ngài cống hiến cho chúng ta một mô phạm của cuộc sống con
người mang tính chất như là một cuộc thăng tiến lên đỉnh trọn lành.
Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đă nói với chúng ta trong cuốn sách Những
Cuộc Đối Thoại này nhiều phép lạ vị thánh này thực hiện. Cả ở đây nữa,
vị giáo hoàng này không chỉ thuật lại một biến cố lạ lùng, mà chứng tỏ
cho thấy cách thức Thiên Chúa, bằng việc cảnh báo, hỗ trợ và thậm chí
trừng phạt, rat ay can thiệp vào những trường hợp cụ thể trong đời sống
của con người. Vị giáo hoàng muốn chứng tỏ rằng Thiên Chúa không phải là
một giả thuyết xa cách ngay từ ban đầu của thế giới này, trái lại, Ngài
hiện diện nơi đời sống của con người, của tất cả mọi người.
Quan niệm về “tiểu sử” này cũng được sáng tỏ theo chiều hướng của bối
cảnh chung vào những thời buổi ấy, ở chỗ, giữa thế kỷ thứ năm và thứ
sáu, thế giới đă trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng về các thứ giá
trị và cơ cấu, gây ra bởi t́nh trạng sụp đổ của Đế Quốc Rôma, bởi cuộc
xâm lược của thành phần dân tộc mới và t́nh trạng suy thoái về các tập
tục. Bằng việc tŕnh bày về Thánh Biển Đức như là một “ánh sáng chiếu
rạng ngời”, Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô muốn cho thấy đường lối vượt thoát
khỏi “đêm đen lịch sử ấy” (cfr. John Paul II, Teachings, II/1, 1979, p.
1158), một t́nh trạng khủng khiếp xẩy ra ở thành phố Rôma này.
Thật thế, hoạt động của Thánh Biển Đức và bộ luật của ngài đặc biệt là
những ǵ chất chứa một thứ hỗn loạn về tinh thần thực sự, những ǵ đă
làm thay đổi bộ mặt Âu Châu qua các thế kỷ và tác dụng của những điều
này vượt ngoài thời điểm của ngài và biên giới quốc gia của ngài. Theo
sau cuộc sụp đổ của mối hiệp nhất về chính trị do Đế Quốc Rôma kiến tạo,
Âu Châu đă sống lại một mối hiệp nhất mới về tinh thần cũng như văn hóa
– mối hiệp nhất của đức tin Kitô giáo, một mối hiệp nhất được chia sẻ
nơi nhân dân của châu lục này. Đó là cách thức Âu Châu được xuất phát
như chúng ta thấy hôm nay đây.
Thánh Biển Đức được sinh ra vào khoảng năm 480. Theo Thánh Giáo Hoàng
Grêgôriô Cả th́ ngài đă được sinh ra “ex provincial Nursiae” – ở miền
Norcia. Cha mẹ của ngài là người khá giả nên đă gửi ngài đi học ở Rôma.
Tuy nhiên, ngài đă không ở lâu nơi thành phố vĩnh cửu này. Đức Giáo
Hoàng Grêgôriô đă cống hiến cho chúng ta rất cá thể xẩy ra về sự kiện
này. Vị giáo hoàng cho thấy rằng con người trẻ Biển Đức nổi bật về cách
sống trong số nhiều học sinh của ḿnh, những học sinh sống đời buông thả
và ngài không muốn rơi vào cùng một cạm bẫy. Ngài chỉ muốn làm hài ḷng
Thiên Chúa “soli Deo placere desiderans” (II Dial., Prol 1).
Bởi thế, ngay cả trước khi ngài hoàn tất việc học vấn của ḿnh, Thánh
Biển Đức đă bỏ Rôma để rút lui vào nơi cô tịch ở những rặng núi phía tây
thành phố Rôma. Đầu tiên ngài đă ở khu làng Effide (hiện nay là Affile),
nơi thỉnh thoảng ngài có liên kết với một “công đồng tu tŕ” của các đan
sĩ, và sau đó đă trở thành một ẩn sĩ sống ở Subiaco gần đó. Ngài đă sống
hoàn toàn một ḿnh trọn 3 năm trong một hang động ở đó. Vào lúc Cao Điểm
Thời Trung Cổ, hang động này đă trở thành “tâm điểm” của một đan viện
Biển Đức được gọi là “Sacro Speco”. Thời gian ngài ở Subiaco là một giai
đoạn âm thầm sống với Thiên Chúa và đối với Thánh Biển Đức là một thời
gian giúp ngài trở nên chín chắn.
Ở đó, ngài đă trải qua và thắng vượt 3 cuộc cám dỗ chính yếu về con
người, đó là cám dỗ về việc tự quyết và muốn đặt ḿnh làm tâm điểm của
các sự vật; cám dỗ về các cảm quan; và sau hết, cám dỗ về ḷng giận dữ
và trả thù.
Thánh Biển Đức mạnh mẽ tin tưởng rằng chỉ sau khi chiến thắng được 3
chước cám dỗ này ngài mới có thể nói rằng bất cứ điều ǵ đều có lợi cho
người đang thiếu thốn. Và như thế, được bằng an trong tâm hồn, ngài đă
hoàn toàn có thể kiểm soát được động lực lấy ḿnh làm nhất, mà trở thành
một con người kiến tạo ḥa b́nh. Chỉ cho tới lúc ấy ngài mới quyết định
thành lập đan viện đầu tiên của ngài ở thung lung Anio, gần Subiaco.
Vào năm 529, ngài đă bỏ Subiaco để tự ḿnh thiết lập ở Montecassino. Một
số người cho rằng việc di chuyển này như là một cuộc thoát chạy cho khỏi
việc can thiệp của một vị giáo sĩ ghen tương địa phương, thế nhưng điều
này có thể không đúng, v́ cái chết bất ngờ của vị linh mục này cũng
không làm cho Thánh Biển Đức trở về lại đó (II Dial. 8). Thật vậy, ngài
đă quyết định như thế là v́ ngài đă tiến vào một giai đoạn mới về kinh
nghiệm đan tu và t́nh trạng trưởng thành bản thân.
Theo Thánh Grêgôriô Cả th́ cuộc xuất hành này từ một thung lũng xa xôi
vùng Anio tới Mount Cassio – nơi chủ trị các đồng bằng rộng lớn chung
quanh ḿnh – là biểu hiệu cho tính chất của ngài. Một đời sống lẻ loi
đan tu có chỗ đứng của nó, thế nhưng một đan viện cũng có mục đích công
cộng trong đời sống của Giáo Hội và chung xă hội. Nó phải giúp vào việc
làm cho đức tin trở thành hữu h́nh như là một năng lực của đời sống.
Thật vậy, khi Thánh Biển Đức chết vào ngày 21/3/547, nhờ bộ luật của
ngài và đan viện Biển Đức do ngài thành lập, ngài đă lưu lại cho chúng
ta một di sản sinh hoa kết trái khắp thế giới ở những thế kỷ sau đó, và
vẫn tiếp tục cho tới ngày hôm nay đây.
Trong tất cả tập thứ hai của cuốn Dialogues, Thánh Giáo Hoàng Grêgôry đă
cho chúng ta thấy cách thức đời sống của Thánh Biển Đức được ch́m đắm
trong một bầu khí cầu nguyện, nền tảng cho đời sống của ngài. Không cầu
nguyện anh chị em không thể nào cảm nghiệm được Thiên Chúa. Linh đạo của
Thánh Biển Đức không phải là linh đạo tách ĺa khỏi thực tại. Trong t́nh
trạng hỗn loạn và lẫn lộn vào những thời ấy, Thánh Biển Đức đă sống dưới
ánh mắt của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ quên sót các nhiệm vụ của
cuộc sống hằng ngày cùng với các nhu cầu của ngài. Khi nh́n ngắm Thiên
Chúa, ngài hiểu được thực tại của con người cà sứ vụ của ngài. Nơi Bộ
Luật của ḿnh, ngài đă giải thích là đời sống đan tu như là “một trường
học phục vụ Chúa” (Prol 45), và ngài đă xin các đan sĩ của ḿnh “đừng
coi bất cứ sự ǵ trước công việc của Thiên Chúa!” (tức là những việc
Thần Vụ và Phụng Vụ Giờ Kinh) (43,3). Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh là tác
động cầu nguyện trước hết là tác động lắng nghe (Prol 9-11), sau đó
chuyển thành tác động cụ thể. “Ngày nào Thiên Chúa cũng muốn chúng ta
đáp ứng lại giáo huấn thánh hảo của Ngài bằng hành động” (Prol 35).
Bởi thế mà đời sống của một đan sĩ trở thành một cộng sinh nẩy nở giữa
hoạt động và chiêm niệm, “nhờ đó Thiên Chúa được tôn vinh trong mọi sự”
(57,9). Ngược lại với một thứ tự viên trọn vị kỷ và dễ dàng, thường được
ca tụng ngày nay, th́ nhiệm vụ đầu tiên và bất khả kháng cho một người
môn đệ của Thánh Biển Đức đó là việc chân thành t́m kiếm Thiên Chúa
(58,7) trên con đường được vạch vẽ bởi Chúa Kitô khiêm nhượng và tuân
phục (5,13), t́m kiếm t́nh yêu của Đấng không ǵ được phép gây trở ngại
(4,21;72,11).
Chính nhờ vậy, nhờ việc phục vụ người khác, mà Thánh Biển Đức trở thành
một con người phục vụ và ḥa b́nh. Bằng việc tỏ ra tuân phục qua những
hành động của một đức tin được đưa mến tác động (5,2), vị đan sĩ chiếm
được ḷng khiêm nhượng (5,1), một nhân đức được Bộ Luật hiến cả một
chương để nói về (7). Có thế, con người mới trở nên giống Chúa Kitô hơn
và đạt tới tầm vóc viên trọn thực sự như là một tạo vật giống h́nh ảnh
Thiên Chúa.
Đức tuân phục của người môn đệ cần phải cân xứng với sự khôn ngoan của
Đan Viện Phụ, vị “đóng vai Chúa Kitô” (2,2;63,13) trong đan viện. Vai
tṛ của vị đan viện phụ, một vai tṛ chính yếu được phác họa trong
chương thứ hai của Sách Luật, với một diễn tả về vẻ đẹp thiêng liêng và
việc dấn thân cần thiết, có thể được coi là phản ảnh Thánh Biển Đức, v́
như Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả viết, “Vị Thánh này không thể dạy những
ǵ chính ngài không sống” (Dila II, 36). Vị đan viện phụ cần phải vừa là
một người cha yêu thương vừa là một bậc thày nghiêm ngặt (2,24), một nhà
giáo dục đích thực.
Tỏ ra cứng rắn khi xẩy ra những tính mê nết xấu, vị đan viện phụ được
kêu gọi bắt chước tính hiền dịu của Vị Mục Tử Nhân Lành (27,8) trong
việc “trợ giúp hơn là thống trị” (64,8), trong việc “chỉ vẽ bằng hành
động hơn là tất cả những lời lẽ tốt đẹp và thánh hảo”, cũng như trong
việc “làm sáng tỏ các giới lệnh thần linh bằng cách nêu lên một gương
mẫu” (2,12).
Để có thể thực hiện những quyết định hữu trách, vị đan viện phụ cũng cần
phải là con người biết lắng nghe “lời khuyên của anh em ḿnh” (3,2), v́
“Thiên Chúa thường tỏ cho biết việc giải quyết sáng suốt nhất cho con
người trẻ trung nhất” 3,3). Thái độ này làm cho cuốn Sách Luật, được
viết gần 15 thế kỷ trước đây trở thành rất hiện đại! Một con người mang
trách nhiệm chung, cho dù ở trong những môi trường nhỏ bé, lúc nào cũng
phải là một con người biết cac1h lắng nghe và học hỏi từ những ǵ nghe
thấy.
Thánh Biển Đức đă diễn tả Bộ Luật như là “một phác họa tối thiểu, chính
đáng và khởi đầu” 73,8); tuy nhiên, thực tế cho thấy nó cống hiến một
lời khuyên nhủ hữu ích chẳng những cho các đan sĩ mà c̣n cho bất cứ ai
muốn được chỉ đạo trên con đường đến cùng Thiên Chúa. Nhờ khả năng của
ngài, ḷng khiêm nhượng của ngài, và khả năng tinh tường của ngài trong
việc nhận thức giữa những ǵ là thiết yếu và những ǵ là thứ yếu trong
đời sống thiêng liêng mà ngài vẫn đang là một ánh sáng soi dẫn cho cả
đến ngày hôm nay.
Đức Phaolô VI, bằng việc công bố Thánh Biển Đức là thánh quan thày của
Âu Châu vào ngày 24/10/1964, đă công nhận hoạt động tuyệt vời được hoàn
thành bởi vị thánh này qua Bộ Luật nhắm đến chỗ kiến tạo nên nền văn
minh và văn hóa của Âu Châu.
Ngày nay, Âu Châu – bị thương tích trầm trọng trong thế kỷ qua bởi hai
cuộc thế chiến và cuộc sụp đổ của các đại ư hệ giờ đây đang cho thấy
những thứ ảo tưởng thảm thương – đang t́m kiếm căn tính của ḿnh. Chắc
chắn là một cơ cấu chặt chẽ về chính trị, kinh tế và pháp lư là những ǵ
quan trọng trong việc kiến tạo nên một t́nh trạng mới mẻ, liên kết và
bền vững, thế nhưng chúng ta cũng cần canh tân những thứ giá trị về đạo
lư và thiêng liêng rút tỉa từ những căn gốc Kitô giáo của Châu Lục này,
bằng không, chúng ta không thể nào kiến tạo nên được một tân Âu Châu.
Không có gịng huyết mạch chính này, con người vẫn chiều theo chước cám
dỗ cổ xưa trong việc tự cứu ḿnh – một ảo tưởng đă gây ra qua những cách
thức khác nhau ở Âu Châu của thế kỷ 20, như được Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II cho biết là “một thứ thoái bộ chưa từng có trong lịch sử quằn
quại của nhân loại” (Teachings, XIII/a, 1990, p.58).
Trong việc t́m kiếm sự tiến bộ thực sự, chúng ta hăy lắng nghe Bộ Luật
của Thánh Biển Đức và coi nó như là một ánh sáng soi dẫn cho cuộc hành
tŕnh của chúng ta. Vị đại đan sĩ này vẫn là một bậc thày thực sự mà nơi
học đường của ngài chúng ta có thể học được nghệ thuật sống một thứ nhân
bản đích thực.
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
17/5/2008
|
|