THÔNG ĐIỆP SPE SALVI
của
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
gửi
Chư Vị Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ
cùng Toàn Thể Tín
Hữu Giáo Dân
về
Niềm Hy Vọng Kitô Giáo
Sự sống
đời đời – sự sống này là ǵ?
10.
Cho tới đây chúng ta đă nói về đức tin và đức cậy trong Tân Ước cũng
như nơi Kitô giáo sơ khai; tuy nhiên bao giờ cũng cần phải ư thức rơ
ràng là chúng ta không chỉ đang nói tới quá khứ mà thôi: tất cả việc
suy tư này liên quan tới sống chết nói chung, và v́ thế cũng liên
quan tới chúng ta đang sống trên thế gian này. Bởi vậy, giờ đây
chúng ta cần phải minh nhiên hỏi rằng: phải chăng niềm tin kitô giáo
hôm nay cho chúng ta một niềm hy vọng biến đổi sự sống và bảo tŕ sự
sống?
Phải
chăng đối với chúng ta nó là những ǵ “khả thi” – phải chăng nó là
một sứ điệp h́nh thành đời sống của chúng ta một cách mới mẻ, hay nó
chỉ là một thứ ‘tín liệu’ mà tạm thời chúng ta gạt qua một bên và là
thứ tín liệu giờ đây đối với chúng ta dường như bị thay thế bởi thứ
tín liệu mới mẻ hơn? Trong việc t́m kiếm câu trả lời, tôi muốn bắt
đầu bằng h́nh thức đối thoại cổ điển là h́nh thức nghi thức Rửa Tội
sử dụng để tiếp nhận một em bé vào cộng đồng tín hữu và việc em bé
tái sinh trong Chúa Kitô. Trước hết, vị linh mục hỏi tên thánh của
em được cha mẹ chọn cho em, thế rồi ngài tiếp tục bằng câu hỏi: “Anh
chị em muốn xin ǵ nơi Giáo Hội?” Đáp: “Đức tin”. “Và đức tin cống
hiến cho anh chị em những ǵ?” “Sự sống đời đời”. Theo cuộc đối
thoại này, cha mẹ đang t́m cách đến với đức tin cho đứa con của ḿnh,
đến với mối hiệp thông cùng thành phần tín hữu, v́ theo đức tin họ
thấy được cái then chốt vào “sự sống đời đời”. Ngày nay, như trong
quá khứ, đây là những ǵ được rửa tội, trở nên Kitô hữu, là tất cả
mọi sự: nó không phải chỉ là một tác động xă hội hóa trong cộng đồng,
chỉ là một cuộc tiếp đón vào Giáo Hội. Cha mẹ mong một cái ǵ hơn
nữa cho con người được rửa tội: họ mong có được một thứ đức tin, một
thứ đức tin bao gồm bản chất hữu h́nh của Giáo Hội cùng với các bí
tích của Giáo Hội, sẽ cống hiến sự sống cho đứa con của họ – sự sống
đời đời. Đức tin là bản chất của niềm hy vọng. Thế nhưng vấn đề được
đặt ra ở đây là: chúng ta có thực sự muốn đức tin này hay chăng – để
sống đời đời? Có lẽ nhiều người ngày nay từ bỏ đức tin vị họ không
thấy viễn ảnh về sự sống đời đời là những ǵ thu hút hấp dẫn. Những
ǵ họ muốn không phải là sự sống đời đời ǵ hết mà là sự sống hiện
tại đây, những ǵ dường như bị trở ngại làm sao ấy bởi niềm tin
tưởng vào sự sống đời đời. Việc tiếp tục sống muôn đời – một cách
khôn cùng – dường như là một khốn nạn hơn là một ân ban. Chết dĩ
nhiên là những ǵ ngưoơi ta muốn tŕ hoăn bao lâu có thể. Thế nhưng
sống măi măi, sống không cùng – th́ điều này, xét cho cùng, có thể
chỉ là những ǵ đơn điệu và cuối cùng là những ǵ bất khả chấp. Đây
chính là vần đề đă được nêu lên, chẳng hạn, bởi Thánh Ambrose, một
trong những vị Giáo Phụ của Giáo Hội, trong bài diễn từ an táng cho
người anh em qua đời của ngài là Satyrus: “Chết không phải là những
ǵ thuộc về bản tính; nó trở thành những ǵ thuộc về bản tính. Thiên
Chúa không ấn định cái chết xẩy ra ngay từ ban đầu; Ngài ấn định nó
như là một phương trị. Đời sống của con người, v́ tội lỗi… bắt đầu
cảm thấy gánh nặng của t́nh trạng khốn khổ nơi việc không ngừngï lao
nhọc và sầu thương bất khả chịu đựng. Cần phải có một giới hạn cho
những sự dữ của sự sống con người; cái chết phải phục hồi những ǵ
sự sống đă bị tước đoạt. Không có sự trợ giúp của ân sủng th́ cái
bất tử trở thành một khốn nạn hơn là một phúc lành” (6). Trước đó
một chút, Thánh Ambrôsiô đă nói: “Bởi vậy, chết không phải là lư do
để than khóc, v́ nó là căn do của việc nhân loại được cứu độ” (7).
11.
Bất cứ những ǵ Thánh Ambrôsiô thật sự muốn nói tới bằng những lời
lẽ ấy, th́ quả thực là việc loại trừ cái chết hay tŕ hoăn cái chết
không nhiều th́ ít một cách vĩnh viễn sẽ đặt trái đất này và nhân
loại vào một t́nh trạng bất khả, và thậm chí đối với cả con người
chẳng mang lại thiện ích ǵ. Hiển nhiên ở nơi thái độ của chúng ta
có một cái ǵ đó nghịch thường, một thái độ cho thấy một cái mâu
thuẫn nội tâm ở ngay cuộc sống của chúng ta. Một đàng, chúng ta
không muốn chết; nhất là những ai yêu quí chúng ta đều không muốn
thấy chúng ta chết. Tuy nhiên, đàng khác, chúng ta lại không muốn
tiếp tục sống vĩnh viễn hay trái đất này không được dựng nên theo
chiều hướng ấy. Vậy th́ chúng ta thực sự muốn ǵ đây? Thái độ ngược
đời của chúng ta gợi lên một câu hỏi sâu xa hơn nữa: thật ra “sự
sống” là ǵ? Và “đời đời” có nghĩa là ǵ? Có những lúc đột nhiên nó
trở nên sáng tỏ đối với chúng ta: phải, đó là những ǵ “sự sống”
thực sự là – đó là những ǵ nó cần phải như thế. Ngoài ra, những ǵ
chúng ta gọi là “sự sống” bằng ngôn ngữ thường nhật của chúng ta
không phải là “sự sống” thực sự. Thánh Âu Quốc Tinh, trong bức thư
dài về cầu nguyện được ngài ngỏ cùng Proba, một bà góa Rôma giầu có
và là mẹ của ba vị lănh sự, có lúc đă viết như thế này: nói cho
chùng chúng ta chỉ muốn duy có một điều – “sự sống vinh phúc”, một
sự sống là thuần túy sự sống, là thuần túy “hạnh phúc”. Nói cho cùng
th́ khi cầu nguyện chúng ta không xin một cái ǵ khác cả. Cuộc hành
tŕnh của chúng ta không có một đích điểm nào khác – nó chỉ về sự
sống này mà thôi. Thế nhưng, sau đó Thánh Âu Quốc Tinh c̣n nói: nh́n
kỹ hơn, chúng ta cũng không có ư nghĩ về những ǵ chúng ta tối hậu
ước muốn, những ǵ chúng ta thực sự thích. Chúng ta không biết thực
tại này ǵ hết: ngay cả trong những lúc chúng ta nghĩ chúng ta có
thể vươn tới nó hay chạm được nó t́ nó lại tránh né chúng ta. Trích
lời Thánh Phaolô, thánh nhân nói rằng “chúng ta không biết những ǵ
chúng ta cầu xin cho phải” (Rm 8:26). Tất cả những ǵ chúng ta biết
th́ không phải là điều ấy. Tuy nhiên, trong cái không biết, chúng ta
biết rằng thực tại này cần phải hiện hữu. “Bởi thế, ngài viết “trong
chúng ta có thế nói có một thứ vô thức được biết nào đó (docta
ignorantia)”. Chúng ta không biết những ǵ chúng ta thực sự thích;
chúng ta không biết “sự sống thực sự” này; tuy nhiên chúng ta biết
rằng cần phải có một điều ǵ đó chúng ta không biết là những ǵ
chúng ta cảm thấy bị chi phối (8).
12.
Tôi nghĩ rằng bằng cách thức rất xác đáng và vĩnh viễn hiệu lực này,
Thánh Âu Quốc Tinh đă diễn tả t́nh trạng thiết yếu của con người,
một t́nh trạng làm nổi lên tất cả những ǵ là xung khắc và hy vọng
của họ. Ở một nghĩa nào đó chúng muốn chính sự sống, sự sống đích
thực, sự sống không được chạm tới cho dù là sự chết; tuy nhiên, đồng
thời chúng ta lại không biết điều chúng ta cảm thấy được thúc đẩy
tới. Chúng ta không thể không vươn tới nó, nhưng chúng ta biết rằng
tất cả những ǵ chúng ta cảm thấy hay hoàn thành không phải là những
ǵ chúng t among đợi. Cái “không biết” này là “niềm hy vọng” thực sự
lôi kéo chúng ta, và đồng thời sự kiện nó là những ǵ không được
biết tới là nguyên do cho tất cả mọi h́nh thức thất vọng cũng như
của tất cả mọi cố gắng nỗ lực, hoặc tích cực hay hủy hoại, nhắm tới
tính chất chân thực của trần thế và chân thực của con người. Chữ “sự
sống đời đời” là để đặt tên cho “cái vô thức” được biết ấy. Chắc hẳn
nó là một từ ngữ không thích đáng gây nên lẫn lộn. Thật vậy, “đời
đời” gợi lên cho chúng ta ư nghĩ về một cái ǵ đó vô cùng bất tận,
và cái đó làm cho chúng ta run sợ; “sự sống” làm cho chúng ta nghĩ
về sự sống chúng ta biết đến và yêu chuộng và không muốn mất nó, cho
dù nó rất thường gây ra lao nhọc hơn là thỏa đáng, để rồi một đàng
chúng ta muốn nó đàng khác chúng ta lại không muốn nó. Hăy tưởng
tưởng ḿnh ở ngoài cái tạm thời đang giam hăm chúng ta và một cách
nào đó cảm thấy rằng cái đời đời không phải là một thứ liên tục vô
tận của ngày tháng theo niên lịch, mà là một cái ǵ đó giống như
giây phút tột đỉnh của sự măn nguyện, giây phút những ǵ là toàn vẹn
bao chiếm chúng ta và chúng ta chiếm được cái toàn vẹn – th́ điều
này chúng ta chỉ có thể nỗ lực. Nó giống như ch́m vào trong bể khơi
của t́nh yêu vô cùng, một giây phút mà thời gian – cái có trước hay
có sau – không c̣n hiện hữu nữa. Chúng ta chỉ có thể nỗ lực nắm bắt
được ư nghĩ rằng một giây phút như thế là sự sống trọn vẹn ư nghĩa
nhất, một sự ch́m ngập hằng mới mẻ vào cái bao la của sự hiện hữu,
trong đó chúng ta hoàn toàn tràn ngập niềm vui. Đó là cách thức Chúa
Giêsu diễn tả nó trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Thày sẽ gặp lại các con
và ḷng các con sẽ hân hoan, và không ai sẽ lấy mất được niềm vui
của các con” (16:22). Chúng ta cần phải suy nghĩ theo chiều hướng
này nếu chúng ta muốn hiểu đối tượng của niềm hy vọng Kitô giáo,
hiểu được những ǵ chính niềm tin tưởng của chúng ta, việc chúng ta
ở với Chúa Kitô, dẫn chúng ta đến chỗ trông mong (9).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_enc_20071130_spe-salvi_en.html