|
Cái Tôi Linh Mục
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
soạn dọn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống Thứ Sáu 10/7/2009
Nói đến “cái tôi” người ta thường nghĩ đến những ǵ là tiêu cực, là xấu
xa, những ǵ liên quan tới tự ái.
Thế
nhưng, nguyên về phương diện tự nhiên thôi, một phương diện liên quan
đến nhân phẩm và nhân cách của con người, th́ đă là người th́ phải có
“cái tôi”, không thể nào không có “cái tôi”, bằng không, có thể nói, con
người phi “cái tôi” ấy không hoàn toàn là một con người, thậm chí không
c̣n là hay không phải là con người nữa. Tại sao? Tại v́ “cái tôi’ là tất
cả những ǵ con người là, dù họ ư thức hay không ư thức. Thực tế cho
thấy, một đứa nhỏ hay một con người khờ nhất cũng có những phản ứng tự
vệ khi đứa nhỏ này hay con người khờ nhất này cảm thấy ḿnh bị người
khác phạm đến. Chẳng hạn như khi đứa nhỏ bị lấy mất đi đồ chơi nó thích,
hoặc đứa nhỏ thích theo ba chứ không theo má hay hơn là theo má v.v.,
hoặc những con người bị chậm phát triển được cho là khờ khạo tự nhiên
trở nên hung bạo đập phá, là v́ có thể gây ra bởi những người chung
quanh không hiểu họ và đáp ứng những ǵ họ đang cần và mong muốn lúc bấy
giờ.
Nếu căn
cứ vào những phản ứng tự nhiên như thế mà bảo là con người có “cái tôi”
th́ con vật cũng có cái tôi của chúng v́ chúng cũng có những phản ứng
tương tự. Tuy nhiên, con vật là loài sống theo bản năng vô thức không
thể gọi những phản ứng của chúng là dấu hiệu cho thấy chúng có “cái tôi”
như con người. V́ “cái tôi” là những ǵ thuộc về tâm linh, mà chỉ có con
người là loài có lư trí và ư thức, dù ở bất cứ tŕnh độ nào, mới có mà
thôi. Bởi thế, “cái tôi” chẳng những là yếu tố bất khả thiếu để làm nên
con người nói chung và con người tâm linh nói riêng, mà c̣n chính những
ǵ con người là hay những ǵ là con người. Chính v́ “cái tôi” là những
ǵ con người là hay những ǵ là con người mà nó mới có tính cách ngôi vị
hóa, cá nhân hóa nơi từng người, không ai giống ai, đúng nghĩa là “cái
tôi”, chứ không phải “chúng tôi” hay “quí vị” hoặc “các bạn”.
Vậy chủ
đề “Cái Tôi Linh Mục” ở đây có ư nghĩa ǵ, chúng ta hăy cùng nhau theo
dơi trong Năm Cho Linh Mục với tinh thần cầu nguyện cho các vị.
“CChúa
Giêsu, ‘Vị Giám Mục của các linh hồn’, là nguyên mẫu của hết mọi thừa
tác vụ giáo phẩm và linh mục”.
Nếu
“cái tôi” là những
ǵ con người là hay những ǵ là con người th́ “cái tôi linh mục” đây
hoàn toàn khác với “cái tôi” làm người tự nhiên của con người làm linh
mục, của
những
con người
được
tuyển
chọn
lănh thánh chức
để
cử
hành và ban phát các mầu
nhiệm
thánh. Bởi
v́, “cái tôi” tự
nhiên của
thành phần
được
ân huệ
và diễm
phúc trở
thành tư
tế
thừa
tác thánh này chẳng
những
hoàn toàn không đủ
tư
cách mà c̣n chẳng
có một
chút thẩm
quyền
nào để
làm một
việc
thuần
túy thuộc
về
thần
linh, tuyệt
đối
vượt
ngoài tầm
tay của
ḿnh, điển
h́nh nhất
như
trong việc
tha thứ
tội
lỗi
cho nhân loại.
Đó
là lư do, trong ṭa giải
tội
hay ban phép giải
tội,
vị
linh mục
không thể
đọc
“xin Chúa Kitô tha tội
cho con”, mà là “Ergo te absolve… Cha tha tội
cho con”, trên bàn thờ
cũng
thế,
vị
linh mục
chủ
tế
không thể
đọc
“Này là Ḿnh Chúa Kitô” và “Này là Máu Chúa Kitô”, nhưng
“Này là Ḿnh Thày”, “Này là Máu Thày” mới
thành.
Ở
đây,
trong hai trường
hợp
truyền
phép Thánh Thể
và ban phép tha tội
này, vị
linh mục
thực
sự
đóng
vai “là” một
Chúa Kitô, một
“Chúa Kitô khác – alter Christus”, nên một
“cái tôi” với
Chúa Kitô, một
hiệp
nhất
về
căn
tính duy nhất
bất
khả
phân ly c̣n hơn
cả
t́nh trạng
hiệp
nhất
về
ân sủng
nơi
các vị
đại
thánh, thậm
chí nơi
cả
trường
hợp
Mẹ
Maria là đệ
nhất
tạo
vật
“đầy
ơn
phúc”. V́ “cái tôi” của
vị
linh mục
cử
hành và ban phát các mầu
nhiệm
thánh là chính Chúa Kitô, chứ
không phải
là “cái tôi” làm người
tự
nhiên của
vị
linh mục,
mà cho dù “cái tôi” làm người
của
vị
linh mục
vô cùng bất
xứng,
thậm
chí đầy
những
tội
lỗi,
kể
cả
những
tội
trọng
chưa
kịp
xưng
thú, những
việc
ngài cử
hành và ban phát các mầu
nhiệm
thánh vẫn
thành (valid), hoàn toàn không bị
ảnh
hưởng
ǵ bởi
t́nh trạng
trọng
tội
nếu
có của
ngài bấy
giờ,
người
thụ
lănh vẫn
được
đầy
đủ
ơn
ích từ
các mầu
nhiệm
thánh nếu
họ
hội
đủ
điều
kiện
xứng
đáng.
Tuy nhiên, không phải
v́ “cái tôi linh mục”
là Chúa Kitô trong việc
các vị
cử
hành và ban phát các mầu
nhiệm
thánh đă
làm cho các mầu
nhiệm
này thành hiệu
và mang lại
lợi
ích thiêng liêng cho kẻ
thành tâm lănh nhận,
cho dù vị
linh mục
có phạm
trọng
tội,
mà chính bản
thân vị
linh mục
không cần
phải
làm sao để
cho “cái tôi” tự
nhiên của
các vị
xứng
đáng
hơn
trong việc
giao tiếp
với
các mầu
nhiệm
thánh như
thế,
nhờ
đó,
chính các vị
càng được
lợi
bởi
việc
các vị
thường
xuyên giao tiếp
với
các mầu
nhiệm
thánh, và nhờ
được
nên thánh thiện
hơn
ấy
các vị
càng giúp ích hơn
cho giáo dân, giáo dân càng nghe các vị
hơn,
càng trở
về
và cử
hành các mầu
nhiệm
thánh với
các vị
cách xứng
đáng
và sốt
sắng
hơn,
như
đă
xẩy
ra nơi
Họ
A của
Cha Thánh Gioan Maria Vianney.
Thực
tế
phũ
phàng cho thấy,
có những
trường
hợp,
không phải
là ít, có những
vị
linh mục
càng ngày càng trở
nên tồi
tệ
hơn
giáo dân là thành phần
được
các ngài ban phát các mầu
nhiệm
thánh cho, chỉ
v́ các vị
không c̣n hay ít c̣n cảm
những
ǵ các vị
cử
hành và ban phát với
“cái tôi linh mục”
của
ḿnh là các mầu
nhiệm
thánh nữa.
Giờ
đây,
chúng ta hăy theo dơi những
ư tưởng
chính yếu
về
một
“Chúa Giêsu, ‘Vị
Giám Mục
của
các linh hồn’,
là nguyên mẫu
của
hết
mọi
thừa
tác vụ
giáo phẩm
và linh mục”,
đề tài được
ĐTC
Biển
Đức
XVI chia sẻ
và huấn
dụ
trong bài giảng
Lễ
Thánh Phêrô Phaolô 29/6/2009:
Theo ĐTC
th́ “Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô là một lời
chào được ngỏ từ Rôma cho thế giới Kitô giáo của tất cả một thời đại”,
nhất là cho thành phần giáo sĩ, ngài phân tích như sau:
“Bắt đầu từ tâm điểm là Chúa Kitô, bức Thư c̣n là một bài nói với các vị
linh mục được Thánh Phêrô cho ḿnh cũng thuộc thành phần linh mục như
các vị. Ngài nói với các vị Mục Tử thuộc tất cả mọi thế hệ như là một
người đích thân được Chúa trao cho trách nhiệm chăn dắt đàn chiên của
Người và bởi thế đă lănh nhận một sứ vụ linh mục đặc biệt”.
Thế rồi ĐTC bắt đầu đặt vấn đề:
“Vậy Thánh Phêrô thực sự nói với chúng ta những ǵ trong Năm Cho Linh
Mục về công việc của linh mục đây?”
Sau đó, ĐTC tự động giải thích như sau:
“Trước hết, ngài hiểu thừa tác vụ linh mục là những ǵ hoàn toàn được
dựa vào Chúa Kitô. Ngài gọi Chúa Kitô là ‘Vị Mục Tử và là Đấng Canh Giữ
… các linh hồn’ (2:25)”.
Sau khi phân tích chữ “Đấng Canh Giữ” theo tiếng Latinh, tiếng Anh và
tiếng Hy Lạp, ĐTC nhận định và tiếp tục đặt vấn đề như thế
này:
“’Vấn đề lạ lùng ở đây là Thánh Phêrô đă gọi chính Chúa Kitô là một Giám
Mục, Vị Giám Mục của các linh hồn’.
Như thế ngài có ư nói ǵ đây?”
Thế nhưng, theo ĐTC, trong tiếng Hy Lạp, th́ chữ “’giám mục – episcopos’
chất chứa động từ ‘thấy’; v́ thế nó được chuyển dịch thành ‘đấng canh
giữ’ hay ‘vị giám thị’”. Vậy “giám mục” ở đây, ĐTC nhận định, “có nghĩa
là trông chừng từ trên cao thấy, thấy từ vị trị cao cả của Thiên Chúa”.
Ngài đă áp dụng ư nghĩa này vào Vị Mục Tử Nhân Lành là Chúa Kitô,
rồi từ đó ngài khuyên nhủ các vị giám mục và linh mục như sau:
“Thấy theo quan điểm của Thiên Chúa là thấy với t́nh yêu thương muốn
phục vụ người khác, muốn giúp họ thực sự trở thành chính họ. Chúa Kitô
là ‘Vị Giám Mục của các linh hồn’. Thánh Phêrô nói với chúng ta như thế.
Nghĩa là Người thấy chúng ta theo quan điểm của Thiên Chúa. Khi thấy
bằng quan điểm của Thiên Chúa, người ta có được một nhăn quan tổng quan,
người ta thấy cả những nguy hiểm lẫn những niềm hy vọng và những ǵ có
thể xẩy ra. Theo quan điểm của Thiên Chúa người ta thấy được những ǵ là
thiết yếu, người ta thấy được con người nội tại. Nếu Chúa Kitô là vị
Giám Mục của các linh hồn th́ mục tiêu của Người đó là ngăn ngừa linh
hồn con người khỏi trở thành bần cùng và bảo đảm rằng con người không
mất đi yếu tính của họ, khả năng t́m kiếm chân lư và yêu thương; bảo đảm
rằng họ trở nên quen thuộc với Thiên Chúa; rằng họ không lạc loài ở
những ngơ tối đường cùng; rằng họ không đi đến chỗ lẻ loi cô độc mà cùng
nhau rộng mở. Chúa Giêsu, ‘Vị Giám Mục của các linh hồn’, là nguyên mẫu
của hết mọi thừa tác vụ giáo phẩm và linh mục. Là một vị Giám Mục, là
một linh mục, theo quan điểm này, nghĩa là đảm nhận vị thế của Chúa
Kitô. Nghĩa là nghĩ tưởng, trông xem và tác hành theo quan điểm uy thế
cao cả của Người. Nghĩa là bắt đầu từ Chúa Kitô để trở thành thuận lợi
cho nhân loại cho họ được sự sống”.
“Nhiệm vụ của vị mục tử là nuôi dưỡng và chăn dắt đàn chiên của ḿnh và
dẫn chúng đến những đồng cỏ thật sự. Đưa mắt nh́n đàn chiên nghĩa là chú
ư để làm sao cho chiên được có dưỡng chất thực sự, để thỏa đáng cái đói
của chúng và giăn đi cơn khát của chúng. Nguyên ẩn dụ này có nghĩa là
lời Chúa là dưỡng chất cần cho nhân loại. Làm cho lời Chúa luôn hiện
diện và mới mẻ, nhờ đó cung cấp dưỡng chất cho con người là công việc
của vị Mục Tử chính trực. Và ngài cũng cần phải biết chống lại các kẻ
thù, những con sói dữ. Ngài phải đi trước, mở lối dẫn đường, duy tŕ mối
hiệp nhất của đàn chiên. Thánh Phêrô, trong bài nói của ngài với các vị
linh mục đă nhấn mạnh đến một điều rất quan trọng khác. Đó là nói năng
chưa đủ. Các vị mục tử cần phải làm ‘gương cho đàn chiên’ (5:3) nữa.
Khi được mang ra áp dụng thực hành, lời Chúa được biến từ quá khứ thành
hiện tại. Thật là tuyệt vời khi thấy nơi các thánh nhân lời Chúa trở
thành một lời được ngỏ cùng thời đại chúng ta. Trong những h́nh ảnh ấy
như Thánh Phanxicô và rồi một lần nữa như Cha Piô cùng nhiều vị khác,
Chúa Kitô thực sự trở thành người đồng thời ở thế hệ của các vị, Người
đă từ quá khứ đi vào hiện tại. Ư nghĩa làm nên một vị Mục Tử đó là trở
thành mô phạm cho đàn chiên: sống thế giới hiện tại trong đại cộng đồng
của Hội Thánh”.
Cũng trong cùng bài giảng, tiếp tục căn cứ vào một câu khác nơi Thư Thứ
Nhất của Thánh Phêrô, liên quan tới đức tin và lư trí, đó là câu “hăy
kính tôn Đức Kitô là Chúa trong tâm can của anh chị em. Hăy luôn sẵn
sàng chứng tỏ cho bất cứ ai thắc mắc về niềm hy vọng nơi anh chị em”
(3:15), ĐTC tiếp tục khuyên các vị mục tử rằng:
“Đức tin Kitô giáo là niềm hy vọng. Nó mở đường cho tương lai. Nó là một
niềm hy vọng có lư lẽ, một niềm hy vọng chúng ta có thể và cần phải cho
biết lư do. Đức tin xuất phát từ một Lư Trí hằng hữu đă vào thế giới của
chúng ta và cho chúng ta thấy Vị Thiên Chúa chân thực. Đức tin vượt trên
khả năng của lư trí chúng ta, như yêu thương thấy hơn cả lư trí thuần
túy. Thế nhưng đức tin nói với lư trí và trong một đối chọi về biện
chứng có thể trở thành một cặp bài trùng với lư trí. Nó không tương phản
với lư trí nhưng đồng hành với lư trí và vượt trên lư trí để đem chúng
ta vào Lư Trí cao cả hơn của Thiên Chúa. Là những vị Mục Tử của thời đại
chúng ta, công việc của chúng ta là trở thành người đầu tiên hiểu được
lư lẽ của đức tin. Công việc của chúng ta không phải là để cho đức tin
cứ nguyên là một thứ truyền thống mà coi đức tin như là một đáp ứng cho
những vấn nạn của chúng ta. Đức tin cần đến việc chúng ta tham phần một
cách ư thức, một tham phần được sâu xa hóa và thanh tẩy bằng một thứ
chia sẻ của t́nh yêu thương. Một trong những nhiệm vụ làm Mục Tử của
chúng ta đó là thấm nhiễm đức tin nơi tư tưởng, là có thể chứng tỏ cho
thấy lư lẽ về niềm hy vọng của chúng ta trong các cuộc tranh luận nơi
thời đại của chúng ta”.
“Tuy nhiên”,
theo ĐTC,
“mặc dù rất cần thiết nguyên một ḿnh tư tưởng thôi vẫn chưa đủ”. Bởi
thế, căn cứ vào câu Thánh Vịnh trong Bức Thư này: “Ôi hăy nếm thử và hăy
nh́n coi cho biết Chúa thiện hảo dường bao!” (Ps 34[33]:8; 1Pt 2:3), ĐTC
đă áp dụng vào các vị mục tử như sau:
“Nguyên việc nếm thử dẫn đến việc nh́n coi. Chúng ta hăy nghĩ đến các
môn đệ đi về làng Emmaus: Chính trong mối hiệp thông yến tiệc này với
Chúa Giêsu, chỉ ở nơi việc bẻ bánh mà mắt của các vị đă mở ra. Chỉ ở nơi
mối hiệp thông được thực sự cảm nghiệm này với Chúa các vị mới có thể
nh́n thấy. Điều này áp dụng cho tất cả chúng ta nữa; chúng ta cần, hơn
cả và trên cả việc nghĩ tưởng và nói năng nữa, cảm nghiệm đức tin, mối
liên hệ sống động với Chúa Giêsu Kitô. Đức tin không được chỉ là lư
thuyết: nó cần phải là sự sống. Nếu chúng ta gặp gỡ Chúa trong Bí Tích,
nếu chúng ta nói chuyện với Người trong nguyện cầu, nếu trong những
quyết định về cuộc sống thường nhật chúng ta gắn bó với Chúa Kitô th́
bấy giờ ‘chúng ta thấy’ mỗi ngày một hơn Người thiện hảo dường bao; bấy
giờ chúng ta cảm nghiệm được việc ở với Người tốt đẹp biết bao. Hơn nữa,
khả năng thông đạt đức tin cho người khác một cách khả tín xuất phát từ
niềm tin được sống động này. Cha Sở Họ A không phải là một đại tư tưởng
gia; thế nhưng ngài ‘đă nềm hưởng’ Chúa. Ngài đă sống với Người thậm chí
cả ở những chi tiết trong cuộc sống thường nhật, cũng như nơi những đ̣i
hỏi lớn lao thuộc thừa tác vụ chủ chiên của ngài. Nhờ đó ngài đă trở
thành ‘kẻ thấy’. Ngài đă nếm nên ngài biết rằng Chúa là Đấng thiện hảo.
Chúng ta hăy cầu cùng Chúa để Người ban cho chúng ta khả năng nếm hưởng,
nhờ đó chúng ta trở thành những chứng nhân khả tín của niềm hy vọng
trong chúng ta”.
“Hăy để cho ḿnh hoàn toàn được Chúa Kitô chiếm đoạt!”
Thực tế cho thấy, thành phần giáo dân cảm thấy ngay một vị linh mục
thánh thiện hay chăng, trực giác thấy được không nhiều th́ ít nội tâm
của ngài như thế nào, sâu xa hay nông cạn, có một nội công thâm hậu về
tu đức hay chỉ có những bài quyền đẹp mắt học được trong chủng viện.
Người giáo dân thường cảm nhận được nội tâm và đời sống tu đức của vị
linh mục ít là qua 4 việc cụ thể sau đây: thứ nhất là cách thức các ngài
cử hành Thánh Lễ – một cách máy móc hay sống động thu hút; thứ hai là
những tâm tưởng các ngài bộc lộ qua các bài giảng – có thấm đẫm Lời Chúa
và tâm t́nh mục vụ, hay thuần những kiến thức pha phôi, lạnh lùng t́nh
Chúa, nhạt nhẽo t́nh người, tránh né những lời khuyên dạy chạm đến yếu
điểm của ḿnh; thứ ba là việc ngài sốt sắng giải tội kể cả những trường
hợp ngoại lệ, vui mừng khi hối nhân trở về với Chúa, hay tỏ ra lơ là
hoặc bớt xén hay thậm chí bỏ qua giải tội nếu có thể; và thứ bốn qua
việc ngài xử thế giao tiếp, theo ba lời khuyên Phúc Âm liên quan tới đức
khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục, hay theo tự nhiên xu hướng về tiền
bạc, cảm t́nh và tự ái v.v.
Đó là lư do, nếu các vị linh mục tiếp tục sống làm sao để “cái tôi linh
mục’ của các vị là Chúa Kitô trên bàn thờ và trong ṭa giải tội tiếp tục
là “cái tôi linh mục” của các vị trong đời sống tu đức và mục vụ của các
vị th́ các vị mới có thể nói được như Chúa Kitô: “Chiên Tôi th́ nghe
tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27). Bằng không,
một khi chiên không thấy được “cái tôi linh mục” là Chúa Kitô nơi các vị
linh mục của ḿnh qua đời sống của các vị, th́ hậu quả có thể xẩy ra như
Chúa Kitô cho biết là “kẻ trộm đến chỉ để đánh cắp và hủy hoại”
(Jn 10:10). Một khi “cái tôi linh mục’ của những con người được lănh
chức tư tế thừa tác không phải là Chúa Kitô th́ các vị c̣n trở thành,
như Chúa Giêsu nói, là “kẻ lạ mặt” và “chiên sẽ không theo kẻ lạ mặt,
chúng trốn chạy họ v́ không nhận biết tiếng của kẻ lạ mặt” (Jn
10:5).
Bởi thế vấn đề sống “cái tôi linh mục”
rất ư là quan trọng, đến nỗi các vị linh mục phải làm sao “để cho ḿnh
được Chúa Kitô hoàn toàn chiếm đoạt”, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI,
trong Bài Giảng cho Giờ Kinh Tối Lễ Thánh Tâm Chúa Thứ Sáu 19/6/2009 để
khai mạc Năm Cho Linh Mục, đă kêu gọi, và đă khuyên nhủ các vị linh mục
như sau: “Chúng ta hăy xin Chúa hăy làm bùng cháy con tim của hết mọi
linh mục bằng ‘đức bác ái mục vụ’ là những ǵ giúp ngài có thể đồng hóa
‘cái tôi’ của ḿnh với cái tôi của Chúa Giêsu Thượng Phẩm, nhờ đó ngài
có thể bắt chước Chúa Giêsu trong việc hoàn toàn hy hiến bản thân ḿnh
nhất”. Giờ đây, chúng ta theo dơi những điểm chính yếu trong bài
giảng khai mạc Năm Cho Linh Mục của ĐTC Biển Đức XVI ngày 19/6/2009.
Ở phần thứ hai trong bài giảng, ĐTC đă nhắc lại Bức Thư ngài viết về Năm
Cho Linh Mục, và ngài lập lại ư tưởng chính ở đoạn kết bức thư như sau:
“Theo chân của Cha Sở Họ A, chúng ta hăy cảm thấy được Người lôi cuốn.
Nhờ đó cả anh em nữa trở thành những người loan báo tin vui hy vọng, ḥa
giải và an b́nh cho thế giới của thời đại chúng ta”
(L'Osservatore Romano, English edition, see p. 5).
Sau đó và từ đó, ĐTC đă đi thẳng vào cốt lơi của mục tiêu cho đời linh
mục cũng như Năm Cho Linh Mục như sau:
“Hăy để cho ḿnh hoàn toàn được Chúa Kitô chiếm đoạt! Đó là mục đích cho
toàn thể thừa tác vụ của Cha Sở Họ A, vị chúng ta sẽ đặc biệt kêu cầu
trong Năm Cho Linh Mục; chớ ǵ nó cũng là mục tiêu chính cho từng người
chúng ta nữa”.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây với các vị linh mục là làm sao “để
cho ḿnh hoàn toàn được Chúa Kitô chiếm đoạt!” ĐTC đă khuyên các vị là
hăy có “kiến thức yêu thương” bằng việc “ḷng kề ḷng”, tức bằng việc
sống gần gũi thân t́nh
với Chúa Kitô
“Để làm những thừa tác viên phục vụ cho Phúc Âm th́ việc học hỏi và việc
được cẩn thận liên tục đào luyện về mục vụ và thần học dĩ nhiên là hữu
dụng và cần thiết, thế nhưng, c̣n cần hơn thế nữa vấn đề ‘kiến thức yêu
thương’ là những ǵ chỉ có thể học được nơi việc ‘ḷng kề ḷng’ với Chúa
Kitô. Thật vậy, chính Người là Đấng kêu gọi chúng ta bẻ Tấm Bánh t́nh
yêu của Người, tha thứ tội lỗi và hướng dẫn đàn chiên nhân danh Người.
V́ chính lư do này chúng ta không bao giờ được tách khỏi nguồn mạch T́nh
Yêu là Trái Tim của Người đă bị đâm thâu trên Thánh Giá.
“Chỉ có thế chúng ta mới có thể hợp tác một cách hiệu nghiệm vào ‘dự án
mầu nhiệm của Cha’ là ‘làm cho Chúa Kitô trở thành Con Tim của thế
giới!’ này. Dự án ấy đang được thực hiện trong lịch sử, khi Chúa Giêsu
từ từ trở nên Con Tim của các con tim nhân loại, bắt đầu nơi các con tim
của những ai được kêu gọi gần gũi Người nhất đó chính là các linh mục”.
Trong việc sống thân t́nh với Thánh Tâm Chúa Giêsu, ĐTC c̣n khuyên các
linh mục hăy lợi dụng cả những yếu đuối khuyết điểm của ḿnh nữa, bằng
việc liên lỉ hoán cải và tin tưởng vào Ḷng Thương Xót Chúa, để rồi, nhờ
cảm nghiệm về Ḷng Thương Xót Chúa, các vị giúp cho cả giáo dân cũng cảm
nghiệm được Ḷng Thương Xót Chúa nữa, bằng “đức ái mục vụ” của các vị,
“những ǵ”, theo ĐTC, giúp cho vị linh mục “có thể đồng hóa ‘cái tôi’
của ḿnh với cái tôi của Chúa Giêsu Thượng Phẩm”.
“Ngay cả những thiếu sót của chúng ta, những hạn hữu của chúng ta và
những yếu hèn của chúng ta cũng cần phải dẫn chúng ta về với Trái Tim
của Chúa Giêsu.
“Thật vậy, nếu thực sự là các tội nhân, khi chiêm ngưỡng Người, cần phải
học từ Người ‘nỗi đau buồn v́ tội lỗi’ cần thiết là những ǵ dẫn họ trở
về cùng Cha, th́ lại càng hơn thế nữa đối với các thừa tác viên thánh.
Về vấn đề này làm thế nào chúng ta lại có thể quên rằng chẳng có ǵ làm
cho Giáo Hội, cho Thân Ḿnh Chúa Kitô, khổ đau hơn là những tội lỗi gây
ra bởi các mục tử của Giáo Hội, nhất là những tội của những ai bị biến
thành ‘một kẻ trộm và một tên cướp’ chiên (cf. Jn 10:1ff), hay những ai
lệch lạc khỏi Giáo Hội theo những giáo huấn riêng của ḿnh, hoặc những
ai đang làm cho Giáo Hội bị rơi vào cạm bẫy tội lỗi và chết chóc?
“Các linh mục thân mến, tiếng gọi hoán cải và chạy đến với Ḷng Thương
Xót Chúa cũng áp dụng cho cả chúng ta nữa, và chúng ta cũng phải khiêm
nhượng ngỏ lời van xin chân thành liên lỉ cùng Trái Tim Chúa Giêsu trong
việc giữ chúng ta khỏi cái nguy cơ khủng khiếp của việc gây tác hại cho
những ai chúng ta cần phải cứu độ.
“Giáo Hội cần đến các vị linh mục thánh đức; các thừa tác viên có thể
giúp cho tín hữu cảm nghiệm được t́nh yêu nhân hậu của Chúa và là những
chứng nhân xác tín của Người.
“Trong việc Tôn Thờ Thánh Thể sau khi cử hành Giờ Kinh Tối này, chúng ta
hăy xin Chúa hăy làm bùng cháy con tim của hết mọi linh mục bằng ‘đức
bác ái mục vụ’ là những ǵ giúp ngài có thể đồng hóa ‘cái tôi’ của ḿnh
với cái tôi của Chúa Giêsu Thượng Phẩm, nhờ đó ngài có thể bắt chước
Chúa Giêsu trong việc hoàn toàn hy hiến bản thân ḿnh nhất”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử Nhân Lành và là Thượng Tế Tối Cao của Tân
Ước,
Chúa chẳng những là mô phạm đích thực và là lư tưởng trọn lành nhất cho
các vị linh mục,
mà c̣n là chính cái tôi của các vị nữa khi các vị cử hành và ban phát
các mầu nhiệm thánh.
Xin Chúa tiếp tục trở thành cái tôi của các vị trong các việc mục vụ và
tông đồ của các vị,
để Chúa có thể liên tục chăn dắt đàn chiên Chúa qua các vị và nhờ các
vị,
cho chiên của Chúa được sự sống và là sự sống viên măn như Chúa mong
muốn.
Amen.
|
|